Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của người làm báo trong thời kỳ đổi mới của cách mạng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 130 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN



ĐỖ QUYẾT THẮNG




VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CỦA NGƯỜI LÀM BÁO
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC













TP. HỒ CHÍ MINH - 2006
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN


ĐỖ QUYẾT THẮNG

VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CỦA NGƯỜI LÀM BÁO
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
CHUN NGÀNH : BÁO CHÍ HỌC
MÃ SỐ : 60. 32. 01







Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. VŨ DUY THƠNG




TP. HỒ CHÍ MINH - 2006

3
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
5
1. Tính cấp thiết của đề tài
5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
6
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
7
4. Đối tượng, phương pháp, phạm vi nghiên cứu
8
5. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
9
6. Kết cấu của luận văn
10
Chƣơng I: Đạo đức nghề nghiệp của ngƣời làm báo cách mạng Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới – một số vấn đề lý luận


1.1 Quan điểm Mác xít về mối quan hệ đạo đức với kinh tế
11
1.1.1 Mối quan hệ giữa đạo đức với kinh tế là mối quan hệ giữa kiến trúc
thượng tầng và cơ sở hạ tầng.
12
1.1.2. Các chức năng của đạo đức theo quan điểm Mác xít
16

1.1.3. Những giá trị đạo đức của người Việt Nam
17
1.1.4. Thời kỳ đổi mới và những yêu cầu của thời kỳ đổi mới
26
1.1.5 Một số yêu cầu chung của đạo đức trong thời kỳ đổi mới của đất nước
ta.
30
1.2. Nội dung và yêu cầu của đạo đức đối với người làm báo cách mạng
Việt Nam.
35
1.2.1. Khái niệm người làm báo và đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
34
1.2.2. Đạo đức nghề nghiệp của người làm báo.
36
1.2.3. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức người làm báo cách
mạng.
38
Chƣơng II. Thực trạng đạo đức nghề nghiệp của ngƣời làm báo cách mạng
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới


2.1. Những tác động của công cuộc đổi mới tới báo chí và đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo
43
2.1.1 Những vấn đề xung quanh thời kỳ đổi mới
43

4
2.1.2. Những bước phát triển cơ bản của báo chí trong thời kỳ đổi mới
48

2.1.3 Những đóng góp của báo chí và đội ngũ làm báo cách mạng tới quá
trình đổi mới
57
2.1.4 Những tác động cơ bản của thời kỳ đổi mới tới đạo đức nghề nghiệp
người làm báo cách mạng.
61
2.2. Nhận dạng những biểu hiện tiêu cực trong đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo trong thời kỳ đổi mới.
73
2.2.1 Tiêu cực trong mối quan hệ với Tổ quốc, với nhân dân
75
2.2.2. Tiêu cực trong mối quan hệ với công việc của mình
80
2.2.3. Tiêu cực trong các mối quan hệ xã hội khác.
91
Chƣơng III. Những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao đạo đức nghề
nghiệp của ngƣời làm báo Việt Nam trong thời kỳ đổi mới



3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề đạo đức nghề
nghiệp người làm báo cách mạng trong thời kỳ đổi mới
98
3.2. Một số giải pháp nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
cách mạng trong thời kỳ đổi mới.
108
3.2.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với người làm báo
108
3.2.2. Luôn học tập, bồi dưỡng, tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp của người
làm báo cách mạng

111
3.2.3. Nâng cao vai trò quản lý, lãnh đạo của các cơ quan báo chí và Hội
Nhà báo trong quản lý người làm báo.
113
3.2.4. Chính sách toàn diện đồng bộ trong quản lý, đãi ngộ đối với người
làm báo Việt Nam.
118
3.2.5. Nghiêm túc thực hiện đúng các quy định của pháp luật về Luật Báo
chí, các quy tắc làm việc của người làm báo Việt Nam
119
3. 3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo nước ta trong thời kỳ đổi mới
121
KẾT LUẬN
123
Tài liệu tham khảo
126



5
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngày 7 tháng 11 năm 2006, đất nước ta trở thành thành viên chính thức
thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sự kiện này là một công
nhận của thế giới đối với thành công trong các chính sách đổi mới của Đảng
và Nhà nước ta trong 2 thập kỷ kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng
sản Việt Nam lần thứ VI (tháng 12 năm 1986). Sự kiện này cũng là mốc lịch
sử đặc biệt đánh dấu một bước phát triển của công cuộc đổi mới do Đảng và

Nhà nước ta khởi xướng. Sau hai mươi năm, công cuộc đổi mới do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu hết sức quan trọng về mọi
mặt đạt được nhiều thành tựu. Những thành tựu đó đã và đang tạo nên thế và
lực mới để nhân dân ta tiếp tục phấn đấu vươn lên thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để đạt được những
thành tựu quan trọng đó, Đảng ta đã chủ động phát huy toàn bộ các nguồn lực
trong quần chúng nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới. Một trong các nguồn
lực đó chính là báo chí cách mạng Việt Nam.
Báo chí cách mạng Việt Nam là một lực lượng giữ vai trò quan trọng
trên mặt trận tư tưởng văn hóa của Đảng. Trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa, nhất là trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Trong 20 năm qua, báo chí cách mạng Việt Nam luôn thể hiện vai trò là vũ khí
sắc bén trong tuyên truyền, tập hợp, tổ chức, giáo dục và vận động nhân dân
tiến hành thắng lợi nhiệm vụ cách mạng. Trong khoảng thời gian đó, hoạt
động của hệ thống báo chí Việt Nam cũng trở nên đa dạng và thay đổi một
cách nhanh chóng. Là một loại hàng hoá đặc biệt, báo chí có nhiệm vụ truyền
bá các tư tưởng, tri thức, mang đến cho độc giả những thông tin về mọi mặt:

6
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… Báo chí còn là người hướng dẫn công
chúng nước ta đi theo con đường chính trị của Đảng và Nhà nước, phục vụ
mục tiêu phát triển đất nước. Trong những năm gần đây, đội ngũ người làm
báo đã đóng góp một công sức không nhỏ trong việc tuyên truyền chủ trương
chính sách của Đảng và Nhà nước ta tới nhân dân, cổ vũ các nhân tố mới, phát
hiện và đấu tranh với những tiêu cực, góp phần hoàn chỉnh các chủ trương
chính sách của Nhà nước, góp phần làm cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân ta.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta không
phải chỉ có mặt tích cực, nó cũng có những mặt trái tác động tới các lĩnh vực

khác nhau trong xã hội, báo chí nước ta cũng không thể tránh khỏi bị tác động
của các mặt trái đó. Hiện tượng một bộ phận không nhỏ người làm báo vì
nguyên nhân chủ quan hay khách quan đã có những hành vi vi phạm đạo đức
nghề nghiệp của người làm báo gây ra mất lòng tin của nhân dân, làm giảm sự
tín nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với các cơ quan báo chí. Việc tìm hiểu
bản chất của hành vi đạo đức người làm báo cách mạng trong thời kỳ đổi mới,
qua đó đề xuất giải pháp nâng cao đạo đức, hạn chế các tiêu cực của người
làm báo của nước ta là hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trên thực tế, hoạt động nghiên cứu về đạo đức nghề nghiệp của nhà
báo đã từng được thực hiện khá nhiều trên thế giới thông qua một số công
trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, được xuất bản thành sách như
cuốn: “Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp nhà báo” của tác giả
G.V. Ladutina, hay cuốn sách: “ Đạo đức nghề nghiệp nhà báo; Những nghịch
lý phát triển, những kiếm tìm và triển vọng” của Abramov. D.S… Tuy nhiên
tác giả nhận thấy các công trình này chưa nghiên cứu về đạo đức nghề nghiệp
của người làm báo Việt Nam. Ở trong nước, cũng đã có một số tác giả đề cập

7
về vấn đề này như công trình: “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông” của các
tác giả Đinh Hường, Dương Xuân Sơn, Trần Quang( 2002), công trình “Nâng
cao năng lực và phẩm chất của phóng viên báo chí trong thời kỳ CNH, HĐH”
do tác giả Hà Đăng chủ biên; “Tổ chức và Quản lý toà soạn” (Đinh Hường);
hay cuốn “ Định hướng và hoạt động quản lý báo chí trong điều kiện kinh tế
thị trường hiện nay” (Trần Quang Nhiếp); “Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
báo chí trong thời kỳ đổi mới” (Nguyễn Vũ Tiến), … Bên cạnh đó, vấn đề đạo
đức nghề nghiệp nhà báo đã trở thành chuyên đề được giảng dạy tại 3 trường
đại học có giảng dạy chuyên ngành báo chí của nước ta là : Học viện Báo chí
Tuyên truyền (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh), Đại học KHXH &
NV (thuộc Đại Học Quốc gia Hà Nội) và Trường Đại học KHXH & NV (Đại

học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh).
Nhìn chung, các chuyên đề, công trình này đã có nhiều đóng góp, đề
cập khá toàn diện và phân tích khá sâu về từng mặt của vấn đề đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo Việt Nam. Kế thừa những thành quả nghiên cứu của
các công tình khoa học này, tác giả tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận và
thực tiễn đạo đức nghề nghiệp người làm báo gắn với điều kiện của đất nước
ta trong thời kỳ đổi mới, nhất là phân tích những tác động qua lại của nền
kinh tế thị trường đối với vấn đề này. Qua đó đưa ra những kiến nghị đóng
góp các giải pháp thiết thực để nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người làm
báo Việt Nam .
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Luận văn nhằm mục đích nghiên cứu một cách hệ thống về các vấn đề
lý luận và thực tiễn đối với đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới của cách mạng Việt Nam, tức là vấn đề đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo chí cách mạng ở trong thời kỳ từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (1986) cho tới những năm gần đây, đặc biệt là xem xét những

8
tác động tích cực và tiêu cực của cơ chế thị trường tới vấn đề này. Qua đó đưa
ra một số giải pháp và xây dựng một cơ chế có hiệu quả hạn chế các tiêu cực,
nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người làm báo cách mạng Việt Nam hiện
nay.
Từ mục đích trên, tác giả luận văn có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề
sau:
- Nghiên cứu về mặt lý luận, những cơ sở khoa học của vấn đề đạo
đức nghề nghiệp người làm báo cách mạng Việt Nam gắn với thời kỳ đổi mới
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu các quan điểm chỉ đạo của Đảng, các chính sách của
Nhà nước và nhiệm vụ của cơ quan có trách nhiệm quản lý đội ngũ người làm
báo về vấn đề này trong khoảng thời gian từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần

thứ VI cho tới những năm gần đây.
- Phân tích, lý giải từ thực tiễn hoạt động tác nghiệp của đội ngũ
người làm báo nước ta hiện nay để làm rõ mặt tích cực cũng như hạn chế về
đạo đức nghề nghiệp của người làm báo ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
- Từ những nghiên cứu và phân tích, tác giả nêu một số phương
hướng và giải pháp cùng một số kiến nghị nhằm nâng cao đạo đức của đội ngũ
người làm báo cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

4. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các hành vi đạo đức của
đội ngũ người làm báo Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là đặt vấn đề nghiên
cứu trong thời kỳ đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, tức là sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI cho tới nay. Trong đó nhấn mạnh tới yếu tố kinh tế
thị trường tác động tới vấn đề đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ những người
làm báo cách mạng Việt Nam.

9
- Luận văn được hình thành dựa trên cơ sở những quan điểm, hệ
thống lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
báo chí, đạo đức nghề nghiệp báo chí. Những chủ trương, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước cũng như quan điểm chỉ đạo của các cấp quản lý về các
lĩnh vực trên. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, thống kê
và khảo sát thực tiễn. Công tác thu thập tài liệu được thực hiện dưới dạng ghi
chép, thống kê, quan sát trực tiếp, cập nhật số liệu qua báo chí, qua các
website và các hội nghị, hội thảo khoa học.
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu. Trong
đó chủ yếu thực hiện bằng phương pháp quy nạp có kết hợp phương pháp loại
suy để rút ngắn thời gian nghiên cứu mà vẫn đảm bảo tính logic và khoa học.

5. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn:

Nghiên cứu hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các cơ quan quản lý báo chí về các
tiêu chuẩn đạo đức của người làm báo cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi
mới
Phân tích thực trạng, rút ra nguyên nhân, từ đó đề xuất thêm một số giải
pháp và kiến nghị thiết thực góp phần nâng cao đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Kết quả của luận văn sẽ trở thành tài liệu tham khảo cho các cấp lãnh
đạo, những người có quan tâm đến vấn đề này, đóng góp thêm cho giáo trình
của chuyên đề đạo đức nghề nghiệp người làm báo giảng dạy cho các sinh
viên chuyên ngành báo chí, nêu một số kiến nghị thiết thực để giúp các cơ
quan lãnh đạo, quản lý báo chí giải quyết vấn đề một cách mạnh mẽ và hiệu
quả.


10
6. Kết cấu luận văn:
Luận văn bao gồm: phần Mở đầu, 3 Chương, Kết luận và Danh mục tài
liệu tham khảo.
- Chương I. Đạo đức nghề nghiệp của người làm báo cách mạng
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới – Một số vấn đề lý luận
- Chương II. Thực trạng đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
nước ta trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
- Chương III. Những quan điểm giải pháp nhằm nâng cao phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ người làm báo cách mạng Việt Nam .




















11
CHƢƠNG I
ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƢỜI LÀM BÁO
CÁCH MẠNGVIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
– MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1 Quan điểm Mác xít về mối quan hệ đạo đức với kinh tế
1.1.1 Mối quan hệ giữa đạo đức với kinh tế là mối quan hệ giữa kiến
trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện sớm nhất trong lịch sử
và phát triển cùng với sự phát triển của các phương thức sản xuất. Khi xã hội
loài người có sự phân chia giai cấp thì đạo đức cũng luôn mang tính giai cấp.
Trong lịch sử, sự xuất hiện những xung đột giữa các hệ thống đạo đức, sự
chuyển dịch, thay thế nhau giữa các hệ thống đạo đức không là gì khác hơn
ngoài sự phản ánh những xung đột giai cấp, sự thay đổi về địa vị thống trị của
giai cấp này bằng giai cấp khác. Đại Từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa đạo đức

là: “Phép tắc về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã
hội.”[34.595].
Xã hội nào cũng đề ra các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực làm tiêu
chuẩn cho hoạt động của cá nhân và các cộng đồng người, ngoài hình thức là
luật pháp nhằm trực tiếp điều chỉnh hành vi bằng các quy tắc, chuẩn mực có
các chế tài cưỡng chế và đảm bảo thực hiện thì còn có các chuẩn mực đạo
đức, nó là các nguyên tắc, chuẩn mực thường ở mức cao hơn, chung hơn
những quy định luật pháp mà ở đó con người tự giác điều chỉnh hành vi suy
nghĩ của mình vì lợi ích của tập thể và xã hội. Xã hội cộng sản nguyên thủy,
với kinh tế săn bắt hái lượm thì phù hợp với nó là một hệ thống chuẩn mực
đạo đức mang tính chất nguyên thủy, giản đơn, thiết thực cụ thể, mang đầy
tính trực quan sơ khai được tồn tại bằng các thói quen truyền thống và kinh

12
nghiệm. Những người nguyên thủy có tính thẳng thắn trung thực, kiên cường,
dũng cảm theo đúng nghĩa của nó trong những quan hệ giữa người với người
và với toàn bộ thị tộc. Trong các bộ lạc nguyên thủy, con người trong thị tộc
nhất thiết phải có tính công bằng thông cảm và tương trợ lẫn nhau. Tất cả
những gì có lợi cho cộng đồng thì được coi là điều thiện, có đạo đức và ngược
lại, những gì không có lợi cho cộng đồng đều bị coi là điều ác, không có đạo
đức và cần phải loại trừ. Vậy phải chăng trong xã hội nguyên thủy, đạo đức có
vai trò đặc bỉệt to lớn và chủ đạo trong việc điều chỉnh các hành vi của con
người ?. Nếu không có những chuẩn mực đạo đức giản dị đó thì người nguyên
thủy làm sao để vượt qua được những thử thách to lớn, chống lại được sức
mạnh của thiên nhiên, sự khan hiếm thức ăn, bệnh tật và những cuộc chiến
tranh giữa các bộ lạc, sắc tộc vì những nguyên nhân sinh học, tôn giáo?
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, sản xuất phát triển thêm một bước làm
cơ sở khách quan cho chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất ra đời. Lần đầu tiên
trong lịch sử, loài người bị phân ra làm nhiều giai cấp mà trước hết là giai cấp
điển hình là chủ nô và nô lệ. Theo đó, về phương diện đạo đức, tính đối kháng

của đạo đức xuất hiện cùng với hai nền đạo đức cơ bản đối lập nhau là đạo
đức của người thống trị (số ít) và đạo đức của những người bị trị (số đông).
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, đạo đức có một bước thụt lùi rất lớn so với xã
hội cộng sản nguyên thủy, đó là sự xuất hiện những động cơ thấp hèn, lòng
tham lam, lừa đảo, hiếu danh, trụy lạc và tính tàn nhẫn. Vị thế của đạo đức
trong xã hội giảm xuống, pháp luật của giai cấp thống trị thay cho đạo đức;
chế độ đẳng cấp thay cho chế độ bình đẳng giữa người với người, quan hệ chủ
tớ, kẻ trên - người dưới, mệnh lệnh – phục tùng thay cho các chuẩn mực đạo
đức cũ. Sự thay đổi về hệ thống quan điểm và đạo đức cũng tạo ra bước
chuyển lớn về quan hệ sản xuất, kéo mọi người ra khỏi tình trạng hoang dã.

13
Nhưng cũng chính sự sa sút về đạo đức đã dẫn tới việc tất yếu diệt vong của
chế độ chiếm hữu nô lệ.
Bước sang chế độ phong kiến, tình hình cuộc sống của con người cũng
có những biểu hiện cải thiện một bước, ít nhất là giai cấp phong kiến không có
quyền công khai và tùy tiện giết họ như những nô lệ lúc trước. Quan hệ giữa
giai cấp thống trị và tầng lớp lao động có vẻ hòa bình hơn, tương đồng hơn.
Nhờ đó, sự phát triển của chế độ phông kiến có vẻ nhanh hơn chế độ chiếm
hữu nô lệ. Tuy vậy, vẫn không xóa bỏ được hai hình thái đạo đức đối lập giữa
2 giai cấp cơ bản trong xã hội là địa chủ và nông dân đã kìm hãm sự phát triển
của xã hội phong kiến và dần đưa xã hội này vào thế diệt vong.
Xã hội tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện thông qua các cuộc cách mạng tư
sản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế quan hệ sản xuất phong kiến,
hệ quả là làm thay đổi cả hệ thống đạo đức xã hội, những mâu thuẫn, khác biệt
về đạo đức được thu hẹp thêm một bước nữa, đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân tư
sản đã trở thành nguyên tắc cơ bản, một lối sống của tầng lớp thượng lưu, giai
cấp thống trị. Cùng với khẩu hiệu “ Tự do, Bình đẳng, Bác ái” trên cơ sở kinh
tế là nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa thì chủ nghĩa tư bản đã đạt đến sự phát
triển vượt bậc trong thời kỳ cách mạng của phương thức sản xuất tư bản chủ

nghĩa. Nhưng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trên cơ sở chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất cũng mang lại sự tha hóa nghiêm trọng cho đạo đức xã hội.
Tình trạng suy đồi về đạo đức trong xã hội tư sản đã đưa đến tình trạng phản
tiến bộ của xã hội tư sản. Các yếu tố phủ định nó được tích lũy trong xã hội tư
sản để dần dần tiến lên một xã hội có sự phát triển cao hơn về kinh tế và đạo
đức.
Cách mạng vô sản nổ ra như một tất yếu để giải quyết sự mâu thuẫn đã
lên mức đối kháng của sự phát triển về lực lượng sản xuất đối với sự thụt lùi,
tha hóa của quan hệ sản xuất, của đạo đức xã hội. Quá trình đấu tranh cách

14
mạng đó dẫn đến sự ra đời và từng bước xác lập vị thế của một nền đạo đức
mới, đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Đây là thành quả phát triển cao của sự phát
triển câc hình thái đạo đức. Sự phát triển các nền đạo đức của xã hội biến đổi
từ trạng thái có đối kháng giai cấp, có sự bất bình đẳng, nô dịch áp bức bóc lột
giữa người và người chuyển sang nền đạo đức có sự bình đẳng, sự đoàn kết,
nương tựa giúp đợ lẫn nhau giữa người với người trong xã hội mới. Đạo đức
tư sản hình thành dựa trên sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân một cách vị kỷ,
kích thích những dục vọng thấp hèn, những bản năng “con” trong con người
thì đạo đức mới phát triển cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội,
hạn chế những dục vọng thấp hèn trong con người. Đạo đức cộng sản mới
nâng con người lên đúng vị trí làm người của mình.
Như vậy, xét từ quan hệ giữa kinh tế và đạo đức, ta thấy rõ mối quan hệ
phụ thuộc giữa chúng diễn ra một cách biện chứng, trong đó kinh tế đóng vai
trò quyết định sự phát triển của đạo đức theo đúng các mối quan hệ mà chủ
nghĩa duy vật biện chứng đã chỉ ra là quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã
hội, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng. C.Mac đã chỉ rõ phương
thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội,
chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức con người quyết định tồn
tại của họ, trái lại tồn tại của họ quyết định ý thức của họ. Lênin cũng nhấn

mạnh: “chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận rằng tồn tại xã hội không phụ
thuộc vào ý thức xã hội của loài người. Trong hai trường hợp đó ý thức chỉ là
phản ánh của tồn tại, nhiều lắm cũng chỉ là phản ánh gần đúng, ăn khớp” [52.
104]
Như vậy, chúng ta phải lấy sự tồn tại của con người để phản ánh ý thức
của con người chứ không phải ngược lại. Quá trình phát triển sản xuất là quá
trình không ngừng giải phóng con người về lĩnh vực vật chất lẫn tinh thần
(trong đó có đạo đức). Xã hội càng phát triển thì con người càng có điều kiện

15
để hoàn thiện mình. Tuy nhiên sự tác động của kinh tế đến đạo đức không
phải chỉ 1 chiều, mà còn có cả chiều nghịch. Thực tế chứng minh rằng, có khi
kinh tế phát triển cao nhưng đạo đức có khi lại thoái hóa, thụt lùi, hoặc thoái
hóa cục bộ. Điển hình rõ nét là nước Mỹ với nền kinh tế dẫn đầu thế giới
nhưng sự phát triển đạo đức cũng không phải là phát triển lành mạnh. Thái
Lan là nước có tốc độ phát triển kinh tế mạnh hàng đầu Đông Nam Á nhưng
cũng là nước có tỉ lệ nhiễm HIV/ AIDS cao nhất thế giới. Điều đó có nghĩa,
điều kiện kinh tế là quan trọng, quyết định chế độ chính trị, xã hội, song yếu tố
đạo đức và vai trò nhân tố chủ quan là hết sức to lớn. Nhà tương lai học Alvin
Toffler cho rằng trong lịch sử nhân loại, nhiều nước kém phát triển chỉ là về
kinh tế thôi, còn văn hóa không phải là kém phát triển.
Đạo đức có vai trò rất quan trọng trong xã hội, trong đời sống con
người. Nó là vấn đề thường xuyên được đặt ra và đòi hỏi phải được giải quyết
nhằm đảm bảo cho cá nhân và cộng đồng tồn tại và phát triển. Sự tồn tại và
tiến bộ của xã hội không thể thiếu được vai trò của đạo đức. Nó là vấn đề
thường xuyên được đặt ra và đòi hỏi phải được giải quyết nhằm đảm bảo cho
các cá nhân và cộng đồng tồn tại và phát triển. Sự tiến bộ của xã hội, sự phát
triển của xã hội không thể thiếu được yếu tố đạo đức. Tuy nhiên, đạo đức cũng
có tác động trở lại đối với kinh tế, sự tác động trở lại này của đạo đức đối với
các lĩnh vực hoạt động kinh tế nhiều hay ít lại phụ thuộc vào các yếu tố sau:

- Bản thân của đạo đức là tiến bộ hay lạc hậu: nếu đạo đức là tiến
bộ thì tác dụng của nó đối với hoạt động kinh tế là theo chiều hướng tích cực,
ngược lại thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế.
- Đạo đức tác động vào quần chúng nhiều hay ít. Phải làm cho con
người có nhận thức đúng thì có hành động đúng, đạo đức tiến bộ là điều kiện
làm cho con người loại bỏ cái thấp hèn, hướng con người tới cái chân, thiện,
mỹ. Ý thức đạo đức khi thâm nhập sâu sắc vào quần chúng nhân dân thì sự tác

16
động mang tính tích cực càng trở nên hiệu quả đối với nền kinh tế - xã hội,
ngược lại nếu thâm nhập ít thì nó không tạo nên được phong trào quần chúng
- Đạo đức phụ thuộc vào khả năng giai cấp cầm quyền hiện thực
hóa tư tưởng, đường lối lãnh đạo và ý thức đạo đức của mình đối với xã hội,
đất nước đến đâu. Nếu giai cấp cầm quyền có tư tưởng tiến bộ, đường lối đúng
đắn thì giai cấp đó làm tròn nhiệm vụ, chức năng của mình, sẽ thúc đẩy tất cả
những tiềm năng về vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân vào công cuộc
xây dựng xã hội, đất nước phát triển hài hòa cả về vật chất lẫn tinh thần; còn
ngược lại sẽ là lực cản lớn trên con đường đi lên của xã hội.
1.1.2. Các chức năng của đạo đức theo quan điểm Mác xít
Đạo đức nảy sinh từ hoạt động kinh tế nhưng nó tác động trở lại kinh tế
và có vai trò nhất định trong đời sống xã hội. vai trò đó thể hiện ở các chức
năng chủ yếu sau:
- Chức năng nhận thức (Chức năng phản ánh); đạo đức là sự phản
ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội, nó giúp cho
con người nhận thức xã hội về phương diện đạo đức và giúp con người lĩnh
hội về tri thức đạo đức.
- Chức năng điều chỉnh hành vi: loài người đã sáng tạo ra nhiều
phương thức điều chỉnh mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội: phong tục tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức … tất cả các phương
thức ấy đều có một thực chất là chỉ ra giới hạn được phép và không được phép

của các hành vi cá nhân nhằm tạo nên lợi ích của cá nhân và của toàn xã hội.
Như vậy, đạo đức là một trong những phương thức cơ bản điều tiết hoạt động
con người.
- Chức năng giáo dục: giáo dục đạo đức là làm giàu thêm tính
người cho mỗi con người và cho xã hội. Một kiểu đạo đức tiến bộ là làm sao
thúc đẩy sự phát triển của con người theo hướng nhân đạo hóa. Chức năng

17
giáo dục được thực hiện thông qua môi trường đạo đức. môi trường lành mạnh
thì việc giáo dục được thuận chiều. Ở đây, môi trường đạo đức tác động đến
đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo
đức để chuyển hóa đạo đức xã hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn
đạo đức là hiện thực hóa nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi
đạo đức được lặp đi lặp lại trong đời sống xã hội và cá nhân làm cho cả đạo
đức xã hội và cá nhân được củng cố, phát triển thành thói quen truyền thống,
tập quán đạo đức.
Biểu hiện quan trọng và tập trung nhất của đạo đức chính là lương tâm,
Lương tâm, như từ này cho thấy, là sự ý thức. Nó là loại ý thức đặc trưng – ý
thức đạo đức, đây chính là một cảm giác nội tại của con người về cái đúng và
cái sai. Lương tâm là một hình thái ý thức có sức mạnh bắt buộc chúng ta, ta
cảm thấy bị nó thúc ép. Nếu bản thân mỗi con người không vâng phục nó, họ
sẽ tự cảm thấy ăn năn hay lo sợ.
1.1.3. Những giá trị đạo đức của người Việt Nam
Đối với nước ta, những giá trị tinh thần và đặc điểm của nhân cách con
người Việt Nam có nguồn gốc sâu xa và bắt nguồn từ những hoàn cảnh địa lý,
môi trường tự nhiên, lịch sử và xã hội
Từ khi lập nước đến nay, Việt Nam chủ yếu vẫn là một nước nông
nghiệp. Nghề nông là một nghề lao động vất vả, không chỉ đòi hỏi nhiều sức
lao động, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Trong khi đó, điều kiện tự
nhiên của Việt Nam lại mưa nắng thất thường do nằm ở khu vực nhiệt đới gió

mùa, chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc và đông nam, gây ra nhiều thiên
tai, hạn hán, mất mùa. Chính những đặc điểm này đã ảnh hưởng tới sự hình
thành hệ giá trị của dân tộc Việt Nam, tạo nên sự gắn bó cộng đồng bền chặt,
sự thương yêu đùm bọc lẫn nhau, đặt nền móng cho tinh thần lao động cần cù,
tiết kiệm. Bên cạnh đó, do có nhiều tài nguyên thiên nhiên và là đầu mối giao

18
thông quốc tế quan trọng, nên Việt Nam luôn là mục tiêu xâm lược của nhiều
quốc gia. Bởi vậy, muốn bảo vệ đất nước, người Việt Nam phải hy sinh nhiều
lợi ích riêng của mình, cùng nhau đoàn kết bảo vệ những lợi ích chung.
Với những đặc điểm tự nhiên, sự khó khăn của cư dân vùng lúa nước,
sự đe doạ liên tục của nạn ngoại xâm như vậy, muốn tồn tại và phát triển, con
người Việt Nam phải cùng nhau chung sức trong lao động sản xuất và trong
các quan hệ xã hội khác. Việc gắn đời sống của mình với cộng đồng cũng là
để bảo vệ cuộc sống của mình. Do đó, trong nấc thang giá trị xã hội, việc ưu
tiên các giá trị cộng đồng, hay nói cách khác, việc đề cao các giá trị đạo đức là
đặc điểm nổi bật trong đời sống của dân tộc Việt Nam.
Sự phát triển ưu trội của các giá trị đạo đức còn có một nguyên nhân
khác, đó là pháp luật chưa phát triển (phải đến tận thế kỷ XI, bộ luật đầu tiên
của Việt Nam mới ra đời). Do vậy, khi chưa có sự điều chỉnh hành vi con
người bằng pháp luật, thì sự tồn tại của phương thức điều chỉnh khác (trong
trường hợp này là đạo đức) là điều hiển nhiên.
Trên nền tảng của văn hoá bản địa, với điều kiện địa lý thuận lợi, Việt
Nam còn tiếp thu được những tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là văn hoá
Trung Quốc và Ấn Độ với cốt lõi là Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo Nho giáo
được truyền vào nước ta, tính đến nay đã trên 2000 năm. Nho giáo là một học
thuyết chính trị - xã hội luôn lấy đức làm trọng, là công cụ quản lý xã hội của
giai cấp thống trị Trung Quốc. Với rất nhiều giáo lý phù hợp với điều kiện xã
hội Việt Nam, Nho giáo từng bước được giai cấp thống trị Việt Nam tiếp nhận
và đề cao, đặc biệt là trong quản lý đất nước. Bằng ảnh hưởng của giai cấp

thống trị, Nho giáo đã ăn sâu vào tâm lý người Việt Nam. Mặc dù còn có
những quan niệm tiêu cực, như trọng nam khinh nữ, coi thường lao động chân
tay song Nho giáo cũng có những yếu tố tích cực, đó là việc đề cao chữ

19
nhân, lòng thương người, trọng người cao tuổi… Cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu
cực của Nho giáo đều tác động tới nhân cách con người Việt Nam.
Chính đặc điểm hình thành và phát triển của xã hội Việt Nam đã làm
cho các giá trị đạo đức được bồi đắp thường xuyên trong suốt chiều dài lịch
sử. Cùng với thời gian, những giá trị này trở nên ổn định và được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác và trở thành động lực, sức mạnh, bản sắc của
nhân cách con người Việt Nam.
Theo giáo sư Vũ Khiêu, truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam
bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo,
tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người. Giáo sư Trần
Văn Giàu cho rằng, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bao
gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa.
Còn trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các giá trị đạo đức thường
được đề cập đến và được coi là những giá trị nổi bật. Chẳng hạn, Nghị quyết
của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng đã khẳng
định: "Những giá trị văn hoá truyền thống bền vững của dân tộc Việt Nam là
lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như
thể thương thân", đức tính cần cù "[14.186].
Như vậy, từ quan điểm của các nhà khoa học cũng như của Đảng ta, có
thể khẳng định, dân tộc Việt Nam có một di sản giá trị đạo đức vô cùng phong
phú, trong đó, các giá trị điển hình là: tinh thần yêu nước, lòng thương người
sâu sắc, tinh thần đoàn kết, tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm.
Trong các giá trị đó, nổi bật nhất là tinh thần yêu nước. Tinh thần yêu
nước là "nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã hội mà nội dung
của nó là lòng trung thành với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện tại

của Tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc". Thực ra, trên thế giới,
mỗi quốc gia, dân tộc đều có tình yêu đất nước, nhưng bản sắc, sự hình thành

20
cũng như biểu hiện của nó lại có sự khác nhau. ở Việt Nam, chúng ta có thể
thấy rằng, chủ nghĩa yêu nước là giá trị đạo đức cao quý nhất của dân tộc Việt
Nam, là chuẩn mực đạo đức cao nhất, đứng đầu trong thang bậc giá trị truyền
thống, và là hằng số trong mỗi người Việt Nam, "là tiêu điểm của mọi tiêu
điểm". Yêu nước là đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá
nhân, luôn chăm lo xây dựng và bảo vệ đất nước, có ý thức giữ gìn và phát
triển bản sắc dân tộc, luôn tự hào về dân tộc.
Tinh thần yêu nước Việt Nam được bắt nguồn từ những tình cảm bình
dị, đơn sơ của mỗi người dân. Tình cảm đó, mới đầu, chỉ là sự quan tâm đến
những người thân yêu ruột thịt, rồi đến xóm làng, sau đó phát triển cao thành
tình yêu Tổ quốc. Tình yêu đất nước không phải là tình cảm bẩm sinh, mà là
sản phẩm của sự phát triển lịch sử, gắn liền với một đất nước nhất định. Tình
yêu đất nước không chỉ gắn liền với quá trình xây dựng đất nước, nó còn được
thể hiện rõ hơn trong quá trình bảo vệ đất nước. Trên thế giới, hầu như dân tộc
nào cũng phải trải qua quá trình bảo vệ đất nước, chống xâm lăng. Nhưng có
lẽ không dân tộc nào lại phải trải qua quá trình giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc nhiều và đặc biệt như ở Việt Nam. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ III
TCN đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, dân tộc ta đã dành hơn nửa thời gian
cho các cuộc kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống ngoại xâm, các cuộc
khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Không có một dân tộc nào trên
thế giới lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh như vậy và với những kẻ thù
mạnh hơn rất nhiều. Chính tinh thần yêu nước nồng nàn đã giúp dân tộc ta
vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi thế lực xâm lược. Qua những cuộc
chiến đấu trường kỳ đầy gian khổ đó, chủ nghĩa yêu nước đã trở thành “dòng
chủ lưu của đời sống Việt Nam, trở thành một dạng triết lý xã hội và nhân sinh
trong tâm hồn Việt Nam". Nhận xét về truyền thống yêu nước Việt Nam, Chủ

tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó

21
là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó bước qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và cướp nước".
Lòng thương người của dân tộc Việt Nam xuất phát từ tình cảm yêu quý
con người - "người ta là hoa của đất". Chính trong quá trình lao động sản xuất
và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, cha ông ta đã rút ra triết lý: con người là vốn quý
hơn cả, không có gì có thể so sánh được. Mọi người luôn luôn "thương người
như thể thương thân" và vì lẽ đó, trong quan hệ đối xử hàng ngày, người Việt
Nam luôn coi trọng tình, luôn đặt tình nghĩa lên trên hết - "vì tình vì nghĩa ai
vì đĩa xôi đầy". Chữ "tình" chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của
người dân. Trong gia đình, đó là tình cảm vợ chồng "đầu gối tay ấp", tình anh
em "như thể tay chân", tình cảm đối với bố mẹ: "Công cha như núi Thái sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Rộng hơn là tình cảm đối với làng
xóm : "Sớm khuya tối lửa tắt đèn có nhau”. Và, rộng hơn cả là tình yêu đất
nước: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước thì thương nhau
cùng", "Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy là khác giống nhưng chung một
giàn" Chính sự coi trọng chữ "tình" mà trong những xung đột, người Việt
Nam thường cố gắng giải quyết theo phương châm "có lý có tình", "chín bỏ
làm mười". Bởi với họ, tình cảm con người là cao quý hơn cả, không thể vì
những điều khác mà bỏ đi được, "một mặt người hơn mười mặt của", "người
sống đống vàng” ….
Tinh thần thương yêu con người còn biểu hiện trong sự tương trợ và
giúp đỡ lẫn nhau theo kiểu "lá lành đùm lá rách", "chị ngã em nâng", "một con
ngựa đau cả tàu không ăn cỏ" ở tình cảm bao dung, vị tha: "đánh kẻ chạy đi,
không ai đánh kẻ chạy lại". Họ không những vị tha với nhau, mà còn vị tha
với cả kẻ thù. Lịch sử đã từng ghi lại rất nhiều rằng, với những tù binh chiến


22
tranh, họ luôn được đối xử tử tế, được mở đường hiếu sinh, được cấp đầy đủ
quân trang khi trở về nước.
Tình thương người của dân tộc Việt Nam không chỉ biểu hiện trong đời
sống hàng ngày của người dân, trong hương ước của các làng xã, mà còn được
nâng lên thành những chuẩn tắc trong luật của nhà nước. Trong các bộ luật
của Việt Nam - những bộ luật rất hiếm hoi và ra đời tương đối muộn trong lịch
sử phát triển dân tộc, chúng ta có thể thấy, việc vi phạm các chuẩn mực đạo
đức, như con cái đối xử không tốt với cha mẹ, với người thân có thể bị xử
phạt. Trong các kho của Nhà nước Việt Nam hầu như lúc nào cũng có thóc
gạo dự trữ để phân phát cho những người dân nghèo, đau ốm, hay vào những
năm hạn hán mất mùa. Việc lập các nhà thương tế bần nuôi dưỡng những
người già cả, cô đơn, đau ốm bệnh tật ở các nơi luôn được sự khuyến khích
của Nhà nước.
Lòng thương người đã trở thành một nếp nghĩ, một cách sống, một giá
trị đạo đức trong đời sống của người Việt Nam. Khi Phật giáo và Nho giáo
thâm nhập vào Việt Nam với những quan niệm từ bi bác ái, thương người thì
chúng càng khẳng định, củng cố thêm tư tưởng thương người của dân tộc Việt
Nam. Nhưng tư tưởng thương người của dân tộc Việt Nam không bị ảnh
hưởng quá nặng nề bởi quan niệm từ bi vượt thoát hiện thực của Phật giáo, vì
người Việt Nam vẫn chủ trương chú trọng nhiều đến những giá trị đời sống
thường ngày, nó cũng không bị ảnh hưởng nặng nề bởi chữ nhân quá thiên về
lễ nghĩa của Nho giáo, vì người Việt Nam hiểu chữ nhân như là một đạo làm
người - đạo làm người xuất phát từ chính bản chất của con người, chứ không
phải với nghĩa là trách nhiệm của bề trên đối với kẻ dưới như trong quan niệm
Nho giáo.
Có thể nói, tình thương yêu con người là giá trị đạo đức đặc trưng của
dân tộc ta, một giá trị rất đáng tự hào. Nó gắn liền với tình yêu thương đồng


23
loại và là "cái gốc của đạo đức. Không có lòng nhân ái thì không thể có lòng
yêu nước, thương nhân dân được".
Tinh thần đoàn kết là sản phẩm đặc thù của một hoàn cảnh thiên nhiên
khắc nghiệt và điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam. Nó là nhân tố cốt lõi trong
hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nhờ đó, con người Việt Nam,
dân tộc Việt Nam có được sức mạnh to lớn trước mọi thử thách.
Ý thức về tinh thần đoàn kết của người Việt Nam đã trở thành một
truyền thuyết - truyền thuyết về hai chữ "đồng bào" (mọi người cùng trong
một cái bọc mà ra). Truyền thuyết này phản ánh nhu cầu và mong ước của
người xưa về sự gắn bó giữa những con người với nhau.
Tinh thần đoàn kết của người Việt Nam, trước tiên, được thể hiện trong
gia đình, trong cộng đồng làng xã, và hơn hết, trong toàn thể cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. Trong gia đình, sức mạnh đoàn kết được thể hiện qua câu
châm ngôn: "Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn". Chính những quy
tắc, thể lệ về một mảnh ruộng chung (công điền), về việc phải cùng nhau hợp
tác trong lao động sản xuất, chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai, mà tinh
thần đoàn kết ngày càng được củng cố trong làng xã. Có lẽ, hiếm có dân tộc
nào trên thế giới mà tinh thần đoàn kết lại được biểu hiện nhiều và đa dạng
như ở làng quê Việt Nam. Ở bất cứ lĩnh vực gì, người ta cũng tạo ra sự đoàn
kết nhất trí cao, như học giả Đào Duy Anh nhận xét: "ở trong một làng người
ta thấy những cuộc đoàn kết nhỏ, như hội tư văn gồm những người có chức
tước khoa danh, hội văn phả gồm những người nho học mà không có phẩm
hàm khoa mục gì, hội võ phả gồm những quan võ, hội đồng môn gồm có tất
cả học trò của một thầy. Ngoài ra còn có vô số các đoàn thể khác, như hội mua
bán dùng cách gắp thăm hay bỏ tiền úp bát mà lần lượt góp tiền cho nhau
trong việc khánh hỉ, cùng là những hội bách nghệ họp các thợ thủ công đồng
nghiệp, hội chư bà họp các bà vãi lễ phật, hội đồng quan họp những bà thời

24

đồng thánh, hội bát âm họp các tài tử âm nhạc, cho đến hội chọi gà, hội chọi
chim xem thế thì thấy người nhà quê ta rất ham lập hội”.
Tinh thần đoàn kết trong cộng đồng làng xã được mở rộng thành tinh
thần đoàn kết dân tộc và không ngừng được nâng cao trong quá trình dựng
nước và giữ nước. Vì vậy, dân tộc Việt Nam đã duy trì được sự hài hoà trong
các quan hệ xã hội, làm hạn chế phần nào tính vị kỷ, tạo được sức mạnh chung
cho sự sinh tồn và chiến thắng ngoại xâm. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng
minh rằng, nếu không tạo được sự đoàn kết nhất trí cao thì nguy cơ nước mất
nhà tan sẽ xảy ra. Thất bại của nhà Hồ thế kỷ XIV là một ví dụ. Do không
thống nhất được lòng dân, nên dù có thời cần chuẩn bị kháng chiến lâu dài, vũ
khí tân tiến vẫn không bảo vệ được độc lập dân tộc. Hoặc trong các thế kỷ
XVI - XVIII chiến tranh phân chia Trịnh - Nguyễn, Nam - Bắc triều là nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến sự suy yếu của đất nước, làm cho thực dân Pháp có cơ
hội xâm lược nước nhà. Chính nhờ có truyền thống đoàn kết mà chúng ta mới
có được một dân tộc độc lập như ngày nay. Những câu như "đoàn kết thì sống,
chia rẽ thì chết", "một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi
cao" không chỉ là một lời khuyên nhủ, mà còn là phương châm, mục đích
của sự đoàn kết dân tộc. Nó trở thành sức mạnh tinh thần và đặc trưng cho
nhân cách con người Việt Nam.
Tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm cũng là một giá trị đạo đức nổi bật
trong hệ giá trị của dân tộc Việt Nam. Thực ra, để kiến tạo ra của cải vật chất
thì bất cứ dân tộc nào cũng phải lao động, cũng phải chịu khó, và họ cũng có
thể tự hào về những thành quả đã tạo dựng được của mình, nhưng dân tộc Việt
Nam lại là một trường hợp đặc biệt. Bởi lẽ, như đã nói, Việt Nam là một nước
có nền văn minh nông nghiệp lâu đời. Lao động nông ghiệp là loại hình lao
động vất vả, cần nhiều thời gian, công sức mới có hạt gạo, bát cơm để ăn. Hơn
nữa, thiên nhiên lại quá nhiều nắng gió, mưa bão mà nhiều khi, mùa nắng thì

25
hạn cháy đồng, mùa mưa lại lũ lụt. Quanh năm suốt tháng, người dân Việt

Nam phải lo đắp đập, đào mương lấy nước tưới, đắp đê phòng chống bão lụt
(Việt Nam có hàng ngàn km đê, điều được làm mãi qua hàng chục thế kỷ).
Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, những người nước ngoài đến Việt Nam đều hết
sức ngạc nhiên khi thấy mọi cơ năng của con người Việt Nam đều được dùng
để làm việc: đầu đội, vai gánh, lưng cõng, tay nhanh nhẹn và khéo léo, chân
chạy như bay. Ngoài sự khéo léo, đó còn là một minh chứng cho sự cần cù,
chịu khó của người Việt Nam.
Hơn nữa, dân tộc Việt Nam lại luôn chịu sự xâm lăng của các thế lực
bên ngoài. Bất cứ cuộc xâm lăng nào, bên cạnh nhiều lý do khác, cũng đều là
sự cướp bóc của cải, phá hoại mùa màng sản xuất. Do đó, để khắc phục hậu
quả, nhân dân Việt Nam không còn cách nào hơn là phải lao động cần cù.
Như thế, đầu tiên, lao động cần cù như một yêu cầu tất yếu để đảm bảo
cho sự sinh tồn của dân tộc. Sau đó, trong sự đấu tranh gian khổ với thiên
nhiên, với cuộc sống luôn bị kẻ thù xâm lăng, lao động cần cù đã trở thành
một phẩm chất đạo đức không thể thiếu đối với con người Việt Nam.
Ước vọng về một đức tính lao động cần cù đã được thể hiện nhiều trong
dân gian Việt Nam. Người Việt luôn nhắc nhở với nhau rằng, "năng nhặt chặt
bị", "kiến tha lâu đầy tổ" Người ta luôn luôn phê phán thói "ăn không ngồi
rồi", bởi với họ, "nhàn cư vi bất thiện". Lao động cần cù của người Việt Nam
luôn gắn với tiết kiệm, bởi lẽ, "buôn tàu buôn bè không bằng ăn dè hà tiện",
"khi có mà không ăn dè, đến khi ăn dè chẳng có mà ăn".
Ngoài những giá trị nói trên, dân tộc Việt Nam còn có nhiều giá trị đạo
đức khác tạo nên cốt cách con người Việt Nam, như đức tính khiêm tốn, lòng
thuỷ chung, tính trung thực thẳng thắn trong lối sống, trọng tình nghĩa hơn
tièn bạc, của cải; nhẫn nại chịu đựng, giản dị khiêm tốn thật thà Những đức
tính này không tồn tại riêng rẽ mà liên quan đến nhau - đức tính này là điều

×