Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo chí kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.82 MB, 152 trang )


1

2


5
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 5
1. Tính cấp thiết của đề tài 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 9
5. Phương pháp nghiên cứu 9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 11
6.1. Ý nghĩa lý luận 11
6.2. Ý nghĩa thực tiễn 11
7. Kết cấu luận văn 12
Chƣơng 1: Thông tin chỉ dẫn, Thông tin chỉ dẫn đầu tƣ và vấn đề thông
tin chỉ dẫn đầu tƣ trên báo chí kinh tế Việt Nam 14
1.1. Khái niệm 14
1.1.1 Quan niệm về chỉ dẫn-thông tin chỉ dẫn trên báo chí 14
1.1.2 Thông tin chỉ dẫn đầu tư 19
1.2 Quy trình thu thập thông tin đầu tư của nhà đầu tư và các dạng thông tin
chỉ dẫn đầu tư trên báo chí 20
1.3. Báo chí kinh tế với thông tin chỉ dẫn đầu tư 23
Tiểu kết chương 1 33
Chƣơng 2: Thực trạng thông tin chỉ dẫn đầu tƣ trên báo chí kinh tế Việt
Nam 34
2.1 Cách tổ chức nội dung thông tin chỉ dẫn đầu tư 34


2.1.1 Cách tổ chức nội dung thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo Đầu tư 34
2.1.1.1. Tổng quan về tờ báo 34
2.1.1.2 Các chuyên trang có chỉ dẫn đầu tư 35
2.1.2. Cách tổ chức nội dung thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo Thời báo Kinh
tế Sài Gòn 36
2.1.2.1. Tổng quan về tờ báo 36
2.1.2.2 Các chuyên trang có chỉ dẫn đầu tư 37
2.1.3 Cách tổ chức nội dung thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo Thời báo kinh
tế Việt Nam 38
2.1.3.1. Tổng quan về tờ báo 38
2.1.3.2 Các chuyên trang có thông tin chỉ dẫn đầu tư 39
2.2 Các thể loại báo chí được sử dụng chủ yếu để chỉ dẫn- tư vấn đầu tư 39
2.2.1 Tin 40
2.2.2 Phỏng vấn 47
2.2.3 Phân tích-bình luận 52
2.3 Cách thức và quy trình thực hiện thông tin chỉ dẫn đầu tư 55
2.3.1 Cách thức thực hiện thông tin chỉ dẫn đầu tư 55

6
2.3.2 Quy trình thực hiện thông tin chỉ dẫn đầu tư 58
2.3.2.1 Quy trình xác định nguồn tin chỉ dẫn đầu tư 58
2.3.2.2 Quy trình thu thập xử lý thông tin chỉ dẫn đầu tư của phóng viên 62
2.3.2.3 Quy trình thẩm định thông tin chỉ dẫn đầu tư của BTV và Thư ký tòa
soạn 63
2.3.2.4 Quy trình xử lý, biên tập, xuất bản thông tin chỉ dẫn đầu tư 63
2.3.2.5 Quy trình tiếp nhận các phản hồi, góp ý của nhà đầu tư-bạn đọc 64
2.3.2.6 Một số hạn chế chung của quy trình thực hiện thông tin chỉ dẫn đầu
tư 65
2.4 Đánh giá chung 66
2.4.1 Điểm mạnh 66

2.4.1.1 Về nội dung chỉ dẫn đầu tư 66
2.4.1.2 Về cách thức chỉ dẫn đầu tư 67
2.4.1.3 Về việc tổ chức tin bài có nội dung chỉ dẫn đầu tư 68
2.4.2 Điểm yếu 69
2.4.2.1 Về nội dung chỉ dẫn đầu tư 69
2.4.2.2 Về cách thức chỉ dẫn đầu tư 69
2.4.2.3 Về tổ chức tin bài có nội dung chỉ dẫn – tư vấn: 69
Tiểu kết chương 2 70
Chƣơng 3: Khảo sát nhu cầu thông tin chỉ dẫn của nhà đầu tƣ và ý kiến
của chuyên gia kinh tế 73
3.1 Khảo sát hiện trạng nhu cầu thông tin chỉ dẫn đầu tư tại Việt Nam 73
3.1.1 Đối tượng và phạm vi khảo sát 73
3.1.2 Nội dung khảo sát 75
3.1.2.1 Các kênh tìm kiếm thông tin chỉ dẫn đầu tư bao gồm: 75
3.1.2.2 Nguồn cung cấp thông tin chỉ dẫn đầu tư 75
3.1.2.3 Mối quan tâm về các dạng thông tin thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo
kinh tế Việt Nam 77
3.1.2.4 Đánh giá về chất lượng thông tin chỉ dẫn đầu tư được cung cấp trên
các báo kinh tế Việt Nam hiện nay 78
3.1.2.5 Có nên hình thành chuyên mục thông tin chĩ dẫn đầu tư trên báo kinh
tế? 80
3.2 Quan điểm trái chiều về việc hình thành chuyên mục thông tin chỉ dẫn
đầu tư trên báo kinh tế 82
Tiểu kết chương 3 90
Kết luận 91
Tài liệu tham khảo 100


7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

TTCDĐT: Thông tin chỉ dẫn đầu tư
Bộ KHĐT: Bộ Kế hoạch Đầu tư
HĐQT: Hội đồng quản trị
TBKTVN: Thời báo Kinh tế Việt Nam
TBKTSG: Thời báo Kinh tế Sài Gòn
ĐTNN: Đầu tư nước ngoài
NCMĐ: Nông Cổ Mín Đàm
TW: Trung Ương
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
UBND: Ủy ban nhân dân
VIR: Vietnam Investment Review



8
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thống kê số lượng tin có sử dụng thông tin chỉ dẫn đầu tư
trên báo Đầu tư (2008-2010)
Bảng 2.2: Thống kê số lượng tin có sử dụng thông tin chỉ dẫn đầu tư
trên Thời báo Kinh tế Việt Nam (2008-2010)
Bảng 2.2: Thống kê số lượng tin có sử dụng thông tin chỉ dẫn đầu tư
trên Thời báo Kinh tế Việt Nam (2008-2010)
Bảng 2.3 Thống kê số lượng tin có sử dụng thông tin chỉ dẫn đầu tư
trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn (2008-2010)
Bảng 2.4 Tỉ lệ bài phỏng vấn thông tin chỉ dẫn đầu tư trên tổng số bài
phỏng vấn sử dụng trên 3 tờ báo Đầu tư, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Thời báo
Kinh tế Việt Nam
Bảng 2.5 Tỉ lệ sử dụng bài phân tích-bình luận trên 3 ấn phẩm Thời
báo Kinh tế Sài Gòn, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Đầu tư
Bảng 3.1 Các kênh tìm kiếm thông tin chỉ dẫn đầu tư

Bảng 3.2 Nguồn cung cấp thông tin chỉ dẫn đầu tư
Bảng 3.3 Tỉ lệ quan tâm về các dạng thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo
kinh tế Việt Nam
Bảng 3.4 Đánh giá hình thức cung cấp thông tin chỉ dẫn đầu tư
Bảng 3.5 Đánh giá nội dung thông tin chỉ dẫn đầu tư
Bảng 3.6: Đánh giá tính thiết thực của thông tin chỉ dẫn đầu tư trên
báo chí kinh tế Việt Nam hiện nay
Bảng 3.7 Khảo sát có nên hình thành chuyên mục thông tin chỉ dẫn
đầu tư trên báo kinh tế?

9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế có vai trò rất quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trong quá trình chuyển đổi từ nền
kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường thì nguồn vốn đầu tư lại càng có
vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Sự phát trển kinh tế tại Việt Nam thời
gian qua không thể thiếu làn sóng đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài
nước, và đi kèm theo làn sóng này là nhu cầu tìm kiếm thông tin đặc biệt là
thông tin chỉ dẫn đầu tư (TTCDĐT) ngày càng tăng cao. Thông tin chỉ dẫn
đầu tư bao hàm từ cơ chế chính sách thu hút đầu tư, môi trường đầu tư, các
dự án kêu gọi đầu tư, các mảng thị trường tiềm năng
Những năm gần đây, việc chỉ dẫn - tư vấn trên báo chí Việt Nam đã
xuất hiện nhiều nhưng phần lớn là dành cho kiến thức về sức khoẻ, giải trí,
nông nghiệp, tình cảm như về cách thức lựa chọn sản phẩm, về hôn nhân gia
đình,… Thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo chí kinh tế Việt Nam xuất hiện
cùng lúc với sự ra đời của dòng báo chí chuyên ngành kinh tế, nhưng vẫn
còn khiêm tốn. Nhu cầu tìm kiếm thông tin, và thông tin chỉ dẫn đầu tư nói
riêng của các nhà đầu tư nhằm làm cơ sở đưa ra các quyết định đầu tư một
cách phù hợp là nhu cầu có thực và đang ngày càng trở nên cấp thiết.

Thông tin chỉ dẫn đầu tư không chỉ giúp cho những nhà đầu tư tiềm
năng tìm hiểu, thăm dò môi trường đầu tư tại Việt Nam, tìm kiếm cơ hội
phát triển kinh doanh, mà còn hỗ trợ các nhà đầu tư hiện tại trong quá trình
hoạt động và mở rộng đầu tư tại Việt Nam. Thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo
chí còn là “lăng kính” giúp các cơ quan quản lý trong nước nhìn nhận thực tế
hoạt động đầu tư, dự báo “điểm nóng” thị trường, định hình nhu cầu của
doanh nghiệp để kịp thời có chính sách hỗ trợ. Điểm đặc biệt của thông tin
chỉ dẫn đầu tư trên báo chí là không khô khan như trong các văn bản nhà
nước mà luôn mang hơi thở thực tế và có tính chất phân tích, bình luận.

10
Những bài học kinh nghiệm đầu tư cũng thường được các báo chuyên về
kinh tế tìm hiểu, cung cấp dưới góc độ chuyên sâu, mang lại những chỉ dẫn
tham khảo cần thiết cho các nhà đầu tư.
Thông tin chỉ dẫn đầu tư có vai trò quan trọng và có tác động đến tiến
trình thu hút đầu tư tại Việt Nam, tuy nhiên, trong công việc hiện tại là một
phóng viên của báo Đầu tư, thông qua quá trình tiếp xúc trực tiếp với nhiều
nhà đầu tư trong và ngòai nước, người viết luận văn này nhận thấy các nhà
đầu tư hiện gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các thông tin chỉ dẫn
đầu tư một cách chuyên sâu. Bên cạnh đó, xét về phương diện báo chí học,
cũng chưa có một công trình nào nghiên cứu nào đánh giá thực trạng cung
cấp thông tin chỉ dẫn đầu tư tại thị trường Việt Nam trên kênh truyền thông
báo chí, từ đó, đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng thông tin chỉ
dẫn đầu tư cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trước thực tế này, với sự
quan tâm, hỗ trợ tích cực và tạo điều kiện của giảng viên hướng dẫn, tôi
mạnh dạn chọn đề tài “Thông tin chỉ dẫn đầu tƣ trên báo chí kinh tế Việt
Nam”(khảo sát trên một số tờ báo kinh tế tại Việt Nam như báo Đầu tư;
Thời báo kinh tế Sài Gòn; Thời báo kinh tế Việt Nam trong thời gian 2008-
2010) làm đề tài luận văn thạc sĩ ngành Báo chí học của mình.
Luận văn sẽ khảo sát về quy trình xử lý và cách thức tổ chức thông tin

chỉ dẫn đầu tư trên một số tờ báo kinh tế tại Việt Nam, từ đó phân tích ưu,
nhược điểm, thành công và hạn chế trong cách thức truyền tải thông tin trên
báo, từ đó nêu lên những kiến nghị, đề xuất nhằm cải tiến nội dung, và hình
thức chuyển tải thông tin nhằm nâng cao vai trò và tính hiệu quả của việc
đưa thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo kinh tế nói chung và trên báo Đầu tư
nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tại Việt Nam, nghiên cứu về Đầu tư và Luật Đầu tư nước ngòai là
một lĩnh vực nghiên cứu khá rộng, có tính liên ngành cao. Xét về góc độ

11
kinh tế học và luật học, đã có rất nhiều khảo sát, nghiên cứu ở các cấp từ
khóa luận, luận văn thạc sỹ đến luận án tiến sĩ tập trung khảo sát đánh giá
hiệu quả chính sách và thu hút đầu tư trong lĩnh vực kinh tế, đầu tư, tài
chính, nghiên cứu về quá trình hình thành phát triển Luật đầu tư nước ngòai,
phân tích các hiện trạng thu hút đầu tư nước ngòai của nước ta hoặc các địa
phương, trên các lĩnh vực trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp kinh tế, cải tiến
chính sách cho Chính phủ và các cơ quan chức năng nhằm nâng cao hơn nữa
nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam, tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào về
thông tin chỉ dẫn đầu tư.
Dưới góc độ báo chí học, các nghiên cứu về thông tin đầu tư mới chỉ
dừng ở khóa luận khảo sát về thực trạng tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam. Ví dụ như khóa luận “Thông tin vấn đề đầu tư nước ngòai tại Việt
Nam” (của Vũ Thiên Hương; “Một số vấn đề đầu tư nước ngòai tại Việt
Nam qua báo chí (Đầu tư-TBKTVN)” của Nguyễn Thị Lan Hương; “Bức
tranh về nền kinh tế thị trường Việt Nam qua báo TBKTVN” của Phạm Thu
Hà.
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu báo chí học cũng mới chỉ
đề cập đến một số vấn đề thông tin chung chủ yếu về vai trò của báo chí
trong thông tin kinh tế như “Báo chí tham gia cuộc đấu tranh bảo vệ chủ

quyền kinh tế đất nuớc” của Dương Ngọc Ánh, “Khối tạp chí kinh tế Việt
Nam trong tiến trình hội nhập và phát triển” của Trần Thị Thanh Hà, hay
phản ánh thông tin quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới “Báo chí
phản ánh quá trình Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)”
của Vũ Thị Hoa…
Các công trình nghiên cứu này khá thành công trong việc mô tả sự
đóng góp của báo chí trong quá trình truyền thông phục vụ công cuộc đổi
mới, tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước Tuy nhiên, cho đến
nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào dưới góc độ báo chí học nghiên

12
cứu về thông tin chỉ dẫn đầu tư qua nội dung thể hiện và hình thức thể hiện
trên báo chí kinh tế, trên cơ sở đó tìm hiểu nguyên tắc xây dựng, vận hành,
chỉ rõ những ưu, khuyết điểm của thông tin chỉ dẫn đầu tư hiện tại, phác họa
sơ khởi những nhu cầu thật sự về thông tin chỉ dẫn đầu tư của các nhà đầu
tư, đưa ra các đề xuất cải tiến nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin
chỉ dẫn đầu tư phục vụ công tác truyền thông báo chí một cách hiệu quả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn sẽ tập trung khảo sát những thông tin chỉ dẫn đầu tư trên
phương diện về quy trình xử lý và cách thức tổ chức thông tin chỉ dẫn đầu tư
trên một số tờ báo kinh tế tiêu biểu như báo Đầu tư, Thời báo Kinh tế Sài
Gòn, Thời báo Kinh tế Việt Nam. Những khảo sát này nhằm các mục đích
sau:
-Mục đích khoa học: Nghiên cứu sẽ hình thành một tổng hợp bước
đầu về thông tin chỉ dẫn đầu tư; Cách thức triển khai thông tin chỉ dẫn đầu
tư; Mức độ nhận diện, hiểu biết và triển khai thông tin chỉ dẫn đầu tư trên
báo Đầu tư; Thời Báo Kinh tế Sài Gòn và Thời báo Kinh tế Việt Nam.
-Mục đích kinh tế: Nghiên cứu sẽ đóng góp tích cực vào việc nâng
cao hiệu quả thông tin của tờ báo, để nâng cao chất lượng nội dung của ấn
phẩm. Kết quả nghiên cứu sẽ là tiền đề cho các cơ quan báo chí áp dụng,

nhằm đáp ứng yêu cầu của bạn đọc về mảng thông tin kinh tế đầu tư, giúp tờ
báo thu lợi nhuận và phát triển trong bối cảnh cạnh tranh thông tin như hiện
nay
-Mục đích ứng dụng: Nghiên cứu sẽ giúp các tờ báo kinh tế, đặc biệt
là báo Đầu tư-cơ quan ngôn luận của Bộ Kế hoạch Đầu tư, trong việc hoàn
thiện và nâng cao chất lượng, tiến tới cung cấp thông tin chỉ dẫn đầu tư theo
hướng chuyên biệt và phù hợp hơn với nhu cầu của bạn đọc và nhà đầu tư
trong và ngoài nước.

13
Để đạt được những mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Sơ bộ phác thảo một số vấn đề lý thuyết về thông tin chỉ dẫn đầu tư
và thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo chí kinh tế.
- Khảo sát về nội dung và hình thức các thông tin chỉ dẫn đầu tư trên
các báo kinh tế để nhằm phân tích, đánh giá ưu điểm và bất cập của thông tin
chỉ dẫn đầu tư đối với bạn đọc - nhà đầu tư.
- Dựa trên những vấn đề lý thuyết và thực tế đó để đề xuất một số biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo chí kinh tế
Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Thông tin chỉ dẫn đầu tư được thể hiện trên báo chí kinh tế Việt Nam
với đại diện là Đầu tư; Thời báo Kinh tế Sài Gòn; và Thời báo Kinh tế Việt
Nam trong giai đọan 2008-2010.
Thời báo Kinh tế Việt Nam; Thời báo Kinh tế Sài Gòn và Đầu tư được
xem là các ấn phẩm báo chí kinh tế đặc trưng. Thời báo Kinh tế Việt Nam là
tờ báo kinh tế hàng ngày tại Việt Nam duy nhất tính đến thời điểm tháng
11/2011, có quy mô phát hành trên cả nước; Thời báo Kinh tế Sài Gòn là
một trong những tờ báo kinh tế hàng đầu tại Việt Nam ra hàng tuần (vào thứ
Năm) và có quy mô phát hành trên cả nước; báo Đầu tư là cơ quan ngôn luận

của Bộ Kế hoạch Đầu tư, đây là tờ báo thông tin chuyên ngành về đầu tư
chính thống tại Việt Nam, được phát hành cách nhật (3 số/tuần vào thứ Hai,
thứ Tư và thứ Sáu) với quy mô phát hành trên cả nước.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước
Việt Nam về báo chí truyền thông.

14
Luận văn áp dụng một số phương pháp nghiên cứu công cụ như:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử và tài liệu thứ cấp; Phương pháp phân tích
nội dung, phỏng vấn sâu, phương pháp quan sát trực tiếp và phương pháp
trưng cầu ý kiến bằng bảng câu hỏi.
- Phƣơng pháp nghiên cứu tƣ liệu lịch sử: Kế thừa kết quả nghiên
cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu về những đề tài có
liên quan. Tổng hợp tất cả các quan điểm lý luận, thực tiễn liên quan đến đề
tài từ các văn bản pháp luật, tài liệu khoa học, sách báo, tạp chí Một điểm
hạn chế trong quá trình triển khai là do khoảng cách địa lý (học viên tại
Tp.HCM, thư viện khoa tại Hà Nội), do vậy việc tiếp cận, tìm kiếm các tư
liệu là một thách thức lớn.
- Phƣơng pháp phân tích nội dung: Phân tích, đánh giá về nội dung
và hình thức thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo chí kinh tế đặc thù như Thời
báo Kinh tế Sài Gòn; Thời báo Kinh tế Việt Nam và báo Đầu tư dưới góc độ
người nghiên cứu báo chí.
- Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: Đề tài sẽ phỏng vấn sâu các chuyên
gia về nhu cầu của nhà đầu tư trong việc đón nhận thông tin chỉ dẫn đầu tư,
đồng thời thu thập ý kiến đánh giá của họ về chất lượng thông tin, chỉ dẫn
đầu tư trên báo chí kinh tế nói chung, và các báo Thời báo Kinh tế Sài Gòn,
Thời báo Kinh tế Việt Nam và Đầu tư nói riêng.
Tùy theo điều kiện khách quan, đề tài thực hiện phỏng vấn trực tiếp &

phỏng vấn qua điện thoại. Phỏng vấn thực hiện với những chuyên gia có
nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu về vấn đề cần trao đổi, những người nắm
một số vị trí quan trọng có tính quyết định đầu tư và những quyết định này
được xây dựng từ nền tảng những thông tin chỉ dẫn đầu tư cần thiết.
- Phƣơng pháp quan sát trực tiếp: Quan sát là tri giác trực tiếp hoặc
gián tiếp và ghi chép lại những nhân tố có liên quan đến đối tượng và mục

15
đích nghiên cứu. Theo đó đề tài sẽ thực hiện quan sát quy trình tổ chức thực
hiện thông tin chỉ dẫn đầu tư trên các báo kinh tế đặc thù như Thời báo Kinh
tế Sài Gòn; Thời báo Kinh tế Việt Nam và tại báo Đầu tư.
- Phƣơng pháp trƣng cầu ý kiến bằng bảng câu hỏi: Quy trình này
sử dụng một bảng câu hỏi đã được quy chuẩn dùng để hỏi chung cho tất cả
những đối tượng nằm trong mẫu điều tra đã chọn. Phương pháp này cho
phép trong một khoảng thời gian nhất định, thu thập ý kiến của nhiều người,
trên cơ sở đó tổng hợp lại để đưa ra một đánh giá về nhu cầu và tính cần thiết
của thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo kinh tế nói chung và các báo Thời báo
Kinh tế Sài Gòn; Thời báo Kinh tế Việt Nam và báo Đầu tư nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn trình bày lý luận báo chí về thông tin chỉ dẫn đầu tư, mang
đến một cái nhìn mới về cách thức thực hiện cung cấp thông tin chỉ dẫn đầu
tư trên báo Thời báo Kinh tế Sài Gòn; Thời báo Kinh tế Việt Nam và Đầu tư
nói riêng và báo chí kinh tế nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua nghiên cứu thực tiễn thông tin chỉ dẫn đầu tư của một số báo chí
kinh tế đặc thù như Thời báo Kinh tế Sài Gòn; Thời báo Kinh tế Việt Nam và
báo Đầu tư, so sánh với các báo khác, luận văn sẽ cung cấp một cái nhìn
biện chứng về thông tin chỉ dẫn đầu tư một cách khái quát cho phóng viên,
biên tập viên. Qua đó, giúp quá trình tác nghiệp, thực hiện thông tin chỉ dẫn

đầu tư của phóng viên kinh tế cùng bộ phận biên tập sẽ hoàn thiện hơn, nhất
là đối với phóng viên, biên tập viên trong các cơ quan báo chí kinh tế nói
chung và cơ quan báo Thời báo Kinh tế Sài Gòn; Thời báo Kinh tế Việt Nam
và báo Đầu tư nói riêng.

16
Thông qua việc phân tích các ưu, nhược điểm, thành công và hạn chế
của thông tin chỉ dẫn đầu tư trên các báo kinh tế về quy trình và hình thức
thể hiện thông tin chỉ dẫn đầu tư, luận văn hướng đến đưa ra các ý kiến để
phát huy những thành công, duy trì tính hiệu quả của thông tin chỉ dẫn đầu
tư, đồng thời khắc phục những hạn chế, bất cập và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả thông tin chỉ dẫn đầu tư và tiệm cận với
nhu cầu của cộng đồng các nhà đầu tư trong và ngoài nước, giúp cho báo
Thời báo Kinh tế Sài Gòn; Thời báo Kinh tế Việt Nam và Đầu tư hòan thiện
các chức năng và nhiệm vụ của mình.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có kết cấu gồm 3 chương
như sau:
Chương 1: Thông tin chỉ dẫn, thông tin chỉ dẫn đầu tư và vấn đề thông
tin chỉ dẫn đầu tư trên báo chí kinh tế Việt Nam
Nội dung chương trình này giải quyết các vấn đề về lý luận, quan
niệm về chỉ dẫn-thông tin chỉ dẫn-thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo chí kinh
tế Việt Nam.
Phác họa quy trình thu thập thông tin đầu tư của các nhà đầu tư và các
dạng thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo chí
Chương 2: Thực trạng về thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo chí kinh tế
Việt Nam
Nội dung chương này trình bày khảo sát về kết cấu, cách thức và yêu
cầu của thông tin chỉ dẫn đầu tư, các quy trình thực hiện thông tin chỉ dẫn
đầu tư tại một số báo kinh tế Việt Nam, trên cơ sở đó đánh giá một số điểm

mạnh, điểm yếu về cách thức thực hiện thông tin chỉ dẫn đầu tư trên báo
kinh tế Việt Nam

17
Chương 3: Khảo sát nhu cầu thông tin chỉ dẫn của nhà đầu tư và ý
kiến của các chuyên gia kinh tế
Chương này sẽ trình bày kết quả khảo sát hiện trạng thông tin chỉ dẫn
đầu tư trên báo chí kinh tế Việt Nam. Đồng thời trình bày chi tiết các phỏng
vấn sâu của các nhà đầu tư và chuyên gia kinh tế về nhu cầu thật sự và cách
thức triển khai một cách có hiệu quả thông tin chỉ dẫn đầu tư ở các báo kinh
tế trên cơ sở tham chiếu kinh nghiệm của một số cơ quan truyền thông nước
ngoài.
Kết luận: Sẽ đề xuất một số yêu cầu cần thiết để tổ chức thực hiện
thông tin chỉ dẫn đầu tư như vấn đề đạo đức tư vấn, uy tín của thông tin chỉ
dẫn và cách thức thực hiện thông tin chỉ dẫn đạt được hiệu quả tối ưu trong
bối cảnh truyền thông đa phương tiện và trình độ nhà đầu tư ngày càng cao
và yêu cầu sàng lọc thông tin ngày càng khốc liệt.

18

CHƢƠNG 1: THÔNG TIN CHỈ DẪN, THÔNG TIN CHỈ DẪN
ĐẦU TƢ VÀ VẤN ĐỀ THÔNG TIN CHỈ DẪN ĐẦU TƢ TRÊN BÁO
CHÍ KINH TẾ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm
1.1.1 Quan niệm về chỉ dẫn-thông tin chỉ dẫn trên báo chí
Thông tin (Information): Theo Từ điển Tiếng Việt-Trung tâm Khoa
học Xã hội Nhân văn quốc gia xuất bản [trang 1129] và từ điển Anh-Việt-
NXB Văn học, (1) Thông tin là làm cho biết tin bằng một phương tiện nào
đó. (2) tin được truyền đi nói chung. Nói cách khác thông tin là sự cung cấp
thông tin hoặc được thông tin. Thông tin là một thông điệp được truyền tải từ

nguồn tin đến với người nhận và có một ý nghĩa nhất định đáp ứng phần nào
nhu cầu của người nhận.
Chỉ dẫn (guide): Theo Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Khoa học Xã
hội Nhân văn quốc gia xuất bản [trang 213] là sự hướng dẫn cho biết một
cách cụ thể để làm việc gì. Chỉ cho người khác theo. Như vậy, chỉ dẫn có thể
hiểu là sự chỉ bảo, hướng dẫn thực hiện một công việc, thông tin… cho một
đối tượng nhất định nào đó có thể nghe, tham khảo hoặc thực hiện theo.
Tư vấn (consulting): Theo Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa
Sài Gòn [trang 1262] là phát biểu ý kiến về những vấn đề được hỏi đến,
nhưng không có quyền quyết định
Theo bài giảng của PGS.TS Vũ Quang Hào thì :“Những thông tin tư
vấn thường được thể hiện dưới dạng thức các câu hỏi – đáp giữa độc giả với
những chuyên gia, những người có hiểu biết về lĩnh vực đó, nhằm cung cấp
thông tin về một lĩnh vực cụ thể, một vấn đề nào đó trong cuộc sống, trong
xã hội,… cho nhóm công chúng đối tượng quan tâm. Thông tin chỉ dẫn bao
gồm những cách thức, phương pháp để chỉ ra, hướng dẫn cho công chúng về

19
những lĩnh vực mà họ quan tâm, mong muốn nhưng chưa biết thực hiện như
thế nào…”

Luận văn “Dòng tạp chí chỉ dẫn-giải trí ở Việt Nam: Hiệu quả và bất
cập” của Đinh Thu Hiền năm 2010 cho thấy quá trình chỉ dẫn theo sơ đồ
sau:

Chủ thể chỉ dẫn

Đối tƣợng tiếp nhận
Kinh nghiệm cá nhân
+ Tìm kiếm thông tin


Kinh nghiệm cá
nhân
+ Nhu cầu cần chỉ
dẫn

Thực tế cho thấy nếu áp dụng chỉ dẫn như một quá trình tương tác hai
chiều (như sơ đồ trên) thì hiệu quả chỉ dẫn sẽ tăng lên rõ rệt. Khi đó đòi hỏi
người đưa ra thông tin chỉ dẫn phải tìm hiểu rõ về cả thông tin lẫn đối tượng
tiếp nhận chỉ dẫn.
Tuy nhiên, chỉ dẫn trên báo chí là quá trình tư vấn gián tiếp thông qua
một trung gian là văn bản báo chí. Chính vì sự gián tiếp đó mà chỉ dẫn trên
báo chí rất khó thu được ý kiến phản hồi từ các đối tượng tiếp nhận chỉ dẫn
hoặc phải thu nhận trong một thời gian dài. Vấn đề đặt ra cho nhà báo là:
làm thế nào để thu nhận thông tin phản hồi nhanh nhất từ phía độc giả? Nếu
những người làm chỉ dẫn trên báo chí có thể nhận thông tin phản hồi từ phía
độc giả một cách nhanh chóng nhất, họ sẽ nắm được hiệu quả quá trình chỉ
dẫn của mình, từ đó điều chỉnh công việc để có thể nâng cao hiệu quả chi
dẫn hơn nữa.
Đưa ra ý kiến chỉ dẫn
Trao đổi phản hồi

20
Bằng phương pháp điều tra, nghiên cứu thị trường cơ quan báo chí có
thể nhận thức được thông tin nào có lợi cho công chúng, cần đưa ra bao
nhiêu sự lựa chọn là phù hợp, hoặc độc giả có phản ứng như thế nào trước
vấn đề đang đưa ra chỉ dẫn và trước những hình thức chỉ dẫn đã có về vấn đề
này. Trên thực tế, các tờ báo kinh tế hiện nay không thực hiện được việc này.
Có thể hình dung qua một ví dụ cụ thể: hiện nay, nhiều nhà đầu tư Nhật Bản
đang có xu hướng chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc vào Việt Nam (sau khi

Trung Quốc đang có xu hướng siết lại các tiêu chí thu hút đầu tư). Để triển
khai đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư Nhật thông qua nhiều kênh: hoặc
thông qua các tổ chức thông tin của Nhật (Tổ chức xúc tiến đầu tư Nhật Bản-
Jetro; Hiệp hội DN Nhật Bản tại Việt Nam; Đại sứ quán Nhật Bản ) hay của
Việt Nam (Bộ Kế hoạch Đầu tư; các Sở Kế hoạch Đầu tư và Trung tâm xúc
tiến đầu tư của các tỉnh thành trong cả nước; báo Đầu tư ); các tổ chức tư
vấn (công ty luật ) các kênh thông tin chính thống (báo Đầu tư; hãng thông
tấn Bloomberg )… Tuy nhiên, nếu Bloomberg hoặc The Economist đã xây
dựng được các kho dữ liệu về đầu tư một cách có hệ thống và khá đầy đủ
theo chuyên ngành và quốc gia, thì báo chí kinh tế Việt Nam lại chưa làm
được điều này, mà mới dừng ở mức độ thông tin theo dòng thời sự, chủ yếu
thông tin thông báo về các đoàn đến, đoàn đi, thông báo về nội dung các hội
nghị xúc tiến đầu tư do các địa phương tổ chức tóm lại là thụ động thông
tin theo các sự kiện đang diễn ra.
Có một số tờ báo như báo Đầu tư có định hình chuyên mục “cơ hội
đầu tƣ” để chuyển tải thông tin chỉ dẫn đầu tư nhưng việc tổ chức thông tin
lại thực hiện một cách thiếu đều đặn, thiếu tiêu chí và không đáp ứng đúng
các yêu cầu ngày càng đa dạng của nhiều nhà đầu tư Đứng trước sự phức
tạp của thông tin, nhà đầu tư rất khó phán đoán để có nhận định đúng cũng
như chọn lọc được các thông tin quan trọng giúp họ đưa ra các quyết định
đầu tư hay hỗ trợ đầu tư một cách hiệu quả.

21
Như vậy, có thể hiểu: “chỉ dẫn trên báo chí là một hình thức truyền
tải thông tin đặc biệt của báo chí, qua đó, người làm báo tìm kiếm và trao
đổi những thông tin có tính định hướng với người đọc nhằm hỗ trợ và giúp
đỡ họ giải quyết một vấn đề nhất định”. Định nghĩa này phần nào đã chỉ ra
được sự khác biệt giữa chỉ dẫn nói chung và chỉ dẫn trên báo chí kinh tế nói
riêng.
Muốn chỉ dẫn cho người khác, trước tiên, người chỉ dẫn phải là người

có hiểu biết về vấn đề mà mình sẽ chỉ dẫn. Bên cạnh đó, muốn chỉ dẫn có
hiệu quả cần phải biết mình thực hiện chỉ dẫn cho đối tượng nào, trình độ
hiểu biết của họ đến đâu, nhu cầu của họ ra sao. Trên cơ sở đó, cách chỉ dẫn
cho mỗi một đối tượng sẽ khác nhau vì trình độ tiếp nhận và nhu cầu nhận
thức của các đối tượng rất khác nhau. Đó là chưa kể sự hiểu biết của các đối
tượng về vấn đề đó cũng khác nhau.
Chỉ dẫn - tư vấn trên báo chí thường do:
- Nhà báo: là người đã tìm hiểu, nắm bắt vấn đề, có kinh nghiệm thực
tế kết hợp kiến thức tích lũy qua nghiên cứu tài liệu, đồng thời là người có
hiểu biết về đối tượng được chỉ dẫn - tư vấn. Nhà báo có thêm ưu điểm là
biết cách chuyển tải thông tin một cách hiệu quả đến đối tượng được chỉ dẫn
- tư vấn. Tuy nhiên, có một hạn chế là nhà báo thường không thể hiểu vấn đề
cặn kẽ, chuyên sâu. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế-đầu tư, lĩnh vực đòi hỏi
nhiều kiến thức nền tảng chuyên ngành. Nếu nhà báo không có hiểu biết về
vấn đề được chỉ dẫn - tư vấn thì hiệu quả việc chỉ dẫn - tư vấn không cao,
nhiều khi còn có tác dụng ngược. Do vậy, khi thực hiện chỉ dẫn - tư vấn đầu
tư trên báo chí kinh tế, nhà báo thường thực hiện việc kết nối, giữa các
chuyên gia kinh tế với bạn đọc, giữa các cộng tác viên và các chuyên gia
kinh tế. Bên cạnh đó, nhà báo còn là người phối hợp với các chuyên gia và
tìm cách chuyển tải thông tin dễ hiểu, chính xác nhất đến cho công chúng.

22
- Chuyên gia: đây là người trực tiếp làm công việc chỉ dẫn - tư vấn,
họ có kiến thức chuyên sâu về vấn đề được chỉ dẫn - tư vấn. Nếu nhà chuyên
môn ngoài quá trình nghiên cứu, nắm vững lý thuyết, còn có thêm kiến thức
thực tế thì hiệu quả công việc chỉ dẫn - tư vấn càng cao. Tuy nhiên, trên thực
tế, việc nghiên cứu, ứng dụng các quy luật kinh tế mất nhiều thời gian, do
vậy thường có hai loại là chuyên gia về lý thuyết và chuyên gia thực tế.
+Chuyên gia lý thuyết là các chuyên gia nghiên cứu chuyên sâu về các
học thuyết đầu tư, kinh tế chuyên ngành, họ chủ yếu đưa ra các nguyên tắc

hoặc tư vấn chỉ dẫn dựa trên nghiên cứu khảo sát của mình. Tuy nhiên, thực
tế luôn tiềm ẩn những biên độ rủi ro mà các nghiên cứu cũng không thể
lường trước được. Vì vậy, nếu tư vấn sai thì có thể dẫn đến hậu quả thiệt hại
lớn về kinh tế. Nếu báo chí chọn đúng chuyên gia lý thuyết thì hiệu quả
truyền thông cao và uy tín, độ tin cậy của báo chí và chuyên gia tới bạn đọc
tăng lên và ngược lại, nếu chọn chuyên gia không phù hợp thì hiệu quả của
việc chỉ dẫn - tư vấn, và uy tín của cơ quan báo chí đều bị giảm sút.
+“Chuyên gia” thực tế: Bên cạnh các chuyên gia kinh tế, nhà đầu tư -
bạn đọc rất quan tâm đến những người đầu tư thực tế, những người có thể
không nắm chắc về lý thuyết nhưng có sự nhạy cảm về kinh tế dựa trên bản
năng hoặc nghiên cứu quy luật lên xuống của thị trường để đưa ra quyết định
đầu tư. Bạn đọc-nhà đầu tư quan tâm nhiều đến các “chuyên gia thực tế”, vì
tâm lý chung của nhiều bạn đọc là mạnh dạn làm theo những người đã thử
nghiệm và thành công. Khi chọn chuyên gia thực tế cần có sự sàng lọc kỹ về
mặt lý lịch hành nghề, chọn các cá nhân thật sự điển hình, có cách thể hiện
chân thật, gần gũi thì hiệu quả sẽ càng cao. Tuy nhiên, với đối tượng này khi
thực hiện chỉ dẫn tư vấn cần có sự cảnh báo trước cho bạn đọc, vì trên thực
tế đôi khi có nhiều chuyên gia thực tế lại sử dụng các phương tiện truyền
thông vào việc tạo áp lực giả cho một loại hàng hóa, cổ phiếu mà chính đối

23
tượng này đang tham gia đầu tư (thường gặp trong chỉ dẫn tư vấn chứng
khoán-vàng…).
1.1.2 Thông tin chỉ dẫn đầu tư
Đầu tư (Investment): Theo từ điển Tiếng Việt-Trung tâm Khoa học Xã
hội Nhân văn quốc gia xuất bản [trang 395] là (1) làm cho nhân lực, tài lực
phát huy sức mạnh tiềm ẩn của nó trong một hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động phát triển một công việc. (2) Làm cho sức lực, thời gian,…v.v phát huy
hết giá trị của nó trong một hoạt động trí tuệ.
Như vậy, Thông tin chỉ dẫn đầu tư là thông tin hướng dẫn tìm kiếm và

cung cấp các chỉ dẫn đầu tư kèm theo những lời gợi ý, hướng dẫn, tư vấn tới
đối tượng (ở đây là nhà đầu tư, doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư hoặc các cá
nhân có nhu cầu đầu tư cụ thể) cần sự hỗ trợ, giúp đỡ, đồng thời thu nhận
tin tức phản hồi từ phía đối tượng sau khi họ đã tiếp nhận sự chỉ dẫn, tư vấn.
Chỉ dẫn đầu tư trên báo chí kinh tế cũng là một bộ phận của chỉ dẫn báo chí,
nó cũng mang những đặc trưng giống như chỉ dẫn trên báo chí. Nhưng nội
dung chỉ dẫn của thông tin chỉ dẫn đầu tư có những nét khác biệt làm nên
đặc trưng riêng của nó. Chỉ dẫn đầu tư là nội dung thông tin chính, chủ đạo
của các báo thông tin đầu tư nói riêng và là một trong những thông tin quan
trọng của dòng báo chí kinh tế nói chung. Về thực chất hầu hết các báo chí
kinh tế hoặc các dòng báo chí có trang kinh tế đều có thể hiện thông tin chỉ
dẫn đầu tư nhưng với nhiều góc độ khác nhau và bằng nhiều cách thể hiện
khác nhau.
Riêng với báo Thời báo Kinh tế Sài Gòn và Thời báo Kinh tế Việt
Nam nội dung chỉ dẫn chiếm một tỷ lệ lớn nhưng hầu hết đều ở dạng “tiềm
ẩn” trong các thông tin thời sự kinh tế, đầu tư. Với báo Đầu tư, ngoài thông
tin chỉ dẫn tiềm ẩn, tờ báo có hình thành một chuyên mục riêng là Cơ hội
đầu tƣ với nhiệm vụ trọng tâm là chỉ ra những cơ hội đầu tư cụ thể tại các
địa phương, trong các lĩnh vực… Tức là các bài có nội dung thông tin chỉ

24
dẫn chiếm một tỷ lệ trang lớn trong tờ báo và xuất hiện đều đặn trong các kỳ
phát hành như một thông tin không thể thiếu đối với độc giả. Thêm vào đó,
do đặc điểm và tiêu chí riêng của từng tờ báo, nên mỗi tờ báo thường đi sâu
vào một lĩnh vực nhất định.
Các bài có nội dung chỉ dẫn bên cạnh ý nghĩa là tư vấn cho bạn đọc,
còn là hình thức tổng kết những thông tin đầu tư về lĩnh vực, ngành mà mỗi
tờ báo có thế mạnh riêng (về địa phương, lĩnh vực ). Đây chính là nội dung
quan trọng của một tờ báo kinh tế có thông tin chỉ dẫn đầu tư. Do đó mà mỗi
tờ báo có thông tin chỉ dẫn đầu tư có thể trở thành diễn đàn cho các nhà đầu

tư-doanh nhân, các chuyên gia, những người quan tâm am hiểu về một lĩnh
vực và thu hút được các độc giả có nhu cầu tìm hiểu về lĩnh vực đó. Trong
sự bùng nổ thông tin như hiện nay, trước bối cảnh Việt Nam ngày càng trở
thành một điểm đến đầu tư thân thiện của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài
nước, cần phát huy hơn nữa tiếng nói của thông tin chỉ dẫn đầu tư để bạn đọc
có được một kênh thông tin an toàn, bổ ích, cần thiết cho các quyết định đầu
tư một cách thực sự.
1.2 Quy trình thu thập thông tin đầu tƣ của nhà đầu tƣ và các
dạng thông tin chỉ dẫn đầu tƣ trên báo chí
Theo TS Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc nghiên cứu chương trình Kinh
tế Fulbright, người có nhiều năm tham gia tư vấn cho nhiều dự án đầu tư
nước ngoài cho biết, một dự án đầu tư khi hoàn thiện cần một quy trình gồm
5 bước:
Thứ nhất, thu thập thông tin liên quan đến quốc gia, địa điểm, lĩnh
vực đầu tư. Khi thực hiện bước này, thông tin chỉ dẫn đầu tư đóng vai trò
quyết định trong việc gợi mở, tạo ưu thế để nhà đầu tư lưu ý khi đưa vào
danh mục chọn lựa

25
Thứ hai, dựa trên nguồn vốn và nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp
mình họ sẽ hình thành một bản kế hoạch đầu tư và phải thu thập đầy đủ
thông tin để có thể bảo vệ quan điểm đầu tư của mình trước hội đồng đầu tư
của doanh nghiệp. Trong giai đoạn này, thông tin chỉ dẫn đầu tư đóng vai trò
quan trọng trong việc chứng minh tính thực tiễn, khả thi của kế hoạch đầu tư.
Thứ ba, thực hiện kế hoạch nghiên cứu tiền khả thi và xúc tiến thủ tục
đầu tư. Trong giai đoạn này, thông tin chỉ dẫn đầu tư đóng vai trò hướng dẫn
các thủ tục pháp lý cần thiết để nhà đầu tư có thể thúc đẩy nhanh tiến trình
cấp phép.
Thứ tƣ, khởi công đầu tư dự án cụ thể, trong giai đoạn này, thông tin
chỉ dẫn nguồn vốn đầu tư, đối tác đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng với

việc rút nhanh tiến độ xây dựng của dự án đầu tư để sớm đưa vào hoạt động.
Thứ năm, khánh thành dự án và đi vào hoạt động. Trong giai đoạn
này, thông tin chỉ dẫn thị trường, hỗ trợ pháp lý tiếp tục đóng vai trò quan
trọng trong việc hỗ trợ cho nhà đầu tư khi gặp khó khăn hoặc hoạch định
chiến lược phát triển tiếp theo cho dự án đầu tư của mình.
Trong phạm vi tìm hiểu, khảo sát đánh giá của mình, luận văn tạm đưa
ra một số loại thông tin chỉ dẫn đầu tư như sau:
Thông tin chỉ dẫn quốc gia, địa điểm đầu tư: Thông tin chỉ dẫn những
quốc gia nào nên đầu tư. Ví dụ: Việt Nam được xem là một trong những
quốc gia có độ an toàn về an ninh cao. Đây lại được xem là một trong những
tiêu chí quyết định đầu tư chiếm tỉ trọng cao của các nhà đầu tư. Theo tìm
hiểu và qua quá trình phỏng vấn, Tập đoàn Samsung (hiện có tổng vốn đầu
tư vào Việt Nam hơn 1 tỉ USD, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao) đã
chọn Việt Nam với 3 tiêu chí, trong đó tiêu chí ổn định về an ninh, trật tự xã
hội cũng là tiêu chí quyết định. Thông tin chỉ dẫn về các địa điểm nên đầu tư,
về thông thường với một quốc gia, địa phương nếu muốn kêu gọi đầu tư vào

26
khu vực nào, địa điểm nào đều xây dựng một chính sách ưu đãi riêng, có thể
vượt khung so với các chính sách thường và cần chuyển tải các thông tin này
thông qua báo chí đến với các nhà đầu tư.
Thông tin chỉ dẫn thủ tục pháp lý và hỗ trợ đầu tư: Thông tin chỉ dẫn
về các hình thức pháp lý, văn bản pháp lý về đầu tư (như Luật Đầu tư, các
Nghị định, thông tin hướng dẫn về đầu tư của Chính phủ, Bộ Kế hoạch Đầu
tư ) hoặc một số thông tin thủ tục đầu tư của các địa phương đặc thù, có
nhiều địa phương có hình thức thủ tục đơn giản, hay phức tạp nếu được
thông tin một cách đầy đủ, khách quan cũng giúp nhiều nhà đầu tư đưa ra
các quyết định phù hợp. Thông tin chỉ dẫn các đơn vị có thể tham gia tư vấn
hoặc dịch vụ cung ứng các thủ tục pháp lý cần thiết cho các dự án đầu tư và
Thông tin chỉ dẫn về cơ quan, tổ chức có thể giúp nhà đầu tư tìm kiếm được

sự hỗ trợ khi cần thiết.
Thông tin chỉ dẫn lĩnh vực, ngành nghề đầu tư: Hiện nay tại Việt
Nam có gần 100 lĩnh vực có thể đầu tư (theo thông tin của Cục Đầu tư nước
ngoài-Bộ Kế hoạch Đầu tư), trong đó có 6 lĩnh vực cấm đầu tư (sản xuất chất
nổ; an ninh quốc phòng ) còn lại tất cả các lĩnh vực khác đều có thể đầu tư
hoặc tham gia đầu tư với một điều kiện nhất định. Các thông tin này giới
thiệu về các ngành/nghề đang được trọng tâm thu hút đầu tư của quốc gia,
địa phương, khu vực, hoặc của các Hiệp hội
Thông tin chỉ dẫn đối tác đầu tư: Thông tin chỉ dẫn giới thiệu về các
pháp nhân có nhu cầu triển khai đầu tư hoặc kêu gọi đầu tư và tìm kiếm các
đối tác khác. Đối tác tìm kiếm có thể là doanh nghiệp, tổ chức hoặc các tổ
chức tài chính-tín dụng
Thông tin chỉ dẫn vốn đầu tư: Thông tin chỉ dẫn giới thiệu chuyên về
các tổ chức tín dụng, cung ứng vốn cho các dự án đầu tư, giới thiệu về các
điều kiện có thể rút vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư

27
Thông tin chỉ dẫn dự án đầu tư: Thông tin giới thiệu về quy mô các dự
án đầu tư đang trong quá trình tìm kiếm đối tác hoặc các chủ đầu tư có nhu
cầu có thể nắm quy mô, hình thức triển khai khác nhau. Đây là thông tin
mang tính thu hút cụ thể nhất và rất được nhiều nhà đầu tư quan tâm.
Thông tin chỉ dẫn về môi trường đầu tư bao gồm cả các khía cạnh về
văn hóa, đời sống xã hội
1.3. Báo chí kinh tế với thông tin chỉ dẫn đầu tƣ
Trong khóa luận “Vai trò của TBKT Việt Nam và báo Đầu tư trong
công cuộc đổi mới của cách mạng Việt Nam”, Hoàng Anh Minh (Hà Nội,
2001) có cho rằng “Báo chí kinh tế ra đời và phát triển cùng với sự phát triển
của nền báo chí Việt Nam. Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều tờ báo đã
đăng tải những bài viết về các vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, giới nghiên cứu cho
rằng chỉ có một số tờ báo có thể được coi là báo chí kinh tế như Nông Cổ

Mín Đàm (NCMĐ), ra số đầu tiên vào ngày 1/8/1901. Trên măng sét của tờ
báo này có ghi dòng chữ tiếng Pháp “Causeries sur l’argriculture et le
commerce” nghĩa là uống trà nói chuyện nông nghiệp và thương mại. Trong
NCMĐ, đáng chú ý nhất là chuyên mục “Thương cổ luận” chuyên đăng tải
các bài viết về kinh doanh, buôn bán. Mục “lời rao” lại đăng tải những
thông tin mới nhất về thị trường, qua đó giúp công chúng đặc biệt là giới
kinh doanh có cái nhìn đầy đủ về thị trường, về xu hướng phát triển của thị
trường. Ngoài ra đây là tờ báo đăng rất nhiều quảng cáo, chiếm hẳn một
trang báo và NCMĐ trở thành một hiện tượng đặc biệt của báo chí Nam Kỳ
đầu thế kỷ 20. Bên cạnh đó còn có một số tờ báo kinh tế, tiêu biểu như
“Thực Nghiệp Dân báo” ra số đầu tiên vào ngày 12/2/1920 tại Hà Nội…
Tuy nhiên, trước đổi mới, có rất ít báo chí, tạp chí chuyên về lĩnh vực
kinh tế. Về tạp chí có Tạp chí Nghiên cứu kinh tế do Viện nghiên cứu kinh tế
phát hành từ năm 1961, định kỳ mỗi tháng 1 số. Bên cạnh đó có Tạp chí Kế
hoạch thống kê - một tờ tạp chí cũng có thể coi là chuyên về kinh tế nhưng

×