Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh với việc phê phán thói hư tật xấu trên báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 137 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ NHUNG

NHÀ BÁO NGUYỄN VĂN VĨNH VỚI VIỆC
PHÊ PHÁN THÓI HƢ TẬT XẤU TRÊN BÁO CHÍ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chun ngành: Báo chí học

Hà Nội-2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ NHUNG

NHÀ BÁO NGUYỄN VĂN VĨNH VỚI VIỆC
PHÊ PHÁN THÓI HƢ TẬT XẤU TRÊN BÁO CHÍ

Luận văn Thạc sĩ chun ngành: Báo chí học
Mã số: 60320101

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Danh Bình

Hà Nội-2014



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình khoa học của tôi, chưa từng được công
bố. Những số liệu, dẫn chứng dẫn ra trong luận văn đảm bảo độ tin cậy và chính
xác.


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình nghiên cứu, hồn thiện luận văn, tôi luôn nhận được sự động
viên, giúp đỡ tận tình của các thầy, cơ giáo Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, hậu duệ học giả Nguyễn Văn Vĩnh cùng gia đình và bạn bè, đồng nghiệp.
Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo và bạn bè, đồng
nghiệp; đặc biệt là PGS.TS Nguyễn Thị Minh Thái và TS. Nguyễn Danh Bình –
Nguyên Tổng biên tập báo Giáo dục Thời đại – người đã hướng dẫn tơi hồn thành
luận văn này.
Với điều kiện có hạn, nội dung luận văn lại là những nghiên cứu bước đầu,
chắc chắn cịn nhiều thiếu sót. Tơi mong nhận được sự góp ý và xin khắc phục
những hạn chế để hoàn thiện đề tài trong các nghiên cứu tiếp theo.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả

Nguyễn Thị Nhung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
Chương 1 GIAO LƯU VĂN HÓA ĐÔNG TÂY VÀ THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP
CỦA NGUYỄN VĂN VĨNH ....................................................................................... 8
1.1.Bối cảnh giao lưu văn hố Đơng Tây và sự tiếp biến văn hóa Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XX......................................................................................................... 8

1.2. Một số tờ báo quốc ngữ đầu tiên tại Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX.......... 12
1.2.1. Báo chí quốc ngữ ở Nam kỳ............................................................................... 12
1.2.2. Báo chí quốc ngữ ở Bắc kỳ ................................................................................ 15
1.3. Thân thế, sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh......................................................... 20
1.3.1. Thân thế............................................................................................................... 20
1.3.2. Một vài trước tác của Nguyễn Văn Vĩnh .......................................................... 26
1.3.3. Những đóng góp nổi bật của Nguyễn Văn Vĩnh đầu thế kỷ XX ...................... 28
1.3.3.1. Nguyễn Văn Vĩnh với việc truyền bá và hoàn thiện chữ quốc ngữ .............. 29
1.3.3.2. Nguyễn Văn Vĩnh với lĩnh vực văn học nghệ thuật ....................................... 30
1.3.3.3. Nguyễn Văn Vĩnh với vấn đề cải cách xã hội ................................................ 32
1.3.3.4. Nguyễn Văn Vĩnh với hoạt động báo chí ....................................................... 32
Chương 2 NGUYỄN VĂN VĨNH VỚI VIỆC PHÊ PHÁN THĨI HƯ TẬT XẤU
TRÊN BÁO CHÍ GIAI ĐOẠN ĐẦU THẾ KỶ XX................................................. 36
2.1. Việc phê phán thói hư tật xấu trong sáng tác của Nguyễn Văn Vĩnh ................ 36
2.1.1. Phê phán những hủ tục ...................................................................................... 37
2.1.1.1. Cúng bái, mê tín dị đoan................................................................................. 37
2.1.1.2. Những thủ tục bất cơng trong vòng đời người phụ nữ Việt Nam................. 40
2.1.1.3. Tệ lãng phí khi ma chay, cúng giỗ ................................................................. 50
2.1.1.4. Đốt pháo .......................................................................................................... 53
2.1.2. Phê phán những thói hư tật xấu ........................................................................ 55
2.1.2.1. Thói ham mê cờ bạc ........................................................................................ 55
2.1.2.2. Thói ỷ lại .......................................................................................................... 58
2.1.2.3. Thói ăn gian nói dối ........................................................................................ 60
2.1.2.4. Thói chuộng hư danh ...................................................................................... 63


2.1.2.5. Tính vơ cảm...................................................................................................... 65
2.1.2.6. Thói hay cười ................................................................................................... 69
2.1.2.7. Tính ngồi thừ.................................................................................................... 70
2.2. Phong cách viết báo nghị luận của Nguyễn Văn Vĩnh ....................................... 72

2.2.1. Một số quan niệm về phong cách và phong cách ngơn ngữ báo chí .............. 72
2.2.2. Phong cách viết báo nghị luận của Nguyễn Văn Vĩnh .................................... 73
Chương 3 GIÁ TRỊ THỜI SỰ TRONG NHỮNG BÀI VIẾT PHÊ PHÁN THÓI
HƯ TẬT XẤU CỦA NGUYỄN VĂN VĨNH .......................................................... 78
3.1. Nhìn vào thói hư tật xấu của người Việt hiện đại................................................ 78
3.2. Nguyễn Văn Vĩnh và khả năng “nhìn thấy trước” cả trăm năm ........................ 85
3.2.1. Những hủ tục vẫn tồn tại dai dẳng .................................................................... 85
3.2.2. Những thói hư tật xấu đang biến tướng ............................................................ 89
3.3. Cần có cái nhìn khách quan hơn về Nguyễn Văn Vĩnh ...................................... 97
PHỤ LỤC


DANH MỤC KÝ TỰ VIẾT TẮT
ĐDTC

Đơng Dương tạp chí

ĐCTB

Đăng Cổ Tùng báo

ĐKNT

Đông Kinh Nghĩa thục


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguyễn Văn Vĩnh là một nhà báo và nhà văn lớn – người đã có những đóng
góp đáng ghi nhận cho nền văn hóa Việt Nam nói chung và nền báo chí Việt nam

nói riêng những năm đầu thế kỷ XX. Dù được đào tạo trong môi trường Pháp và
thân Pháp, ông đã có những tác phẩm, cơng trình giá trị làm giàu cho nền văn hóa
dân tộc.
Sự cố gắng kiên trì của Nguyễn Văn Vĩnh đã góp phần rất quan trọng trong
việc truyền bá kiến thức, văn hoá phương Tây và cổ vũ việc dùng tiếng Việt để viết
báo, viết văn trong dân Việt. Nguyễn Văn Vĩnh là một cây bút đa dạng: Viết tin tức,
xã luận, làm thơ, khảo cứu, dịch tiểu thuyết, kịch và cả phóng sự. Ở bất cứ lĩnh vực
nào, ơng cũng đều chứng tỏ tầm nhìn xa, trình độ, học thức cao rộng.
Trong cuộc đời viết báo của Nguyễn Văn Vĩnh, cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt,
qua các giai đoạn ước chừng có khoảng 3.000 bài viết (số liệu do ơng Nguyễn Lân
Bình - hậu duệ của học giả Nguyễn Văn Vĩnh cung cấp). Trong đó, Nguyễn Văn
Vĩnh gây ấn tượng đặc biệt với những bài nghị luận sắc sảo, dù tương đối ngắn
nhưng đã phản ánh được những vấn đề “nóng” của xã hội và con người Việt Nam
thời bấy giờ. Được thể hiện bằng ngôn ngữ hiện đại, linh hoạt, loạt bài phê phán
thói hư tật xấu của người Việt là một mảng rất điển hình cho phong cách chính luận
của Nguyễn Văn Vĩnh và tư tưởng đổi mới của ông.
Nguyễn Văn Vĩnh sống trong thời kỳ người Pháp đã hồn thành cơng cuộc
xâm lược, đặt ách cai trị trên toàn lãnh thổ nước ta, đồng thời tiến hành việc truyền
bá, áp đặt các giá trị phương Tây vào xã hội Việt Nam. Đó là giai đoạn của sự “va
chạm” Đông – Tây, là sự giằng xé quyết liệt giữa những giá trị văn hóa truyền
thống có từ lâu đời và những giá trị hiện đại, mới mẻ. Ở giữa một xã hội như vậy,
để có thể làm báo và viết báo, Nguyễn Văn Vĩnh buộc phải phụ thuộc vào chính
quyền cai trị, đồng thời cố gắng khơng đánh mất mình. Tuy nhiên, chính cái vị thế
ấy của Nguyễn Văn Vĩnh đã dẫn tới một số đánh giá có phần nghiệt ngã, khơng
chính xác về con người ơng, chủ yếu dựa trên quan điểm chính trị, từ đó có cái nhìn
1


chưa khách quan về sự nghiệp cũng như những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh đối
với văn hố Việt Nam nói chung và báo chí nói riêng.

Theo quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc nhìn nhận lại
lịch sử và các nhân vật lịch sử như Nguyễn Văn Vĩnh rất cần thiết trong quá trình
đổi mới đất nước hiện nay.
Tiến hành nghiên cứu đề tài Nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh với việc phê phán
thói hư tật xấu trên báo chí, tác giả luận văn mong muốn bước đầu tìm hiểu về một
nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh với những tác phẩm phê phán thói hư tật xấu sắc sảo, cá
tính. Từ đó phần nào xác định vai trị cũng như ảnh hưởng của Nguyễn Văn Vĩnh
đối với báo chí nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.
Vẫn biết nghiên cứu về một nhân vật lớn như Nguyễn Văn Vĩnh là một việc
làm không đơn giản, nhất là tìm hiểu sâu hơn về ơng với tư cách là một nhà báo lại
càng khó khăn (những trước tác của ông hiện rất tản mạn và phần lớn ở nước ngồi;
những nghiên cứu về ơng chủ yếu là những bài viết rải rác, mới tập trung chủ yếu vào
những đóng góp của ơng đối với văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX; chưa kể
ngày nay vẫn còn nhiều ý kiến, đánh giá nhiều chiều hay chưa đúng với con người
Nguyễn Văn Vĩnh, chưa xứng đáng với những đóng góp của ơng cho xã hội Việt
Nam thời kỳ này...). Khó khăn là thế, nhưng vì tính cấp thiết của đề tài, chúng tôi vẫn
nghiên cứu với mong muốn nếu hồn thành tốt cơng tác nghiên cứu, bước đầu sẽ có
những gợi mở về một trong những cách đánh giá mới đối với học giả, nhà văn hóa,
nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tính đến thời điểm này, những nghiên cứu được công bố rộng rãi về Nguyễn
Văn Vĩnh đã xuất hiện nhưng chủ yếu vẫn tản mạn, rải rác.
Trước năm 1975, tại Sài Gòn, một số bài báo về Nguyễn Văn Vĩnh được
đăng trên tạp chí Bách Khoa. Bên cạnh đó, có một vài cơng trình thời đó có nói đến
Nguyễn Văn Vĩnh, tuy nhiên chỉ đề cập rất tổng quát. Hầu hết trong số đó là những
luận đề được sử dụng trong các trường học như Luận đề về ĐDTC (của các GS
Nguyễn Duy Diễn, Bằng Phong, Khai Trí xuất bản năm 1961), Luận đề Phạm
2



Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh (của GS. Kiêm Đạt, Bạn Trẻ xuất bản năm 1958), Luận
đề về nhóm ĐDTC (của GS.TS Nguyễn Bá Lương, Tao Đàn xuất bản-không rõ
năm)…
Trong tác phẩm Lịch sử báo chí Việt Nam, từ khởi thủy đến năm 1930, tác
giả Huỳnh Văn Tịng cũng chỉ đơi chỗ nhắc đến những đóng góp của Nguyễn Văn
Vĩnh.
Trong bộ sách Nhà văn Việt Nam dày hơn 1000 trang, tác giả Vũ Ngọc Phan
đã dành một phần nhỏ nói về Nguyễn Văn Vĩnh. Tác giả này là một trong những
người viết về Nguyễn Văn Vĩnh sớm nhất.
Nhà văn Vũ Bằng, người từng có thời gian làm báo cùng với Nguyễn Văn
Vĩnh, đã có một số hồi ức về Nguyễn Văn Vĩnh trong các tác phẩm như Bốn mươi
năm nói láo, Mười bốn gương mặt nhà văn đồng nghiệp. Những hồi ức này tuy
cung cấp khá nhiều tư liệu về cuộc đời Nguyễn Văn Vĩnh nhưng những tư liệu đó
được soi chiếu qua cảm xúc cá nhân của nhà văn nên ít có giá trị tham chiếu về mặt
khoa học.
Trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước ký hiệu KX 06-17 của tác
giả Hoàng Tiến, sau được in thành sách với nhan đề Chữ quốc ngữ và cuộc cách
mạng chữ viết đầu thế kỷ XX, quyển I, do Nhà xuất bản Lao Động xuất bản năm
1994, khi xem xét bối cảnh phát triển chữ quốc ngữ ở Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX
cũng đã đề cập đến những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh đối với việc truyền bá
chữ quốc ngữ ở Việt Nam. Tuy nhiên, nội dung về Nguyễn Văn Vĩnh chỉ chiếm một
phần trong đề tài nghiên cứu về chữ quốc ngữ này.
Ngoài ra, một số tác giả như Dương Quảng Hàm, Thiếu Sơn, Hoàng Đạo
Thúy cũng đã có những bài viết nhỏ hoặc đoạn văn ngắn đề cập đến Nguyễn Văn
Vĩnh trong các tác phẩm của mình.
Đại tá, nhà báo Nguyễn Văn Ba (Bút danh n Ba) là một trong những
người đầu tiên có cơng trình nghiên cứu mang tính quy mơ về Nguyễn Văn Vĩnh.
Trong luận văn cao học nghiên cứu về những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh đối
với báo chí chữ quốc ngữ, tác giả Yên Ba đã bước đầu tìm hiểu và xây dựng được
3



chân dung học giả này với tư cách là nhà báo. Tuy nhiên, tác giả Yên Ba vẫn chưa
đào sâu vào mảng đề tài phê phán thói hư tật xấu – một mảng rất điển hình cho
phong cách nghị luận của Nguyễn Văn Vĩnh.
Tháng 9/2013, ơng Nguyễn Lân Bình – cháu nội của học giả Nguyễn Văn
Vĩnh đã xuất bản 3 cuốn sách từ những tài liệu thu thập được. Cuốn thứ nhất
Nguyễn Văn Vĩnh là ai? dày 380 trang, được xây dựng với mục đích đóng góp vào
việc hiểu rõ về cuộc đời Nguyễn Văn Vĩnh và sự nghiệp của ông. Những dữ liệu
được nêu trong cuốn sách là sự chứng minh sống động và khách quan về con người
và sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh. Cuốn sách bao gồm những bài viết cả bằng
Việt văn và Pháp văn (đã được chuyển ngữ), thuật lại những điều tai nghe mắt thấy
với nhãn quan khoa học, óc quan sát, chính kiến chính trị cùng sự tri ân của những
người đương thời đánh giá về con người và sự nghiệp văn hóa của Nguyễn Văn
Vĩnh.
Cuốn thứ hai: Bộ sách Lời người man di hiện đại, Chủ biên: Nguyễn Lân
Bình và Nguyễn Lân Thắng, dày 230 trang. Cuốn sách gồm 33 bài viết bằng Pháp
ngữ của nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh tạo thành chuyên đề về một số tập quán, lối
sống sinh hoạt cùng với cấu trúc hành chính, phân bố địa giới, địa hình, nhân sự
theo những nguyên tắc truyền thống trong hệ thống quyền lực liên quan đến việc
phân vai, chức sắc, phẩm hàm trong một làng quê ở đồng bằng Bắc bộ vào giai
đoạn mà ông tồn tại.
Cuốn thứ 3 là Parole Du BarBare. Sách được in từ nguyên bản Pháp ngữ.
Thực tế, cuốn sách là tập một trong bộ sách “Lời người man di hiện đại”. Toàn bộ
nội dung, phần trình bày, trang trí hồn tồn như cuốn sách in bằng Việt văn. Các
bài viết được chép lại nguyên văn nội dung đã được đăng trên các số báo của tờ báo
tiếng Pháp L’Annam Nuoveau (Nước Nam mới) do Nguyễn Văn Vĩnh là chủ bút.
Thời gian qua, xuất hiện một vài đề tài khóa luận, luận văn nghiên cứu về
cuộc đời và sự nghiệp của học giả Nguyễn Văn Vĩnh. Tuy nhiên, hầu hết trong số
đó tập trung vào những đóng góp của ơng đối với văn học Việt Nam giai đoạn đầu

thế kỷ XX, gần đây mới có luận văn của tác giả Yên Ba tập trung vào những đóng
4


góp của Nguyễn Văn Vĩnh đối với lĩnh vực báo chí Việt Nam (như đã nói ở trên).
Ngồi ra, tổng kết những nghiên cứu được công bố rộng rãi về Nguyễn Văn Vĩnh từ
trước tới nay chủ yếu là những bài viết tản mạn, rải rác. Do đó có thể nói, đề tài này
là cơng trình đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về những tác phẩm phê
phán thói hư tật xấu của Nguyễn Văn Vĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc tổng hợp, phân tích, đánh giá các tác phẩm phê phán thói hư
tật xấu của Nguyễn Văn Vĩnh trên báo chí trong khoảng thời gian đầu thế kỷ XX, tác
giả luận văn mong muốn làm nổi bật một số đóng góp của học giả, nhà văn hóa
Nguyễn Văn Vĩnh đối với báo chí Việt Nam nói riêng và văn hóa Việt Nam nói
chung. Từ đó khẳng định giá trị của những đóng góp ấy đối với giai đoạn hiện nay,
làm tiền đề cho những nghiên cứu tiếp theo nhằm tiến tới việc “trả lại” ví trị xứng
đáng của tên tuổi Nguyễn Văn Vĩnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đánh giá tổng thể những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh trong việc truyền
bá chữ quốc ngữ và vai trò tiên phong trong nghệ thuật viết báo với nhiều thể loại
báo chí quốc ngữ Việt Nam, đặc biệt là loại văn nghị luận.
- Đi sâu tìm hiểu bối cảnh văn hóa – xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX
- Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh
- Những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh, đặc biệt là đóng góp về lĩnh vực
báo chí.
- Xem xét sự cần thiết phải nhìn nhận lại lịch sử và các nhân vật lịch sử.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tác phẩm phê phán thói hư tật

xấu của Nguyễn Văn Vĩnh giai đoạn đầu thế kỷ XX.
4.2. Phạm vi nguyên cứu

5


Trong khuôn khổ một đề tài luận văn thạc sĩ, luận văn chỉ tập trung vào những
tác phẩm phê phán thói hư tật xấu trên báo chí trong khoảng thời gian đầu thế kỷ XX,
trong đó đặc biệt lưu ý đến các tài liệu báo chí trong quãng thời gian từ năm 1907 (khi
Nguyễn Văn Vĩnh bắt đầu làm ĐCTB) đến năm 1936, khi Nguyễn Văn Vĩnh mất (lúc
vẫn viết cho L‟Annam nouveau).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Về cơ sở lý luận, đề tài được triển khai dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về việc nhìn nhận lại những đóng góp của nhân vật lịch sử với văn hóa nước nhà.
Ngồi ra, việc nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở xem xét, đánh giá các tài
liệu thực chứng, đặt trong bối cảnh lịch sử, từ đó có cái nhìn biện chứng về tác
phẩm, con người và những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh.
Về phương pháp nghiên cứu, luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp
nghiên cứu phân tích, tổng hợp tư liệu, so sánh, chuyên gia.
Dựa trên các tác phẩm báo chí phê phán thói hư tật xấu của Nguyễn Văn
Vĩnh đăng trên báo chí hồi đầu thế kỷ XX, luận văn tiến hành phân tích, đối chứng,
so sánh với các bước phát triển của văn hoá Việt Nam.
Tập hợp các bài báo, tài liệu, tham luận, nhận xét của những người cùng thời
và đương thời về Nguyễn Văn Vĩnh để có được cái nhìn nhiều chiều, khách quan,
trung thực nhất về ông.
Gặp gỡ với những hậu duệ trong gia đình Nguyễn Văn Vĩnh, các nhà sử học,
nhà nghiên cứu, nhà báo quan tâm đến đề tài để thu thập tư liệu, ghi nhận những
đánh giá nhiều chiều, khách quan hơn về Nguyễn Văn Vĩnh.
6. Đóng góp của đề tài

1. Luận văn dựa trên quan điểm đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam đưa
ra những đánh giá khoa học, khách quan, trung thực về các nhân vật lịch sử, trong
đó có Nguyễn Văn Vĩnh.

6


2. Thơng qua việc tìm hiểu về những tác phẩm thói hư tật xấu của Nguyễn
Văn Vĩnh và phân tích giá trị của những tác phẩm đó, luận văn khẳng định quan
điểm đúng đắn, đi trước thời đại của ông.
3. Luận văn góp phần mở ra hướng tìm hiểu mới về Nguyễn Văn Vĩnh trên
cương vị một nhà báo nghị luận.
4. Luận văn đưa ra một nguồn tư liệu có thể phục vụ cho việc tham khảo,
nghiên cứu, giảng dạy trong bộ mơn lịch sử báo chí, cán bộ nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn, sinh viên khoa báo chí và các mơn khoa học xã hội khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 9 tiết.

7


Chƣơng 1
GIAO LƢU VĂN HĨA ĐƠNG TÂY VÀ THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP CỦA
NGUYỄN VĂN VĨNH
1.1. Bối cảnh giao lƣu văn hố Đơng Tây và sự tiếp biến văn hóa Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX
Nguyễn Văn Vĩnh làm báo và viết báo trong bối cảnh chính trị phức tạp, khi
thực dân Pháp đã hồn thành cơng cuộc xâm lược và đặt ách cai trị trên toàn lãnh
thổ Việt Nam. Từ đây, làn sóng văn hố phương Tây cũng theo bước chân của quân

viễn chinh Pháp tràn vào Việt Nam.
Thực ra, ngay từ thế kỷ XVI, trước khi người Pháp nổ súng xâm lược Việt
Nam (1858), người phương Tây đã có những chuyến bn bán đầu tiên ở Đàng
Trong của Việt Nam. Sang thế kỷ XVII, sự xuất hiện của người phương Tây ở nước
ta càng thường xuyên hơn. Cùng với các tàu buôn Bồ Đào Nha, nhiều tu sĩ Dòng Tên
người Bồ Đào Nha và Ý cũng đặt chân tới Việt Nam. Chính những người này đã đặt
cơ sở văn hóa đầu tiên cho việc hình thành chữ quốc ngữ của nước ta sau này.
Những người đầu tiên có mặt tại Việt Nam có thể kể đến các linh mục
Francesco Buzomi (Ý), Diego Carvalho (Bồ Đào Nha) và thầy Antonio Dias (Bồ
Đào Nha), theo tàu buôn Bồ Đào Nha rời Áo Môn ngày 6-1-1615 và tới Cửa Hàn ở
Đàng Trong ngày 18-1-1615.
Hai năm sau đó, một người Bồ Đào Nha khác là linh mục Francisco de Pina
cũng tới Đàng Trong. Để tiếp xúc với người Việt Nam, các nhà truyền giáo hầu hết
đều phải học tiếng Việt và linh mục Francisco de Pina có lẽ là người Âu châu đầu tiên
nói thạo tiếng Việt. Khơng may, linh mục Francisco de Pina đã chết thảm trong một
tai nạn bất ngờ ngoài khơi bờ biển Quảng Nam vào ngày 12-15-1625 [17, tr. 22].
Tuy vậy, cho đến đầu thế kỷ XIX, nỗ lực của các nhà buôn hay nhà truyền
giáo trong việc truyền bá văn hoá phương Tây ở Việt Nam vẫn chỉ giới hạn ở những
động thái manh mún, chưa có tính hệ thống. Cho tới khi Pháp sử dụng vũ lực chiếm
đóng Việt Nam, đặt Việt Nam hồn tồn dưới sự cai trị của mình, sự truyền bá văn

8


hố phương Tây ở Việt Nam, kéo theo nó là sự giao lưu văn hố Đơng Tây mới
thực sự diễn ra một cách toàn diện.
Tháng 8 năm 1858, quân viễn chinh Pháp cùng Tây Ban Nha đổ bộ tấn công
vào cảng Đà Nẵng, sau đó đầu năm 1859 rút vào xâm chiếm Sài Gịn. Tới năm
1862, triều đình nhà Nguyễn ký với Pháp hịa ước, theo đó nhượng ba tỉnh miền
Đông Nam Bộ cho Pháp. 5 năm sau (1867), Pháp dùng vũ lực chiếm đóng nốt ba

tỉnh miền Tây Nam Bộ. Đến năm 1874, triều đình Huế khi ấy bị ép ký hoà ước
nhường 6 tỉnh Nam kỳ cho Pháp và như thế, Pháp hồn thành về cơ bản cơng cuộc
chiếm đóng Nam kỳ.
Sau đó, hai lần vào các năm 1873 và 1882, Pháp tấn công thành Hà Nội. Năm
Giáp Thân (1884), triều đình Huế ký hiệp ước Patenotre, đầu hàng tồn bộ; Pháp
chính thức thiết lập chế độ bảo hộ trên toàn lãnh thổ Việt Nam, biến Việt Nam thành
nước thuộc địa nửa phong kiến; đồng thời với việc truyền bá, áp đặt các giá trị
phương Tây vào xã hội Việt Nam. Đây cũng là giai đoạn sự “va chạm” Đông – Tây
diễn ra mạnh mẽ nhất, với sự giằng xé giữa một bên là những giá trị văn hóa truyền
thống và một bên là những giá trị hiện đại, mà đại diện là người Pháp, đưa vào.
Sự xâm lược và cai trị của thực dân Pháp mặc dù đã đẩy nhân dân ta vào
cảnh lầm than, khổ trăm bề, nhưng mặt khác, nhìn về khía cạnh lịch sử lại có nhiều
tích cực khi đây chính là tiền đề để Việt Nam thoát khỏi 9 thế kỷ trung đại chìm
đắm trong tư tưởng phong kiến Á Đơng; làm quen với văn minh nhân loại hiện đại.
Dưới sự cai trị của người Pháp, đặc biệt là dưới tác động của các cuộc khai
thác thuộc địa, xã hội Việt Nam tiếp tục có sự phân hóa giai cấp sâu sắc: Tầng lớp
công nhân bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam trong thời gian này và ngày càng đông đảo
để trở thành một giai cấp mới trong xã hội. Các giai cấp khác trong xã hội Việt Nam
thời đó như giai cấp tiểu tư sản thì ngày càng lớn mạnh, giai cấp tư sản bắt đầu
xuất hiện và phát triển, giai cấp địa chủ được củng cố quyền lực nhờ câu kết với
thực dân pháp, đàn áp nông dân nghèo [49, tr. 234 - 235].
Đặc biệt, từ những năm 20, xã hội bắt đầu hình thành một tầng lớp trí thức
Tây học thay thế cho trí thức Nho học. Chính tầng lớp này đã góp phần quan trọng
9


làm thay đổi đáng kể đời sống tinh thần xã hội và thúc đẩy việc sử dụng chữ quốc
ngữ trong dân ta.
Nói về sự ra đời của chữ quốc ngữ, cơng lao đặt nền móng đầu tiên cho chữ
quốc ngữ thuộc về các giáo sĩ và tín đồ Thiên Chúa giáo người Bồ Đào Nha, người

Tây Ban Nha, người Ý, người Pháp, người Hà Lan… Tuy nhiên, tên tuổi được vinh
danh nhiều nhất lại là giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Theo các nhà nghiên cứu có uy
tín như Léopold Cadière, Paul Mus hoặc muộn hơn, Jean Lacouture, trước hết
không chỉ bởi ơng có cơng cho xuất bản cuốn Từ điển Việt - Bồ - La và viết cuốn
Ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên, mà chủ yếu vì Alexandre de Rhodes nếu khơng phải
là người sáng tạo thì là người đầu tiên sử dụng và quảng bá mạnh mẽ chữ quốc ngữ.
Tuy vậy suốt thời gian 200 năm sau đó, chữ quốc ngữ vẫn không được phổ
biến rộng rãi ở Việt Nam, mà chỉ được sử dụng ở một phạm vi hẹp trong khuôn khổ
nhà thờ Thiên Chúa giáo để phục vụ cho mục đích truyền đạo của các giáo sỹ như
dịch Kinh thánh, soạn các sách truyền đạo.
Sau khi Pháp đã hồn thành việc chiếm đóng Nam kỳ, chính quyền cai trị đã
đẩy mạnh việc dạy học tiếng Pháp và chữ quốc ngữ. Đến giai đoạn cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX, sự xuất hiện của một số học giả, nhà văn hóa như Trương Vĩnh Ký,
Huỳnh Tịnh Của đã góp phần phổ biến và truyền bá chữ quốc ngữ trong dân chúng
thơng qua những cơng trình của mình.
Ngồi ra, sự ra đời và phát triển của báo chí với sự xuất hiện của những nhà
báo tiên phong như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Trần
Trọng Kim, Phạm Quỳnh... cũng góp phần thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng chữ
quốc ngữ. Đặc biệt hơn, báo chí trở thành kênh quan trọng nhất để quảng bá các tư
tưởng mới đến với toàn xã hội. Cũng là lần đầu tiên trong xã hội ta, các sản phẩm
văn hóa trở thành hàng hóa. Mọi tầng lớp trong xã hội không kể đẳng cấp, vai vế,
sang giàu đều được thưởng thức các sản phẩm văn hóa và ngược lại, xã hội xuất
hiện một tầng lớp trí thức độc lập, có thêm thu nhập nhờ “nghề” hoạt động văn hóa
(các nhà văn, nhà báo...).
Nhờ chữ quốc ngữ, Việt Nam đã xây dựng được một nền văn chương độc
đáo bằng tiếng mẹ đẻ gồm các thể loại báo chí, văn học (thơ mới, truyện ngắn, tiểu
10


thuyết, kịch nói). Văn học thành thị ra đời thay cho văn học nơng thơn. Báo chí

tiếng Việt ra đời. Ở Bắc kỳ, tờ ĐCTB (được coi như cơ quan ngôn luận của phong
trào ĐKNT) là tờ báo đầu tiên sử dụng song ngữ Hán – Việt; tiến tới ĐDTC là tờ
báo đầu tiên viết hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ; mở đầu cho sự xuất hiện của báo
chí quốc ngữ nước nhà, mà nổi bật là các tờ như: Nam Phong tạp chí (1919), Thực
nghiệp dân báo (1920), Nam Kỳ kinh tế (1920), Thanh niên (1925), Tiếng dân
(1927)... Các tạp chí, nhà xuất bản sách tiếng Việt ngày càng nhiều hơn (Tạp chí
Hữu Thanh, Nam Đồng Thư xã, Cường học thư xã, Quan Hải tùng thư...). Các tác
phẩm dịch thuật ra đời: dịch tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, chữ Nôm ra chữ quốc
ngữ; ngược lại dịch tác phẩm tiếng Việt sang tiếng Pháp.
Lực lượng sáng tác tân học đã mơ phỏng theo các tác phẩm nước ngồi để
sáng tác văn học cận hiện đại. Từ các bài tường thuật, phóng sự, du ký, kể
chuyện,… họ đã viết truyện ngắn, tiểu thuyết như Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách,
truyện ngắn của Nguyễn Cơng Hoan, sáng tác kịch nói Chén thuốc độc của Vũ Đình
Long… Có thể nói 3 thập niên đầu của thế kỷ XX là thời kỳ manh nha của nền văn
học quốc ngữ. Đồng thời bùng nổ dòng Thơ mới với các nhà thơ nổi tiếng: Thế Lữ,
Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Tú Mỡ... Đây cũng là thời kỳ văn hóa dân tộc
được bổ sung những ngành nghệ thuật mới gồm: hội họa, sân khấu và điện ảnh.
Nghệ thuật hội họa xuất hiện những thể loại mới có nguồn gốc từ Phương Tây:
Tranh sơn dầu, tranh bột màu. Nghệ thuật sân khấu từ chỗ công diễn các vở kịch nói
của Pháp mà khởi xướng là vở hài kịch Bệnh tưởng của Molière do Nguyễn Văn
Vĩnh dịch và cho công diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội năm 1921 thì lối viết kịch bằng
Việt ngữ bắt đầu có ở nước ta [2, tr.286].
Như vậy là sau gần ba thế kỷ, thời gian tính từ khi cuốn từ điển Việt-Bồ-La
của Alexandre de Rhodes ra đời và hơn nửa thế kỷ sau khi Pháp nổ tiếng súng đầu
tiên xâm lược Việt Nam, người Việt Nam đã hoàn toàn chuyển sang dùng chữ quốc
ngữ, chính thức khơng sử dụng chữ Hán của người Trung Hoa và chữ Nôm (là thứ
chữ ghi âm tiếng Việt nhưng được sáng chế theo phương pháp hài thanh và hội ý
của chữ Hán).

11



1.2. Một số tờ báo quốc ngữ đầu tiên tại Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX
1.2.1. Báo chí quốc ngữ ở Nam kỳ
Năm 1865, vẫn đang còn trong q trình thơn tính Nam kỳ, thực dân Pháp đã
cho xuất bản tờ Gia Định báo bằng chữ quốc ngữ.
Gia Định báo
Tờ Gia Định báo ra số đầu tiên vào ngày 15-4-1865, do một người Pháp là
Ernest Potteaux làm Chánh tổng tài (có thể hiểu như chủ nhiệm kiêm chủ bút), tới
năm 1869 thì chuyển sang cho một người Việt là Trương Vĩnh Ký làm chủ bút (cho
tới ngày 31-12-1871) [72, tr. 151-152].
Gia Định báo ban đầu xuất bản mỗi tháng một lần, phát hành vào ngày 15
hàng tháng, sau đó tăng lên 2 lần trong tháng và cuối cùng mỗi tháng 4 kỳ, vào các
ngày 1,8, 16 và 24 hàng tháng [63, tr. 31].
Thời kỳ đầu, Gia Định báo in 4 trang trên khổ giấy 32x25, trên đầu trang 1
có 3 chữ Gia Định báo được in bằng chữ Hán, bên dưới ghi “Tờ báo này mỗi tháng
Tây cứ ngày rằm in ra một lần ai muốn mua cả năm phải trả 6 góc tư” (64, tr. 55).
Ban đầu, Gia Định báo có mục đích chủ yếu là cơng cụ thông tin của người
Pháp ở Đông Dương với tư cách là một tờ công báo chuyên đăng các công văn, nghị
định, thơng tư của chính quyền thực dân. Sau này, khi Trương Vĩnh Ký chính thức
làm giám đốc, tờ báo mới được phát triển mục biên khảo, thơ văn, lịch sử... Gia
Định báo cũng góp phần cổ động việc học chữ quốc ngữ và lối học mới, mở đường
cho các thể loại văn xuôi Việt Nam in bằng chữ quốc ngữ, đặt nền móng cho sự
hình thành báo chí Việt Nam.

12


Gia Định báo, tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam
Mặc dù là một tờ công báo của chính quyền xâm lược nhưng trong lịch sử

báo chí Việt Nam, có thể xem đây là tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên tại Việt Nam.
Gia Định báo tồn tại khá lâu, số cuối cùng ra vào năm 1909 [67, tr. 217].
Phan Yên Báo
Sau Gia Định báo một thời gian, năm 1868, ở Nam kỳ xuất hiện tờ Phan Yên
Báo, do Diệp Văn Cường làm chủ nhiệm [36, tr. 56]. Tuy nhiên, có một số tài liệu
lại cho rằng tờ Phan Yên báo mãi đến năm 1898 mới được xuất bản, chủ nhiệm là
Diệp Văn Cương [63, tr. 10].
Nông cổ mín đàm
Tiếp đó, ngày 1-8-1901, tờ Nơng cổ mín đàm (có tài liệu gọi là Nơng cổ mính
đàm, dịch nghĩa là “trị chuyện về nơng nghiệp-kỹ nghệ bên bàn trà”) ra đời, xuất
bản hàng tuần, ban đầu chủ nhiệm là Canavaggio, chủ bút là Dũ Thúc Lương Khắc
Ninh.
13



×