Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Vấn đề xản suất tin và phóng sự trên kênh truyền hình đối ngoại VTV4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 107 trang )


1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***


NGUYỄN MAI LAN




VẤN ĐỀ SẢN XUẤT TIN VÀ PHÓNG SỰ
TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH ĐỐI NGOẠI VTV4




LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ
Chuyên ngành Báo Chí học






Thành phố Hồ Chí Minh - 2012



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***


NGUYỄN MAI LAN



VẤN ĐỀ SẢN XUẤT TIN VÀ PHÓNG SỰ
TRÊN KÊNH TRUYỀN HÌNH ĐỐI NGOẠI VTV4




LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH BÁO CHÍ HỌC
MÃ SỐ: 60.32.01


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Quang Hào





Thành phố Hồ Chí Minh - 2012




5

DANH MỤC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN VĂN
***

Bảng 1.1: Tỷ lệ tin tức trong tổng thời lượng phát sóng một ngày của kênh
truyền hình VTV1, HTV9 từ năm 2010-2012 26
Bảng 2.1: Tỷ lệ tin tức phù hợp mục đích tuyên truyền của VTV4 43
Bảng 2.2: Mức độ kịp thời của tin VTV4 45
Bảng 2.3: Nội dung thông tin của tin VTV4 47
Bảng 2.4: Nội dung thông tin công chúng người Việt Nam ở nước ngoài
quan tâm trong các bản tin VTV4 49
Bảng 2.5: Chất lượng hình ảnh trong tin tức VTV4 52
Bảng 2.6: Sở thích của khán giả VTV4 về giọng đọc tin 54
Bảng 2.7: Nội dung thông tin của phóng sự ngắn thời sự VTV4 58
Bảng 2.8: Tỷ lệ sử dụng tin, bài từ các nguồn trên thời sự VTV4 61
Bảng 3.1: Mức độ đáp ứng nhu cầu khán giả của tin, phóng sự VTV4 70
Bảng 3.2: Mức độ sử dụng đồ họa trong tin và phóng sự VTV4 71
Bảng 3.3: Đánh giá cách thể hiện của người dẫn tin tức của VTV4 73
Bảng 3.4: Tỷ lệ người xem các bản tin của VTV4 83
Bảng 3.5: Cách sắp xếp nội dung thông tin trong bản tin 0 giờ của VTV4 85
Bảng 3.6: Cách sắp xếp nội dung thông tin trong bản tin 0 giờ đề nghị 86



1

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 3
CHƢƠNG 1: KÊNH VTV4 VÀ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
CHO NGƢỜI VIỆT NAM Ở NƢỚC NGOÀI 10
1.1. VTV4 và hoạt động thông tin đối ngọai 10
1.1.1. Một số vấn đề về thông tin đối ngọai 10
1.1.2. Kênh truyền hình đối ngoại VTV4 12
1.2. Ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài- nhóm công chúng mục tiêu của VTV4 16
1.2.1. Quá trình hình thành cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài 16
1.2.2. Nhóm công chúng mục tiêu của VTV4 17
1.3. Tin và phóng sự trong chƣơng trình VTV4 21
1.3.1. Tầm quan trọng của tin và phóng sự trong chương trình VTV4 21
1.3.2. Một số vấn đề về tin và phóng sự trên VTV4 24
1.4. Các yếu tố cơ bản để đánh giá chất lƣợng của tin và phóng sự truyền hình 26
1.4.1. Yếu tố nội dung 26
1.4.2. Yếu tố âm thanh và hình ảnh.27
Tiểu kết chƣơng 1 29

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT TIN VÀ PHÓNG SỰ CỦA KÊNH
TRUYỀN HÌNH ĐỐI NGOẠI VTV4 30
2.1. Quy trình sản xuất tin và phóng sự của VTV4 30
2.1.1. Các bộ phận chủ yếu tham gia vào quy trình sản xuất 30
2.1.2. Các công đoạn trong quy trình sản xuất tin và phóng sự của VTV4 33
2.2. Tần suất sử dụng tin và phóng sự trong chƣơng trình VTV4 36
2.3. Tin trên VTV4 38
2.4. Phóng sự trên VTV4 52
2.5. VTV4 sử dụng lại tin và phóng sự của VTV1 và các nguồn khác. 58
2.6. Những đóng góp của tin và phóng sự VTV4 60

2


Tiểu kết chƣơng 2 62

CHƢƠNG 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO VIỆC SẢN XUẤT TIN VÀ
PHÓNG SỰ CHO NGƢỜI VIỆT NAM Ở NƢỚC NGOÀI 64
3.1. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng sản xuất tin và phóng sự của VTV4 64
3.1.1. Nội dung thông tin của VTV4 có độ chênh khá lớn so với nội dung
khán giả quan tâm. 64
3.1.2. VTV4 sử dụng lại nhiều tin và phóng sự từ các nguồn khác nên thông
tin chưa đáp ứng đúng nhu cầu của người Việt Nam ở nước ngoài 65
3.1.3. Cách thể hiện còn nhiều vấn đề chưa phù hợp với tâm lý tiếp nhận của
đối tượng người Việt Nam ở nước ngoài 67
3.1.4. Phóng sự quá ít, thể loại chưa rõ ràng. 71
3.2. Làm thế nào để có tin và phóng sự tốt cho ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài 71
3.2.1. Kỹ năng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ phóng viên-biên tập viên. 72
3.2.2. Cần tạo môi trường thuận lợi để phát triển thể loại tin và phóng sự 73
3.2.3. Nghiên cứu về nhóm công chúng người Việt Nam ở nước ngoài 74
3.3. Tiêu chí cho tin, phóng sự truyền hình có chất lƣợng cho công chúng ngƣời
Việt Nam ở nƣớc ngoài. 75
3.3.1. Đáp ứng chức năng giáo dục tư tưởng 75
3.3.2. Đáp ứng nhu cầu thông tin thời sự 76
3.3.3. Cách thể hiện phù hợp tâm lý tiếp nhận của công chúng người Việt
Nam ở nước ngoài. 77
3.4. Thử đề xuất một kiểu làm mới cho bản tin thời sự 0 giờ cho cộng đồng
ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài tại Mỹ 78
Tiểu kết chƣơng 3 87
KẾT LUẬN 88
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

3



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay có hơn 4,5 triệu người Việt Nam đang sinh sống tại 103 nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có nhu cầu
rất lớn được thu nhận thông tin hằng ngày về tình hình đất nước và quốc tế, tuy
nhiên do cộng đồng lớn và cư ngụ trải rộng ở nhiều quốc gia nên việc thu nhận
thông tin của người Việt Nam ở nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Đảng và Nhà
nước ta đã xác định: “Người Việt Nam ở nước ngoài bộ phận không tách rời và là
một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần
tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước” và xem đây là
đối tượng quan trọng của công tác thông tin đối ngoại. Sau Chỉ thị số 11 của Ban Bí
thư năm 1992 về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại, các cơ quan
báo chí trong nước đã đẩy mạnh việc thông tin tuyên truyền cho đối tượng người
Việt Nam ở nước ngoài với mục đích giúp kiều bào hiểu rõ, hiểu đúng về Việt Nam,
từ đó ủng hộ và góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong lĩnh
vực truyền hình, kênh truyền hình đối ngọai VTV4 của Đài truyền hình Việt Nam,
với mức độ đầu tư cấp quốc gia, có độ phủ sóng rộng khắp thế giới, giữ vai trò nòng
cốt trong công tác thông tin đối ngọai. Qua hơn mười năm hoạt động, chương trình
của VTV4 từng bước được cải thiện, phần nào đáp ứng nhu cầu thông tin của bà
con kiều bào.
Trong chương trình của VTV4, tin và phóng sự là hai thể loại đặc biệt được
chú trọng, chiếm thời lượng đáng kể, được ưu tiên phát sóng vào những giờ thuận
tiện nhất, phục vụ đông đảo người Việt Nam ở nước ngoài. Có nhiều nguyên nhân
lý giải cho điều này. Một là, về thể loại thông tấn báo chí, tin và phóng sự vốn là hai
thể loại quan trọng, phổ biến, được xem như “linh hồn” của bất cứ một tờ báo, một
đài truyền hình nào. Nếu tin phản ánh nhanh chóng, ngắn gọn những sự kiện thời sự
xảy ra thì phóng sự lại tổng hợp, phân tích, làm nổi bật tính vấn đề của sự kiện,

cung cấp cho người xem một cái nhìn tổng thể về sự kiện. Hai là, tin và phóng sự

4

thu hút sự quan tâm của khán giả, do phản ánh nhanh chóng, đầy đủ những sự kiện,
vấn đề của cuộc sống, đáp ứng nhu cầu nhận thức thời sự cập nhật của con người.
Ba là, với đặc trưng thể loại của mình, tin và phóng sự là hai “chiến sĩ” xung kích
trong việc thực hiện nhiệm vụ thông tin đối ngoại của VTV4, kịp thời tuyên truyền
những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và phản bác các thông tin sai
lệch, có hại cho đất nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những sản phẩm tin và
phóng sự của VTV4 do nhiều nguyên nhân, cả về lý luận và thực tiễn, còn nhiều
điểm chưa đáp ứng đúng nhu cầu của người Việt Nam ở nước ngoài, khiến việc
thông tin tuyên truyền cho nhóm công chúng này bị hạn chế.
Về góc độ lý luận, số lượng công trình nghiên cứu của ngành Báo chí-
Truyền thông về thể loại phóng sự truyền hình, về đặc điểm và nhu cầu thông tin
của nhóm công chúng người Việt Nam ở nước ngoài chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Trong khi đó, thực tiễn sản xuất tin và phóng sự truyền hình trên kênh truyền hình
đối ngoại VTV4 đặt ra nhiều vấn đề như: đối tượng công chúng người Việt Nam ở
nước ngoài có đặc điểm gì, nhu cầu thông tin và thị hiếu hưởng thụ thông tin của họ
ra sao, môi trường chính trị và văn hóa bản địa ảnh hưởng đến việc tiếp nhận thông
tin như thế nào….Tất cả đòi hỏi mục tiêu và cách thức sản xuất chương trình truyền
hình nói chung và tin-phóng sự truyền hình nói riêng dành cho nhóm công chúng
này phải có những đặc thù. Các kết quả nghiên cứu của luận văn này, bước đầu như
một sự “thẩm định” hai thể loại quan trọng là tin và phóng sự của kênh truyền hình
đối ngoại VTV4, dựa trên nền tảng này để đánh giá, phân tích, đề nghị những cách
thức làm sao để công tác tuyên truyền cho người Việt Nam ở nước ngoài đạt hiệu
quả tốt nhất, thông qua tin và phóng sự truyền hình.
Từ gợi ý của Thầy hướng dẫn, cộng với kinh nghiệm bản thân trong quá trình
làm truyền hình, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Vấn đề sản xuất tin và phóng sự
truyền hình trên kênh truyền hình đối ngoại VTV4” (khảo sát Tin và Phóng sự trên

VTV4, từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2012) làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Báo chí học khóa 2010-2013, Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn-Đại học Quốc gia Hà Nội.

5

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về báo chí-truyền thông ngày càng được nhiều
người quan tâm với hàng trăm công trình nghiên cứu, sách báo, giáo trình được xuất
bản trong những năm qua. Tuy nhiên, trong khi báo in, báo phát thanh được nghiên
cứu khá nhiều và dưới các góc độ khác nhau thì những công trình nghiên cứu về
báo hình vẫn còn hạn chế. Ở cấp độ sách giáo khoa, Giáo trình báo chí truyền hình
của tác giả Dương Xuân Sơn là một trong những giáo trình đầu tiên ở Việt Nam về
môn truyền hình, đã trình bày một cách hệ thống các vấn đề như: lịch sử ra đời và
phát triển của truyền hình, chức năng, nguyên lý truyền hình, các thể loại tin, phóng
sự, bình luận truyền hình…giúp ích khá nhiều cho những người muốn có một cái
nhìn tổng quan về báo chí truyền hình nói chung. Ở cấp độ sách tham khảo, quyển
Phóng sự truyền hình của hai tác giả người Pháp Brigitte Besse, Didier Desormeaux;
Báo chí truyền hình của G.V.Cudonhetxốp, X.L.Xvich, A.Ia.Iurốpxki; Sổ tay
phóng viên: Tin và phóng sự truyền hình của Neil Everton… là các tác phẩm làm rõ
các kỹ năng thực hiện tin và phóng sự truyền hình, đề ra tiêu chí cần có cho tin và
phóng sự truyền hình tốt, trong đó lấy nhu cầu của khán giả làm trọng.
Các Quyển sách Thông tin đối ngoại Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực
tiễn của tác giả Phạm Minh Sơn (Nxb Chính trị-Hành chính, 2011); Người Việt
Nam ở nước ngoài của Trần Trọng Đăng Đàn (Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997) đã góp phần làm rõ cơ sở lý luận về thông tin đối ngọai, quá trình hình thành
và các đặc điểm của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và những nội dung
thông tin cho đối tượng này.
Các công trình nghiên cứu của các học viên cao học, sinh viên về báo chí và
thông tin đối ngoại cũng là cơ sở tham khảo quan trọng trong quá trình nghiên cứu

đề tài. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hồng Hải (2005), Chương trình truyền hình
dành cho người Việt Nam ở nước ngoài, đã đánh giá về chất lượng của chương trình
truyền hình VTV4 một cách khá toàn diện. Tuy nhiên, luận văn đi sâu vào phân tích
về kết cấu các chương trình trên VTV4, nhiệm vụ thông tin đối ngọai của VTV4,
chứ chưa đề cập đến việc sản xuất tin và phóng sự trên VTV4. Luận văn Thạc sĩ

6

Báo chí học của Lý Thị Hải Yến (2011), Kênh VTV4, báo trực tuyến trong nước và
công chúng người Việt Nam ở nước ngoài [38], nghiên cứu về hoạt động giao tiếp
đại chúng của công chúng người Việt Nam ở nước ngoài qua kênh VTV4 và báo
trực tuyến trong nước, cung cấp số liệu, thông tin về sự quan tâm của công chúng
người Việt Nam ở Hàn quốc, Nga, Mỹ với các vấn đề trong nước được truyền tải
trên hai nguồn phát nêu trên. Khóa luận tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Báo chí
của Đào Huy Hoàng (2004), Nâng cao hiệu quả chương trình thời sự đối ngoại của
Đài truyền hình Việt Nam, đề cập đến các bản tin tiếng nước ngoài của VTV…cũng
đưa ra nhiều luận điểm về cách thức tổ chức hoạt động kênh truyền hình đối ngoại
VTV4.
Ngoài ra, còn một số tài liệu quý có nội dung liên quan đến vấn đề nghiên
cứu như: Cơ sở lý luận báo chí truyền thông của nhóm tác giả Đinh Hường, Dương
Xuân Sơn, Trần Quang; Đinh Văn Hường- Các thể loại thông tấn báo chí, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội; Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội, 2001;Vũ Quang Hào, Báo chí và đào tạo báo chí Thụy điển, Cơ quan hợp
tác phát triển, Bộ Văn hoá Thông tin, 2004; Trần Hữu Quang - Chân dung công
chúng truyền thông, Nxb Thông tấn 2007….
Những tài liệu vừa nêu trên đã giúp chúng tôi có cái nhìn tổng quan hữu ích
về tin và phóng sự truyền hình nói chung, giúp chúng tôi có phương hướng để kế
thừa và khai thác đề tài theo thực tế và quan điểm riêng của mình. Tuy nhiên, đến
nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề sản xuất tin và phóng sự
truyền hình bằng tiếng Việt trên VTV4.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của người viết luận văn là nêu ra thực trạng của việc sản xuất tin
và phóng sự của kênh truyền hình đối ngoại VTV4 với những vấn đề liên quan đến
cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động, nêu những ưu, khuyết điểm của tin và phóng
sự trên VTV4 hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất những ý tưởng tạo ra những tác phẩm
tin và phóng sự truyền hình phù hợp với đối tượng công chúng là người người Việt
Nam ở nước ngoài.

7

Để đạt được mục đích nêu trên, chúng tôi sẽ hệ thống, bổ sung và phát triển một
số vấn đề lý luận chung về tin và phóng sự truyền hình, về đối tượng người Việt Nam ở
nước ngoài ; khảo sát thực trạng của tin và phóng sự trên VTV4 qua các yếu tố: nội dung,
hình ảnh, âm thanh và yếu tố bổ trợ khác; nêu những ưu khuyết của tin và phóng sự
VTV4; đưa ra một số tiêu chí cho tin và phóng sự cho đối tượng người Việt Nam ở nước
ngoài và đề xuất một kiểu làm mới cho bản tin thời sự 0 giờ của VTV4.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của là vấn đề sản xuất tin và phóng sự truyền hình trên
kênh truyền hình đối ngoại VTV4, nhưng với khuôn khổ có hạn của một luận văn,
chúng tôi chỉ đi sâu vào khảo sát các tác phẩm tin và phóng sự trên kênh truyền hình
VTV4 trong khoảng thời gian từ tháng 5/2012 đến tháng 10/2012. Mỗi ngày VTV4
phát sóng 10 bản tin bằng tiếng Việt, tổng thời lượng khoảng 135 phút, ở từng bản
tin có sự khác biệt về nội dung và cách trình bày. Phóng sự xuất hiện với tần suất ít
hơn tin nhưng khá đều đặn. Trong khoảng thời gian khảo sát kéo dài 6 tháng nói
trên có nhiều ngày lễ lớn, nhiều sự kiện quan trọng diễn ra, ảnh hưởng đến nội dung
tin và phóng sự. Với phạm vi khảo sát tổng cộng hơn 70 phóng sự, 1260 tin được
chọn ngẫu nhiên, chúng tôi hy vọng rút ra được những nhận xét bổ ích giúp nâng
cao chất lượng tin và phóng sự truyền hình trên VTV4.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Được sử dụng nhằm hệ thống, bổ sung một số

vấn đề lý luận chung về tin và phóng sự truyền hình, về thông tin đối ngọai cho người
Việt Nam ở nước ngoài. Đây chính là những lý thuyết cơ sở cho việc đánh giá các kết
quả khảo sát thực tế và tìm kiếm những giải pháp cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích nội dung: Được sử dụng đối với tin và phóng sự được
chọn lựa trên VTV4 trong thời gian từ tháng 5/2012 đến tháng 10/1012. Người viết
đã sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống, để chọn ra phân tích 1260
tin, 71 phóng sự (bao gồm 38 phóng sự có mũ chương trình riêng, 33 phóng sự
trong các chương trình tổng hợp) và nhiều phóng sự ngắn trong chương trình thời
sự VTV4.

8

- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi (an-két): Phương pháp điều tra bằng
bảng hỏi nhằm thu thập những ý kiến của khán giả người Việt Nam ở nước ngoài
về việc tin và phóng sự trên VTV4 đáp ứng nhu cầu thông tin của họ như thế nào.
Do điều kiện khó khăn về vị trí địa lý nên chúng tôi tiến hành điều tra qua thư điện
tử. Dung lượng mẫu là 300, số phiếu trả lời chúng tôi nhận được là 239 phiếu, mẫu
được lựa chọn ở các châu lục có đông người Việt Nam sinh sống. Phân bố theo địa
bàn cư trú là: châu Mỹ có 42%, châu Âu có 28%, châu Á 7,5%, châu Úc có 8,4%.
Mẫu theo giới tính là: nam: 49%, nữ: 51%. Mẫu theo độ tuổi, dưới 22 tuổi có 2%,
từ 22 đến 50 tuổi có 72%, trên 50 tuổi có 26%. Mẫu theo nơi sinh: sinh ở Việt Nam
chiếm 66%, sinh ở nước ngoài 26%. Mẫu theo trình độ: phổ thông chiếm 42%, đại
học là 36% và trên đại học 22%.
- Phương pháp phỏng vấn sâu
Được tiến hành với 2 nhóm đối tượng. Một là, lãnh đạo và phóng viên Phòng Thời
sự VTV4. Hai là, các phóng viên, biên tập viên có kinh nghiệm của một số đài truyền
hình trong nước về sản xuất tin và phóng sự truyền hình.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
Trong tình hình còn thiếu những khảo sát, nghiên cứu có hệ thống về các vấn
đề liên quan đến tin và phóng sự truyền hình nói chung, người viết mong muốn có

đóng góp trong việc bổ sung và hoàn thiện cơ sở lý luận về tin và phóng sự truyền
hình, về đối tượng công chúng là người Việt Nam ở nước ngoài, đưa ra tiêu chí của
tin và phóng sự có chất lượng cho công chúng người Việt Nam ở nước ngoài. Luận
văn cũng phác thảo thực trạng của việc sản xuất tin và phóng sự trên kênh truyền
hình đối ngoại VTV4, phân tích chi tiết các yếu tố cơ bản của tin và phóng sự: nội
dung, âm thanh, hình ảnh…rút ra những nhận định về thực trạng tin và phóng sự
trên VTV4. Từ kết quả nghiên cứu, luận văn nêu lên những vấn đề đặt ra từ thực
trạng của việc sản xuất tin và phóng sự trên VTV4, từ đó tìm kiếm giải pháp để
nâng cao chất lượng tin và phóng sự trên VTV4. Người viết cũng thử đề xuất một
cách làm mới cho Bản tin thời sự 0 giờ cho người Việt Nam ở Mỹ. Những vấn đề
rút ra từ khảo sát hy vọng sẽ trở thành nguồn tư liệu tham khảo có hệ thống giúp ích

9

cho các nhà nghiên cứu, nhà quản lý, các phóng viên, biên tập viên truyền hình,
đồng thời có thể làm tư liệu cho các sinh viên các ngành học liên quan tham chiếu
trong chuyên môn của mình.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,
nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1- Kênh VTV4 và hoạt động thông tin đối ngoại cho người Việt Nam
ở nước ngòai: Chương này trình bày các vấn đề VTV4 và những đóng góp cho hoạt
động thông tin đối ngọai; người Việt Nam ở nước ngoài- nhóm công chúng đặc biệt
của VTV4; nêu bật tầm quan trọng của tin và phóng sự trong chương trình VTV4;
các yếu tố cơ bản để đánh giá chất lượng của tin và phóng sự truyền hình
Chương 2- Thực trạng sản xuất tin và phóng sự của kênh truyền hình đối
ngoại VTV4: Chương 2 khái quát quy trình sản xuất tin và phóng sự của VTV4; tần
suất sử dụng tin và phóng sự trong chương trình VTV4; thực trạng về sản xuất tin
và phóng sự trên VTV4.
Chương 3- Những vấn đề đặt ra cho việc sản xuất tin và phóng sự cho người

Việt Nam ở nước ngòai: chương này nêu rõ những vấn đề đặt ra từ thực trạng sản
xuất tin và phóng sự của VTV4 hiện nay, từ đó giải quyết vấn đề làm thế nào để có
tin và phóng sự tốt cho người Việt Nam ở nước ngòai, đưa ra tiêu chí cho tin, phóng
sự truyền hình có chất lượng cho công chúng người Việt Nam ở nước ngòai; sau
cùng là đề xuất một kiểu làm mới cho bản tin thời sự 0 giờ cho cộng đồng người
Việt Nam tại Mỹ.


10

CHƢƠNG 1

KÊNH VTV4 VÀ HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
CHO NGƢỜI VIỆT NAM Ở NƢỚC NGOÀI

1.1. VTV4 và hoạt động thông tin đối ngọai
1.1.1. Một số vấn đề về thông tin đối ngọai
1.1.1.1. Khái niệm thông tin đối ngọai
Ngày nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta thường thấy
xuất hiện các thuật ngữ như “thông tin đối ngọai”, “công tác thông tin đối ngọai”,
“thông tin đối ngọai cho người Việt Nam ở nước ngoài ”…Tuy nhiên, cho đến nay,
vẫn chưa có khái niệm thống nhất về thông tin đối ngọai.
Nếu xét về mặt ngôn ngữ, thông tin là “truyền tin, đưa tin báo nhau biết” [37,
tr.1587], đối ngoại là “(chủ trương, chính sách về quan hệ mang tính quốc gia) đối
với nước khác” [37, tr 658]. Từ đó ta có thể hiểu thông tin đối ngọai là những tin
tức, thông báo về một sự vật hiện tượng được chọn lựa và sử dụng để truyền tải
thông điệp ra bên ngoài lãnh thổ một quốc gia nhằm mục đích cung cấp thông tin
chính thống, nâng cao hình ảnh quốc gia.
Theo website Từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia phiên bản tiếng Việt
nhấn mạnh về yếu tố thực tiễn của thông tin đối ngọai khi đưa ra khái niệm: “Thông

tin đối ngọai là những hoạt động chủ động cung cấp thông tin có định hướng để
giới thiệu, phổ biến, quảng bá, v.v về một đối tượng cụ thể (một đất nước, một tổ
chức, nhóm người hoặc một cá nhân v.v ) nhằm mục đích gây thiện cảm, tranh thủ
sự ủng hộ, giúp đỡ của các nhân tố bên ngoài hoặc để đối phó, phản bác đối với
những thông tin sai lệch, gây bất lợi. hoặc theo một cách hiểu khác, thông tin đối
ngọai là những sự kiện v.v được cung cấp mang tính ngoại giao và ứng đối bên
ngoài.”

11

Dù khác nhau về từ ngữ, nhưng hai cách khái niệm trên có điểm chung là
thông tin đối ngọai là việc đưa thông tin có chủ đích ra ngoài lãnh thổ nhằm phục
vụ cho một số lợi ích của quốc gia.
Theo tác giả Phạm Minh Sơn,“Thông tin đối ngọai là một bộ phận quan
trọng trong công tác đối ngọai và tư tưởng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
nhằm làm cho thế giới hiểu rõ đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, những
thành tựu trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, đất nước, con người, lịch sử, văn
hóa, những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam; đấu tranh chống lại
những luận điệu xuyên tạc, chống phá Việt Nam; làm cho nhân dân ta hiểu rõ về
thế giới; đồng thời tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ của bạn bè
quốc tế, sự đồng thuận và đóng góp của đồng bào ta ở nước ngoài đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [32, tr.16].
1.1.1.2. Các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về thông tin đối
ngọai
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, hầu như không một quốc gia nào có
thể tồn tại và phát triển mà không mở cửa, giao lưu với các nước khác trên thế giới.
Chính vì lẽ đó, thông tin đối ngọai ngày càng trở nên quan trọng đối với Việt Nam.
Xác định tầm quan trọng của lĩnh vực này, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
chỉ thị, nghị quyết nhằm đẩy mạnh công tác thông tin đối ngọai. Chỉ thị số 11-
CT/TW ngày 13/6/1992 của Trung ương Đảng về Đổi mới và tăng cường công tác

thông tin đối ngọai đã đặt nền tảng cho sự phát triển của công tác thông tin đối
ngọai trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở đó, công tác thông tin đối ngọai ngày càng
xác định rõ ràng về nội dung thông tin, đối tượng thông tin và lực lượng thông tin.
Nội dung cơ bản của của thông tin: thông tin về chủ trương đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước, những thành tựu trong công cuộc đổi mới của Việt Nam;
quảng bá hình ảnh, đất nước, con người, lịch sử, văn hoá Việt Nam và những thành
tựu đổi mới của Việt Nam ra thế giới; đấu tranh với những thông tin sai lệch về Việt
Nam, bảo vệ chủ quyền quốc gia và tăng cường thông tin quốc tế cho nhân dân.

12

Đối tượng thông tin đối ngọai có thể chia làm 4 nhóm, bao gồm: nhân dân,
chính phủ các nước trên thế giới; người nước ngoài ở Việt Nam; cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài và nhân dân trong nước. Trong đó, đối tượng cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài với số lượng hơn 4,5 triệu người, sống tại những địa
bàn khác nhau, nhưng vẫn giữ sợi dây liên hệ với quê hương, mong muốn đất nước
phát triển phồn vinh, là đối tượng quan trọng của công tác thông tin đối ngoại. Nghị
quyết 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị đã xác định: “Người Việt Nam
ở nước ngoài bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc
Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị
giữa nước ta với các nước”.
Lực lượng thông tin đối ngoại: Đảng và Nhà nước khẳng định thực hiện
thông tin đối ngọai là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó có các phương
tiện truyền thông đại chúng là lực lượng chủ yếu, nòng cốt. Truyền hình, với khả
năng truyền tải thông tin bằng ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh sinh động, hấp dẫn,
có thể vượt qua rào cản của ngôn ngữ, của biên giới quốc gia, luôn có sức hấp dẫn
lớn với công chúng. Nhìn rõ vai trò của truyền hình trong thông tin đối ngọai, trong
chỉ thị 11, Đảng xác định cần “Nâng cao chất lượng chương trình truyền hình của
Đài Truyền hình Việt Nam, mở rộng việc trao đổi chương trình và hợp tác với đài
truyền hình các nước” [1], xem đây là một trong các giải pháp để nâng cao hiệu quả

của thông tin đối ngoại. Chính từ yêu cầu thực tiễn đó, Đài truyền hình Việt Nam đã
thành lập kênh Truyền hình đối ngọai VTV4.
1.1.2. Kênh truyền hình đối ngoại VTV4
1.1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của VTV4
Truyền hình Việt Nam ra đời ngày 7-9-1970, với chương trình đầu tiên phát
sóng thành công từ Studio M của Đài Tiếng nói Việt Nam, đánh dấu một giai đoạn
mới trong sự phát triển của báo chí Việt Nam. Những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế
kỷ XXI, công cuộc đổi mới của nước ta đạt được nhiều thành tựu, tạo đà cho quan
hệ quốc tế phát triển. Nhiệm vụ của Đài truyền hình Việt Nam lúc này là đưa hình
ảnh Việt Nam đổi mới, phát triển, muốn làm bạn với các nước đến với thế giới và

13

với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, lên tiếng đấu tranh bác bỏ những luận
điệu sai trái, thiếu thiện chí của các thế lực thù địch. “Để phục vụ cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài và khán giả nước ngoài, từ 1-1-1995, Đài truyền hình Việt
Nam phát sóng chương trình đối ngọai (VTV4) phủ sóng qua vệ tinh Staionnar-13
của hệ thống Intersputnik. Các khu vực có thể thu được là châu Âu, châu Á, Trung
Cận Đông. Thời gian phát sóng hàng ngày từ 21 giờ 45 phút đến 22 giờ 45 phút
(giờ Hà Nội)”[13, tr115]. Từ cột mốc quan trọng này, VTV4 chính thức ra đời, bắt
đầu được đầu tư ở tầm quốc gia, phát sóng qua vệ tinh và dần dần phát triển và phủ
sóng khắp năm châu. Từ một giờ phát sóng 1 giờ ngày vào năm 1995, đến năm
2002 VTV4 đã phát sóng 8 giờ/ngày, qua các vệ tinh MEASAT1, THAICOM3,
TELSTAR5, HOTBIRD3.
Trên cơ sở đó, ngày 7-2-2002, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành
lập Ban Truyền hình đối ngọai, trực thuộc Đài truyền hình Việt Nam. Ban Truyền
hình đối ngọai chính thức họat động từ ngày 1-5-2002, với nhiệm vụ sản xuất, khai
thác và phát sóng các bản tin tiếng Anh, tiếng Pháp và toàn bộ chương trình phát
sóng trên kênh đối ngoại VTV4 của Đài truyền hình Việt Nam.
1.1.2.2. Vai trò của VTV4 trong hoạt động thông tin đối ngọai

Hiện nay, kênh truyền hình đối ngọai VTV4 của Đài truyền hình Việt Nam
phát sóng 24/24 giờ mỗi ngày, phủ sóng hầu hết các khu vực có kiều bào ta sinh
sống ở châu Á, châu Âu, châu Phi, khu vực Bắc Mỹ-Canada và một phần tây bắc
Australia. Đài truyền hình Việt Nam đã đưa VTV4 vào hệ thống truyền hình cáp và
qua internet thông qua phương thức chuyển nhượng bản quyền VTV4, giúp người
xem trên toàn cầu có thể theo dõi chương trình VTV4. Riêng tại Mỹ, từ ngày
1/8/2012, kênh VTV4 được quảng bá với thương hiệu VTV America, được phát
sóng trên 3 kênh của Đài truyền hình Mhz Networks có trụ sở tại Falls Church,
Virginia, Hoa Kỳ. Thỏa thuận mới này giúp khán giả xem truyền hình tại Thủ đô
Washington D.C và các vùng phụ cận tại Maryland, Virginia có thể xem được toàn
bộ chương trình của VTV4 trên hệ thống truyền hình số mặt đất tại kênh 30.11. Trả
lời phỏng vấn đăng trên VnEconomy ngày 1-8-2012, ông Bạch Ngọc Chiến,

14

Trưởng ban Truyền hình Đối ngoại VTV4 cho biết "Với thỏa thuận này, VTV4 sẽ
đến được với hàng chục triệu gia đình Mỹ và người Việt và đây là bước khởi đầu
cho sự hợp tác giữa VTV và Mhz Networks trong việc cung cấp dịch vụ truyền hình
tới khán giả trên các nền tảng kỹ thuật số, băng thông rộng, hình ảnh theo yêu cầu
(video on demand) và các ứng dụng cho các thiết bị cầm tay như máy tính bảng và
điện thoại di động".
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, VTV4 luôn xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ của mình là một kênh truyền hình chuyên về thông tin đối
ngoại. Qua nghiên cứu và khảo sát thực tiễn, chúng tôi xác định VTV4 có các vai
trò, nhiệm vụ sau:
* VTV4 có vai trò lớn trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước đến với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Phát sóng đến
hầu hết các khu vực có người Việt Nam sinh sống trên thế giới, VTV4 đã đáp ứng
một phần quan trọng nhu cầu thông tin về đất nước cho cộng đồng người Việt Nam
ở nước ngoài. Những hình ảnh, thông tin cập nhật về tình hình mọi mặt của đất

nước qua sóng VTV4 đã giúp bà con kiều bào nhanh chóng nắm bắt được tình hình
quê nhà, qua đó người Việt Nam ở nước ngoài hiểu được những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội và
những chính sách pháp luật liên quan đến cộng đồng kiều bào.
* VTV4 giới thiệu hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam đến với thế giới.
VTV4 có một chương trình nội dung phong phú, thể loại đa dạng, phản ánh mọi lĩnh
của đời sống như chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật, âm nhạc, du lịch,
ẩm thực…Nếu các chương trình thời sự với thế mạnh là tin tức, phóng sự cho thấy
những thay đổi đang diễn ra hàng ngày tại đất nước ta, thì các chương trình phim
truyện, ca nhạc, ký sự du lịch, tìm hiểu văn hoá lại giúp kiều bào thấy được vẻ đẹp
của quê hương đất nước, hiểu thêm về những truyền thống lịch sử, văn hoá lâu đời
của dân tộc.
* VTV4 là kênh thông tin đấu tranh hữu hiệu chống lại những luận điệu
xuyên tạc của các thế lực phản động. Trên thế giới hiện có khoảng 400 tờ báo in và

15

tạp chí bằng tiếng Việt cùng với 49 đài phát thanh có chương trình bằng tiếng Việt
hay tiếng nước ngoài đề cập đến Việt Nam với mục đích xuyên tạc tình hình tại
Việt Nam, đưa ra những thông tin sai lệch, bóp méo và xuyên tạc sự thật, làm cho
kiều bào hiểu sai về tình hình đất nước. Trong cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài, có bộ phận thiểu số luôn tìm cách chống đối, đi ngược lại với lợi ích dân tộc.
“Tuy ít, nhưng họ nắm giữ hầu hết các cơ quan ngôn luận và hệ thống thông tin đại
chúng của người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là tại Bắc Mỹ, Tây Âu và
Australia”[14, tr.157]. Trong bối cảnh đó, các chương trình của VTV4 với khả năng
phủ sóng rộng khắp, trở thành một phương tiện đấu tranh dư luận hữu hiệu của
Đảng. Cùng với việc thông tin kịp thời, chính xác về tình hình trong nước, VTV4
còn phân tích, phản bác lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động,
đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, giúp người Việt Nam ở nước ngoài
có nhận thức và ứng xử đúng đắn. Bên cạnh đó, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của

nhân dân thế giới với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
* VTV4 giúp người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc. Các chương trình giới thiệu về văn hoá, lễ hội, phong tục tập quán,
nghệ thuật…chiếm một thời lượng khá lớn trên VTV4, vừa đáp ứng nhu cầu giải trí,
vừa giúp kiều bào hiểu biết và tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc. Đặc biệt,
với phần lớn các tiết mục được phát sóng bằng tiếng Việt, VTV4 là một phương
tiện quan trọng giúp người Việt Nam ở nước ngoài học tiếng Việt, giữ gìn và phát
huy tiếng mẹ đẻ.
Trong quá trình hội nhập quốc tế và phát triển đất nước hiện nay, thông tin
đối ngọai phát huy tác dụng quan trọng của mình trong việc làm cho thế giới và
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu rõ, hiểu đúng về Việt Nam, từ đó ủng
hộ và góp phần vào cộng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đài truyền hình Việt
Nam, đặc biệt là kênh truyền hình đối ngọai VTV4, là một trong những lực lượng
giữ vai trò nòng cốt trong công tác thông tin đối ngọai. Việc phát sóng chương
trình truyền hình quốc gia bằng tiếng Việt ra nước ngoài là một tín hiệu vui mừng
với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, điều này cũng khẳng định sự quan

16

tâm và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước của với công tác thông tin đối
ngọai.
1.2. Ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài- nhóm công chúng mục tiêu của VTV4
1.2.1. Quá trình hình thành cộng đồng ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài
Với hơn 4 triệu người ở nước ngoài, Việt Nam là một trong những quốc gia
có số kiều dân đông trên thế giới. Quá trình hình thành cộng đồng người Việt Nam
ở nước ngoài gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước và của thế
giới.
Lịch sử ghi rõ là vào đầu thế kỷ thứ XII, con vua Lý Anh Tông là Lý Anh
Tường đã sang Cao Ly (Triều Tiên) tỵ nạn. Trải qua nhiều thế kỷ, số người Việt
Nam đến làm ăn, sinh sống tại các nước có gia tăng, nhưng rất chậm, cho đến thời

điểm trước năm 1975, số lượng người Việt Nam ở nước ngoài vào khỏang 160.000
đến 200.000 người. Số lượng người Việt Nam ở nước ngoài gia tăng mạnh ở các
giai đoạn chủ yếu sau:
- Năm 1975 số lượng người Việt Nam ở nước ngoài tăng đột biến lên
khỏang 2 triệu người, tạo ra sự thay đổi sâu sắc về số lượng, thành phần, tính chất,
cũng như địa bàn sinh sống của cộng đồng Người Việt Nam ở nước ngoài. Các đợt
di cư chủ yếu là cuộc di tản ồ ạt khi chiến tranh kết thúc vào ngày 30-4-1975; di tản
theo các Chương trình di cư; làn sóng người vượt biên trong những ngày khó khăn
sau giải phóng Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài sống tập trung chủ yếu ở
Mỹ, Australia, Canada, Nhật Bản, các nước Tây Âu.
- Từ những năm 1980, hàng chục ngàn công dân Việt Nam sang học tập, lao
động tại Liên xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Sau khi chế độ xã hội
chủ nghĩa sụp đổ tại Liên Xô và Đông Âu, phần lớn những người này ở lại định cư,
đưa gia đình, bạn bè từ Việt Nam sang, hình thành nên cộng đồng người Việt Nam
khá đông tại Nga và các nước SNG.
- Sau năm 1997, đất nước ta mở cửa hội nhập quốc tế, hàng trăm ngàn người
Việt Nam đã ra nước ngoài học tập, lao động, tu nghiệp, đòan tụ gia đình, hình
thành nên cộng đồng người Việt Nam ở một số địa bàn mới như: Nhật Bản, Hàn

17

Quốc, Đài Loan, Malaysia và một số nước Trung Đông. Trong những năm gần đây,
số người Việt Nam định cư ở nước ngoài qua con đường kết hôn tăng nhanh, hiện
nay tại Đài Loan có khỏang 1000.000 và Hàn quốc có khỏang 40.000 cô dâu Việt
Nam.
“ Đến nay, có khỏang 4 triệu người Việt Nam đang sinh sống tại 100 nước và
vùng lãnh thổ, trong đó đa số ở các nước công nghiệp phát triển. Trong đó, nhiều
nhất là ở Châu Mỹ với khỏang 1,79 triệu người (Hoa Kỳ: 1,5 triệu; Canada: 250
nghìn…); châu Âu gần 719 nghìn người (Pháp: 300 nghìn; Nga: 100 nghìn; Sec: 50
nghìn, Ba Lan: 25 nghìn ); châu Á khỏang 867 nghìn người (Malaysia: 150 nghìn,

Hàn quốc:75 nghìn, Nhật Bản: 31 nghìn, Đài Loan 200 nghìn…) và châu Đại
Dương 255 nghìn người” ”[32, tr.92].
Người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng ổn định cuộc sống và hòa nhập xã hội nơi
cư trú, một số có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế chính trị-xã hội ở nước sở
tại. Do hòan cảnh và điều kiện di cư khác nhau nên cộng đồng Người Việt Nam ở
nước ngoài đa dạng về tầng lớp xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo và đặc biệt là họ chịu
ảnh hưởng của các xu hướng chính trị khác nhau.
Những số liệu trên cho chúng ta thấy được sự phức tạp của quá trình hình
thành cộng đồng Người Việt Nam ở nước ngoài. Chính sự phức tạp ấy đã góp phần
tạo nên tính đa dạng và những đặc thù của cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài.
1.2.2. Nhóm công chúng mục tiêu của VTV4
Với tác giả Trần Hữu Quang, “công chúng là một tập hợp xã hội được cấu
thành một cách phức tạp bởi nhiều giới, nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, và mỗi
người đều đang sống trong những mạng lưới xã hội nhất định và những mối quan hệ
xã hội nhất định” [29, tr.267]. Ở đây, chúng tôi hiểu “công chúng” là đối tượng của
các phương tiện truyền thông đại chúng. Mỗi kênh thông tin đại chúng khi xây dựng
chương trình phải xác định công chúng của mình. Để quá trình thông tin đạt hiệu
quả, mỗi kênh chỉ có thể hướng tới một hoặc một số nhóm công chúng đặc thù, chứ
không phải toàn bộ công chúng.

18

VTV4 là kênh truyền hình đối ngọai của Đài truyền hình Việt Nam, có đối
tượng thông tin gồm 4 nhóm, như đã trình bày tại mục 1.1.1.2. Trong đó, người
Việt Nam ở nước ngoài được xem như nhóm công chúng mục tiêu. Ngay từ khi
thành lập cho đến nay, VTV4 luôn đặt ra mục tiêu hướng tới nhóm công chúng
người Việt Nam ở nước ngoài. Điều này được thể hiện trong các chủ trương, chính
sách của Đảng cũng như trong nhiệm vụ của VTV4. Nghị quyết 36 của Bộ Chính
trị nêu rõ: “Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền, giúp

cho người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng tình hình đất nước và chính sách của
Đảng và Nhà nước” [4]. Từ đó, chương trình hành động của chính phủ thực hiện
Nghị quyết 36 nêu rõ Đài truyền hình Việt Nam có nhiệm vụ: “đánh giá, cải tiến
hoàn thiện và nâng cao chất lượng chương trình truyền hình, truyền thanh dành cho
đồng bào ta ở nước ngoài phù hợp với tâm lý, tình cảm của đồng bào, có biện pháp
hiệu quả đưa chương trình đến đông đảo cộng đồng người Việt Nam tại các nước”
[2, tr.164]. Ông Vũ Văn Hiến, nguyên tổng Giám đốc Đài truyền hình Việt Nam
cũng từng khẳng định: “Trong tình hình hiện nay, kênh truyền hình VTV4 chủ yếu
hướng tới cộng đồng kiều bào ta ở nước ngoài ” [2, tr.75].
Do quá trình hình thành phức tạp nên cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài phân hoá thành nhiều tiểu nhóm có đặc điểm khác nhau và nhu cầu hưởng
thụ thông tin khác nhau. Những yếu tố này khiến các các cơ quan truyền thông đại
chúng, trong đó có VTV4, khi làm công tác thông tin cho người Việt Nam ở nước
ngoài phải chú ý đến các đặc điểm của đối tượng này. Tìm hiểu về cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài, chúng tôi thấy nổi lên một số đặc điểm như sau:
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một cộng đồng trẻ, năng động.
Tuy chỉ mới phát triển rõ nét từ cuối những năm 1970, cộng đồng người Việt Nam
ở nước ngoài đã nhanh chóng hoà nhập với người dân nước sở tại, có xu hướng
định cư lâu dài, chủ yếu là ở Mỹ, Australia, Canada các nước Tây Âu (khoảng 80%
đã nhập quốc tịch nước cư trú). Trong khi đó, phần lớn người Việt tại Nga, Đông
Âu vẫn coi cuộc sống hiện nay là tạm cư, khi có điều kiện sẽ trở về nước.
Luôn hướng về cội nguồn là nét nổi bật ở cộng đồng người Việt Nam ở nước

19

ngoài, thể hiện qua những tâm tư, tình cảm, những đóng góp vật chất và trí tuệ dành
cho đất nước. Theo thông tin từ Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài
trong Hội nghị Người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ 2, được tổ chức vào cuối
tháng 9-2012 tại thành phố Hồ Chí Minh, hàng năm có khoảng 500 nghìn lượt kiều
bào về nước, trong đó có không ít các chuyên gia, trí thức về làm việc và nhiều

người về đầu tư, kinh doanh. Hiện có trên 3500 doanh nghiệp trong nước có vốn
góp của kiều bào. Kiều hối gửi về nước tăng trung bình 10-15%/năm, năm 2009 đạt
trên 9 tỷ USD, chiếm gần 1/10 GDP, đưa Việt Nam trở thành một trong số 10 quốc
gia nhận kiều hối nhiều nhất. Trong 6 tháng đầu năm 2012, nguồn kiều hối đạt
khoảng 6,4 tỷ USD, đóng góp quan trọng vào việc ổn định cán cân thanh toán và
kinh tế của đất nước. Mỗi năm có hàng trăm chuyên gia trì thức kiều bào về nước
hợp tác với các trường đại học, các viện nghiên cứu trong nước. Các hội đoàn người
Việt Nam ở nước ngoài tham gia tích cực vào các hoạt động mang tính nhân đạo,
trợ giúp đồng bào trong nước.
Tiềm lực kinh tế của cộng đồng người Việt Nam so với các cộng đồng kiều
dân các nước trên thế giới không phải là lớn. Dù được coi là thành đạt nhanh ở Mỹ
và phương Tây, thu nhập bình quân đầu người của kiều bào vẫn thấp so với mức
bình quân của người bản xứ. Trong cộng đồng không có nhà tài phiệt về tài chính
và ngân hàng, đa số có mức vốn vừa và nhỏ, chủ yếu nhờ quá trình tích lũy qua quá
trình làm công hoặc kinh doanh nhỏ. Theo thống kê, hiện chỉ có khoảng 55% người
Việt có cuộc sống ổn định, nhiều người ở Mỹ và Tây Âu vẫn phải sống nhờ vào trợ
cấp xã hội.
Tiềm năng kinh tế không cao, nhưng tiềm lực chất xám, trí tuệ của người
Việt Nam ở nước ngoài lại khá lớn, nhất là ở phương Tây, Nga, Đông Âu. Hiện
ước tính trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có khoảng 300.000 người
được đào tạo ở trình độ đại học, trên đại học và công nhân kỹ thuật bậc cao, có kiến
thức cập nhật về văn hoá, khoa học và công nghệ, về quản lý kinh tế.
* Từ quá trình hình thành và đặc điểm của cộng đồng, chúng tôi xếp người
Việt Nam ở nước ngoài thành những nhóm sau:

20

Nhóm thứ nhất là những người Việt sống xa Tổ quốc trước năm 1975. Đây là
số người ra đi trong hòan cảnh lịch sử của đất nước có chiến tranh hoặc vì lý do
hòan cảnh kinh tế của từng cá nhân, gia đình. Số người này sống chủ yếu ở các

nước: Thái lan, Lào, Campuchia, Pháp và đã hình thành ba bốn thế hệ ông bà, cha
mẹ, con và cháu sống ở nước ngoài. Đa số thế hệ con, cháu ít nghe nói được tiếng
Việt, thậm chí không biết tiếng Việt. Thái độ chính trị của nhóm được đánh giá là
tích cực, luôn ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nòng cốt của các
phong trào Việt kiều yêu nước.
Nhóm thứ hai là những người Việt Nam ra nước ngoài sau những biến động
lịch sử năm 1975 ở miền Nam. Số người này gồm những thành phần ít nhiều gắn bó
với Mỹ-Ngụy, di tản, vượt biên hay ra nước ngoài theo các chương trình đòan tụ gia
đình. Đây là nhóm lớn, phân hoá phức tạp, nhưng cơ bản chia làm hai dạng ôn hoà
và phản động.
+ Nhóm ôn hoà: chiếm số lượng lớn trong cộng đồng, đều có nguyện vọng
ổn định cuộc sống tại nước sở tại, duy trì tình cảm với quê hương và mong muốn
Việt Nam phát triển, nhiều người về nước tham gia đầu tư, hợp tác trên nhiều lĩnh
vực. Trong nhóm này vẫn có một bộ phận, có liên quan đến chế độ cũ ở các mức độ
khác nhau nên vẫn còn mặc cảm, giữ thái độ hoài nghi với đất nước.
+ Nhóm phản động: chiếm số lượng thiểu số trong cộng đồng, từng phục vụ
trong chế độ cũ, có tư tưởng hận thù dân tộc, chống đối Nhà nước ta, nên luôn tìm
cách đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, kích động cộng đồng tham gia các hoạt
động chống phá đất nước.
Nhóm thứ ba là cộng đồng hàng trăm ngàn người Việt Nam đi lao động, hợp
tác tại Liên Xô và các nước Đông Âu và ở lại định cư lâu dài và làm ăn, sinh sống
tại đây. Cộng đồng này tuy không có tiềm lực kinh tế cao nhưng lại có tiềm lực trí
tuệ rất lớn, đa số giữ mối quan hệ mật thiết với gia đình, quê hương, và có ý muốn
quay đất nước làm ăn, sinh sống
Nhóm thư tư là hàng chục ngàn lao động xuất khẩu của Việt Nam ở nhiều
nước, tập trung đông ở các nước Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc,

21

Malaysia…Phần lớn những người này có thời gian cư trú ngắn nên không gắn bó

với nước sở tại, có trình độ học vấn trung bình và tiềm lực kinh tế không cao, giữ
thái độ gắn bó với đất nước.
Chia thành nhiều tiểu nhóm và có đặc điểm, thái độ chính trị và nhu cầu
thông tin khác nhau chính là đặc điểm lớn nhất cần phải được nghiên cứu về cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài với tư cách là nhóm công chúng đặc biệt của
VTV4. Bởi vì, chính đặc điểm này quy định thái độ và tâm lý tiếp nhận chương
trình của từng nhóm công chúng. Điều này thể hiện ra ở chỗ những kiều bào mong
muốn đóng góp công sức xây dựng quê hương luôn quan tâm theo dõi, tìm hiểu
thông tin về tình hình đất nước qua các chương trình của VTV4, tiếp nhận thông tin
với thái độ khách quan. Còn những người có tư tưởng hận thù dân tộc, giữ mặc cảm
quá khứ thì có thái độ hoài nghi, ngờ vực, tẩy chay thậm chí xuyên tạc những thông
tin từ trong nước đưa ra.
Qua những phân tích trên, có thể thấy người Việt Nam ở nước ngoài là đối
tượng quan trọng của công tác thông tin đối ngọai. Với hơn 4 triệu người, không
sống trong lãnh thổ Việt Nam, có những đặc điểm khác nhau về thành phần, học
vấn, điều kiện kinh tế, quan điểm chính trị…người Việt Nam ở nước ngoài là nhóm
công chúng đặc biệt của VTV4. Việc nghiên cứu những đặc điểm cơ bản, tâm lý tiếp
nhận thông tin của nhóm công chúng này là cơ sở khách quan, khoa học để những
các nhà quản lý, những người làm truyền hình có thể xây dựng những tiêu chí phù
hợp nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả của chương trình truyền
hình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài.
1.3. Tin và phóng sự trong chƣơng trình VTV4
1.3.1. Tầm quan trọng của tin và phóng sự trong chƣơng trình VTV4
Chương trình truyền hình của VTV4 có nhiều thể loại phong phú, từng thể
loại có những đặc điểm riêng biệt, hoà chung vào một tổng thể thống nhất tạo nên
sự hấp dẫn cho VTV4. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chọn
nghiên cứu tập trung về tin và phóng sự, bởi hai thể loại này có tầm quan trọng đặc
biệt trong chương trình VTV4. Tầm quan trọng đó là do:

22


Tin và phóng sự là những nhóm thể loại quan trọng hàng đầu đối với truyền
hình cũng như các loại hình báo chí khác. Trong thời đại thông tin hiện nay, cập
nhật tin tức đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của
con ngừơi. Tin đáp ứng gần như trọn vẹn nhu cầu nhận thức thời sự tức thời, cập
nhật của con người. Trong thế giới ngày nay, các sự việc không ngừng biến đổi, con
người luôn luôn muốn biết những gì xảy ra quanh mình và vì thế nhu cầu thông tin
của con người ngày càng tăng. Do vậy, tin tức là thể loại quan trọng, rất được chú
trọng, là linh hồn của các cơ quan báo chí, trong đó bao gồm cả truyền hình. Trong
khi tin tức thông báo tức thời các sự kiện thì phóng sự giúp công chúng nhận thức
sự kiện, vấn đề một cách toàn diện, hệ thống thông qua việc phân tích kèm theo
biểu thị quan điểm và chính kiến của phóng viên. Với thế mạnh đó, tin và phóng sự
sẽ vẫn là thể loại báo chí phát triển trong tương lai và xứng đáng được nghiên cứu
một cách đầy đủ.
Tin và phóng sự chính là hai thể loại xung kích trong việc thực hiện thông tin
đối ngọai của VTV4. VTV4 có vai trò lớn trong hoạt động thông tin đối ngọai, chủ
yếu hướng vào đối tượng là người Việt Nam ở nước ngoài (xem mục 1.1.2.2), nên
trong quá trình hoạt động của mình VTV4 luôn bám sát nhiệm vụ: “Thông tin,
tuyên truyền về các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất
là chính sách đối ngọai và chính sách liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài
cho đối tượng là người Việt sinh sống và làm việc tại nước ngoài. Tuyên truyền
quảng bá về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa Việt Nam. Đấu tranh, phản bác
các tuyên truyền thù địch về Việt Nam” (Nguồn: Tài liệu Ban Đối ngọai Đài truyền
hình Việt Nam). Trong chương trình VTV4 bao gồm nhiều nội dung như tin tức,
phóng sự, phỏng vấn, phim truyện, âm nhạc, sân khấu, các chương trình về văn hóa,
thể thao, du lịch, ẩm thực, trò chơi truyền hình…Trong đó, tin tức và phóng sự có
vai trò quan trọng, phản ánh kịp thời, sâu sắc các sự kiện, vấn đề xảy ra trong đời
sống…đáp ứng tức thời nhu cầu thông tin hàng ngày của khán giả. Vì vậy, tin và
phóng sự chính là hai thể loại xung kích trong việc thực hiện các nhiệm vụ thông tin
tuyên truyền của VTV4. Thực tế khảo sát cho thấy, tin tức chiếm tỷ lệ khá lớn trong

×