Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Báo in Việt Nam trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






VĂN PHƯƠNG HOA






BÁO IN VIỆT NAM TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI GIÁO DỤC HIỆN NAY









LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

















Hà Nội, 2010
Mẫu 1a: Bìa cứng
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






VĂN PHƯƠNG HOA






BÁO IN VIỆT NAM TRONG CÔNG CUỘC

ĐỔI MỚI GIÁO DỤC HIỆN NAY








Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ





Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHẠM THÀNH HƯNG







Hà Nội, 2010



1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 9
7. Kết cấu luận văn 10
Chương 1: ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ VAI TRÒ CỦA BÁO IN
VIỆT NAM 11
1.1. Đổi mới giáo dục - vấn đề đặc biệt quan tâm của báo in 11
1.1.1. Đổi mới giáo dục - yêu cầu tất yếu của nền giáo dục
Việt Nam hiện nay 11
1.1.2. Sự đồng hành và tương tác của báo in với giáo dục 18
1.2. Vai trò của báo in Việt Nam trong việc tuyên truyền đổi mới giáo dục 22
1.2.1. Phản ánh thực trạng giáo dục Việt Nam với những yêu cầu khách quan
phải đổi mới 22
1.2.2. Tuyên truyền chủ trương, định hướng đổi mới giáo dục của Đảng, Nhà
nước 24
1.2.3. Tăng tính phản biện để đổi mới giáo dục 27
Chương 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
TRÊN BÁO IN HIỆN NAY 31
2.1. Nội dung phản ánh của báo in về vấn đề đổi mới giáo dục 31
2.1.1. Khái lược về ba tờ báo: Giáo dục&Thời đại, Lao động, Tuổi trẻ TP. Hồ
Chí Minh 31
2.1.2. Những nội dung đổi mới giáo dục nổi bật được phản ánh trên báo in từ
tháng 1/2008 đến tháng 6/2009 34


2
2.2. Các hình thức phản ánh các vấn đề đổi mới giáo dục 65
2.2.1. Các chuyên mục, chuyên trang 65
2.2.2. Các diễn đàn là một thế mạnh của báo in 70
2.2.3. Tính linh hoạt trong luân chuyển, phối hợp tin, bài giữa các trang báo
và các thể loại báo chí 77
2.2.4. Tiếng nói đặc thù của mỗi tờ báo 83
Chương 3: KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TUYÊN TRUYỀN CÁC VẤN ĐỀ GIÁO DỤC 92
3.1. Đối với Bộ GD&ĐT 93
3.2. Đối với các cơ quan báo chí 96
3.2.1. Cần có những kế hoạch dài hạn để thông tin các vấn đề đổi mới giáo
dục 96
3.2.2. Mở rộng phạm vi, chủ đề và đối tượng tuyên truyền 97
3.2.3. Đa dạng hoá các thể loại tuyên truyền 98
3.2.4. Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo kết hợp với xây dựng và phát triển đội
ngũ phóng viên, biên tập viên giỏi nghề và am hiểu về lĩnh vực giáo dục 99
3.3. Đối với phóng viên, biên tập viên 100
3.3.1. Cần nắm chắc kiến thức và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước về đổi mới giáo dục 100
3.3.2. Thường xuyên trau dồi nghề nghiệp, nâng cao tay nghề 101
3.3.3. Thường xuyên thu thập ý kiến độc giả về hiệu quả tuyên truyền đổi mới
giáo dục trên báo chí 103
3.3.4. Tâm huyết và trách nhiệm khi đưa thông tin về đổi mới giáo dục 104
KẾT LUẬN 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO 108




3

BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT


ĐH
Đại học

Cao đẳng
CNH-HĐH
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
GD&ĐT
Giáo dục và Đào tạo
GD&TĐ
Giáo dục và Thời đại
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
PTTH
Phổ thông trung học
SGK
Sách giáo khoa
THCS
Trung học cơ sở


















4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực để thúc đẩy
phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giáo dục luôn là vấn đề mà
toàn xã hội quan tâm. Trong xã hội hiện đại với xu thế hội nhập, cạnh tranh,
hợp tác và phát triển, giáo dục hơn bao giờ hết càng được đầu tư đổi mới,
nhằm đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực cho đất nước.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Cần
phải đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình,
nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo
được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với
trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá,
thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo
dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập
cho mọi người, kiến tạo một mô hình xã hội học tập và học tập thường xuyên,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; ưu tiên hàng đầu
cho việc nâng cao chất lượng dạy và học; đổi mới chương trình, nội dung,

phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng
cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập
suy nghĩ của học sinh, sinh viên…
Công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước không thể thành công nếu
thiếu nguồn nhân lực hiện đại. Chính vì vậy vấn đề đào tạo, giáo dục, chuẩn
bị nguồn lao động cho tương lai luôn là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của mọi
quốc gia, trong thời đại mới. Đổi mới giáo dục, do vậy luôn là yêu cầu thường
xuyên, tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới không ngừng của xã hội, đất
nước. Trong tiến trình phát triển và đổi mới nền giáo dục nước nhà, báo chí

5
Việt Nam nói chung, báo in Việt Nam nói riêng luôn song hành, phản ánh
thực trạng giáo dục Việt Nam với cả những mặt tốt và mặt chưa tốt, mặt tích
cực và mặt tiêu cực. Xoay quanh những vấn đề của đổi mới giáo dục, báo chí
không dừng lại ở sự đưa tin, phản ánh thụ động, mà còn tham dự vào mặt trận
đổi mới giáo dục như một trong những tiếng nói quyền lực, đóng vai trò phản
biện, đấu tranh, khám phá, tìm kiếm con đường và phương pháp đổi mới hiệu
quả. Đối tượng phản ánh tác nghiệp của báo chí không dừng lại ở việc đưa
tin, biểu dương những tấm gương tiêu biểu của thầy cô giáo, của học sinh
vượt khó khăn để dạy tốt, học giỏi, đạt thành tích trong các kỳ thi mà còn đi
sâu phân tích những thực trạng yếu kém, trì trệ, những tiêu cực và bệnh chạy
theo thành tích của giáo dục Việt Nam; lên tiếng phản biện góp phần xây
dựng các đề án phát triển, giải pháp đổi mới, phương cách tiếp cận học hỏi
những nền giáo dục tiên tiến, hiện đại trong khu vực và trên thế giới.
Đề cập đến vấn đề mà cả xã hội quan tâm; sưu tầm, nghiên cứu, đánh
giá những tác phẩm báo chí trên các tờ báo viết về đổi mới giáo dục là một đề
tài có ư nghĩa thiết thực và tính thời sự cao. Cũng thông qua sự khảo sát,
đánh giá đó, chúng tôi hy vọng sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm,
kiến nghị những giải pháp nâng cao hiệu quả thông tin tuyên truyền các vấn
đề giáo dục. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Báo in Việt Nam trong công cuộc

đổi mới giáo dục hiện nay” để nghiên cứu. Đề tài sẽ được thực hiện thông
việc khảo sát ba tờ báo in: Giáo dục & Thời đại, Lao động, Tuổi trẻ TP. Hồ
Chí Minh, trong thời gian từ tháng 1/2008 đến tháng 6/2009 - là thời gian có
những thay đổi, đổi mới lớn trong giáo dục nước ta, nổi bật như sự đấu tranh
quyết liệt để đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, đổi mới cơ chế tài chính - là
khâu trì trệ bảo thủ nhất trong nhiều năm qua, đang cản trở sự phát triển của
giáo dục Việt Nam; hay như vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học, đổi mới
chương trình sách giáo khoa…

6
Luận văn khoanh gọn đối tượng khảo sát, nghiên cứu là các tờ báo in
Việt Nam vì những lý do sau đây:
- Báo in là một kênh quan trọng bậc nhất không thể thiếu trong hệ
thống các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay.
- Loại hình báo in có tiếng nói chính thống, mạnh mẽ không chỉ riêng
trong lĩnh vực giáo dục mà tất cả các lĩnh vực xã hội khác.
- Báo in có lịch sử phát triển lâu đời nhất trong các loại hình báo chí ở
Việt Nam cũng như trên thế giới, vì vậy có nền tảng, thế mạnh trong việc
thông tin, tuyên truyền.
- Tư liệu khảo sát của loại hình báo in là đầy đủ, có cơ sở thực tế rõ
ràng nhất, hệ thống nhất, do được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia.
- Báo in có tính đại chúng, phù hợp với đông đảo nhân dân, thỏa mãn
và thích hợp với văn hóa đọc, lưu giữ tư liệu của công chúng Việt Nam.
- Trước mỗi vấn đề, báo in đều có cách thức thể hiện riêng, tạo dấu ấn
không giống như bất cứ loại hình nào khác, như truyền hình, phát thanh hay
báo điện tử. Từ đó tạo được hiệu quả thông tin tuyên truyền riêng.
- Đặc biệt ở mặt trận phản biện, với các thế mạnh của mình, báo in luôn
có tiếng nói mạnh mẽ nhất, dài hơi nhất.
Tuy khảo sát đối tượng là các tờ báo in nhưng luận văn luôn soi chiếu,
đặt loại hình báo in trong hệ thống các thể loại báo chí khác để có cái nhìn hệ

thống và tổng hợp nhất.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Truyền thông, báo chí và giáo dục đào tạo là phạm vi đề tài quen thuộc
của khá nhiều khóa luận tốt nghiệp cũng như luận văn thạc sỹ của sinh viên,
học viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà

7
Nội, cũng như Học viện Báo chí & Tuyên truyền. Tuy nhiên, qua khảo sát
chúng tôi thấy rằng, các đề tài thường hướng về phạm vi hẹp của báo chí địa
phương, phản ánh vấn đề giáo dục cụ thể của địa phương, như: “Tuyên truyền
về giáo dục đại học trên báo chí thành phố Hồ Chí Minh”; “Báo Hải Dương
với việc tuyên truyền - phản ánh công tác giáo dục - đào tạo”, “Những vấn đề
bức xúc trong giáo dục phổ thông qua sự phản ánh của báo Nghệ An”. Một
số khóa luận lại hướng về các phạm vi đối tượng cụ thể như: “Nâng cao chất
lượng giáo dục bậc tiểu học”, “Giáo dục vùng sâu - vùng xa qua báo
GD&TĐ”, “Báo GD&TĐ 90 - 95 với vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo bậc Đại học”, “Báo chí với tuyên truyền chống tiêu cực trong giáo
dục”, hoặc triển khai theo một hướng rất chung và rất rộng như: “Báo chí viết
về giáo dục”, “Báo chí với vấn đề giáo dục”… Có luận văn nghiên cứu vấn
đề giáo dục nhưng trên sóng phát thanh như: “Nâng cao chất lượng chương
trình phát thanh giáo dục và đào tạo trên sóng Đài tiếng nói Việt Nam”.
Riêng về vấn đề đổi mới giáo dục, đã có 2 khóa luận bàn tới:
1.“Vấn đề đổi mới giáo dục - đào tạo trên báo GD&TĐ và báo Khuyến
học” - Đoàn Mạnh Hùng - K39A - ĐH KHXH&NV.
2.“Tuyên truyền đổi mới giáo dục trên báo GD&TĐ” - Nguyễn Thanh
Hương - K45 - ĐH KHXH&NV.
Tuy nhiên, thời điểm của 2 khóa luận này khảo sát báo chí từ những
năm 1997-1998, 2002-2003. Hơn nữa, góc độ khảo sát mang tính một chiều
khi chỉ lựa chọn các tờ báo ngành, trong đó tờ GD&TĐ có cơ quan chủ quản
là chính Bộ Giáo dục & Đào tạo, nên ít có tiếng nói phản biện.

Như vậy, có thể nói rằng, cho tới thời điểm hiện tại, chưa có đề tài nào
đặt vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện và triệt để những vấn đề cấp thiết
trong đổi mới giáo dục hiện nay dưới góc nhìn đa chiều, cũng như xem xét

8
các hình thức chuyển tải các vấn đề này trên một số tờ báo có tính đại diện và
tính phản biện đa chiều hiện nay. Và cũng chưa có công trình nào nghiên cứu
riêng, hệ thống nhiều báo về vấn đề đổi mới giáo dục trên báo in. Với đề tài
nghiên cứu “Báo in Việt Nam trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay”,
chúng tôi hy vọng trên cơ sở nghiên cứu, tìm tòi và cùng với việc kế thừa có
chọn lọc một số kết quả nghiên cứu đã được công bố, sẽ tìm hiểu vấn đề này
một cách nghiêm túc, có hệ thống và đưa ra được các bài học kinh nghiệm
cũng như các giải pháp hiệu quả, có khả năng ứng dụng và thiết thực đối với
các tờ báo khảo sát nói riêng, đồng thời có thể vận dụng với các báo khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn phác họa những nét cơ bản nhất về các vấn đề đổi mới giáo
dục được phản ánh trên báo in Việt Nam giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó,
luận văn rút ra những kinh nghiệm, giải pháp trong việc phản ánh, thông tin
tuyên truyền các vấn đề giáo dục trên báo in nói riêng, báo chí nói chung; đặc
biệt là những giải pháp để nâng cao chức năng phản biện của báo in với
những vấn đề giáo dục.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn triển khai những nhiệm vụ sau:
- Sưu tầm, khảo sát tất cả các bài báo có nội dung liên quan đến các vấn
đề đổi mới giáo dục trên 3 tờ báo: báo Giáo dục&Thời đại, Lao động, Tuổi
trẻ TP. Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 1/2008 đến tháng 6/2009.
- Đánh giá, nhận xét về nội dung, hình thức phản ánh các vấn đề đổi
mới giáo dục trên 3 tờ báo này: những đóng góp và những hạn chế.


9
- Rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những kiến nghị, giải pháp để
nâng cao hiệu quả tuyên truyền các vấn đề giáo dục trên báo in hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề đổi mới
giáo dục, cách thức phản ánh các vấn đề đổi mới giáo dục trên 3 tờ báo in:
báo Giáo dục & Thời đại, Lao động, Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh trong trong
thời gian từ tháng 1/2008 đến tháng 6/2009.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh; dựa trên đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng,
Nhà nước Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ của báo chí; về vấn đề giáo dục
và đổi mới giáo dục. Bên cạnh đó, luận văn cũng kế thừa kết quả nghiên cứu
của các công trình khoa học liên quan đã được công bố.
- Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp: thống kê
- so sánh, phương pháp điều tra - khảo sát thực tiễn, phân tích - tổng hợp;
đồng thời tác giả sẽ tập hợp, nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan đến đề
tài. Bên cạnh đó, tác giả sẽ áp dụng các thủ pháp khác như: Phỏng vấn, điều
tra xã hội học để hoàn thành đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn làm rõ một số lý luận về các nội dung đổi mới giáo dục Việt
Nam; về vai trò của báo chí Việt Nam nói chung, báo in nói riêng trong việc
thông tin, phản ánh sự kiện nói chung, các vấn đề đổi mới giáo dục nói riêng.

10
Đồng thời, luận văn khảo sát có hệ thống các cách thức thông tin, phản ánh;
cách thức tổ chức thông tin về các vấn đề giáo dục trên báo in Việt Nam.

- Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần phác họa những nét cơ bản nhất về các vấn đề đổi
mới giáo dục nổi bật giai đoạn hiện nay được phản ánh thông qua hoạt động
báo chí tuyên truyền; nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền
các vấn đề giáo dục trên báo chí, đặc biệt là loại hình báo in.
Đồng thời, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho các nhà quản lý, các
nhà báo, nhà giáo, các học viên, sinh viên và những người quan tâm tới vấn
đề phát huy vai trò của báo in nói riêng, báo chí nói chung trong đổi mới giáo
dục nói riêng và đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương:
- Chương 1: Đổi mới giáo dục và vai trò của báo in Việt Nam
- Chương 2: Thực trạng vấn đề đổi mới giáo dục trên báo in hiện nay
- Chương 3: Kinh nghiệm và giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền,
phản ánh các vấn đề giáo dục








11
Chương 1
ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ VAI TRÒ CỦA BÁO IN VIỆT NAM

1.1. Đổi mới giáo dục - vấn đề đặc biệt quan tâm của báo in
1.1.1. Đổi mới giáo dục - yêu cầu tất yếu của nền giáo dục Việt Nam

hiện nay
Đổi mới là thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn, hiệu
quả hơn so với trước [20, tr.657]. Trong giáo dục trước đây thường dùng khái
niệm cải cách giáo dục. Về mặt ý nghĩa, hai khái niệm này có sự gần gũi,
tương đồng. Cải cách là sửa đổi cho hợp lý hơn, cho phù hợp với tình hình
mới [20, tr.240]. Chúng ta đã từng tiến hành cải cách ruộng đất, cải cách giáo
dục. Tuy nhiên, trong cải cách ruộng đất cũng có sai lầm nhất định, gây tổn
thất đáng tiếc, sau đó phải làm một cuộc sửa sai. Tại các nước Liên Xô và
Đông Âu trước đây cũng đã tiến hành công cuộc cải tổ cơ chế chính trị - kinh
tế - xã hội (gần nghĩa với cải cách), kết quả là hệ thống, mô hình chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu không thay đổi theo hướng tốt hơn như mong
muốn, mà là sụp đổ hoàn toàn. Từ những bài học thực tế đó, từ năm 1986 đến
nay trên các văn kiện của Đảng, Nhà nước ta thường dùng khái niệm đổi mới:
Đổi mới tư duy, đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế, đổi mới giáo dục,
đổi mới cung cách làm ăn… Sinh thời, Bác Hồ cũng từng đưa ra lời kêu gọi
cán bộ, đảng viên “sửa đổi lề lối làm việc”, thực chất cũng là đổi mới lề lối
làm việc. Trên thực tế, Đường lối đổi mới do Đại Hội VI của Đảng đề ra năm
1986 đã được toàn Đảng, toàn dân thực hiện hơn 20 năm qua giành được
nhiều thắng lợi to lớn. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã và đang chuyển biến
từ mô hình Chủ nghĩa xã hội hành chính quan liêu bao cấp sang mô hình Chủ
nghĩa xã hội vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội

12
chủ nghĩa, theo hướng tốt hơn, năng động hơn, hiệu quả. Điều đó đã chứng
minh chúng ta dùng khái niệm “đổi mới” là hoàn toàn chính xác, liều lượng
vừa phải. Đổi mới là làm cho tốt hơn, tiến bộ hơn, chứ không làm cho sụp đổ,
thay cái này bằng cái khác, không đánh mất nền tảng cơ bản của chủ nghĩa xã
hội, không làm mất bản sắc văn hóa của dân tộc.
Đổi mới giáo dục là làm cho hệ thống giáo dục của nước ta, nền giáo
dục đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng tiến bộ hơn, hiệu quả hơn,

tiếp cận nền giáo dục tiên tiến của thời đại, phù hợp với điều kiện Việt Nam.
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ
nghĩa” - trong hệ thống Tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể nhận rõ đó là những cơ
sở lý luận và thực tiễn sâu sắc đầu tiên, mang tính nguyên lý đặt nền móng
cho một nền giáo dục Việt Nam trong thời đại mới. Trải qua 65 năm xây dựng
và phát triển, trong những thời điểm mà tình hình và nhiệm vụ của đất nước
có chuyển biến lớn, có tính bước ngoặt thì giáo dục cũng đã có những cải
cách, đổi mới cho phù hợp và tốt hơn, tiến bộ hơn. Thực tế nền giáo dục Việt
Nam đã qua 4 cuộc cải cách giáo dục: Cải cách giáo dục lần thứ nhất vào
năm 1950-1951 là cuộc cải cách giáo dục đầu tiên, thay hệ thống giáo dục do
Thực dân Pháp để lại bằng hệ thống giáo dục của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, nền giáo dục của dân, do dân, vì dân. Cải cách giáo dục lần thứ hai
vào năm 1956-1957 nhằm thống nhất hai hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm
(của vùng tự do) và 12 năm (của vùng tạm chiếm mới được giải phóng) thành
hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm, theo tính chất của giáo dục xã hội chủ
nghĩa. Cải cách giáo dục lần thứ ba vào năm 1979-1980, sau khi giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước, non sông thu về một mối, với mục tiêu xây
dựng một nền giáo dục Việt Nam thống nhất trên phạm vị cả nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cải cách giáo dục lần thứ tư là kết quả tất yếu của

13
đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng năm 1986 đề ra (lúc này không gọi
là cải cách mà là đổi mới giáo dục) được thực hiện trong 3 năm 1988-1990,
với mục tiêu xác lập cơ cấu mới của hệ thống giáo dục quốc dân, và thành lập
Bộ Giáo dục và Đào tạo (trên cơ sở sáp nhập Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Tổng cục Dạy nghề) để điều hành toàn bộ hệ thống
giáo dục quốc dân từ mầm non đến đại học và sau đại học.
Bước vào thế kỷ 21, nhận rõ đây là một giai đoạn phát triển như vũ bão
của thế giới với những thành công đa dạng và to lớn của những phát minh

khoa học, ứng dụng công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin
và phát triển nền kinh tế tri thức. Toàn cầu hóa, cạnh tranh và hội nhập quốc
tế là xu thế khách quan chi phối mọi quốc gia. Và một công cuộc đổi mới giáo
dục đào tạo đã và đang diễn ra trên toàn thế giới, âm thầm ở một số nước này
hoặc rầm rộ ở một số nước khác, nói chung là cuộc chạy đua giáo dục trên
quy mô toàn cầu. Bối cảnh thế giới đã và đang tạo nên những thay đổi sâu sắc
trong tư duy về giáo dục, từ quan niệm về chất lượng đến xây dựng chương
trình, tổ chức hệ thống giáo dục. Nhà trường từ chỗ khép kín chuyển sang mở
cửa đối thoại với xã hội, gắn bó mật thiết với nghiên cứu khoa học, ứng dụng
công nghệ, giao lưu hợp tác quốc tế. Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được xem là
phúc lợi chuyển sang coi như đầu tư cho phát triển…
Tuy giáo dục Việt Nam đã có 15 năm đổi mới theo quan điểm chỉ đạo
của Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) với những thành quả quan trọng, như
đã mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình thức giáo dục, nâng cấp cơ sở vật
chất nhà trường, hoàn thành phổ cập giáo dục Tiểu học vào năm 2000, nhưng
cũng bộc lộ những hạn chế về chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo, tư duy
giáo dục chưa theo kịp tư duy kinh tế, đầu tư cho giáo dục còn dàn trải, nhiều
tệ nạn tiêu cực và bệnh “chạy theo thành tích” đang làm triệt tiêu động lực

14
dạy và học trong nhà trường, cản trở bước tiến của giáo dục. Trước thời cơ và
thách thức mới của thời đại mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đòi hỏi giáo
dục đào tạo phải đổi mới mạnh mẽ và phát triển nhanh, bền vững, theo hướng
hiện đại đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, cung ứng nguồn nhân lực chất
lượng cao cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trước đòi hỏi trên,
nếu không có một chiến lược phát triển giáo dục đúng đắn và tầm nhìn thời
đại thì giáo dục đào tạo nước ta sẽ tụt hậu ngày càng xa.
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết TW 2 Khóa VIII về giáo
dục đào tạo và Nghị quyết Đại hội IX, Đại hội X của Đảng, đồng thời nghiên

cứu tình hình đổi mới giáo dục trên thế giới, Chiến lược phát triển giáo dục
10 năm từ 2001 - 2010 đã được xây dựng và ban hành (Theo Quyết định số
201/2001/QĐ-TTg ngày 27/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ). Tư tưởng chỉ
đạo của chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001-2010 là khắc phục tình
trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực; tiếp tục đổi mới một cách có hệ thống và
đồng bộ; tạo cơ sở để nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo,
tiếp cận trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, hướng
tới xây dựng một xã hội học tập. Cũng trong năm 2001, Thủ tướng Chính phủ
đã có Quyết định số 47/2001/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các
trường đại học, cao đẳng Việt Nam giai đoạn 2001-2010. Mục tiêu là xây
dựng mạng lưới các trường đại học, cao đẳng đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn
nhân lực phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, củng cố an ninh quốc
phòng, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; phát huy sức mạnh tổng hợp
của hệ thống đại học, cao đẳng và của toàn xã hội; đảm bảo tính đa dạng,
đồng bộ và từng bước nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; tạo điều
kiện thuận lợi cho các tầng lớp nhân dân được tiếp thu giáo dục sau trung học,
được học tập suốt đời.

15
Kết quả triển khai Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010: Trong hệ
thống giáo dục phổ thông đã đạt được những kết quả đáng kể, hoàn thành việc
biên soạn và thay bộ sách giáo khoa mới từ lớp 1 đến lớp 12; Giáo dục Tiểu
học tiếp tục củng cố thành tựu phổ cập từ năm 2000, từng bước phổ cập đúng
độ tuổi; Giáo dục Trung học có bước tiến mạnh mẽ, đến cuối năm 2010 hoàn
thành phổ cập THCS trên phạm vi cả nước, một số địa phương tập trung xây
dựng trường chuẩn quốc gia, trường chuyên THPT. Giáo dục đại học, cao
đẳng, trung cấp chuyên nghiệp có bước phát triển mạnh về quy mô, đưa tỷ lệ
số sinh viên/ 1 vạn dân năm 2000 là 135, năm 2005 là 179, năm 2010 là 195
sv/vạn dân, cơ bản đã đạt mục tiêu đề ra trong chiến lược giáo dục 10 năm.
Đồng thời đổi mới thi cử, tiến hành kiểm định chất lượng giáo dục đào tạo.

Tuy nhiên, qua 5 năm đầu triển khai chiến lược giáo dục, ngành giáo
dục cũng nhận thấy còn bộc lộ những hạn chế thuộc về cơ chế quản lý, xuất
hiện nhiều hiện tượng tiêu cực nổi cộm là tiêu cực trong thi cử, bệnh chạy
theo thành tích, vi phạm đạo đức nhà giáo. Từ năm học 2006-2007 toàn ngành
giáo dục phát động cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và
bệnh thành tích trong giáo dục”, gọi tắt là cuộc vận động “Hai không”. Sau 4
năm thực hiện cuộc vận động “Hai không” với tinh thần tuyên chiến quyết liệt
với tiêu cực và bệnh thành tích, đến nay về cơ bản các hiện tượng tiêu cực
gian lận trong thi cử và bệnh chạy theo thành tích đã được khắc phục, lập lại
kỷ cương nền nếp trong toàn ngành. Từ năm học 2007-2008 ngành giáo dục
phát động thêm cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức,
tự học và sáng tạo” cũng được đông đảo cán bộ giáo viên hưởng ứng, những
tấm gương sáng của các nhà giáo đã được tôn vinh, những giáo viên có hành
vi vi phạm đạo đức cũng được xử lý kịp thời, tạo môi trường thân thiện và lấy
lại hình ảnh tốt đẹp của nhà giáo trong ngành và xã hội.

16
Về cơ chế quản lý giáo dục, nhất là quản lý về tài chính trong giáo dục
bộc lộ nhiều khâu bất hợp lý, yếu tố lạc hậu, bảo thủ, trì trệ làm cho giáo dục
dù có đổi mới nội dung, chương trình tiên tiến hiện đại cũng không thể phát
triển được, do đó cần phải tháo gỡ. Trong khi nền kinh tế của nước ta đã
chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN được hơn 20 năm, đã hình
thành khá nhiều các cơ sở giáo dục ngoài công lập (năm học 2009-2010 có tỷ
lệ học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập là: nhà trẻ
58,9%; mẫu giáo 42,3%; THPT 15,6%; dạy nghề 32,2%; trung cấp chuyên
nghiệp 24,8%; cao đẳng, đại học 14,1%), thì cơ chế tài chính giáo dục vẫn
chưa có thay đổi so với thời kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Việc
quản lý tài chính ngân sách giáo dục rất phân tán: địa phương quản lý 74%,
các bộ ngành có trường học quản lý 21%, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ quản lý
5%. Với tình hình này, nhiều chuyên gia cho rằng đây là điều rất không bình

thường. Các địa phương, các bộ, ngành khác chi tiêu như thế nào không báo
cáo về Bộ GD&ĐT, vì vậy Bộ GD&ĐT không thể đánh giá hiệu quả đầu tư
của Nhà nước cho giáo dục như thế nào. Thực tế diễn ra tình hình là, định
mức phân bổ ngân sách giáo dục chưa gắn với các tiêu chí đảm bảo chất
lượng giáo dục đào tạo; chưa có cơ chế chia sẻ trách nhiệm về kinh phí cho
giáo dục giữa nhà nước và người học ở giáo dục đại học, cao đẳng và chuyên
nghiệp, về cơ bản vẫn là bao cấp, bình quân. Chế độ học phí xây dựng từ hơn
10 năm trước đến nay vẫn chưa thay đổi, không còn phù hợp với sự biến đổi
của thị trường, mặt bằng giá cả… Điều đó dẫn tới tình trạng các cơ sở giáo
dục không có đủ nguồn lực bổ sung đầu tư nâng cấp thiết bị dạy học, tăng
lương cho giáo viên. Công tác xã hội hóa mỗi nơi mỗi kiểu, không quản lý
được nguồn huy động vốn từ nhân dân cho nhà trường.
Trước tình trạng khẩn cấp như trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây
dựng Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục giai đoạn 2009-2014 nhằm:

17
Xây dựng cơ chế tài chính mới cho giáo dục, cơ chế đó phải huy động ngày
càng tăng và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và đóng góp của
xã hội để đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng đồng thời tăng quy mô
giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước giai đoạn mới; Xây
dựng hệ thống các chính sách hướng tới một xã hội học tập, mọi người đều
được học tập trong điều kiện chất lượng ngày càng tăng. Đề án được đưa lên
mạng thông tin của Bộ và báo chí để xin ý kiến rộng rãi cán bộ, nhân dân.
Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội Khóa XII tháng 6/2009, Đề án Đổi mới cơ
chế tài chính giáo dục đã được thông qua, đến nay đang từng bước đi vào
cuộc sống, đem lại sức sống mới cho giáo dục đào tạo Việt Nam phát triển.
Cũng trong năm 2009, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội Khóa XII tháng 11/2009,
Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đã được thông qua,
tạo điều kiện hành lang pháp lý cho giáo dục đào tạo phát triển. Nội dung sửa
đổi và bổ sung Luật giáo dục cũng được thông tin rộng rãi trên báo chí, được

cán bộ và nhân dân góp những ý kiến thiết thực.
Có thể thấy, ngành giáo dục đã trình và được Quốc hội thông qua hai
đề án rất quan trọng: đề án đổi mới cơ chế tài chính giáo dục và đề án sửa đổi
bổ sung một số điều của Luật giáo dục, tạo điều kiện cơ chế và pháp lý cho
giáo dục Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, thực hiện Chiến lược
phát triển giáo dục 10 năm 2011-2020, đưa giáo dục nước nhà hội nhập và
tiếp cận các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Để có được kết quả như vậy
chắc chắn phải là một cuộc tranh luận gay go quyết liệt giữa một bên là tư duy
bảo thủ, trì trệ, quen với cơ chế quan liêu bao cấp với một bên là tư duy mới,
cách nhìn mới, tính khoa học và cập nhật xu thế thời đại.

18
Và báo in nói riêng, báo chí nói chung đã phản ánh, vào cuộc với ngành
giáo dục như thế nào để đem lại những thành công đó cũng là vấn đề hết sức
thú vị, sẽ được làm rõ trong phần tiếp theo của luận văn.
1.1.2. Sự đồng hành và tương tác của báo in với giáo dục
Giáo dục là hoạt động xã hội liên quan tới lợi ích của mọi công dân,
mọi gia đình, mọi cấp, mọi ngành và các tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội. Ngành giáo dục là một ngành đông nhất, với hơn 1 triệu nhà giáo và
23 triệu học sinh, sinh viên các bậc học hệ chính quy đang dạy và học trong
gần 40.000 trường học từ mầm non đến đại học, sau đại học. Ngoài ra trong
thời đại kinh tế tri thức, nước ta đang hình thành xã hội học tập với hàng chục
triệu người theo học các hệ bồi dưỡng ngắn hạn, tập huấn nghiệp vụ, vừa học
vừa làm, học từ xa qua các phương tiện truyền thông, du học tại nước ngoài.
Chính vì vậy, giáo dục bản thân nó là một trong những hoạt động sôi động
của xã hội, là vấn đề nhạy cảm được mọi người thường xuyên quan tâm theo
dõi. Trên thực tế, bất cứ một sự thay đổi về chính sách liên quan đến giáo dục,
việc cải tiến thi cử, thay sách giáo khoa, một hiện tượng tiêu cực trong thi cử,
gian lận trong sử dụng văn bằng chứng chỉ, một hành vi vi phạm đạo đức của
giáo viên, một hành vi bạo lực trong học sinh sinh viên, vấn đề thiếu sách

giáo khoa, thiết bị dạy học… đều được phản ánh trên báo chí, lan truyền rất
nhanh, dễ gây bức xúc cho mọi người dân.
Giáo dục là lĩnh vực khó, bàn về nó phải có chiều sâu kiến thức chuyên
môn và chiều rộng tri thức tổng hợp, am hiểu tâm lý con người. Tuy nhiên,
dường như ai cũng tỏ ra hiểu biết về giáo dục, có thể là nông sâu, hiểu biết ít
hoặc nhiều nên dễ dàng đưa ra ý kiến của mình, lên tiếng đánh giá khen chê,
đề xuất kiến nghị và đó cũng là nguồn tin tức, ý kiến, dư luận rất lớn, vô tận
cho báo chí khai thác. Có ý kiến cho rằng chính giáo dục là “nguồn sống” của

19
báo chí. Có những vấn đề được bàn luận, phản ánh, trao đổi trong thời gian
dài hàng tháng, thậm chí từ năm này sang năm khác. Như: vấn đề thay bộ
sách giáo khoa mới phổ thông từ lớp 1 đến lớp 12 được báo chí bàn luận,
khen chê ngay từ năm học 2002-2003 - năm đầu triển khai thay sách lớp 1,
lớp 6, cho đến năm học 2008-2009 là năm kết thúc thay sách giáo khoa mới ở
lớp 12, vẫn còn những bài báo tiếp tục góp ý cho sách giáo khoa, bàn về sự
nặng nhẹ trong chương trình sách giáo khoa mới, kiến nghị phải tiếp tục đổi
mới. Vấn đề giải quyết bài toán mối quan hệ giữa phát triển về quy mô với
nâng cao chất lượng giáo dục, vấn đề học phí học bổng, cơ chế tài chính giáo
dục, vấn đề dạy thêm học thêm, cải tiến thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại
học, vấn đề chuyển đổi mô hình từ trường dân lập sang tư thục, vấn đề khôi
phục hệ thống trường THPT chuyên để đào tạo nhân tài, vấn đề phổ cập giáo
dục mầm non cho trẻ 5 tuổi mấy năm gần đây, nhất là trong năm 2008-2009
được bàn luận nhiều trên các báo tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, báo
mạng điện tử. Đặc biệt năm 2009, trong suốt thời gian trước kỳ họp thứ 5 và
thứ 6 của Quốc hội Khóa XII để xem xét và thông qua Đề án Đổi mới cơ chế
tài chính giáo dục, Đề án sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Giáo dục,
trên diễn đàn báo chí có hàng trăm bài phản ánh, trao đổi, phản biện về đề án
đổi mới cơ chế tài chính, trong đó có vấn đề học phí; có hàng chục chương
trình phát thanh, truyền hình, hàng chục bài viết, hàng trăm ý kiến trên các

diễn đàn báo chí về sự cần thiết phải bổ sung, sửa đổi hơn 20 điều của Luật
Giáo dục 2005; ngoài ra còn hàng trăm tin, bài phản ánh về thực trạng yếu
kém trong quản lý giáo dục đại học, yếu kém về chất lượng đào tạo, chưa gắn
kết giữa đào tạo và sử dụng nhân lực. Kết quả là Quốc hội đã thông qua 2 đề
án nói trên, đồng thời có thêm một nghị quyết về sự cần thiết thanh tra đánh
giá công tác đào tạo và đảm bảo chất lượng giáo dục tại các trường đại học.
Trước áp lực của công luận và quyết nghị của Quốc hội, Đầu năm 2010, Ban

20
Cán sự Đảng Bộ GD&ĐT có Nghị quyết 05 ngày 6/1/2010 về đổi mới quản lý
và nâng cao chất lượng giáo dục đại học; ngày 27/2/2010, Thủ tướng Chính
phủ ban hành Chỉ thị số 296/2010/CT-TTg về “Đổi mới cơ chế quản lý và
nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2010-2012”; trên
cơ sở đó Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Chương trình hành động nhằm
thực hiện Chỉ thị 296 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết 05 của Ban
Cán sự Đảng Bộ GD&ĐT về đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao chất lượng
giáo dục đại học, triển khai từ tháng 3 năm 2010 với mục tiêu đến hết năm
2012 tạo bước đột phá cho giáo dục đại học, cao đẳng phát triển mạnh mẽ
trong những năm tiếp theo.
Cả nước ta hiện có hơn 500 cơ quan báo chí với gần 700 ấn phẩm báo
chí phát thanh truyền hình tạo thành những kênh thông tin hết sức đa dạng,
phong phú về mọi vấn đề của đời sống đất nước và quốc tế, trong đó có vấn
đề giáo dục đào tạo. Luật Báo chí nước ta nêu rõ: “Báo chí Việt Nam gồm:
báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình
phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe-nhìn thời
sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử
(được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng Việt, tiếng các dân
tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài”. Báo chí là phương tiện thông tin đại
chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức
Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân. Trong đó,

báo in là loại hình có lịch sử phát triển lâu đời nhất, có tiếng nói quan trọng,
tác động đến đông đảo công chúng.
Riêng ngành giáo dục đã có riêng 2 tờ báo in chuyên về giáo dục (Báo
Giáo dục và Thời đại trực thuộc Bộ GD&ĐT, Báo Giáo dục thành phố Hồ
Chí Minh trực thuộc Sở GD&ĐT Tp. Hồ Chí Minh) và một báo điện tử (Báo
GD&TĐ: gdtd.vn), ngoài ra còn có Báo Khuyến học và Dân trí (cả báo in và

21
báo điện tử) trực thuộc Hội Khuyến học Việt Nam và hàng chục tạp chí
chuyên đề chuyên sâu về giáo dục đào tạo thuộc Bộ GD&ĐT và các tổ chức,
đơn vị giáo dục như: Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập,
Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hiệp hội Thiết bị giáo dục, các viện nghiên
cứu, các trường đại học. Về báo hình, Đài Truyền hình Việt Nam từ lâu dành
riêng một kênh (VTV- 2) cho giáo dục và khoa học. Với báo nói, Đài Tiếng
nói Việt Nam cũng có riêng Hệ VOV - 2: Văn hóa - Đời sống - Khoa giáo
phủ sóng toàn quốc, tới tận vùng sâu, vùng xa, hải đảo, phục vụ nhu cầu học
tập từ xa của mọi người. Hầu hết các tờ báo in, đài phát thanh và truyền hình
từ trung ương đến địa phương của Việt Nam hiện nay đều tổ chức các chuyên
mục, chuyên trang, diễn đàn về giáo dục đào tạo. Nhờ có hệ thống báo chí
rộng khắp như vậy mà mỗi bước phát triển, mỗi sự đổi mới, hoặc sự bất cập
yếu kém của giáo dục đều được phản ánh khá đầy đủ và kịp thời trên các
phương tiện thông tin đại chúng, đem đến cho mọi người nhịp đập, hơi thở
của cuộc sống, của công cuộc đổi mới nói chung, đổi mới giáo dục nói riêng.
Chúng ta biết rằng, đổi mới giáo dục nói chung, đặc biệt là đổi mới
giáo dục trong những năm đầu của Thế kỷ 21 đóng vai trò như một yêu cầu
bức thiết, có ý nghĩa sống còn của giáo dục Việt Nam. Phản ánh những vấn đề
đổi mới giáo dục hiện nay, báo chí Việt Nam nói chung, báo in nói riêng
không chỉ đi sâu đi sát thực tiễn hoạt động dạy và học trong nhà trường để
đưa tin khách quan, kịp thời, phản biện các đề án đổi mới, cổ vũ các gương
điển hình tiên tiến, phê phán lên án các hiện tượng tiêu cực, mà thực sự là cầu

nối giữa giáo dục và toàn xã hội, làm cho tư tưởng chỉ đạo của Đảng đối với
giáo dục: “Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của nhân
dân”, “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy CNH, HĐH đất nước” [35, tr.95] được

22
hiện thực hóa trong đời sống, góp phần tạo nên thành công cho đổi mới giáo
dục nước nhà.
1.2. Vai trò của báo in Việt Nam trong việc tuyên truyền đổi mới giáo dục
1.2.1. Phản ánh thực trạng giáo dục Việt Nam với những yêu cầu
khách quan phải đổi mới
Thực trạng giáo dục mà báo in nói riêng, báo chí nói chung phản ánh
muốn khách quan phải dự trên 2 nguồn tư liệu: Từ các báo cáo chính thức, tài
liệu thống kê của Bộ GD&ĐT, và từ chính thực tiễn hoạt động giáo dục của
địa phương, của cơ sở nhà trường lớp học.
Ngành Giáo dục sau mỗi năm học đều tiến hành hội nghị tổng kết năm
học và triển khai nhiệm vụ năm học mới. Qua tổng kết đánh giá tình hình thực
hiện nhiệm vụ năm học, ngành Giáo dục cũng nhận định khá đầy đủ về thực
trạng giáo dục cả nước nói chung, của mỗi vùng miền, địa phương nói riêng,
trong đó chỉ rõ thành tựu đạt được, những hạn chế yếu kém, rút ra những bài
học thành công và chưa thành công cho năm học sau. Trong dịp diễn ra hội
nghị tổng kết năm học hàng năm nói trên, ngành giáo dục đều mời các cơ
quan báo chí tham dự đầy đủ, nắm thông tin về năm học từ Bộ GD&ĐT, từ
các cơ quan quản lý cấp Sở, Phòng GD&ĐT, từ Ban lãnh đạo nhà trường đại
học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp để tuyên truyền, thông tin cho toàn xã
hội biết. Những tài liệu trên là hết sức cần thiết đối với những người làm báo,
là cơ sở để phục vụ viết tin bài về giáo dục đào tạo, nhưng với báo chí như thế
là chưa đủ. Bởi vì những thông tin do cơ quan quản lý giáo dục cung cấp cho
báo chí là những thông tin chung nhất, và có thể vẫn phiến diện và thiếu
khách quan, có khi vẫn “mắc bệnh thành tích”, (cái tốt phô ra, xấu xa đậy lại -

như dân ta thường nói). Căn bệnh thành tích có ở nhiều lĩnh vực, không riêng
gì giáo dục, bệnh càng nặng càng không nhìn thấy những yếu kém, bất cập,

23
thậm chí sai lầm, có hại cho xã hội. Không nhận thức đúng thực trạng với
những yếu kém trì trệ thì không có ý thức và quyết tâm đổi mới.
Chính vì vậy, nhiệm vụ phản biện xã hội của báo chí nói chung, đặc
biệt là báo in là phải bằng con đường riêng của mình phản ánh đúng thực
trạng của xã hội nói chung, của giáo dục nói riêng, chứng minh rằng với thực
trạng như vậy thì cần thiết phải làm cuộc đổi mới để tiến lên. Các cơ quan báo
chí không dừng lại ở nhận thông tin chính thống từ cơ quan quản lý giáo dục,
mà đã cử phóng viên chuyên theo dõi giáo dục, bám sát tình hình, đi tới
những cơ sở giáo dục, tiếp cận những cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên
những nơi làm tốt và chưa tốt, những cơ sở giáo dục tiên tiến và cơ sở yếu
kém, khó khăn để bổ sung thực tiễn sống động cho bài viết của mình. Nhờ
theo dõi có hệ thống, lại kịp thời đi sâu đi sát thực tiễn nên các tin bài phản
ánh, các chuyên luận, phóng sự về thực trạng giáo dục trở nên sống động, có
sức thuyết phục. Đặc biệt với loại hình báo in, với thế mạnh tổng hợp, lưu trữ,
hệ thống tốt, dễ theo dõi, báo in đã khẳng định được tiếng nói quan trọng của
mình trên mặt trận phản biện. Trên thực tế, có những điển hình giáo dục, có
những cá nhân tiên tiến xuất sắc, có những tấm gương thầy cô giáo hy sinh
tận tụy cho sự nghiệp trồng người, những tấm gương vượt khó, vượt lên hoàn
cảnh để học tập khá giỏi, những nhà hảo tâm đóng góp tiền của, hiến đất xây
trường giúp giáo dục phát triển…không có trong báo cáo tổng kết hàng năm
của Bộ, ngành Giáo dục, nhưng đã được báo chí phát hiện, nêu gương, tuyên
truyền cổ vũ. Bên cạnh đó, có những yếu kém, sai lầm, những khó khăn,
những căn bệnh gây tổn hại cho giáo dục đang ẩn khuất đâu đây, được che
dấu không có trong báo cáo tình hình của các cơ quan quản lý giáo dục, cũng
đã được báo chí lôi ra ánh sáng, chỉ rõ động cơ và tác hại của những hiện
tượng đó. Vấn đề gian lận trong thi cử, “bệnh thành tích” (chạy theo thành

tích, năm sau phải bằng hoặc cao hơn năm trước), tình trạng “đọc chép” (thầy

×