Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Các giải pháp tăng thu nhập cho nông dân ở Trung Quốc từ khi cải cách mở của đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 108 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*


NGUYỄN THANH GIANG


CÁC GIẢI PHÁP TĂNG THU NHẬP CHO
NÔNG DÂN Ở TRUNG QUỐC TỪ KHI
CẢI CÁCH MỞ CỬA ĐẾN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÂU Á HỌC





Hà Nội - 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*


NGUYỄN THANH GIANG

CÁC GIẢI PHÁP TĂNG THU NHẬP CHO


NÔNG DÂN Ở TRUNG QUỐC TỪ KHI
CẢI CÁCH MỞ CỬA ĐẾN NAY

Chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60.31.50

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÂU Á HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thế Anh




Hà Nội - 2009

i
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………….
1
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………
1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3
3. Cách tiếp cận
7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
8
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
8

6. Bố cục đề tài
8
CHƢƠNG 1: ĐẶC THÙ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VẤN ĐỀ TĂNG
THU NHẬP CHO NÔNG DÂN Ở TRUNG QUỐC

9
1.1. Một số khái niệm và đặc thù vấn đề thu nhập của nông dân
Trung Quốc
9
1.1.1. Một số khái niệm liên quan…………………………………………………… …
9
1.1.2. Đặc thù vấn đề thu nhập của nông dân Trung Quốc…………………
11
1.2. Sự cần thiết phải tăng thu nhập cho nông dân ở Trung Quốc……
14
1.2.1. Thu nhập của nông dân tăng chậm ảnh hưởng trực tiếp đến sự
tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân

14
1.2.2. Thu nhập của nông dân tăng chậm ảnh hưởng đến sự ổn định
của xã hội

16
1.2.3. Nguyên nhân khiến cho thu nhập của nông dân Trung Quốc tăng
chậm
18

ii
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN THÚC ĐẨY TĂNG
THU NHẬP CHO NÔNG DÂN CỦA TRUNG QUỐC


25
2. 1. Thực hiện chế độ trách nhiệm khoán sản đến hộ gia đình ở nông
thôn Trung Quốc trong những năm đầu cải cách mở cửa

25
2.1.1. Sự ra đời của chế độ khoán sản đến hộ gia đình
25
2.1.2. Vai trò của chế độ khoán sản đến hộ trong việc tăng thu nhập
cho nông dân Trung Quốc

27
2.2. Ổn định quan hệ khoán ruộng đất, bảo vệ quyền sử dụng đất khoán
của nông dân

32
2.3. Phát triển xí nghiệp hƣơng trấn, giải quyết việc làm tại chỗ cho
sức lao động dƣ thừa ở nông thôn, chuyển dịch lao động nông nghiệp
sang lao động phi nông nghiệp

37
2.3.1. Một vài nét về quá trình hình thành và phát triển xí nghiệp
hương trấn của Trung Quốc
37
2.3.2. Vai trò và đóng góp của xí nghiệp hương trấn trong việc tăng
thu nhập cho nông dân
42
2.4. Tích cực chuyển dịch sức lao động dƣ thừa ở nông thôn ra
thành phố làm thuê, giải quyết tốt vấn đề ngƣời nông dân lƣu động
44

2.5. Tiến hành cải cách toàn diện chế độ thuế và phí ở nông thôn, giảm
nhẹ gánh nặng cho nông dân

49
2.6. Tăng cƣờng mức độ trợ giúp từ các chính sách tăng thu nhập cho
ngƣời nông dân
54



iii
CHƢƠNG 3: NHẬN XÉT VỀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG THU NHẬP
CHO NÔNG DÂN Ở TRUNG QUỐC VÀ MỘT SỐ GỢI MỞ CHO
VIỆT NAM

62
3.1. Những thành tựu cơ bản trong việc tăng thu nhập cho nông dân
62
3.1.1. Mức thu nhập của nông dân tăng lên, đời sống được cải thiện…
62
3.1.2. Bước đầu giải quyết được vấn đề xoá đói giảm nghèo…………
65
3.1.3. Kết cấu nguồn thu nhập ngày càng đa dạng, nông dân có nhiều
cơ hội lựa chọn việc làm ở các ngành nghề phi nông nghiệp
66
3.2. Một số vấn đề còn tồn tại trong việc tăng thu nhập cho nông dân
của Trung Quốc hiện nay

69
3.2.1. Hạn chế của việc thực hiện chính sách tăng thu nhập cho nông dân

69
3.2.2. Sự gia tăng khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa cư dân
thành thị và cư dân nông thôn

73
3.2.3. Những khó khăn trong việc giải quyết vấn đề tăng thu nhập
và việc làm cho số lao động ra thành phố làm thuê

77
3.3. Một số gợi mở cho Việt Nam
81
KẾT LUẬN
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
90


1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trung Quốc là một nước nông nghiệp lớn, dân số nông dân đông. Hàng
ngàn năm qua vấn đề nông dân luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu của nước
này. Lịch sử mấy nghìn năm của Trung Quốc cho thấy, nông dân hiền hoà
hay giận dữ đã quyết định sự tồn vong, hưng suy của các triều đại; nông dân
hăng hái hay thờ ơ đã quyết định xã hội đi lên hay ngưng trệ; nông dân ủng hộ
hay chống đối đã quyết định sinh mệnh chính trị của các nhà cầm quyền;
nông dân đi theo hay quay lưng lại đã quyết định sự thành công hay thất bại
của các chính sách. Thực tế đã chứng minh, trong thời kỳ đấu tranh cách
mạng, chính nông dân là đội quân chủ lực giúp cách mạng Trung Quốc thành

công. Thời kỳ đầu cải cách mở cửa, với phương châm cải cách bắt đầu từ
nông thôn của Đặng Tiểu Bình, ĐCS Trung Quốc trả lại cho nông dân quyền
định đoạt ruộng đất, tài sản, quyền tự do sản xuất và kinh doanh, nông dân vui
mừng đã lập nên những thành tựu kinh tế đáng khâm phục. Nhưng kể từ sau
Hội nghị Trung ương 3 khoá XII (tháng 10-1984), ĐCS Trung Quốc quyết
định chuyển trọng tâm cải cách từ nông thôn ra thành thị, ngay lập tức sản
xuất nông nghiệp bị chậm lại, sản lượng lương thực giảm sút, giá cả tăng
nhanh, tốc độ tăng trưởng thu nhập của nông dân liên tục giảm xuống, chênh
lệch thu nhập giữa cư dân thành thị và nông thôn ngày càng mở rộng
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp, nông thôn
và nông dân đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, Đại hội XVI ĐCS
Trung Quốc (năm 2002) khi đưa ra mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá
giả đã nêu rõ: “Xây dựng nông nghiệp hiện đại, phát triển kinh tế nông thôn,
tăng thu nhập cho nông dân là nhiệm vụ trọng đại của xây dựng toàn diện
xã hội khá giả”. Trong đó, việc tăng thu nhập cho nông dân được coi là hạt

2
nhân của công tác nông dân. Bởi vì “không có khá giả của nông dân, thì
không thể có khá giả của nhân dân cả nước” [66], như Tổng Bí thư Giang
Trạch Dân đã từng nhấn mạnh ở Hội nghị Trung ương 8 khoá XIII ĐCS
Trung Quốc (tháng 11 – 1991), vì chỉ có tăng thu nhập cho nông dân mới có
thể thúc đẩy nông nghiệp phát triển, giúp cho nông thôn phát triển và ổn định
lâu dài, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn.
Gần đây, Hội nghị Trung ương 3 khoá XVII ĐCS Trung Quốc (tháng
10 - 2008) đã nêu rõ: “cơ sở nông nghiệp của Trung Quốc vẫn còn lạc hậu,
cần phải tăng cường; sự phát triển của nông thôn Trung Quốc vẫn còn trì trệ,
cần phải trợ giúp; tăng thu nhập cho nông dân vẫn còn khó khăn, cần phải
đẩy nhanh”. Hội nghị cũng chỉ ra, một trong những nhiệm vụ mục tiêu cơ bản
của cải cách phát triển nông thôn Trung Quốc đến năm 2020 đó là, “thu nhập
thuần bình quân đầu người nông dân tăng gấp đôi so với năm 2008, mức tiêu

dùng được nâng cao đáng kể, hiện tượng nghèo đói tuyệt đối cơ bản được xoá
bỏ”[60]. Qua đó có thể thấy vấn đề tăng thu nhập cho nông dân hiện đang
được ĐCS Trung Quốc hết sức quan tâm và coi trọng, nó được coi là mục tiêu
và nhiệm vụ quan trọng nhất, then chốt nhất của công cuộc xây dựng nông
thôn mới XHCN ở nước này.
Việt Nam và Trung Quốc đều là hai nước nông nghiệp có nhiều điểm
tương đồng về văn hoá, lịch sử, chính trị và kinh tế. Nhiều vấn đề của “tam
nông” (nông nghiệp, nông thôn, nông dân) mà Trung Quốc đang phải đối mặt
và giải quyết, trong đó có vấn đề tăng thu nhập cho nông dân cũng chính là vấn
đề nan giải trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam hiện
nay. Vì vậy, nghiên cứu các giải pháp tăng thu nhập cho nông dân của Trung
Quốc trong 30 năm cải cách mở cửa có giá trị tham khảo quí báu cho Việt Nam
trong quá trình đổi mới mở cửa đất nước. Với những lý do nêu trên, tác giả
quyết định chọn “Các giải pháp tăng thu nhập cho nông dân của Trung
Quốc từ khi cải cách mở cửa đến nay” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn

3
Thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về vấn đề tăng thu nhập cho nông dân đã trở thành đề tài hấp
dẫn không chỉ đối với các học giả mà còn cả với những nhà hoạch định chính
sách của nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới.
- Tình hình nghiên cứu trong nước:
Trong giai đoạn hiện nay “nông nghiệp phát triển, nông thôn ổn định,
nông dân tăng thu nhập” được coi là nhiệm vụ quan trọng để thực hiện mục
tiêu xây dựng nông thôn mới XHCN của Đảng và Chính phủ Trung Quốc. Vì
thế nó trở thành đề tài thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các học giả
Việt Nam. Những tài liệu nghiên cứu liên quan đến vấn đề tam nông trong đó
có tăng thu nhập cho nông dân cũng tương đối phong phú và đa dạng. Tiêu
biểu là các công trình như:

“Vấn đề tam nông ở Trung Quốc: Thực trạng và giải pháp” do Đỗ Tiến
Sâm chủ biên (2008) [18], công trình đã khái quát và hệ thống về thực trạng và
những giải pháp cho vấn đề “tam nông” của Trung Quốc hiện nay, trong đó
cũng đã ít nhiều đề cập đến một số chính sách, giải pháp để tăng thu nhập cho
nông dân trong giai đoạn hiện nay; “Một số vấn đề về hiện đại hoá nông nghiệp
Trung Quốc” do Nguyễn Minh Hằng chủ biên (2003) [6], cuốn sách bàn về
quá trình và các giải pháp thực hiện chuyển đổi từ một nền nông nghiệp truyền
thống lạc hậu sang nền nông nghiệp hiện đại của Trung Quốc, tuy nhiên vấn đề
tăng thu nhập cho nông dân mới chỉ được lồng ghép vào trong các nội dung của
cuốn sách; “Xí nghiệp hương trấn ở nông thôn Trung Quốc” của tác giả Đỗ
Tiến Sâm (1994)[16], từ góc độ công nghiệp hoá nông thôn, tác giả đã luận giải
những thành tựu của xí nghiệp hương trấn đối với công cuộc cải cách và phát
triển nông thôn Trung Quốc, trong đó có nói đến vai trò của xí nghiệp hương
trấn trong việc chuyển dịch cơ cấu việc làm ở nông thôn, góp phần tăng thu
nhập từ các ngành nghề phi nông nghiệp cho nông dân…

4
Bên cạnh các công trình nêu trên, trong các tạp chí nghiên cứu chuyên
ngành cũng như các cuộc hội thảo, nhiều tác giả cũng đã có bài viết bàn về
quá trình và những thành tựu của cải cách nông thôn, qua đó cho thấy những
đổi thay to lớn của bộ mặt nông thôn nói chung và đời sống của người nông
dân, trong đó có cả những thành tựu trong công tác tăng thu nhập cho nông
dân như: “Cải thiện đời sống kinh tế nông thôn: Thành tựu lớn của Trung
Quốc trong thời kỳ cải cách mở cửa” của tác giả Phùng Thị Huệ [10] in trong
Kỷ yếu hội thảo Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 55 năm xây dựng và phát
triển, “Lý luận và thực tiễn cải cách và phát triển nông thôn Trung quốc 30
năm qua” của Phó Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương ĐCS Trung Quốc
Trác Vệ Hoa [8] tại Hội thảo Lý luận lần thứ 4 giữa ĐCS Việt Nam và ĐCS
Trung Quốc - Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn – Kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc; bài viêt “Vài nét

về tiến trình cải cách nông thôn Trung Quốc từ cải cách mở cửa đến nay” của
Nguyễn Xuân Cường trên Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc năm 2005 [3]…
Ngoài ra còn có các công trình và bài viết đề cập trực tiếp vào thực trạng
và các vấn đề nổi cộm của tam nông Trung Quốc như “Tìm hiểu những giải
pháp giải quyết vấn đề: nông nghiệp, nông thôn và nông dân Trung Quốc hiện
nay” của Bùi Thị Thanh Hương, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số
1, 2007 [11]; “Nông dân Trung Quốc: Thực trạng bất đối xứng so với người
dân thành thị" của tác giả Hoàng Thế Anh, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
Trung Quốc số 1 năm 2008 [1].
Nhìn chung, các công trình đều có ít nhiều đề cập đến những giải pháp
tăng thu nhập cho nông dân ở từng giai đoạn nhất định. Tuy nhiên các công
trình này chưa tổng kết một cách có hệ thống và trực tiếp quá trình cũng như
những giải pháp tăng thu nhập cho nông dân của Trung Quốc từ khi cải cách
mở cửa đến nay. Mặc dù vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên ở một chừng
mực nhất định đã phác hoạ ra bức tranh đa dạng về vấn đề thu nhập của nông

5
dân Trung Quốc, là những công trình khoa học đáng quý, có tác dụng gợi mở
lớn để tác giả kế thừa và phát triển trong quá trình thực hiện Luận văn tốt
nghiệp Thạc sĩ của mình.
- Tình hình nghiên cứu ở Trung Quốc:
Vấn đề tăng thu nhập cho nông dân do tầm quan trọng của nó đối với
sự phát triển kinh tế xã hội đã thu hút được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo,
quản lý cũng như nhiều nhà nghiên cứu khoa học Trung Quốc.
Những thảo luận học thuật của Trung Quốc về vấn đề thu nhập của
nông dân bắt đầu từ khoảng những năm 1993, 1994, và luôn là đề tài thu hút
nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt những năm đầu thế kỷ XXI, do
Trung ương ĐCS Trung Quốc ngày càng coi trọng vấn đề thu nhập của nông
dân, nó càng trở thành tiêu điểm nghiên cứu lí luận. Tổng quan các thảo luận
học thuật này, chủ yếu tập trung vào các phương diện: Một là, hình thức

biểu hiện chủ yếu của vấn đề thu nhập của nông dân; hai là, các nguyên
nhân cơ bản tạo nên vấn đề thu nhập của nông dân; ba là, kiến nghị đối sách
giải quyết vấn đề thu nhập của nông dân.
Về các hình thức biểu hiện chủ yếu của vấn đề thu nhập của nông dân,
các học giả tập trung phân tích theo 2 hướng đó là thu nhập của nông dân tăng
trưởng chậm chạp và tăng trưởng không ổn định như: Trương Húc Hồng
trong bài “Hiện trạng thu nhập nông dân nước ta (Trung Quốc) và đối sách
của nó” (2001) [33]; Cao Chí Anh, “Phân tích sự tăng trưởng không ổn định
trong thu nhập thuần bình quân đầu người gia đình nông thôn” (2001) [28];
GS. Cốc Nguyên Dương, “Tình trạng “tam nông” Trung Quốc: Thành tựu, vấn
đề và thách thức” (2007) [4]
Về các nguyên nhân cơ bản tạo nên vấn đề thu nhập của nông dân, các
tác giả Lưu Huệ, “Những suy nghĩ và kiến nghị về việc giải quyết vấn đề thu
nhập của nông dân”(1999) [34]; Mã Hiểu Hà, “Đẩy nhanh điều chỉnh kết cấu
nhị nguyên thành thị nông thôn, thúc đẩy tăng thu nhập cho nông dân” (2001)

6
[32] cho rằng các nhân tố gây ra vấn đề thu nhập của nông dân đó là những
sai lầm trong chính sách điều tiết vĩ mô cùng với những rào cản về chế độ như
sự phân tách giữa thành thị và nông thôn, ảnh hưởng của thể chế kinh tế kế
hoạch. Cũng đề cập đến các nguyên nhân khiến thu nhập của nông dân tăng
chậm, hai tác giả Trương Vi Đông, “Phân tích nhân tố quyết định tăng trưởng
thu nhập của nông dân” (1994) [31], Vương Vi Nông, “Con đường cơ bản để
tăng thu nhập cho nông dân” (2000) [38] cho rằng vấn đề thu nhập của nông
dân trên một chừng mực nhất định chịu sự quyết định của một số quy luật
kinh tế cơ bản đó là: quy luật giá cả cung cầu thị trường và định luật Enghen,
trong điều kiện kinh tế thị trường, giá cả nông sản do tình hình cung cầu quyết
định, kinh tế phát triển, cung và cầu đều tăng, nếu sự tăng trưởng lượng cung
vượt quá sự tăng trưởng lượng cầu thì sẽ làm cho giá cả giảm xuống, ảnh
hưởng đến thu nhập của nông dân

Để giải quyết vấn đề thu nhập của nông dân, các học giả cũng đưa ra
các kiến nghị: đẩy nhanh chuyển dịch sức lao động như Trần Tích Văn, “Thử
phân tích vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong giai đoạn mới”
(2001) [45], Trương Hiểu Sơn, “Tạo ra cơ hội việc làm, tăng thu nhập cho
nông dân” (2001) [39]; thúc đẩy đô thị hoá như Châu Thành, “Quan sát thu
nhập nông dân” (2001) [30], Khương Trường Vân, “Đô thị hoá và vấn đề “tam
nông””(2003) [44]; giảm nhẹ gánh nặng cho nông dân như Hàn Tuấn, “Suy
nghĩ về vấn đề tăng thu nhập cho nông dân” (2001) [37]. “Điều tra báo cáo
chính sách nông thôn Trung Quốc” (2007) của nhóm tác giả Hàn Tuấn, Tạ
Dương, Từ Tiểu Thanh [37], nêu rõ hiện nay Trung ương ĐCS Trung Quốc
coi giải quyết vấn đề “tam nông” là trọng tâm trong trọng tâm công tác của
Đảng, căn cứ theo yêu cầu trù tính chung phát triển thống nhất thành thị nông
thôn, kinh tế xã hội, lấy “công nghiệp quay lại phục vụ nông nghiệp, thành thị
lôi kéo nông thôn”, cùng với phương châm “cho nhiều, thu ít, làm sống
động” đã ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy sản xuất lương thực, giảm
nhẹ gánh nặng và tăng thu nhập cho nông dân, giúp cho nông nghiệp, nông

7
thôn có được những bước phát triển quan trọng. Tuy nhiên hiện nay tình hình
nông nghiệp, nông thôn và nông dân Trung Quốc vẫn còn nhiều bất cập, cơ sở
nông nghiệp còn lạc hậu, tăng trưởng thu nhập của nông dân còn chưa ổn
định, tình trạng tăng trưởng nhưng không phát triển chưa được giải quyết triệt
để, các chính sách trợ nông, huệ nông (hỗ trợ và ưu đãi cho nông nghiệp,
nông thôn, nông dân) còn chưa được chế độ hoá và qui phạm hoá, cơ chế
hiệu quả lâu dài “công nghiệp quay lại phục vụ nông nghiệp, thành thị lôi kéo
nông thôn” còn chưa được hình thành
Ngoài ra, trên các trang web của Trung Quốc cũng có rất nhiều bài viết
liên quan đến vấn đề tăng thu nhập cho nông dân, các học giả đều có những
kiến nghị lên Đảng và Nhà nước Trung Quốc sớm giải quyết vấn đề tam nông
nói chung, tăng thu nhập cho nông dân nói riêng, đồng thời họ cũng đề ra

nhiều giải pháp nhằm thực hiện những kiến nghị đó.
Nhìn chung, xung quanh vấn đề tăng thu nhập cho nông dân, các công
trình nghiên cứu khoa học đã khá đầy đủ về số lượng và nộng dung, đã phần
nào cho thấy những nét khái quát và diễn biến cơ bản của quá trình tăng thu
nhập cho nông dân của Trung Quốc từ khi nước này tiến hành cải cách mở
cửa năm 1978 đến nay. Tuy nhiên chưa có một công trình mô tả, phân tích và
đánh giá một cách toàn diện, có hệ thống về các giải pháp tăng thu nhập của
Trung Quốc sau 30 năm cải cách mở cửa.
3. Cách tiếp cận
Xuất phát từ thực trạng nghiên cứu về vấn đề “tăng thu nhập cho nông
dân” nêu trên, Luận văn đưa ra cách tiếp cận riêng. Đó là tiếp cận theo cách
đặt vấn đề thu nhập của người nông dân Trung Quốc trong tổng thể các chính
sách giải quyết vấn đề “tam nông” của Đảng và Chính phủ Trung Quốc. Đồng
thời để bổ sung cho thiếu sót của những nghiên cứu trên, Luận văn sẽ phân
tích đánh giá một cách hệ thống các giải pháp tăng thu nhập cho người nông

8
dân Trung Quốc tuần tự theo tiến trình thời gian từ khi Trung Quốc thực hiện
cải cách mở cửa năm 1978 đến nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Tình hình thu nhập và các giải pháp tăng thu nhập cho người nông
dân của Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa đến nay. Trong đó nông dân được
hiểu là những người có hộ khẩu ở nông thôn, bao gồm cả người nông dân làm
công.
- Phạm vi nghiên cứu: là Trung Quốc đại lục, không bao gồm các vùng
lãnh thổ Hồng Kông, Đài Loan, Ma Cao.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
- Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp thống kê, so sánh, qui
nạp, diễn dịch, phân tích và tổng hợp tài liệu đã có.

- Nguồn tư liệu: Do điều kiện không cho phép đi thực tế, tiến hành điều
tra khảo sát, vì thế nguồn tư liệu được sử dụng là các văn kiện của Đảng và
Nhà nước Trung Quốc. Ngoài ra Luận văn cũng tham khảo và kế thừa những
tài liệu từ sách, báo, tạp chí, một số trang web, báo điện tử của Việt Nam và
Trung Quốc.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
Luận văn bao gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Đặc thù và sự cần thiết của vấn đề tăng thu nhập cho
nông dân ở Trung Quốc
Chƣơng 2: Một số giải pháp cơ bản thúc đẩy tăng thu nhập cho
nông dân ở Trung Quốc
Chƣơng 3: Nhận xét về các giải pháp tăng thu nhập cho nông dân

9
của Trung Quốc và một số gợi mở cho Việt Nam


CHƢƠNG 1: ĐẶC THÙ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VẤN ĐỀ
TĂNG THU NHẬP CHO NÔNG DÂN Ở TRUNG QUỐC

1.1. Một số khái niệm và đặc thù vấn đề thu nhập của nông dân
Trung Quốc
I.1.1. Một số khái niệm liên quan
Do thu nhập là nhân tố phản ánh toàn diện hoạt động kinh doanh sản
xuất của nông dân, vì vậy, để phản ánh chính xác hoạt động kinh doanh sản
xuất của nông dân, trong điều tra và phân tích,ở Trung Quốc người ta đưa ra
tương đối nhiều khái niệm như: tổng thu nhập, thu nhập thuần, thu nhập tiền
mặt, thu nhập hiện vật, thu nhập mang tính tài sản, thu nhập mang tính tiền
lương, thu nhập mang tính chuyển dịch….

- Tổng thu nhập: là tổng toàn bộ các nguồn thu nhập trong giai đoạn
được điều tra, trong đó chưa bao gồm phần chi phí sản xuất và chi tiêu sinh
hoạt. Phân chia theo tính chất nguồn thu nhập, tổng thu nhập bao gồm : thu
nhập mang tính tiền lương (thu nhập từ tiền công lao động), tổng thu nhập
kinh doanh gia đình, thu nhập mang tính tài sản và thu nhập mang tính chuyển
dịch. Phân chia theo hình thức thu nhập, tổng thu nhập bao gồm 2 bộ phận:
tổng thu nhập hiện vật và tổng thu nhập tiền mặt.
- Thu nhập thuần: khái niệm về thu nhập thuần được dùng đầu tiên
trong thống kê “phân phối lợi tức kinh tế nông thôn” thời kỳ “công xã nhân
dân”. Trong thống kê phân phối lợi tức, “thu nhập thuần” chỉ phần còn dư lại
sau khi lấy tổng thu nhập kinh tế nông thôn trừ đi các khoản chi phí khác,

10
phần còn dư lại còn được gọi là “lợi tức”. “Thu nhập thuần” căn cứ theo các
quy định có liên quan của nhà nước để phân chia cho nhà nước, tập thể và cá
nhân. Phần phân phối cho cá nhân được gọi là “thu nhập cư dân nông thôn”,
tức là phần dư lại sau khi lấy thu nhập thuần kinh tế nông thôn năm đó trừ đi
phần thu thuế cho nhà nước và nộp lại cho tập thể. “Thu nhập thuần bình
quân đầu người của nông dân” là bình quân thu nhập cư dân nông thôn trên
tổng dân số nông thôn. Xét theo góc độ phân phối thu nhập, “thu nhập thuần
bình quân đầu người của nông dân” chính là thu nhập lần đầu mà người nông
dân có được [86].
Khái niệm “thu nhập thuần” trong thời kỳ đầu đồng nhất với khái niệm
“phân phối lợi tức kinh tế nông thôn” trong thống kê, cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường XHCN và sự điều chỉnh chính sách phân phối thu
nhập, cách đánh giá chỉ tiêu “thu nhập thuần” cũng có sự điều chỉnh, chủ yếu
bao gồm phần thu nhập tái phân phối. Hiện nay khái niệm “thu nhập thuần” là
chỉ tổng thu nhập mà cư dân nông thôn thu được từ các kênh thu nhập trong
năm đó, tương ứng với thu nhập có được sau khi lấy tổng nguồn thu trừ đi
những khoản chi phí phát sinh. “Thu nhập thuần bình quân đầu người nông

dân” là “thu nhập thuần nông dân” bình quân dân số nông thôn.
Cách tính “thu nhập thuần bình quân đầu người” là :
Thu nhập thuần bình quân đầu người = (Tổng thu nhập gia đình của
dân nông thôn – Chi phí kinh doanh gia đình – Khấu hao tài sản cố định dùng
trong sản xuất – Tiền thuế và chi phí thuê khoán nộp lên trên – Trợ cấp theo
điều tra)/ Nhân khẩu thường trú của gia đình cư dân nông thôn [86].
- Thu nhập mang tính tiền lương: là thu nhập mà hộ gia đình hoặc
thành viên của hộ gia đình nông thôn thu được dựa vào việc bán sức lao động
cho đơn vị hoặc cá nhân thuê lao động. Phân theo tính chất nguồn thu nhập
chia thành thu nhập có được do lao động trong các tổ chức phi doanh nghiệp
(như thu nhập của cán bộ, giáo viên), thu nhập có được do lao động trong các

11
xí nghiệp tại địa phương, thu nhập do làm thuê ở bên ngoài địa phương và thu
nhập có được do lao động ở các đơn vị khác.
- Tổng thu nhập kinh doanh gia đình: là thu nhập mà hộ gia đình ở
nông thôn có được do việc tiến hành quản lý và lên kế hoạch sản xuất lấy gia
đình làm đơn vị kinh doanh sản xuất. Thu nhập kinh doanh gia đình có thể
chia thành thu nhập từ nông nghiệp, thu nhập lâm nghiệp, thu nhập từ ngành
chăn nuôi… (tổng cộng phân thành 10 ngành nghề).
- Thu nhập mang tính tài sản: là thu nhập có được từ những động sản
(như tiền gửi ngân hàng, chứng khoán có giá trị…) và bất động sản (như nhà
đất, xe cộ…). Nó bao gồm các khoản lợi tức, tiền cho thuê, tiền lãi từ việc
nhượng lại quyền sử dụng tài sản; tiền lãi, cổ tức, lợi nhuận có được từ việc
kinh doanh tài sản.
- Thu nhập mang tính chuyển dịch: chỉ những hàng hoá, dịch vụ, tiền
hoặc quyền sở hữu tài sản mà hộ gia đình và thành viên hộ gia đình nông thôn
có được mà không cần bỏ ra bất cứ thứ gì tương ứng. Ví dụ như tiền lương
hưu, tiền trợ cấp thất nghiệp, các khoản phúc lợi xã hội…
- Thu nhập tiền mặt: là thu nhập dưới hình thức tiền mặt của hộ gia

định và thành viên của hộ gia đình trong khoảng thời gian được điều tra.
- Thu nhập hiện vật: chỉ tổng sản lượng các loại nông sản mà hộ gia đình
nông dân sản xuất ra trong năm đó trừ đi phần đã bán ra, được tính theo giá
nhất định.
- Thu nhập thuần kinh doanh gia đình: là thu nhập sau khi lấy tổng thu
nhập kinh doanh gia đình.
Các khái niệm nêu trên được sử dụng nhiều trong chương 3 của Luận
văn, đó là những chỉ số phản ánh sự thay đổi mức tăng trưởng thu nhập của
nông dân, từ đó tác giả Luận văn sẽ đưa ra những nhận xét và đánh giá về
những thay đổi đó.

12
1.1.2. Đặc thù vấn đề thu nhập của nông dân Trung Quốc
Vấn đề thu nhập của nông dân Trung Quốc có đặc thù riêng, khác so
với phương Tây. Sở dĩ nói như vậy là do nông dân Trung Quốc là một quần
thể có đặc thù khác với khái niệm nông dân của các quốc gia phương Tây.
Trong nghiên cứu kinh tế học phương Tây, khái niệm về nông dân là một
quần thể xã hội được cấu thành từ nhiều mối quan hệ lợi ích khác nhau,
trong đó bao gồm người sở hữu ruộng đất (địa chủ), chủ nông trường, người
nông dân làm thuê, người nông dân tự cấy cày trên ruộng đất của mình và
người nông dân bán canh (tức là bên cạnh cấy cày trên ruộng đất của mình
họ còn đi làm thuê) [40,29]. Nguồn thu nhập chủ yếu của họ vì vậy cũng
không giống nhau. Trong đó, nguồn thu nhập chủ yếu của địa chủ là cho
thuê ruộng đất, nguồn thu nhập chủ yếu của chủ nông trường đó là lợi nhuận
kinh doanh, nguồn thu nhập chủ yếu của người làm thuê nông nghiệp đó là
tiền lương, còn nguồn thu nhập của người nông dân tự canh và bán tự canh
là tổ hợp của các nguồn thu nhập nói trên.
Chính vì nguồn thu nhập không giống nhau, dẫn đến những nhân tố
ảnh hưởng đến thu nhập cũng không giống nhau. Nhân tố ảnh hưởng đến
thu nhập của địa chủ là giá thành ruộng đất, mức lợi tức tiền vốn ruộng đất,

mối quan hệ cung cầu ruộng đất, mức giá thuê ruộng đất trung bình tại địa
phương và điều kiện khế ước thuê mướn ruộng đất giữa người sở hữu
ruộng đất và chủ nông trường. Nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của chủ
nông trường đó là giá thành chi phí của các yếu tố đầu tư (như tiền thuê
mướn ruộng đất, tiền lãi vốn vay, tiền lương thuê lao động và giá cả các
yếu tố đầu tư khác), sức sản xuất ruộng đất, hiệu quả của các yếu tố đầu tư,
giá cả nông sản và kết cấu cạnh tranh thị trường v.v… Những nhân tố ảnh
hưởng đến thu nhập của người lao động nông nghiệp bao gồm giá thành
sức lao động, mối quan hệ cung cầu sức lao động, mức tiền lương bình
quân và điều kiện khế ước thuê mướn lao động. Ngoài ra những nhân tố

13
như chính sách thuế, chính sách trợ cấp, chính sách về lãi suất ngân hàng
đều là những nhân tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến thu nhập của các nhóm
nông dân khác nhau.
Trong các nghiên cứu về nông dân ở phương Tây, những người nông
dân được nói đến chủ yếu là những chủ nông trường, vì vậy vấn đề thu
nhập của nông dân phương Tây được họ quan tâm chủ yếu là vấn đề thu
nhập của chủ nông trường. Còn trong số những nhân tố ảnh hưởng đến thu
nhập của chủ nông trường, nhân tố quan trọng nhất đó là giá cả nông sản và
quy mô nông trường. Vì thế, trong kinh tế học phương Tây, các thảo luận
về các vấn đề có liên quan đến giá cả nông sản và quy mô nông trường
được hiểu đồng nghĩa với thảo luận vấn đề có liên quan đến thu nhập của
nông dân.
Khác với phương Tây, nông dân Trung Quốc không phải chỉ là khái
niệm về một nhóm người làm nghề nông nghiệp, mà là khái niệm về một
quần thể xã hội đối lập với cư dân thành thị [40,30]. Vì vậy, thu nhập của
nông dân Trung Quốc, không chỉ bao gồm thu nhập nông nghiệp, mà còn
bao gồm cả thu nhập phi nông nghiệp. Do đó khác với phương Tây, một
trong những con đường cơ bản để tăng thu nhập cho nông dân, bên cạnh việc

tăng nguồn thu nhập từ kinh doanh, sản xuất nông nghiệp, Trung Quốc cũng
tìm mọi cách để tăng nguồn thu nhập từ các ngành nghề phi nông nghiệp.
Ngoài ra, nông dân Trung Quốc không có ranh giới giữa người có sở
hữu ruộng đất, chủ nông trường và người làm công nông nghiệp. Ở Trung
Quốc, quyền sở hữu ruộng đất được qui về sở hữu thập thể, nông dân chỉ có
quyền kinh doanh thuê khoán ruộng đất. Đồng thời, đại đa số nông dân Trung
Quốc, vừa là người kinh doanh thuê khoán ruộng đất, lại vừa là người lao
động cày cấy nông nghiệp. Vì vậy, thu nhập nông nghiệp của nông dân Trung
Quốc thường không bao gồm thu nhập từ cho thuê ruộng đất (ngược lại họ
phải chi trả thuê khoán ruộng đất), nhưng cũng bao gồm hai bộ phận là lợi

×