Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Giải pháp tăng thu nhập tăng lợi nhuận tại Công ty TNHH Thương Mại Ngọc Thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.23 KB, 59 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt nam từ sau đại hội Đảng lần thứ IV đã có nhiều
thay đổi nhanh chóng, chuyển hướng nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Dưới sự
quản lý vĩ mô của nhà n nước. Sự chuyển hướng nền kinh tế là n một tất yếu
khách quan, nhưng nó cũng đặt ra nhiều khó khăn thử thách với nền kinh tế
Việt Nam nói chung và n hà nng ngà nn các doanh nghi ệp nước ta nói riêng.
Hồ n nhập nền kinh tế nước ta và no nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp
kể cả doanh nghiệp nhà n nứơc và n doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong
nền kinh tế đều phải thay đổi mục tiêu lợi nhuận.Một doanh nghiệp muốn
tồn tại và n phát triển thì hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi, lãi là n
mục tiêu cuối cùng mà n các doanh nghiệp cần hướng tới. Hoạt động sản
xuất kinh doanh được coi là n có lãi (có hiệu quả kinh tế) khi thu nhập khi
thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh phải lớn hơn tổng chi phí
mà n doanh nghiệp bỏ ra. Có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể mở rộng
quy mô sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín
thương mại, lợi nhuận và n góp phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao
đời sống cán bộ công nhan viên, là n động lực trực tiếp thúc đẩy, khuyến
khích tinh thần lao động hăng say, góp phần nâng cao năng suất lao động
ngồ ni ra đảm bảo khả năng thanh toán với nhà n nước và n các đơn vị kinh tế
khác, góp phần quan trọng để tái thiết nền kinh tế quốc dân thơng qua việc
đóng góp và no ngân sách nhà n nước.
Như vậy lợi nhuận là động lực, là mục tiêu hàng đầu, là đích cuối cùng
mà doanh nghiệp phải hướng tới, nhằm đảm bảo sự sinh tồn, phát triển và
thịnh vượng của mình.

1


Mặt khác, lợi nhuận được tạo ra là kết quả tổng hợp của các hoạt động
sản xuất kinh doanh cả doanh nghiệp, là kết quả của việc kết hợp hài hồ giữa


các khâu, các cơng đoạn, các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, là sản
phẩm của sự tìm tịi và sáng tạo, mạo hiểm, linh hoạt của các nhà quản trị. Nó
địi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp phải có sự phát triển tồn diện khả năng
tư duy, nhạy bén và năng động.
Vì vậy đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về lợi nhuận giúp chúng ta có cái
nhìn tồ nn diện hơn về các hoạt động của doanh nghiệp về quản trị kinh
doanh và n đặc biệt là n giá trị tà ni chính sao cho đem lại hiệu quả cao nhất.
Hoạt đơng sao cho có hiêu quả và tìm mọi biện pháp nhằm tăng lợi
nhuận luôn là vấn đề bức bách của các doanh nghiệp. Xuất phát từ suy nghĩ
trên và sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo – Tiến sĩ Võ Duy Hào và các cô chú
trong ban giám đốc công ty TNHH Thương mại Ngọc Thanh. Em đã chọn đề
tài “ Giải pháp tăng thu nhập tăng lợi nhuận tại Công ty TNHH Thương Mại
Ngọc Thanh”. đay là kết quả của quá trình nghiên cứu nghiên cứu và vận
dụng lý luận vào tìm hiểu thực trạng lợi nhuận của cơng ty. Em hi vọng rằng
các giải pháp này là những ý kiến đóng góp nhỏ bé của em góp phần trong
việc tăng lợi nhuận của công ty.
Nội dung của luận văn này được trình bày làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường.
Chương II: Tình hình lợi nhuận và các biện pháp tăng lợi nhuận ở
công ty TNHH Thương mại Ngọc Thanh.
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng thu nhập, tăng lợi nhuận ở
công ty TNHH Thương mại Ngọc Thanh.

2


Trong bài chuyên đề này không tránh khỏi một số sai sót nhất định, em
rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của các thầy cơ giáo, của các cô
chú trong ban giám đốc công ty.


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

I- VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆPTRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG

1. Khái niệm và ngu nguồn gốc của lợi nhuận:
Trước khi nghlên cứu, tìm hiểu nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận ta
phải tìm hiều lợi nhuận là gì?
1.1. Khái niệm lợi nhuận:
Lợi nhuận là một khái niệm tưởng chừng đơn giản nhưng lại phức tạp.
Nói một cách ước lệ tổng thu được từ các hoạt động sản xuất kinh đoanh trừ
đi tổng chi phí cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đó gọi là lợi
nhuận. Cách hiểu như vậy thật đơn giản. Nhưng bản thân khái niệm và trong
thực tế hình thành nên 1ãi suất không đơn giản chút nào. Khái niệm lợi nhuận
là khái niệm mục đích, là khái niệm trọng tâm và là khái niệm phức tạp nhất
của kinh doanh. Lợi nhuận chủ yếu là thông qua kinh doanh, nhưng ở mức độ
nào đó lợi nhuận cũng có thể khơng phải từ kinh doanh mà ra; nhưng đó là để
chỉ tính trực tiếp hoặc gián tiếp, còn trong tổng thể xã hội thì lợi nhuận chủ
yếu được sinh ra trong kinh doanh.
Khái niệm lợi nhuận khá phức tạp, để có một khái niệm lợi nhuận như
ngày nay chính là sự đấu tranh, nghiên cứu giữa các nhà kinh tế học qua các

3


thời đại. Bởi vậy khi xem xét đánh giá ở các góc độ khác nhau, các thời đại
khác nhau mà mỗi nhà kinh tế lại có một cách hiểu khác nhau.

Từ xa xưa các nhà kinh tế học cổ điển trước Mác khi nhìn nhận lợi
nhuận họ đều cho rằng '' cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản
xuất'' là lợi nhuận. Họ chưa hiểu được nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận
được sinh ra từ đâu, mà họ chỉ hiểu được về mặt lượng, chưa hiểu được về
mặt chất của 1ợi nhuận.
- Theo C. Mác, người có một cái nhìn tinh tế hơn về lợi nhuận dưới góc
độ khoa học hơn, ''thì lợi nhuận được hiểu'' là giá trị thặng dư hay cái phần
trội 1ên trong tồn bộ giá trị của hàng hố, trong đó lao động thặng dư hay
1ao động khơng được trả lương của cơng nhân đã được vật hố. Ơng đã nhìn
lợi nhuận, hiểu được nguồn gốc cũng như bản chất của lợi nhuận.
- Các nhà kinh tế học hiện đại như Samuesdson và V.D.Nordhous cho
rằng ''Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra bằng tổng thu về trừ đi tổng chi
ra" hay cụ thể hơn "Lợi nhuận được định nghĩa 1à sự chênh lệch giữa tổng thu
nhập của doanh nghiệp và tổng chi phí".
- Theo David Begg, Ftaniey Fisher và RudigewDoven Bush thì "Lợi
nhuận là lượng dơi ra của doanh thu so với chi phí".
Đối với nước ta hiện nay đứng trên góc độ đoanh nghiệp có thể thấy
rằng lợi nhuận của quá trình kinh doanh là khơản tiền chênh lệch giữa thu
nhập và chi phí mà đoanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập đó từ các hoạt
động của doanh nghiệp đưa lại trong khuôn khổ pháp luật quy định.
Như vậy đứng về mặt lượng mà xét, thì tất cả các định nghĩa trên đều
thống nhất ở một quan điểm "Lợi nhuận là số thu dôi ra so với số chi phí bỏ ra".
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh
doanh, 1à chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.

4


1.2. Nguồn gốc của lợi nhuận:

Các nhà kinh tế học thuộc nhiều trường phái khác nhau đã đưa ra nhiều
ý kiến tranh luận khác nhau về nguồn gốc của lợi nhuận ở các góc độ và quan
điểm riêng của họ.
- Theo phái trọng thương họ cho rằng ''Lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh
vực lưu thông".
- Theo phái trọng nông mà đại biểu nổi tiếng là Kênê lại cho rằng ''Giá
trị thặng dư hay sản phẩm thuần túy là quà tặng vật chất của thiên nhiên và
ngành nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm thuần tuý".
- Theo phái cổ điển, nổi tiếng như Adam Smith là người đầu tiên tuyên
bố rằng "lao động là nguồn gốc sinh ra giá trị và giá trị thặng dư'' và chính
ơng lại khẳng định "Giá trị thặng dư bao gồm tiền cơng, lợi nhuận và địa tơ".
Cịn David Ricarddo thì 1ại cho rằng ''Giá trị do lao động của công nhân tạo
ra là nguồn gốc sinh ra tiền lương cũng như 1ợi nhuận và địa tô". Như vậy cả
Smith và Ricarđđo đều nhầm lẫn giữa giá trị thặng dư với lợi nhuận.
Kế thừa những gì tinh tế nhất do các nhà kinh tế học tư sản để lại, kết
hợp với việc nghiên cứu sâu sắc nền kinh tế sản xuất tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt 1à nhờ có lý luận vơ giá về giá trị hàng hoá sức lao động nên C. Mác đã
đưa ra một số kết luận một cách đứng đắn và khoa học: ông cho rằng "Giá trị
thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, như vậy
mang hình thái biến tướng là lợi nhuận thuần tuý".
Dựa vào lý luận về lợi nhuận của C.Mác, kinh tế học hiện đại đã phân
tích khá sâu sắc về nguồn 1ợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận ln là
mục tiêu, 1à cái đích mà các nhà doanh nghiệp phải có chiến lược và mục tiêu
cụ thể trong từng giai đoạn cụ thể. Doanh nghiệp nào cũng luôn hướng tới
làm sao thu được lợi nhuận cao nhất nếu có thể trong điều kiện cho phép. Do
vậy địi hỏi các doanh nghiệp phải biết nhìn nhận mình, phải nhìn thấy những

5



cơ hội mà người khác bỏ qua, phải ln có chiến lược chính sách nghiên cứu
phát hiện ra sản phẩm mới, tìm ra phương pháp sản xuất mới tốt hơn để có chi
phí thấp nhất hoặc phải liều lĩnh mạo hiểm. Nói chung tiến hành tốt tất cả các
hoạt động, các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhằm tối thiểu hố
chi phí, tối đa hóa lợi nhuận, chính là góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng thực tế lợi nhuận kinh tế còn được xem
như một phần thưởng dành cho các doanh nghiệp có khả năng và sẵn sàng
tiến hành các hoạt động sáng tạo, đổi mới và mạo hiểm để tổ chức kinh doanh
những thứ mà thị trường cần và đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
Ngoài ra, cũng có những doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao hơn nhờ kiểm
sơát, tổ chức và quản lý tốt các quá trình, các sản phẩm hoặc các thị trường
đặc biệt, tình hình về một loại hàng hố và dịch vụ thuộc thế mạnh của hãng.
Như vậy nguồn gốc của lợi nhuận trong doanh nghiệp bao gồm:
- Thu nhập mặc nhiên của các nguồn 1ực mà các doanh nghiệp đã đầu
tư kinh doanh;
- Phần thưởng cho sự mạo hiểm, sáng tạo đổi mới trong doanh nghiệp
- Thu nhập độc quyền.
2. Vai trò của lợi nhuận trong doanh nghiệp
Các doanh nghiệp tiến hành hàng loạt các hoạt động sản xuất kinh
doanh là để kiếm lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục
tiêu của kinh doanh, là thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh đoanh, là
động 1ực kinh tế thúc đẩy các đoanh nghiệp cũng như mỗi người lao động
không ngừng sử đụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất,
chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Để tiến hành hoạt
động kinh doanh, cung cấp hàng hoá địch vụ đáp ứng nhu cầu của thị trường
và người tiêu dùng thì nhà sản xuất phải bỏ ra những chi phí nhất định để
phục vụ cho quá trình kinh doanh. Họ phải thuê đất đai, lao động và tiền vốn

6



để mua các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh hàng hố dịch vụ. Họ mong
muốn hàng hóa dịch vụ của họ được mua với giá ít nhất là đủ để bù đắp lại
phần chi phí mà họ bỏ ra, có nghĩa là giá bán thấp nhất là tại điểm hoà vốn.
Ngoài ra người sản xuất kinh doanh nào mà chẳng muốn có phần thừa ra để
mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, nộp thuế, trả cổ tức, thưởng cho
các nhà quản lý, cho công nhân viên và cho cổ động. Ngược lại khi tiến hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh mà khơng có lợi nhuận thì họ cũng khơng
sẵn sàng cung cấp hàng hố, dịch vụ cho thị trường và người tiêu dùng như họ
mong muốn. Do đó lợi nhuận đóng một vai trị khá quan trong đối với tất cả
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Trong mỗi
giai đoạn khác nhau, trong từng điều kiện cụ thể của từng đoanh nghiệp mà
đặt ra mục tiêu lợi nhuận khác nhau, nhưng cuối cùng đều hướng tới mục tiêu
đó là lợi nhuận. Chính vì vậy động cơ lợi nhuận là một bộ phận hợp thành
quyết định tạo ra sự thắng lợi của thị trường sản phẩm.
Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả của quy
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kể từ khi bắt đầu tìm kiếm nhu
cầu thị trường, nghiên cứu thị trường, phân đoạn thị trường, cho đến khi
chuẩn bị sản xuất kinh doanh, tổ chức bán hàng hoá, dịch vụ theo giá cả thị
trường. Nó phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh.
Kinh doanh tốt sẽ cho lợi nhuận nhiều; khi có 1ợi nhuận nhiều sẽ tạo khả
năng tái đầu tư, tái sản xuất mở rộng, phát triển quy mô sản xuất kinh doanh
cả về chiều rộng và chiều sâu, tiếp tục phát triển q trình sản xuất có hiệu
quả cao hơn.
Ngược 1ại, làm ăn kém tất yếu sẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản. Vì vậy có
thể nói lợi nhuận tối đa là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh
đoanh của mọi doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạnh
tranh khắc nghiệt. Muốn tồn tại và phát triển được thì hoạt động sản xuất kinh
doanh phải có lợi nhuận, có nghĩa là phải sinh lời.


7


Lợi nhuận của doanh nghiệp 1à bộ phận quan trọng của thu nhập thuần
tuý của doanh nghiệp, là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước và 1à
cơ sở để tăng thu nhập quốc dân của mỗi nước. Như vậy ở khía cạnh này ta
lại thấy được vai trị của lợi nhuận không những quan trọng đối với bản thân
doanh nghiệp- có lợi nhuận thì mới tái sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất,
phát triển đầu tư máy móc thiết bị, cơng nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, để
luôn tạo ra được sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu, cũng như thị hiếu của người
tiêu dùng, tăng sức cạnh tranh, tạo uy tín thương mại, đồng thời bổ sung các
nguồn quỹ phúc lợi khen thưởng, quỹ nguồn vốn kinh doanh, nâng cao đời
sống của người lao động- mà nó cịn giữ vai trị quan trọng đối với xã hội. Lợi
nhuận góp phần vào việc nộp thuế thu nhập cho ngân sách nhà nước thông
qua việc doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, là nguồn tích luỹ cơ
bản để phát triển nền kinh tế xã hội.
Lợi nhuận của doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu kinh
tế kỹ thuật khác như chỉ tiêu về đầu tư, sản xuất, sử dụng các đầu vào, chỉ tiêu
chi phí và giá thành, chỉ tiêu các đầu ra và các chính sách tài chính quốc gia. ..
Trong những năm vừa qua từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần dưới sự quản lý
vĩ mơ của Nhà nước, môi trường hoạt động của các doanh nghiệp có nhiều
thay đổi. Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách, chủ chương nhằm tạo hành
lang pháp lý, tạo sân chơi bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh. Nhà nước đã buộc các doanh nghiệp thực hiện nguyên tắc hạch
toán kinh tế độc lập, lấy thu bù chi và có lãi theo chế độ chính sách và pháp
luật hiện hành. Thực tế cho thấy khi chuyển đổi nền kinh tế, có rất nhiều
doanh nghiệp đã năng động, linh hoạt, kịp thời thích nghi với điều kiện mơi
trường kinh doanh mới, tự khẳng định mình và đứng vững trong nền kinh tế
thị trường cạnh tranh khốc liệt. Các doanh nghiệp này luôn quan tâm đến hiệu

quả sản xuất, tìm kiếm lợi nhuận ngạch, lấy lợi nhuận làm mục tiêu và động

8


lực cho sự tồn tại và phát triển của mình. Ngược lại có nhiều các doanh
nghiệp từ nhỏ đến lớn biến mất trọng cuộc cạnh tranh trên thương trường do
không tìm được phương án sản xuất kinh doanh đầu tư thích hợp, khơng có
hiệu quả, lúng túng trong việc tháo gỡ khó khăn, khó thích nghi với cơ chế thị
trường, do ảnh hưởng nhiều của phong cách kinh đoanh cũ, tâm lý ỷ 1ại,
trông chờ vào Nhà nước, kém năng động, linh hoạt trước những biến đổi của
thị trường. Hậu quả làm cho các doanh nghiệp này làm ăn kém hiệu quả, thua
lỗ kéo dài triền miên, thậm chí cờn đẫn đến phải ngừng sản xuất, giải thể
doanh nghiệp. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho xã hội- người lao động
khơng có việc 1àm, đời sống gặp nhiều khó khăn nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội.
Như vậy trong điều kiện hiện nay đối với các doanh nghiệp vấn đề lợi
nhuận không chỉ là mục tiêu hàng đầu mà còn là điều kiện quyết định sự tồn
tại, phát triển của doanh nghiệp mà là cơ sở phát triển nền kinh tế xã hội.
3. Kết cấu của lợi nhuận trong doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát
triển, tối đa hoá lợi nhuận thì các doanh nghiệp khơng chỉ tiến hành sản xuất
kinh doanh một loại hàng hoá nhất định mà các doanh nghiệp ln đa dạng
hố các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều đó có nghĩa là hoạt
động của các doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng. Các doanh nghiệp
không chỉ tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các loại hàng hoá, dịch vụ
theo đúng ngành nghề kinh doanh mà với nguồn vốn có hạn doanh nghiệp
phải sử dụng tối đa nguồn vốn và đem lại hiệu quả cao nhất. Vì thế mà các
doanh nghiệp cịn tiến hành nhiều hoạt động khác mang tính chất khơng
thường xun và khơng chủ yếu. Đó là các hoạt động tài chính và các hoạt
động bất thường. Để xác định được hiệu quả của từng hoạt động, doanh

nghiệp phải xác định được các chỉ tiêu thu nhập và chi phí của từng mảng

9


tương ứng. Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ 1à tổng của các bộ phận lợi
nhuận theo từng mảng hoạt động.
Lợi nhuận của doanh nghiệp thường được cấu thành bởi ba bộ phận lợi
nhuận sau đây:
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh đoanh.
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
- Lợi nhuận bất thường.
Tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng 1ợi nhuận doanh nghiệp
có sự khác nhau glữạ các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kmh doanh khác
nhau và thuộc môi trường kinh tế khác nhau. Điều này được thể hiện như sau:
Thứ nhất: Cơ cấu 1ợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh thông
thường khác với doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, tín dụng,
ngân hàng. Với các doanh nghiệp thơng thường hoạt động tài chính tách biệt
với hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong cơ cấu của lợi nhuận doanh nghiệp
thông thường thì lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là bộ phận lợi
nhuận chiếm tỷ trọng lớn trong tồn bộ lợi nhuận. Khác với các doanh nghiệp
thơng thường thì các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính, tín dụng
ngân hàng chỉ gồm hai bộ phận lợi nhuận- đó là lợi nhuận từ hoạt động tài
chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. ở các doanh nghiệp này hoạt
động tài chính cũng là hoạt động tái sản xuất kinh đoanh của họ, bởi lẽ họ
thực hiện chức năng kinh doanh mặt hàng đặc biệt- kinh doanh tiền tệ.
Thứ hai: Trong môi trường kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp cùng
loại có sự khác biệt về tỷ trọng trong các bộ phận 1ợi nhuận trong tổng lợi
nhuận của mình. Điều này phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế
thị trường, hay môi trường kinh doanh của đoanh nghiệp. Mặt khác nó cịn

biểu hiện ở chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp hoạt động theo phạm vi
ngành nghề hoạt động của mình hay khơng, có đủ uy tín cũng như nguồn vốn
10


để đầu tư vào từng lĩnh vực hay không. Những lĩnh vực khác nhau đem lại
hiệu quả sẽ dẫn đến cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp khác nhau.
Nhưng trong nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao với thị
trường vốn phát triển ở trình độ cao và hồn chỉnh, các hoạt động tài chính
năng động, hiệu quả thì hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng sẽ phát
triển với các hoạt động đa dạng về đầu tư tài chính. Khi đó lợi nhuận đem lại
từ hoạt động tài chính sẽ chiếm tỷ trọng đáng kể khơng kém gì lợi nhuận đem
lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại trong một nền kinh tế thị
trường phát triển ở trình độ thấp, thị trường vốn chưa phát triển hồn hảo,
hoạt động của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán chưa hơàn thiện,
chưa phát triển và phổ biến trong các doanh nghiệp thì mảng hoạt động tài
chính trong doanh nghiệp cịn hạn chế. Doanh nghiệp khơng có cơ hội đầu tư
tài chính, thậm chí khơng có khả năng về vốn để thực hiện các hoạt động đầu
tư tài chính đó.
Trong trường hợp này, 1ợi nhuận hoạt động kinh doanh 1uôn từ hoạt
động sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quyết định đến tính hiệu quả trong hoạt
động của tồn doanh nghiệp.
Tóm lại, cơ cấu lợi nhuận của dơanh nghiệp thông thường được cấu
thành từ ba bộ phận 1ợi nhuận bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, từ
hoạt động tài chính và từ hoạt động bất thường.
Nhưng nhìn chung lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh (đối với
các ngân hàng tổ chức tín dụng là lợi nhuận từ hoạt động tài chính) ln ln
chiếm một tỷ trọng 1ớn và có ý nghĩa quyết định trơng tổng 1ợi nhuận doanh
nghiệp.
Về nguyên tắc, khi phân tích lợi nhuận của đoanh nghiệp, chúng ta phải

phân tích một cách chính xác khách quan từng bộ phận cấu thành 1ợi nhuận
của doanh nghiệp, từ đó mới đánh giá một cách chính xác tình hình tăng giảm

11


1ợi nhuận của công ty trong từng mảng, lĩnh vực kinh doanh, đồng thời mới
thấy được các nhân tố ảnh hưởng tới 1ợi nhuận của doanh nghiệp; giúp nhà
doanh nghiệp đánh giá được tình hình sử dụng vốn cũng như hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp vào lĩnh vực nào là có hiệu quả nhất, lĩnh vực nào
nên đầu tư mở rộng hay không nên đầu tư để tối đa hố lợi nhuận. Nhưng
trong điều kiện đặc thù, đơi khi nguyên tắc đó có thể bị phá vỡ. Điều kiện đó
1à phân tích lợi nhuận thực hiện với doanh nghiệp kinh doanh thông thường
trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp thì hoạt động của
doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính cịn rất hạn chế, cũng như ở phạm vi
hẹp với lợi nhuận ít. Cịn lợi nhuận ở hoạt động bất thường thì ít quan trọng,
giống như bản chất của nó. Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động chủ
đạo, lợi nhuận hoạt động kinh doanh là lợi nhuận cơ bản của doanh nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn, cấu thành của lợi nhuận, là nguồn thu nhập chủ yếu của
doanh nghiệp. Trong điều kiện đó, sẽ thiết thực khi tiến hành phân tích lợi
nhuận doanh nghiệp chủ yếu dựa trên bộ phận 1ợi nhuận kinh doanh nhằm
tìm ra giải pháp tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Đó chính là một 1ý do lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh được quan
tâm hơn trong đề tài này.
II. PHƯƠNG PHÁP XÁC P XÁP XÁC C ĐỊNH LỢI NHUẬN

Vậy lợi nhuận thực hiện trong kỳ là kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp bao gồm lợi nhuận hoạt động kinh doanh, lợi nhuận hoạt động tài
chính, lợi nhuận hoạt động bất thường.
Lợi nhuận doanh nghiệp = LN HĐ KD + LN HĐ TC + LN BT

Muốn xác định được lợi nhuận của doanh nghiệp chính xác và n đầy
đủ ta phải xác định được đầy đủ và n chính xác doanh thu và n chi phí của
doanh nghiệp theo từng hoạt động kinh doanh thì mới cho ta được một kết
quả hoạt động kinh doanh trong kỳ chính xác. Nếu khơng xác định chính

12


xác và n đầy đủ các khoản chi phí mà n doanh nghiệp đã bỏ ra phục vụ quá
trình sản xuất kinh đoanh trong kỳ thì có thể dẫn đến tình trạng lãi giả, lỗ
thật. Nhưng chi phí lại là n một phạm trù phức tạp, nó địi hỏi phải có
phương pháp tập hợp một cách khoa học và n chính xác để khơng dẫn đến
tính nhầm hay bỏ sót. Do vậy có thể nói chi phí kinh doanh của doanh
nghiệp là n biểu hiện bằng tơà nn bộ các hao phí về vật chất, về lao động mà n
doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các
chi phí nà ny phát sinh thường xuyên và n gắn liền với hoạt động sản xuất
kinh doanh. Do đặc điểm chi phí sản xuất là n phát sinh hà nng ngà ny, gắn liền
với từng vị trí sản xuất, từng sản phẩm, từng 1oại hoạt động sản xuất kinh
doanh cũng như từng lĩnh vực hoạt động, vì thế việc tính tốn phải được
thực hiện trong khoảng thời gian nhất định, khơng phân biệt sản phẩm
hồ nn thà nnh hay chưa hoà nn thà nnh mà n phân bổ theo tiêu thức hợp lý mà n xác
định được kết quả kinh doanh trong kỳ chính xác.
1. Xác định lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận thu được do
tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh được xác định là chênh
1ệch giữa doanh thu bán hàng thuần với tổng chi phí tương ứng với số sản
phẩm hàng hố lao vụ đã tiêu thụ. Nó được thể hiện qua công thức.
LN =  QiPi - (QiZi + QiCPi + Qi Ti)

=  QiPi-Fi
Trong đó:
- LN là lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh
- Qi, là khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ,

13


- Pi là giá bán đơn vị
- Fi 1à chi phí kinh doanh.
- CPi là chi phí quản lý và chi phí bán hàng
- Zi 1à giá vốn hay giá thành sản phẩm.
- Ti 1à thuế doanh thu (VAT), thuế tiêu thụ đặc biệt.
Tổng
Thuế
Giá
Chi
Chi
Lợi
Hàng
doanh
Giảm giá
doanh thu
vốn
phí
phí
nhuận =
- bán bị thu bán
hàng bán
(VAT,

hàng
bán
quản
HĐSXKD
trả lại
hàng
TTĐB)
bán
hàng


LNHĐSXKD = DT thuần - Giá vốn hà nng bán - Chi phí bán - Chi phí qu ản

LNHĐSXKD = Lãi gộp - Chi phí bán hàng - Chi phí quản lý
- Doanh thu từ hoạt đơng kinh doanh là tồn bộ tiền bán sản phẩm,
hàng hố, cung ứng địch vụ sau khi trừ các khoản doanh thu bán hàng bị trả
lại, gíảm giá hàng bán và được khách hàng chấp nhận thanh toán.
* Xác định doanh thu thuần:
DT thuần từ HĐSXKD = Tổng DT từ HĐSXKD - Tổng các khoản giảm trừ
- Doanh thu thuần là số chênh 1ệch giữa doanh thu bán hàng với các
khoản giảm trừ.
- Tổng đoanh thu (doanh thu bán hàng) Là tổng số giá trị được thực
hiện do việc bán hàng hoá, sản phẩm cung ứng lao vụ, dịch vụ cho khách
hàng trong một thời kỳ nhất định.
- Tổng các khoản giảm trừ
+ Giảm giá hàng bán là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngồi hố đơn
hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém
phẩm chất, không đúng quy cách, giảm giá hàng bán gồm 3 bộ phận.

14



+ Bớt giá là số tiền thưởng cho khách hàng tính trên giá bán thơng
thường do mua một khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt.
+ Hồi khấu là số tiền thưởng cho khách hàng do một khoảng thời gian
nhất định đã mua một khối lượng lớn hàng hố (Tính theo tổng số hàng đã
mua trong thờl gian đó).
+ Giảm giá thực sự là số tiền phải giảm trừ cho khách hàng ngồi hố
đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng
kém phẩm chất, không đúng quy cách, giao sai thời gian, địa điểm quy định.
Bớt giá và hồi khấu mặc dù làm giảm doanh thu thuần nhưng có tác
dụng khuyến khích người mua, tăng được sản lượng hàng hoá bán ra, do đó
xét tổng thể sẽ góp phần tăng lợi nhuận. Đối với các khoản giảm trừ giá thực
sự, cần giảm tới mức tối đa bởi vì khoản này phản ánh những mặt khiếm
khuyết của doanh nghiệp trong việc chỉ đạo tiến hành hoạt động kinh doanh,
quản lý chất lượng...
+ Doanh thu hàng bán bị trả lại phản ánh doanh thu của số hàng đã tiêu
thụ bị trả 1ại trong kỳ. Hàng bị trả lại thường là hàng kém phẩm chất, không
đảm bảo chất lượng hoặc giao không đúng chủng loại, thời gian, giao thừa.
Nhân tố này phản ánh những yếu kém của doanh nghiệp trong việc
quản lý chất lượng cũng như tổ chức tiêu thụ.
+ Thuế tiêu thụ phải nộp (Thuế tiêu thụ, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế VAT, thuế xuất khẩu) cũng là nhân tố 1àm giảm doanh thu và
do đó làm giảm 1ợi nhuận. Tuy nhiên đây là nhân tố khách quan do nhà nước
quy định.
* Xác định tổng chi phí:
Tổng chi phí tương ứng với lượng hàng hoá, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ
tiêu thụ trong kỳ được xác định.
- Chi phí bán hàng phân bổ cho lượng


15


Tổng chi
phí

=

Trị giá
vốn

Chi phí bán hàng
+
phân bổ cho
+
lượng tiêu thụ

Chi phí quản lý doanh
nghiệp phân bổ cho
lượng hàng tiêu thụ

- Trị giá vốn hàng tiêu thụ
+ Trong trường họp doanh nghiệp là đơn vị thương mại
Là trị giá mua của hàng tiêu thụ cùng với phí mua phân bổ cho hàng tiêu thụ.

Giá vốn hàng
tiêu thụ

=


Giá mua của
hàng đã tiêu thụ

+

Chi phí trực tiếp thu mua
quan sơ chế, vận chuyển phân
bổ cho lượng hàng đã tiêu thụ

+ Trong trường hợp doanh nghiệp là đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ
Giá vốn hàng bán là giá thành sản xuất thực tế (cịn gọi là giá thành
cơng xưởng thực tế)

Giá vốn hàng
tiêu thụ

=

Giá thành sản xuất
một đơn vị sản phẩm

*

Số lượng đơn vị sản
phẩm đã tiêu thụ

Trong đó giá thà nnh sản xuất đơn vị được xác định thơng qua q
trình hạch toán giá thà nnh sản xuất. Giá thà nnh sản xuất bao gồm 3 yếu tố
chi phí- chi phí ngun vật liệu trực tiếp, chi phí nhân cơng trực tiếp và n
chi phí sản xuất chung.

- Chi phí bán hàng là khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ trong kỳ. Nó bao gồm chi phí ngun vật liệu,
cơng cụ dụng cụ, chi phí nhân cơng của bộ phận bán hàng, chi phí khấu hao
TSCĐ dùng trong bộ phận bán hàng, các chi phí khác, quảng cáo tiếp thị,
chào hàng. .. nhằm mục đích thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hố địch vụ.
- Chi phí quản lý doanh nghiêp là những chi phí có liên quan tới việc tổ
chức, quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh đoanh và quản lý hành
chính. Đây là những chi phí chi cho bộ phận gián tiếp trong doanh nghiệp.
Trong điều kiện bình thường, những khoản chi phí này tương đối ổn định qua

16


các thời kỳ kinh doanh. Tuy nhiên để phản ánh đúng q trình lợi nhuận, chi
phí quản lý doanh nghiệp cũng được phân bổ tương ứng cho 1ượng hàng hoá
đã tiêu thụ.
Như vậy, để xác định 1ợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, chúng ta phải căn cứ vào toàn bộ số liệu trên sổ sách kế tốn
của kỳ sản xuất. Vấn đề này địi hỏi, kế tốn phải tiến hành tập hợp tồn bộ
thu chi một cách chính xác nếu khơng thì việc xác định kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp bị sai lệch, không phản ánh đúng thực trạng kinh đoanh của
doanh nghiệp và việc lãi giả 1ỗ thật ở doanh nghiệp rất có thể xảy ra mà
khơng thể nhận biết chính xác được.
2. Xác định lợi nhuận từ hoạt động tà ngui chính
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính là lợi nhuận thu được từ các hoạt
động như tham gia góp vốn liên doanh, hoạt động đầu tư, mua bán chứng
khoán ngắn, dài hạn, cho thuê tài sản, các hoạt động đầu tư khác, do chênh
lệch lãi tiền gửi ngân hàng và 1ãi tiền vay ngân hàng, cho vay vốn, bán ngoại
tệ, hoàn nhập khoản dự phịng giảm giá chứng khốn...
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định bằng chênh lệch giữa

thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính.
Lợi nhuận từ hoạt
động tài chính

=

Tổng số thu nhập thuần
Tổng số chi phí thuộc
từ hoạt động tài chính
hoạt động tài chính

- Thu nhập thuần từ hoạt động tài chính là những khoản thu do hoạt
động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn đưa lại bao gồm các khoản thu,
góp vốn liên doanh, mua bán chứng khốn ngắn dài hạn, cho thuê tài sản, các
hoạt động đầu tư khác.
- Chi phí hoạt động tài chính là những chi phí cho các hoạt động đầu tư
tài chính và các chi phí liên quan đến các hoạt động về vốn gồm chi phí về

17


góp vốn liên doanh khơng tính vào trị giá vốn góp; lỗ liên doanh; lỗ do bán
chứng khốn; chi phí đầu tư tài chính; các khoản chiết khấu bán hàng thực sự
đồng ý cho khách hàng được hưởng hiện nay theo quy định của bộ tài chính
ban hành mới được áp dụng vào năm 2000- khoản chiết khấu này được hoạch
tốn vào tài khoản 811; chi phí hoạt động tài chính; chi phí liên quan tới vay
vốn. ..
3. Xác định lợi nhuận từ hoạt động bất thường (Thu nhập đặc
biệt)
Lợi nhuận hoạt động bất thường là khoản thu mà doanh nghiệp khơng

dự tính trước hoặc những khoản thu bất thường không xảy ra một cách đều
đặn thường xuyên, các khoản thu của doanh nghiệp có thể do chủ quan của
doanh nghiệp hay khách quan đưa tới bao gồm:
+ Thu về thanh lý, nhượng, bán TSCĐ
+ Thu tiền được phạt do vi phạm hợp đồng
+ Thu các khoản nợ khó địi đã xử lý xoá sổ.
+ Thu khoản thu nhập kinh dơanh của năm trước bị bỏ sót hay quên
chưa ghi sổ, năm nay mới phát hiện ra.
+ Hoàn nhập dự phịng, giảm giá, hàng tồn kho và phải thu khó địi.
Chi phí bất thường là những khoản lỗ do các nghiệp vụ riêng biệt với
những hoạt động thông thường của doanh nghiệp. Những khoản chi phí bất
thường có thể do nguyên nhân khách quan hoặc nguyên nhân chủ quan đưa
tới bao gồm:
+ Giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lý, nhượng, bán.
+ Chi phí thanh lý, nhượng bán TSCĐ
+ Tiền bị phạt do vi phạm hợp đồng.

18


+ Bị phạt thuế, nộp thuế.
+ Các khoản chi phí kế tốn ghi nhầm hay bỏ sót khi vào sổ.
+ Chênh lệch phải thu khó địi và dự phịng phải thu khó địi (khơng đủ
hoặc khoản thu khó địi mất ngay chắc chắn chưa lập dự phòng).
Lợi nhuận
bất thường

=

Tổng số thu nhập

hoạt động bất thường

-

Tổng chi phí hoạt
động bất thường

Nhìn chung việc xác định thu nhập và n chi phí của hoạt động tà ni
chính và n hoạt động bất thường tương đối đơn giản hơn nhiều so với hoạt
động sản xuất kinh doanh. Đó chỉ đơn thuần là n các dịng tiền khơng thường
xun. Mọi phát sinh thu nhập chi phí của hoạt động nà ny được hạch tốn
gọn trong một kỳ kinh doanh.
Việc xác định lợi nhuận của doanh nghiệp trong một kỳ kinh đoanh
phải xuất phát từ việc xác định lợi nhuận bộ phận của doanh nghiệp. Nhưng
doanh nghiệp là một bộ phận độc lập với môi trường và thống nhất trong nội
bộ, bởi vậy việc phân bổ chi phí chung cũng như việc phân định chi phí riêng
cho từng bộ phận hoạt động thực sự là cơng việc khó khăn nhất trong việc xác
định lợi nhuận. Nếu không sẽ dẫn tới sự phản ánh không trung thực chi phí
sản xuất kinh doanh (trùng 1ặp hoặc bỏ sót) làm sai lệch chỉ tiêu lợi nhuận
của doanh nghiệp.
4. Tỷ suất lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp nói lên kết quả của tồn bộ hoạt động
sản xuất kinh doanh nhưng khơng vì thế mà nó là chỉ tiêu duy nhất để đánh
giá hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng khơng thể chỉ dùng nó để so sánh
hiệu quả của các đoanh nghiệp với nhau, bởi vì:
- Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều
nhân tố- nhân tố chủ quan, nhân tố khách quan- và có sự bù trừ lẫn nhau.

19



- Các đoanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi
nhuận thu được khác nhau. ở những doanh nghiệp lớn, vốn lớn thì lợi nhuận
lớn; nhưng chưa thể kết luận rằng sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp
có quy mơ nhỏ vốn ít hơn lại có lợi nhuận thấp. Do vậy khơng nên đánh giá
hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp bằng một chỉ tiêu lợi
nhuận mà phải sử dụng nhiều chỉ tiêu khác. Vì vậy để đánh giá so sánh hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, ngoài chỉ tiêu 1ợi nhuận tuyệt
đối, còn phải dùng chỉ tiêu lợi nhuận tương đối, đó là tỷ suất lợi nhuận (hoặc
doanh lợi)
Tỷ suất lợi nhuận cao cho thấy hiệu quả kinh tế cao và ngược lại. Hơn
nữa tỷ suất lợi nhuận còn cho hai mặt.
+ Một là tổng lợi nhuận tạo ra các tác động của tồn bộ chi phí đã bỏ ra
là tốt hay xấu.
+ Hai là lợi nhuận tạo ra trên một đơn vị chi phí cao hay thấp.
Do yêu cầu nghiên cứu phân tích và đánh giá khác nhau đối với từng
doanh nghiệp mà có nhiều phương pháp tính tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Sau
đây là một số chỉ tiêu phổ biến thường sử dụng để đánh giá hiệu quả SXKD
của doanh nghiệp:
a) Hệ số đoanh thu tiêu thụ sản phẩm hay còn gợi 1à tỷ suất lợi nhuận doanh
thu bán hàng được xác định bằng cách chia lợi nhuận thuần cho doanh thu thuần.
Cơng thức tính:
Hệ số doanh lợi =
Tỷ suất doanh lợi doanh thu thể hlện trong một đồng doanh thu mà
doanh nghiệp thực hiện trong kỳ có mấy đồng lợi nhuận.
b) Tỷ suất lợi nhuận giá thành:

20




×