Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Thông tin sức khỏe trên báo chí Việt Nam hiện nay - Vấn đề và thảo luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






BÙI THỊ THU THỦY





THÔNG TIN SỨC KHỎE
TRÊN BÁO CHÍ VIỆT NAM HIỆN NAY:
VẤN ĐỀ VÀ THẢO LUẬN








LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ















Hà Nội, 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






BÙI THỊ THU THỦY





THÔNG TIN SỨC KHỎE
TRÊN BÁO CHÍ VIỆT NAM HIỆN NAY:
VẤN ĐỀ VÀ THẢO LUẬN









Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Quang Hào






Hà Nội, 2010

1
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 4
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 5
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài 5
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài 6

6. Kết cấu luận văn 7
PHẦN NỘI DUNG 8
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THÔNG TIN
SỨC KHỎE 8
1.1 Các quan niệm về thông tin sức khoẻ 8
1.1.1 Khái niệm về sức khoẻ 8
1.1.2 Các quan niệm về thông tin sức khỏe 12
1.2.Các loại phạm trù thông tin sức khỏe 16
1.3. Các quan niệm về kênh truyền thông chuyên biệt 18
Chương 2: VẤN ĐỀ THÔNG TIN SỨC KHỎE TRÊN BÁO CHÍ
VIỆT NAM HIỆN NAY 25
2.1.Thực trạng thông tin sức khỏe 25
2.2. Vấn đề về nội dung thông tin sức khoẻ 30
2.2.1 Thông tin về việc đưa những chủ trương chính sách của Đảng, Nhà
nước, ngành Y tế về vấn đề chăm sóc sức khỏe của nhân dân vào cuộc sống
và hoạt động chăm sóc sức khỏe người dân trong cả nước. 30
2.2.2. Thông tin chỉ dẫn, tư vấn kiến thức về chăm sóc sức khỏe, phòng chữa
bệnh 37
2.3. Thông tin phổ biến, nâng cao tri thức về sức khỏe. 59

2
2.4. Vấn đề thông thường hóa các thuật ngữ chuyên môn, kiến thức chuyên
ngành về chăm sóc sức khỏe, phòng chữa bệnh. 61
2.5. Cách thức thông tin sức khỏe trên báo Sức khỏe và Đời sống và kênh O2
Tivi. 65
2.5.1 Các hình thức thông tin sức khỏe trên báo Sức khỏe và Đời sống. 65
2.5.2 Cách thức thông tin sức khỏe trên kênh O2 Tivi 68
Chương 3: TÍNH VẤN ĐỀ THẢO LUẬN ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THÔNG TIN SỨC KHỎE TRÊN BÁO CHÍ HIỆN NAY 77
3.1. Nhận xét chung 77

3.1.1. Những ưu điểm nổi bật 77
3.1.2 Một số hạn chế của báo Sức khỏe và Đời sống và kênh O2 Tivi 82
3.2. Hướng nâng cao hiệu quả trong công tác thông tin sức khỏe bằng kênh
chuyên biệt. 83
3.2.1. Những mục tiêu chung 84
3.2.2. Những giải pháp chung 87
3.2.3. Kiến nghị đối với riêng báo Sức khỏe và Đời sống và kênh O2 Tivi . . 92
PHẦN KẾT LUẬN 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 98




3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Trong Tuyên ngôn Alm Alta, 1978, Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã
định nghĩa: “ Sức khoẻ là một tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh
thần và xã hội, chứ không phải chỉ là một tình trạng không có bệnh tật hay
thương tật”. Theo định nghĩa này thì sức khoẻ không phải chỉ là tình trạng
không có bệnh tật mà còn là tình trạng thoải mái về tinh thần. Chúng ta có thể
hiểu rằng đây là định nghĩa nói đến sức khoẻ của những con người cụ thể,
trong một giai đoạn lịch sử cụ thể.
Công tác chăm sóc sức khoẻ là một trong những “ quốc sách hàng đầu”
- điều này không chỉ được thừa nhận về mặt chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước mà đã biểu hiện cụ thể qua thái độ quan tâm sâu sắc của xã hội
cũng như chính thực tiễn sôi động những năm gần đây, khi mà người dân
ngày càng quan tâm đến sức khoẻ của chính mình.
Việc nâng cao nhận thức, giúp người dân có được cách hiểu đúng đắn
về sức khoẻ, cung cấp những tri thức khoa học về chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ,

cách phòng chữa bệnh để đạt được các chỉ số sức khoẻ ở mức cần có luôn
luôn là vấn đề nóng bỏng nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà môi trường
đất, nước, không khí đều bị ô nhiễm, khi mà các đại dịch lớn, những căn bệnh
nguy hiểm của nhân loại vẫn chưa được giải quyết được triệt để.
Có thể nói chưa bao giờ những thông tin về sức khoẻ lại chiếm nhiều
diện tích, thời lượng trên các báo, đài như hiện nay. Riêng truyền hình đã ra
đời một kênh truyền hình đầu tiên chuyên sâu về sức khoẻ O2Tivi lên sóng
vào ngày 8/8/2008.
Báo chí với tư cách là công cụ tuyên truyền đắc lực các chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước đã có những đóng góp đáng kể trong việc
thông tin, phản ánh thực trạng sức khoẻ của người dân hiện nay, cung cấp

4
những kiến thức về phòng, chữa bệnh, vệ sinh ăn uống, khả năng tiếp cận các
dịch vụ y tế, cải thiện không gian sống, những thành tựu y học trong công tác
chăm sóc sức khoẻ, phòng chữa bệnh, cảnh báo những vấn đề ảnh hưởng đến
sức khoẻ của con người…Tuy nhiên bên cạnh những thông tin có ý nghĩa tích
cực, đạt hiệu quả truyền thông cao còn có những thông tin không mang tính
khoa học ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức của người dân về sức khoẻ hoặc
chưa có cách thông tin đạt hiệu quả.
Việc khảo sát và tìm ra cách thức, định hướng thông tin về phạm trù
sức khoẻ đạt hiệu quả nhất có ý nghĩa lớn đối với xã hội và hoạt động tác
nghiệp của nhà báo.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, hiện nay chưa có một luận văn thạc sĩ báo chí nào nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu về cách thức thông tin phạm trù
sức khoẻ trên báo chí nói chung. Tuy nhiên đã có một số công trình nghiên
cứu đề tài báo chí với vấn đề chăm sóc sức khoẻ cộng đồng nhưng mới chỉ
dừng lại ở hệ thống báo chí của ngành Y tế hoặc đề cập đến một vấn đề nhỏ
trong phạm trù thông tin sức khoẻ. Sau đây là một số đề tài nghiên cứu đáng

quan tâm trong thời gian khoảng 10 năm trở lại đây:
- Đề tài “Báo cáo kết quả điều tra y tế Quốc gia 2001 – 2002” của Bộ Y
tế. Nội dung: Khảo sát, điểu tra và đánh giá chất lượng sức khỏe nhân dân
trong 2 năm 2001 – 2002. Mục đích của đề tài nhằm nắm bắt thực trạng tình
hình sức khỏe nói chung và kết quả của một số hoạt động y tế trong lĩnh vực
dự phòng nâng cao sức khỏe, nhưng không đề cập tới loại hình báo chí.
- Đề tài “Tuyên truyền giáo dục sức khỏe trên các phương tiện thông
tin đại chúng”. Luận văn tốt nghiệp cao học của học viên Đỗ Võ Tuấn Dũng
(khóa 7- cao học Báo chí –Phân viện Báo chí và Tuyên truyền). Đề tài cũng
đề cập đến thông tin sức khỏe nhưng chỉ dừng lại ở mức độ khái quát về tình

5
hình thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục sức khỏe trên các phương tiện
truyền thông đại chúng.
-“Những bài học từ KHHGĐ và sức khỏe sinh sản”. Tác giả Phyllis
Tilson Piotrow và Trung tâm truyền thông GDSK, Bộ Y tế. Đây là cuốn sách
nghiên cứu chuyên ngành xuất bản nội bộ, dành riêng cho cán bộ y tế có nội
dung đề cập tới những đánh giá, tổng kết về hoạt động chăm sóc sức khỏe
sinh sản trong đó có nói tới vấn đề tuyên truyền giáo dục sức khỏe sinh sản
- Báo Sức khoẻ và đời sống với công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân
của Bùi Thị Hạnh ( Khoá luận tốt nghiệp Khoa báo chí và truyền thông –
Trường ĐHKHXH và NV K42)
- Báo chí với chủ đề chăm sóc sức khoẻ sinh sản của Trần Xuân Thân (
Khoá luận tốt nghiệp Khoa báo chí và truyền thông – Trường ĐHKHXH và
NV K43)
- Đề tài “ Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trên báo chí hiện nay”.
Luận văn tốt nghiệp cao học năm 2008 của học viên Chu Thúy Ngà – Phân
viện Báo chí và Tuyên truyền).
Chính vì vậy, đề tài: “Thông tin sức khoẻ trên báo chí Việt Nam hiện
nay” vẫn là một vấn đề hết sức hữu ích đối với nhà báo- những người hoạt

động trên lĩnh vực thông tin, tuyên truyền.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là khảo sát: Báo Sức khoẻ và Đời sống
và Kênh truyền hình O2TV trong năm 2009.
Đối tượng của đề tài là nội dung và cách thức những thông tin về sức
khoẻ trên báo chí, thực trạng, tồn tại và giải pháp.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
- Phương pháp luận

6
Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của báo chí vô sản và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về báo chí. Các phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử sẽ được vận dụng trong suốt quá trình nghiên cứu và giải quyết vấn đề.
- Phương pháp công cụ
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ sử dụng một số phương pháp
công cụ như:
- Thống kê, phân loại để lựa chọn các tờ báo, bài báo có liên quan.
- Phỏng vấn sâu để thu thập ý kiến của những nhà quản lí báo chí, các
nhà báo về những vụ việc có liên quan.
- Phân tích, tổng hợp để rút ra những kết luận khoa học cần thiết.
5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
5.1. Nghiên cứu phạm trù thông tin sức khỏe trên báo chí Việt Nam
hiện nay nhằm khái quát hóa và chuẩn hóa hệ thống lý luận về lí thuyết kênh,
chương trình truyền thông chuyên biệt và nhu cầu của công chúng chuyên biệt
đối với vấn đề thông tin sức khỏe. Kết quả nghiên cứu sẽ làm cơ sở cho việc
nêu lên những vấn đề lý luận về hệ thống các kênh thông tin chuyên biệt ở
Việt Nam hiện nay.
5.2.Với việc khảo sát đầy đủ, toàn diện, có hệ thống cách thức thông
tin về phạm trù sức khoẻ trên báo chí, đề tài cung cấp một bức tranh toàn cảnh

về tình hình thông tin sức khoẻ trên báo chí hiện nay, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả truyền thông.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là nguồn tư liệu tham khảo chính xác,
có hệ thống, đầy đủ cho những nhà báo đang hoạt động trên lĩnh vực thông tin
nói chung và thông tin sức khoẻ nói riêng thông qua các kênh chuyên biệt như
O
2
TV, Báo Sức khỏe và Đời sống… đồng thời là nguồn tài liệu tham khảo cho
những nhà hoạch định chính sách của ngành Y tế và góp phần làm cho chất

7
lượng các sản phẩm báo chí ngày càng được nâng cao, phục vụ tốt hơn nhu
cầu của công chúng.

6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn có
nội dung chính gồm 3 chương;
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thông tin sức khỏe
Chương 2: Vấn đề thông tin sức khỏe trên báo chí Việt Nam hiện
nay
Chương 3: Tính vấn đề cần thảo luận để nâng cao hiệu quả thông
tin sức khỏe.









8
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THÔNG TIN SỨC KHỎE
1.1 Các quan niệm về thông tin sức khoẻ
1.1.1 Khái niệm về sức khoẻ
Trong đời sống xã hội, một lĩnh vực liên quan đến tất cả mọi người, đó
là sức khoẻ. Có sức khoẻ thì mới có điều kiện để duy trì sự tồn tại và phát
triển của từng con người và toàn xã hội. Vậy sức khoẻ là gì?
Trong bài viết Sức khoẻ và thể dục năm 1946, Hồ Chí Minh cho rằng:
“ khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khoẻ” (Hồ Chí Minh
toàn tập, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr212)
Theo Từ điển tiếng Việt: sức khoẻ là trạng thái không có bệnh tật, cảm
thấy thoải mái về thể chất, thư thái về tinh thần.
Hiến chương năm 1948 của Tổ chức Y tế thế giới (World Health
Organisation- WHO) cho rằng: “Sức khoẻ là trạng thái hoàn toàn thoải mái về
thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không chỉ là không có bệnh tật”
Như vậy, sức khỏe là trạng thái phát triển hài hòa của mỗi con người cả
về thể lực, trí tuệ là khả năng hòa nhập cộng đồng, chứ không chỉ là tình trạng
không mắc bệnh tật, ốm đau hoặc không bị tàn phế.
Sức khỏe bao gồm các thành tố sau:
+ Sức khỏe thể chất: bao gồm thể lực, sức nhanh, sức bền bỉ dẻo dai, cơ
thể phát triển cân đối hài hòa, các hằng số sinh lý trong giới hạn bình
thường không có bệnh tật, ốm đau hoặc tàn phế
+ Sức khỏe tâm thần: không mắc các bệnh thần kinh hay thiểu năng trí
tuệ, có khả năng tư duy tốt.
+ Sức khỏe xã hội: có khả năng hòa nhập với xã hội, cộng đồng trong
sinh hoạt, học tập và lao động.

9

Sức khỏe có vai trò rất quan trọng đối với con người và xã hội, sức
khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Điều này được
thể hiện trong nhiều văn bản được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa VIII kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 30/06/1989 ghi rõ: “Sức
khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người, là một trong những điều kiện cơ bản
để con người sống hạnh phúc, là mục tiêu và là nhân tố quan trọng trong việc
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ Tổ Quốc” [25, tr9]
Nghị quyết số 46 -NQ/TW ngày 23/02/1995 của Bộ Chính trị (khóa IX)
về công tác bảo vệ cuộc sống và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình
mới, tiếp tục khẳng định: “ Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và
của toàn xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là hoạt
động nhân đạo trực tiếp đảm bảo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ Quốc, là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và
Nhà nước” [2, tr9]
Ngạn ngữ Pháp có câu: “ Người có sức khỏe tốt là người giàu mà
không biết mình giàu có. Nếu ai không may ốm đau hoặc mắc bệnh hiểm
nghèo thì từ người giàu có thể trở thành nghèo, từ nghèo trở thành túng quẫn
hơn do phải chi phí cho khám chữa bệnh.”
Theo số liệu điều tra mức sống dân cư của Tổng cục Thống kê năm
2007 cho thấy ở Việt Nam tỷ lệ hộ gia đình bị rơi vào thảm cảnh do phải chi
phí khám chữa bệnh (chỉ số Cata- Catastrophic Health Distribution là chỉ số y
tế thảm họa) dao động từ 5,8% năm 1998 lên đến 8,2% năm 2004, khoảng 5%
hộ gia đình rơi vào tình trạng nghèo do chi tiêu y tế (chỉ số Impoor- Health
Impoor ishvement là chỉ số nghèo hóa do y tế)
Sức khỏe làm cho con người sống thoải mái, sảng khoái và hạnh phúc.
Đồng thời, sức khỏe góp phần sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần tốt
cho bản thân con người và cho xã hội. Văn kiện Đại hội lần thứ VII của Đảng

10
Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định: “ Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu

của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản trí tuệ và vật
chất cho xã hội”.
Sức khỏe có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia dân tộc. Có sức khỏe thì có điều kiện nâng cao năng suất lao động.
Sức khỏe tốt sẽ giảm chi phí cho chăm sóc sức khỏe, cho các dịch vụ y tế và
đặc biệt giảm chi phí cho khám chữa bệnh, nhờ đó tăng tích lũy để phát triển
kinh tế, có sức khỏe thì làm tăng khả năng sáng tạo và hưởng thụ các giá trị
văn hóa, tinh thần trong xã hội.
Sức khỏe có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, dân tộc. Có sức khỏe thì có điều kiện nâng cao năng suất lao động.
Sức khỏe tốt sẽ giảm chi phí cho chăm sóc sức khỏe, cho các dịch vụ y tế, và
đặc biệt là giảm chi phí cho khám chữa bệnh, nhờ đó tăng tích lũy để phát
triển kinh tế. Có sức khỏe thì làm tăng khả năng sáng tạo và hưởng thụ các giá
trị văn hóa tinh thần trong xã hội.
Như vậy, người có sức khỏe là người phải hội tụ đủ 3 thành phần: sức
khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần, sức khỏe xã hội. Sức khỏe thể chất được
hiểu là tình trạng bình thường về thể lực, các chỉ số sinh lý của cơ thể luôn
trong trạng thái ổn định, không có dấu hiệu bất thường (ví dụ ở người trưởng
thành thì huyết áp trung bình 120/80 mmHg; nhịp tim trung bình 70 lần/phút,
hồng cầu 3,7 triệu…). Các chỉ số sinh lý này được đo, đếm thông qua các biện
pháp thăm khám y tế như đo huyết áp, đếm nhịp tim, xét nghiệm hồng cầu…
Sức khỏe tâm thần được hiểu một cách trừu tượng hơn, đó là tình trạng
tinh thần luôn cảm thấy thoải mái, luôn vui vẻ (cảm thấy sung mãn, tràn đầy
sức sống, làm việc không mệt mỏi, ăn ngon, ngủ tốt, không lo lắng gì…).
Trên thực tế có những người không hề có biểu hiện của bệnh tật (các chỉ số
sinh lý đều hoàn toàn bình thường khi thực hiện các biện pháp thăm khám y

11
tế), thế nhưng lại có những bất an về tâm thần như luôn có cảm giác mệt mỏi,
chán an, mất ngủ, hoặc nặng hơn thì bị các chứng như hoang tưởng, trầm cảm

thì vẫn là người không có sức khỏe…Sức khỏe tâm thần thường không thể
đánh giá được bằng các biện pháp y tế thông thường ( đo, đếm, xét nghiệm…)
mà phải được đánh giá qua các phương pháp thăm khám chuyên ngành tâm lý
học hoặc tâm thần học.
Sức khỏe xã hội được đánh giá ở một phạm vi rộng hơn, không chỉ đơn
thuần là tình trạng sức khỏe thể chất hay sức khỏe tâm thần mà còn có sự liên
tưởng tới một không gian rộng lớn hơn nằm trong một môi trường tự nhiên và
xã hội mà người đó đang sống. Ví dụ: Một người sẽ không được coi là khỏe
mạnh khi bị thất nghiệp, bị nghèo đói. Một người cũng không được xem là
khỏe mạnh khi phải sống trong một môi trường xã hội thiếu lành mạnh (sống
chung với các tệ nạn xã hội: ma túy, mại dâm…) hoặc trong một môi trường
thiên nhiên không đảm bảo (vệ sinh môi trường kém, ô nhiễm không khí,
nước…). Một người cũng không được xem là khỏe mạnh khi sống trong điều
kiện thiếu thốn các điều kiện sống tối thiểu (theo phân loại đói nghèo của
UNDP thì người không đảm bảo điều kiện sống tối thiểu).
Dưới góc độ triết học, sức khỏe là một thuộc tính của sự sống. Sống là
phương thức tồn tại của những thể protit thông qua quá trình trao đổi chất.
Mọi sinh vật sinh ra, tồn tại và phát triển đều cần có quá trình trao đổi chất,
quá trình đó chính là sức khỏe. Sức khỏe gắn liền với sự sống. Vì vậy, sức
khỏe là một thuộc tính của sự sống và sức khỏe con người là thuộc tính của sự
sốn loài người. Vấn đề đặt ra là sức khỏe tồn tại ở trạng thái nào, mức độ nào,
cần tác động gì để có sức khỏe tốt.
Trong quan niệm của triết học phương Đông thì sức khỏe là một thực
thể bao gồm nhiều yếu tố tồn tại trong một trạng thái cân bằng động (con
người luôn hòa đồng với vũ trụ và sức khỏe của con người là biểu hiện của sự

12
cân bằng giữa âm và dương). Còn theo quan niệm của triết học phương Tây
thì cơ thể con người được cấu tạo bởi tế bào và mô. Tế bào là đơn vị cấu trúc
cơ bản nhỏ nhất của cơ thể và cơ thể con người được điều hòa bởi hệ thần

kinh và hệ nội tiết để tạo ra trạng thái cân bằng. Nhưng nhìn chung cả triết
học phương Đông và triết học phương Tây đều quan niệm sức khỏe là một
trạng thái cân bằng.
Tóm lại, nói đến sức khỏe là nói đến các yếu tố tác động đến toàn bộ
đời sống vật chất và tinh thần của một con người, chứ không chỉ đơn giản là
khám không thấy có bệnh. Người khỏe mạnh tất nhiên là người không có
bệnh, nhưng nếu như có bệnh mà đã được chữa khỏi thì vẫn có thể là người
có sức khỏe.
1.1.2 Các quan niệm về thông tin sức khỏe
Theo Tổ chức Y tế thế giới: Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện
về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng
không có bệnh hay thương tật. (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Thông tin sức khỏe có nhiều định nghĩa khác nhau theo nhiều cách
quan niệm. Thông tin sức khỏe đó là các thông tin về tình trạng thể chất, tinh
thần và các quan hệ xã hội.[Bách khoa Y học]
Các chuyên gia y tế công cộng cho rằng định nghĩa này chưa đầy đủ, và
họ cho rằng thông tin sức khỏe ngoài các thông tin về thể trạng còn một số
thành phần khác trong sức khỏe con người đó là thông tin về dinh dưỡng, tinh
thần và tri thức.
Nói tóm lại theo quan điểm này thì thông tin sức khỏe là thông tin về
nhiều lĩnh vực nhỏ nhưng có thể chia ra các phần: dịch tễ học, sinh thống kê
và dịch vụ y tế, những vấn đề liên quan đến môi trường, xã hội, nhân chủng
học và sức khỏe nghề nghiệp.

13
Ở nước ta, việc chăm lo cho sức khỏe người dân luôn được quan tâm và
câu nói của Hồ Chủ Tịch: “Mỗi người dân khỏe mạnh là cả nước khỏe mạnh,
mỗi người dân yếu ớt là cả nước yếu ớt” đã trở thành một quan điểm trong
vấn đề chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Quan điểm này đã xuyên
suốt các quá trình lịch sử cách mạng, bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam

XHCN. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VII đã nêu rõ quan điểm này: “Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người
và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Vì vậy chúng ta phấn đấu để mọi người đều được quan tâm chăm
sóc sức khỏe”.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ mối liên hệ
mật thiết giữa vai trò của cá nhân và vai trò của cộng đồng, trong đó có vai trò
của quản lý Nhà nước trong chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Mối liên hệ này đã một lần nữa được nhắc lại trong Nghị quyết 46, Bộ chính
trị (Ban chấp hành TƯ khóa IX) về chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe
nhân dân trong tình hình mới.
Trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân cũng đã
được cụ thể hóa thông qua 5 quan điểm chỉ đạo nhất quán (Nghị quyết số
27/CP về định hướng chiến lược công tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức
khỏe)
Một là: Con người là nguồn tài nguyên quý báu nhất quyết đinh sự phát
triển của đất nước, trong đó sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và
của toàn xã hội, cũng là một trong những niềm hạnh phúc lớn nhất của mỗi
người, mỗi gia đình. Vì vậy đầu tư cho sức khỏe để mọi người đều được chăm
sóc sức khỏe chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, mỗi gia đình.

14
Hai là: Bản chất nhân đạo và định hướng xã hội chủ nghĩa của hoạt
động y tế đòi hỏi sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe. Thực hiện sự công
bằng là bảo đảm cho mọi người dân đều được chăm sóc sức khỏe, phù hợp
với khả năng kinh tế xã hội, đồng thời Nhà nước có chính sách khám chữa
bệnh miễn phí và giảm phí đối với người có công với nước, người nghèo,
người sống ở các vùng có nhiều khó khăn và đông bào dân tộc thiểu số.
Ba là: Dự phòng tích cực và chủ động là quan điểm xuyên suốt quá

trình xây dựng và phát triển nền y tế Việt Nam. Quan điểm dự phòng tích cực
phải được nhận thức sâu sắc và vận dụng trong việc tạo ra lối sống lành mạnh
và văn minh, bảo đảm môi trường sống, lao động và học tập có lợi cho việc
phòng bệnh và tăng cường sức khỏe, chủ động phòng chống các tác nhân có
hại cho sức khỏe trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa.
Bốn là: Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc. Y học cổ
truyền là một di sản văn hóa của dân tộc cần được bảo vệ phát huy và phát
triển. Triển khai mạnh mẽ việc nghiên cứu ứng dụng và hiện đại hóa y học cổ
truyền kết hợp với y học hiện đại, nhưng không làm mất đi bản chất của y học
cổ truyền Việt Nam. Tăng cường quản lý Nhà nước trong lĩnh vực y học cổ
truyền, ngăn chặn và loại trừ những người lợi dụng chính sách của Đảng, Nhà
nước đối với y học cổ truyền, gây tổn hại đến sức khỏe của nhân dân.
Năm là: Xã hội hóa sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân là trách
nhiệm của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, của các cấp ủy Đảng,
chính quyền, các ngành , các đoàn thể, các tổ chức xã hội. Các cấp ủy Đảng,
chính quyền, các đoàn thể có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, huy động các
nguồn lực, động viên toàn xã hội tham gia công tác bảo vệ và chăm sóc sức
khỏe nhân dân. Đa dạng hóa các hình thức tổ chức chăm sóc sức khỏe (Nhà
nước, dân lập và tư nhân) trong đó y tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Phát
triển các loại hình chăm sóc sức khỏe nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao

15
và đa dạng của nhân dân, trong điều kiện nguồn lực của Nhà nước dầu tư cho
y tế còn hạn chế. Khuyến khích, hướng dẫn và quản lý tốt hoạt động của các
cơ sở y tế dân lập, y tế tư nhân nhằm mục tiêu thiết thực phục vụ nhu cầu
khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân, chống mọi biểu hiện
tiêu cực trong các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Năm quan điểm này cũng phù hợp với Chương trình phát triển Liên
Hợp quốc: đã nêu ra 5 nhân tố để phát triển nhân lực, còn gọi là 5 nhân tố
phát triển: giáo dục đào tạo con người để có tri thức khoa học ngày càng cao,

con người muốn phát triển tài năng thì phải có sức khỏe, muốn vậy phải có đủ
dinh dưỡng; con người phải được sống trong môi trường trong sạch; cả về
môi trường tự nhiên và xã hội; con người phải có việc làm; con người phải
được giải phóng. Chính xuất phát từ chiến lược con người trong phát triển
nguồn nhân lực mà chúng ta càng thấy vai trò quan trọng của sức khỏe và
công tác chăm sóc sức khỏe.
Hệ thống phương tiện truyền thông đại chúng mà đặc biệt là các loại
hình báo chí đã góp phần to lớn trong việc phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước ta. Thực tế chứng minh đối với vấn đề liên quan đến sức khỏe : con
người muốn biết nhiều hơn về sức khỏe của mình; Con người muốn trao đổi
nhiều hơn về sức khỏe với bạn bè và gia đình; Muốn có thông tin về sức khỏe
qua các phương tiện thông tin đại chúng; Con người sẵn sàng chuyển đổi
hành vi đối với sức khỏe của họ.
Qua báo chí người dân thu nhận được thông tin về đường lối, chính
sách về y tế của Nhà nước và cũng qua báo chí người dân có thông tin phản
hồi đến các nhà quản lý hoạch định chính sách. Ví dụ, với chủ trương tăng
viện phí của ngành Y tế, báo chí cũng đã phản ánh thông tin nhiều chiều từ ý
kiến của các cấp lãnh đạo đến tâm tư nguyện vọng của người dân hay vấn
đề tăng giá thuốc, luật bảo hiểm xã hội Các bài báo, các tác phẩm phát

16
thanh, truyền hình đã đưa thông tin, phân tích nguyên nhân, đề ra giải pháp
cho một số vấn đề vướng mắc. Trên báo chí cũng luôn cập nhật, đang tải
những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y tế trong nước cũng như trên
thế giới. Ngày nay, những thách thức về sức khỏe của thế kỷ XXI là vô cùng
to lớn. Từ HIV/AIDS, ô nhiễm môi trường, những dịch bệnh mới đang đe dọa
sức khỏe của con người. Những thách thức này vượt biên giới quốc gia. Việc
đối mặt với những thách thức này đòi hỏi cả quyết tâm chính trị và sự hiểu
biết chuyên môn, đặc biệt cần phải tuyên truyền để tất cả mọi người cùng hợp
sức phòng chống bệnh tật cho bản thân, cho cộng đồng và cho toàn xã hội.

1.2.Các loại phạm trù thông tin sức khỏe
Như đã trình bày, thông tin sức khỏe có nhiều dạng khác nhau. Tựu
trung lại các phạm trù thông tin sức khỏe xuất hiện trên báo chí nhiều ở các
dạng sau:
1. Kiến thức về sức khỏe
2. Vấn đề sử dụng thuốc chữa bệnh.
3. Theo dõi và phân tích tình hình sức khoẻ
4. Giám sát dịch tễ học / phòng ngừa và kiểm soát dịch
5. Xây dựng chính sách và kế hoạch y tế
6. Quản lý có tính chiến lược các hệ thống và dịch vụ sức khỏe
7. Quy chế và thực hành pháp luật để bảo vệ sức khỏe
8. Phát triển nguồn nhân lực và lập kế hoạch trong y tế
9. Tăng cường sức khỏe, sự tham gia của xã hội trong công tác chăm
sóc sức khỏe và làm cho người dân có ý thức thực hiện được đó là quyền lợi
của mình.
10. Đảm bảo chất lượng dịch vụ sức khỏe cho cá nhân và cho cộng
đồng

17
11. Nghiên cứu, phát triển và thực hiện các giải pháp y tế công cộng
mang tính chất đổi mới
Như vậy, thông tin sức khỏe cũng giống như giáo dục chung đó là quá
trình tác động nhằm thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành của con người.
Phát triển những thực hành lành mạnh mang lại tình trạng sức khỏe tốt nhất
có thể được cho con người.
Thông tin sức khỏe cung cấp các kiến thức mới làm cho đối tượng được
tiếp nhận hiểu biết rõ hơn các vấn đề sức khỏe bệnh tật, từ đó họ có thể nhận
ra các vấn đề sức khỏe bệnh tật liên quan đến bản thân, gia đình, cộng đồng
nơi họ đang sinh sống, dẫn đến thay đổi tích cực giải quyết các vấn đề bệnh
tật sức khỏe

Có thể nhận thấy phạm trù sức khỏe nhấn mạnh đến 3 lĩnh vực của sức
khỏe là:
1. Kiến thức của con người về sức khỏe
2. Thái độ của con người về sức khỏe
3. Thực hành của con người về sức khỏe
Cũng từ định nghĩa trên cho thấy thông tin sức khỏe là một quá trình
nên cần tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài bằng nhiều biện pháp khác
nhau. Vì vậy, để thực hiện công tác thông tin sức khỏe cần có sự đầu tư thích
đáng, kiên trì thì mới đem lại hiệu quả cao.
Thông tin sức khỏe không chỉ là cung cấp thông tin một chiều mà là
quá trình tác động qua lại hai chiều và hợp tác giữa người thông tin sức khỏe
và đối tượng được tiếp nhận thông tin sức khỏe. Ở đây vai trò của thông tin
sức khỏe là tạo những hoàn cảnh thuận lợi cho mọi người tự giáo dục mình.
Biến quá trình thông tin thành quá trình tự học, quá trình đó diễn ra thông qua
sự nỗ lực của người học với sự giúp đỡ, tạo ra hoàn cảnh thuận lợi của người
cung cấp thông tin

18
Người làm công tác thông tin sức khỏe không chỉ cung cấp cho công
chúng của mình thông tin mà còn thu nhận thông tin phản hồi để kịp thời điều
chỉnh bổ sung những thông tin thiếu sót làm cho các chương trình thông tin
sức khỏe thêm sinh động và thu hút sự quan tâm của cộng đồng.
Thông tin sức khỏe không chỉ là cung cấp các thông tin chính xác , đầy
đủ về sức khỏe bệnh tật mà còn nhấn mạnh đến các yếu tố khác ảnh hưởng
đến hành vi sức khỏe con người như là: nguồn lực hiện có, sự lãnh đạo của
cộng đồng, hỗ trợ xã hội, kỹ năng tự chăm sóc sức khỏe.
Qua kết quả khảo sát về thực trạng công tác truyền thông giáo dục sức
khỏe trên toàn quốc của Trung tâm Truyền thông Giáo dục sức khỏe cho thấy:
thông tin sức khỏe đến được với người dân chủ yếu là thông qua cán bộ y tế
chiếm 92,3%, hệ thống phương tiện truyền thông đại chúng (Đài phát thanh

truyền hình và hệ thống loa truyền thanh) có thể đưa thông tin y tế đến 74,4%
người dân, sách báo chiếm 31,8%. Như vậy chúng ta có thể thấy tác động của
truyền thông báo chí đối với vấn đề sức khỏe là khá cao.[2]
Ở Việt Nam có một số kênh thông tin chuyên biệt về sức khỏe được
công chúng rất quan tâm, đặc biệt là các tờ báo, tạp chí của ngành Y tế. Hiện
nay có hẳn một kênh truyền hình chuyên biệt về sức khỏe (O2 TV).
1.3. Các quan niệm về kênh truyền thông chuyên biệt
Cùng với sự phát triển và ứng dụng rộng rãi của mạng lưới truyền
thông và công nghệ thông tin, nhiều kênh thông tin chuyên biệt đang có sự
phát triển mạnh mẽ trên thế giới hiện nay. Những kênh truyền thông chuyên
biệt này sẽ trở thành trung tâm thu thập và sản sinh ra nhiều tài nguyên thông
tin khác nhau, là cầu nối cho sự trao đổi giữa các chuyên gia, thủ thư và bạn
đọc, là công cụ khám phá, tìm kiếm và truy xuất thông tin và là mô hình hiện
đại nhằm cung cấp những dịch vụ thông tin chuyên biệt ở mức độ cao. Sự
xuất hiện của kênh thông tin chuyên biệt không chỉ tạo ra một cơ hội mới cho

19
sự phát triển thông tin , mà còn đặt ra những yêu cầu cao hơn trong việc cải tổ
những phương thức thông tin truyền thống, đặc biệt là phát triển một cách tiếp
nhận thông tin phi đại chúng (non-communication) ở trình độ cao.
Nhiều định nghĩa đã được công bố trong giới học giả toàn cầu về kênh
truyền thông chuyên biệt. Đây là một số định nghĩa tiêu biểu:
Một số thành viên Hiệp hội Truyền thông Số Hoa kỳ (Digital
Communication Federation) đã đưa ra một định nghĩa, " kênh truyền thông
chuyên biệt là các tổ chức cung cấp tài nguyên, gồm các nhân viên chuyên
biệt giúp lựa chọn, tổ chức, cung cấp khả năng truy cập thông minh, chỉ dẫn,
phân phối, bảo quản tính toàn vẹn và sự thống nhất của các bộ sưu tập thông
tin theo thời gian để đảm bảo làm sao chúng luôn sẵn có để truy xuất một
cách dễ dàng và kinh tế nhất đối với một cộng đồng người dùng hoặc một
nhóm cộng đồng người dùng" [53]

Hai học giả người Nga là Sokolova và Liyabev cho rằng kênh truyền
thông chuyên biệt là một hệ thống phân tán có khả năng lưu trữ và tận dụng
hiệu quả các loại thông tin khác nhau, giúp người dùng có thể truy cập và
được chuyển giao thông tin dễ dàng [49].
Nhiều học giả Trung Quốc lại có cùng quan điểm rằng "kênh truyền
thông chuyên biệt trên thực tế không phải là một thư viện ở góc độ mở rộng
không gian của nó; thay vào đó nó là trung tâm tài nguyên thông tin chứa
đựng tài nguyên thông tin đa phương tiện. Một kênh truyền thông chuyên biệt
tồn tại bằng việc số hóa thông tin, chẳng hạn như văn bản, ký tự, chữ viết,
hình ảnh, video và âm thanh, đồng thời cung cấp cho người dùng các dịch vụ
thông tin nhanh chóng và thuận tiện thông qua phương tiện truyền thông,
nhằm chuyển giao một hệ thống thông tin mà trong đó việc chia sẻ nguồn tài
nguyên luôn sẵn sàng"[50].

20
Mặc dù có sự khác nhau về lý giải trong nhiều định nghĩa, nhưng
những định nghĩa này lại tương tự nhau về mặt bản chất. Vì vậy, từ những
định nghĩa trên có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của kênh truyền thông
chuyên biệt như sau:
o Khả năng cung cấp khối lượng lớn tài nguyên thông tin khác nhau;
o Khả năng chuyển giao tài nguyên thông tin bằng nhiều phương tiện
khác nhau;
o Khả năng chuyển giao tài nguyên thông tin quan trọng;
o Khả năng quản lý tài nguyên thông tin phân tán;
o Khả năng chia sẻ thông tin ở cấp độ chuyên biệt cao;
o Có công nghệ tìm kiếm và truy xuất thông minh;
o Cung cấp dịch vụ thông tin không giới hạn thời gian và không gian.
Báo chí Việt Nam hiện nay đã có khá nhiều kênh truyền thông chuyên
biệt như Báo Sức khoẻ và Đời sống, Kênh truyền hình O2TV, Chương trình
Cửa sổ tình yêu của Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Dân tộc và Đời sống, kênh

VTV6, kênh VTV9, các chuyên mục của nhiều loại hình báo chí khác…
Một vài nét về một số kênh thông tin chuyên biệt:
Info TV Là kênh truyền hình chuyên biệt về kinh tế tài chính đầu tiên
của cả nước được phát sóng trên hệ thống truyền hình cáp và kỹ thuật số vệ
tinh DTH của Đài truyền hình Việt Nam. Đầu tháng 5/2009, InfoTV chính
thức có mặt trên hệ thống truyền hình Cáp Hà Nội. InfoTV là kênh truyền
hình chuyên biệt đầu tiên phủ sóng trên 2 hệ thống cáp lớn nhất tại Hà Nội.
Sau 3 năm lên sóng, InfoTV đã thu hút đông đảo sự quan tâm của khán giả.
InfoTV tập trung vào các chương trình mang đến cho khán giả cái nhìn toàn
cảnh về tình hình kinh tế tài chính trong và ngoài nước. Bản tin xuất nhập
khẩu, bản tin kinh tế, bản tin dịch vụ, bản tin chứng khoán, sàn bất động sản

21
Info, bản tin thị trường, Info đầu tư… thực sự đã trở thành kênh thông tin
thực sự hữu ích cho nhiều người, đặc biệt là doanh nhân và các nhà đầu tư.
Chương trình Sàn chứng khoán INFO truyền hình trực tiếp sàn giao
dịch chứng khoán từ 8h đến 11h hàng ngày với đường truyền leaseine trực
tiếp từ hai trung tâm giao dịch Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Chương trình còn
có sự tham gia phân tích của lãnh đạo các cơ quan ban ngành và các chuyên
gia chứng khoán. Bản tin Kinh tế trực tiếp vào 18h30 hàng ngày với thời
lượng 30 phút Bản tin mang đến cái nhìn toàn cảnh và chuyên sâu về kinh tế
tài chính và thị trường chứng khoán Việt Nam trong ngày và những tin quốc
tể nổi bật.
Nhà đầu tư tài ba của tuần, tháng và năm – những người thành công
nhất trong chứng khoán ảo sẽ được nhận những phần thưởng giá trị. Đây là
chương trình vừa có tính giải trí vừa mang lại những kinh nghiệm, trải nghiệm
quí báu miễn phí cho các nhà đầu tư.
InfoTV cũng giới thiệu một loại hình mua bán đặc biệt mới xuất hiện tại
Việt Nam - đó là siêu thị truyền hình với đường dây nóng 04-5377447 hàng
ngày từ 7h30 đến 22h00 và 24h trên website www.infotv.vn .

Bên cạnh đó, các chương trình như: siêu thị ô tô xe máy, siêu thị nhà
đất… lại đem đến cho người xem nhiều thông tin bổ ích về thị trường, mở ra
nhều lựa chọn cho khán giả.
Với mục đích đem lại sự giản tiện cho người dân và các nhà đầu tư,
chương trình Siêu thị nhà đất đã ra đời và trở thành một phương tiện giao dịch
bất động sản quen thuộc với khán giả. Thông tin bất động sản được hỗ trợ một
cách cụ thể bằng minh hoạ hình ảnh chi tiết về từng góc ngôi nhà. Chỉ qua

22
màn hình ti vi khán giả đã có những thông tin cần thiết về giá cả, địa chỉ và số
điện thoại liên hệ mà không cần tốn nhiều thời gian đi tìm hiểu.
InfoTV liên tục hoàn thiện và phát triển thêm nhiều chương trình mới,
chuyên sâu phân tích. Luôn đổi mới hình thức thể hiện, đội ngũ biên tập viên
năng động và am hiểu lĩnh vực kinh tế tài chính, các chương trình kênh
InfoTV – VCTV9 ngày càng thu hút sự quan tâm của khán giả và trở thành
kênh thông tin không thể thiếu của các nhà đầu tư.
VTV6 là kênh truyền hình dành cho thanh, thiếu niên, có độ tuổi từ 15-
25. Với người dẫn chương trình đều là những sinh viên. VTV6 tập trung vào
những mảng đề tài chính: thông tin kinh tế vĩ mô, đời sống văn hóa trẻ, cuộc
sống đời thường, các vấn đề xã hội cập nhật, số phận và vấqn đề cá nhân,
hướng dẫn kỹ năng sống, văn hóa thế giới và Việt Nam Các chương trình
của VTV6 tập trung phục vụ nhu cầu được trang bị kỹ năng xã hội, kiến thức
cuộc sống, hiểu biết xã hội, chia sẻ cảm xúc, bày tỏ quan điểm và giải trí của
giới trẻ với những chương trình nổi bật như: Nhà tròn, Phòng mạch dấu hỏi
xanh, Bản tin con cua, Thế hệ tôi.
Lên sóng từ ngày 29/4/2007, sau hơn 3 năm, VTV6 có hơn 30 chương
trình, thời lượng phát sóng 12 giờ mỗi ngày, trong đó có hơn 2 giờ phát mới
tự sản xuất, format chương trình đều do đội ngũ những người làm chương
trình của Ban Thanh thiếu niên nghiên cứu, sản xuất. Bắt đầu từ 7/9, VTV6
được phát rộng rãi trên kênh truyền hình quảng bá (analog). Kênh VTV6 là

bước phát triển tiếp nối chặng đường lịch sử đầy tự hào của Đài Truyền hình
Việt Nam. Với sứ mệnh hỗ trợ thanh niên Việt Nam trên con đường đi tới
thành công, trong ba năm qua, VTV6 đã đồng hành cùng tuổi trẻ Việt Nam
trong nhiều lĩnh vực của đời sống, khơi gợi những ước mơ, hoài bão lớn lao,
thúc đẩy giới trẻ hiện thực hóa những ý tưởng của mình. VTV6 đã trở thành

23
người bạn thân thiết với tuổi trẻ Việt Nam, bước đầu được xã hội ghi nhận
qua những ảnh hưởng tích cực tới tầng lớp thanh niên. Nhiều chương trình
của VTV6 đã được nhận giải thưởng cao trong các cuộc thi: Huy chương Vàng
Liên hoan truyền hình toàn quốc: Đối thoại trẻ, Thông điệp tuổi 20; Huy
chương Bạc Liên hoan truyền hình toàn quốc: Kết nối trẻ, Làm cha mẹ; Giải
Báo chí Quốc gia: Đối thoại trẻ, Khi người ta trẻ; Giải thưởng “ 1 trong 10
tác phẩm xuất sắc của báo chí Trung ương trong Cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”: Hành trình tuổi trẻ làm theo lời
Bác
Gần đây nhất, chương trình "Ngôi sao ước mơ" của VTV6 đã được lọt
vào danh sách đề cử giải ABU (giải thưởng của Hiệp hội Phát thanh Truyền
hình Châu Á Thái Bình Dương): giải dành cho chương trình giải trí và giải
đặc biệt của Ban giám khảo. Đây là lần đầu tiên, Đài Truyền hình Việt Nam
có tác phẩm truyền hình lọt vào danh sách đề cử của giải thưởng này. Với hơn
30 chương trình hiện có, thời lượng phát sóng 12 giờ/ngày, trong đó có hơn 2
giờ phát mới tự sản xuất, format chương trình đều do đội ngũ những người
làm chương trình của Ban Thanh thiếu niên nghiên cứu, sản xuất. VTV6
không ngừng nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của giới
trẻ.
Đặc điểm nổi bật của VTV6 là tính tương tác cao. Với VTV6, khán giả
không chỉ là người theo dõi chương trình mà còn trực tiếp tham gia, đóng góp
ý kiến cho các chương trình qua website vtv6.vn, thư điện tử, thư tay. Đặc
biệt nhiều chương trình trực tiếp của VTV6 như Đối thoại trẻ, Khi người ta trẻ,

Thư viện cuộc sống, Chat live khán giả có thể tương tác trực tiếp với chương
trình bằng cách gọi điện, gửi tin nhắn trao đổi với những người đang tham gia
chương trình.

×