Tải bản đầy đủ (.pdf) (320 trang)

Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.91 MB, 320 trang )

Trường Đại học Khoa học

Viện Nghiên cứu

Xã hội và Nhân văn

Hán Nôm

*****

*****

PHẠM MINH ĐỨC

NGHIÊN CỨU VĂN BIA
HUYỆN GIA LÂM, HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: HÁN NÔM

MÃ SỐ: 60 22 40
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. TS TRỊNH KHẮC MẠNH

HÀ NỘI - 2009


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ………………………………………………………………..1


1. Lý do chọn đề tài ………………………………………………………...1
2. Lịch sử vấn đề ……………………………………………………………1
3. Đối tượng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu - Phương pháp nghiên
cứu ………………………………………………………………………..3
Đối tượng nghiên cứu .....................................................................................3
Phạm vi nghiên cứu …………………………………………………………3
Phương pháp nghiên cứu …………………………………………………...3
Phương pháp văn bản học……………………………………………………4
Phương pháp thống kê định lượng …………………………………………...4
Phương pháp tổng hợp ………………………………………………………4
4. Đóng góp của luận văn ………………………………………………….4
5. Bố cục luận văn ………………………………………………………….5
6. Quy ước trình bày ……………………………………………………….5
PHẦN NỘI DỤNG
Chương I. LỊCH SỬ ĐỊA LÝ, VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG HUYỆN GIA
LÂM
1.1

Lịch sử địa lý ……………………………………………………………..6

1.1.1 Lịch sử chống ngoại xâm ……………………………………………….6
1.1.2 Lịch sử địa lý ...........................................................................................7
1.2 Văn hóa truyền thống ……………………………………………………..10
1.2.1 Văn hóa lịch sử ………………………………………………………....10
1.2.2 Danh nhân đỗ đạt ……………………………………………………....13
1.2.3 Một số danh nhân tiêu biểu ……………………………………………14
Tiểu kết chương 1 ……………………………………………………………..18


Chương II. ĐẶC ĐIỂM VĂN BIA HUYỆN GIA LÂM ……………………19

2.1 Vài nét về văn bia ……………………………………………...............19
2.1.1 Vài nét về văn bia Hà Nội ……………………………………………..20
2.2 Khảo sát văn bia huyện Gia Lâm ……………………………………..20
2.2.1 Sự phân bố văn bia huyện Gia Lâm ………………………………20
2.2.2.1. Phân bố theo không gian……………………………………..20
2.2.2.2. Phân bố theo thời gian……………………………………….30
2. 3 Một số đặc điểm văn bản ……………………………………………..35
2.3.1 Tác giả soạn văn bia huyện Gia Lâm ……………………………..35
2.3.2 Những người viết chữ cho văn bia huyện Gia Lâm ……………….42
2.3.3 Người khắc đá văn bia huyện Gia Lâm ……………………………47
2.3.4 Kích thước và độ dài văn bia huyện Gia Lâm ……………………..49
2.3.5 Chữ Nôm trên văn bia huyện Gia Lâm ……………………………56
2.3.6 Chữ húy trên văn bia huyện Gia Lâm ……………………………..62
2.3.7 Đề tài trang trí trên văn bia huyện Gia Lâm ……………………...65
2. 3. 8 Bố cục văn bia huyện Gia Lâm ......................................................70
Tiểu kết chương 2 ……………………………………………………………..72
Chương III. TÌM HIÊU GIÁ TRỊ VĂN BIA HUYỆN GIA LÂM ………...73
3.1 Văn bia huyện Gia Lâm góp hần nghiên cứu lịch sử địa phương…..73
3.1.1 Văn bia huyện Gia Lâm góp phần nghiên cứu nhân vật lịch sử truyền
thuyết …………………………………………………………………………...73
3.2 Văn bia huyện Gia Lâm góp phần tìm hiểu phong tục tập quán, tín
ngưỡng địa phương……………………………………………………………74
3.2.1 Văn bia huyện Gia Lâm phẩn ánh tục lập Hậu thần, Hậu phật, Hậu
ngõ ……………………………………………………………………………...74
3.2.2 Văn bia huyện Gia Lâm phản ánh tục gửi giỗ …………………….78
3.3 Văn bia huyện Gia Lâm phản ánh các nghề thủ công truyền thống...79


3.3.1 Nghề gốm Bát Tràng……………………………………………….80
3.3.2 Nghề bốc thuốc Ninh Hiệp…………………………………………81

3.4 Văn bia góp phần tìm hiểu các hoạt động trong làng xã Gia Lâm ….81
3.4.1 Góp phần xây dựng các cơng tình phục vụ tín ngưỡng của
người dân………………………………………………………………..81
3.4.2 Góp phần phản ánh việc xây dựng các cơng trình cơng cộng nhằm
phát triển kinh tế địa phương…………………………………………………...85
3.4.3 Góp phần tìm hiểu tinh thần giáo dục và truyền thống hiếu học…..87
3.4.4 Phản ánh về gia phả các dòng họ………………………………….89
Tiểu kết chương 3 ……………………………………………………………..93
KẾT LUẬN…………………………………………………………………….94
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….....97
PHỤ LỤC……………………………………………………………………..115
PHỤ LỤC 1: Danh mục văn bia huyện Gia Lâm …………………………..116
PHỤ LỤC 2: Nguyên văn chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa một số văn bia
huyện Gia Lâm………………………………………………………………...204


Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia Lâm là một huyện thuộc ngoại thành thủ đô Hà Nội, là vùng đất có bề
dầy lịch sử văn hóa, nơi hội tụ giao thoa giữa hai nền văn hóa, văn hóa Kinh Bắc
và văn hóa Thăng Long. Gia Lâm là vùng đất “địa linh nhân kiệt” có nhiều làng
khoa bảng nhƣ ở các xã: Phú Thị, Kim Sơn. Gia Lâm cũng có nhiều di tích lịch
sử: có 238 di tích, 73 di tích đã đƣợc cơng nhận xếp hạng (61 di tích xếp hạng
cấp quốc gia, 12 di tích xếp hạng cấp thành phố). Đặc biệt Gia Lâm còn lƣu giữ
đƣợc một số lƣợng văn bia khá lớn, trong đó có nhiều văn bia có niên đại sớm,
nhiều văn bia do các vị đỗ đại khoa soạn rất có giá trị. Văn bia nơi đây phản ánh
rõ sự thay đổi về mặt địa lý, lịch sử cùng sự phát triển về mặt đời sống, văn hóa,
sinh hoạt làng xã của ngƣời dân. Những giá trị tinh thần đƣợc thể hiện rất đậm

nét trong nội dung các bài văn bia.
Với nhiều ý nghĩa tích cực nhƣ vậy nhƣng cho đến nay vẫn chƣa có một cơng
trình nào thống kê, nghiên cứu một cách đầy đủ, khoa học và có hệ thống về số
lƣợng văn bia này, vì thế cho nên chúng tôi chọn Nghiên cứu văn bia huyện Gia
Lâm là đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Hiện nay, ở Việt Nam tấm bia đƣợc coi là sớm nhất có tên Đại Tùy Cửu Chân
quận Bảo An đạo tràng bi văn 大隨九真郡寶安道場之碑文 đƣợc khắc vào
niên hiệu Đại Nghiệp thứ 14 (618). Văn bia có giá trị rất to lớn, vì vậy ngay từ
rất sớm từ rất sớm nó đã đƣợc các nhà khoa học khai thác và nghiên cứu. Lê Quý
Đôn (1726 - 1781) đã lập danh mục văn bia thời Lý - Trần trong cuốn Đại Việt
Thông Sử [156], Lê Cao Lãng ( ? - ?) đã chép những bài Văn bia ở Văn Miếu Hà
1


Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
Nội thành tập Lê triều lịch khoa tiến sĩ đề danh bi kí 黎朝歷科進士提名碑

記[158] vào thế kỉ XIX. Bùi Huy Bích (1744 - 1818) cũng giới thiệu 24 bài văn
bia trong tập Hoàng Việt văn tuyển 皇越文選[143]. Trong những năm đầu thế
kỷ XX, Viện Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội đã tổ chức một đợt sƣu tập thác
bản văn khắc Hán Nôm ở hơn 40 tỉnh trong phạm vi nƣớc Việt Nam. Kết quả đã
thu thập đƣợc 11.651 đơn vị văn khắc (bia đá, chuông đồng, biển gỗ) với 20.980
mặt thác bản. Trong thế kỉ XX, XXI đã có nhiều Luận án nghiên cứu về văn bia,
đáng chú ý nhƣ luận án Văn bia Việt Nam và giá trị của nó khi nghiên cứu văn
học cổ trung đại của Ts. Trịnh Khắc Mạnh. Luận án Văn bia thời Mạc và đóng
góp của nó trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam thế kỉ XVI của Ts. Đinh Khắc
Thuân. Luận án Văn bia thời Lê xứ Kinh Bắc và sự phản ánh sinh hoạt làng xã
của Ts. Phạm Thùy Vinh. Sang thế kỉ XXI có Luận án Nghiên cứu văn bia
khuyến học của Ts. Nguyễn Hữu Mùi. Văn bia chợ Việt Nam- Giá trị tư liệu khi

tìm hiểu các vấn đề sinh hoạt xã hội thời phong kiến của Th.s Đỗ Thị Bích
Tuyển. Luận văn Nghiên cứu văn bia đình làng Bắc Bộ thế kỉ XVII và sự phản
ánh văn hóa tín ngưỡng nơi đình làng của Ths. Trần Thị Thu Hƣờng. Luận văn
Nghiên cứu văn bia chữ Nôm của Ths. Nguyễn Thị Hƣờng. Luận văn Nghiên
cứu văn bia huyện Kiến Thụy, Hải Phòng của Th.s Nguyễn Thị Kim Hoa...
Văn bia huyện Gia Lâm do Viện Viễn đông Bác cổ của Pháp sƣu tầm có 142
văn bia (chiếm khoảng 1,2% số lƣợng văn bia mà Viện Viễn đông Bác cổ sƣu
tầm trên tồn quốc), bia có niên đại sớm nhất đƣợc dựng vào năm Đoan Thái thứ
2 (1587), muộn nhất vào năm Bảo Hƣng thứ 2 (1802). Số lƣợng bia huyện Gia
Lâm mà Viện Viễn đông Bác cổ sƣu tầm là khá lớn và có giá trị, nhƣng cho đến
nay vẫn chƣa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ về số
lƣợng văn bia này. Viết về văn bia huyện Gia Lâm, cho đến nay đáng kể nhất
2


Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
phải kể đến cuốn Văn bia làng Nành của PGS.TS Đinh Khắc Thuân, giới thiệu
66 thác bản gồm văn bia, văn chuông, khánh của làng Phù Ninh (Ninh Hiệp)
trong đó có 34 văn bia do Viện Viễn đơng Bác cổ sƣu tầm. Ngồi ra cũng có một
số bài viết đáng chú ý liên quan đến văn bia huyện Gia Lâm: Hệ thống bia ở cụm
di tích Đình - Đền - Chùa làng Phú Thị (Gia Lâm, Hà Nội) của Ts. Bùi Xn
Đính, thơng báo Hán Nơm 2004. Giới thiệu tấm bia Trần Quý Thị lưu trạch bi
của Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo của Phạm Minh Đức, thông
báo Hán Nôm 2008.
3. Đối tƣợng nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu - Phƣơng pháp nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, hệ thống tất cả những thác bản văn bia trên địa bàn
huyện Gia Lâm hiện nay do Viện Viễn Đông Bác Cổ sƣu tầm hiện đang lƣu giữ
tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, gồm 142 văn bia trên địa bàn 22 xã.
3. 2 Phạm vi nghiên cứu

Gia Lâm là huyện có bề dầy lịch sử, văn hóa, trải qua những bƣớc biến đổi
thăng trầm của lịch sử thì huyện Gia Lâm cũng có những thay đổi về mặt địa lý
hành chính. Văn bia huyện Gia Lâm là di sản vô giá, văn bia chủ yếu tồn tại
dƣới hai hình thức: văn bia hiện vật và thác bản văn bia. Văn bia nơi đây mang
nhiều giá trị, đặc trƣng tiêu biểu của vùng đất. Văn bia phản ánh nhiều mặt của
đời sống xã hội: đời sống sinh hoạt, phong tục, tập qn tín ngƣỡng...Do thời
gian có hạn nên trong luận văn này chúng tôi chủ yếu tập trung khảo sát văn bia
dƣới dạng thác bản. Phạm vi nghiên cứu của luận văn gồm 3 vấn đề:
- Tìm hiểu lịch sử địa lý và văn hóa huyện Gia Lâm
- Khảo sát, nghiên cứu đặc điểm văn bia huyện Gia Lâm
- Tìm hiểu nội dung văn bia của huyện Gia Lâm.
3.3 Phương pháp nghiên cứu

3


Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
Phƣơng pháp là vấn đề hết sức quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Để
hoàn thành luận văn, chúng tơi có sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu sau:
3.3.1 Phương pháp văn bản học
Thông qua mô tả văn bản về các mặt nhƣ kích cỡ bia, độ dài bài văn bia,
đặc điểm trang trí trên bia, đặc điểm chữ viết, chữ Nôm, chữ húy...chúng tôi đƣa
ra những nhận định về đặc điểm văn bia của huyện Gia Lâm, Hà Nội.
3.3.2 Phương pháp thống kê định lượng
Tiến hành thống kê định lƣợng đối với 142 thác bản bia của huyện Gia
Lâm do Viện Viễn đông Bác cổ sƣu tầm theo các tiêu chí: Sự phân bố theo
khơng gian, thời gian, tác giả biên soạn, ngƣời viết chữ, thợ khắc đá, chữ Nơm,
chữ húy...Thơng qua các kết quả đó, chúng tôi đƣa ra những nhận xét, đánh giá
tổng quát về đặc điểm phân bố văn bia nơi đây. Song song với thống kê định
lƣợng chúng tơi cịn tiến hành đối chiếu với các yếu tố: đồng đại, đồng thể, đồng

tự dạng...
3.3.3 Phương pháp tổng hợp
Chúng tôi dựa vào phƣơng pháp này để đƣa ra nhận định tổng quát về những
giá trị của văn huyện Gia Lâm.
Ngồi ra chúng tơi tiến hành phƣơng pháp điền dã để khảo sát thực về văn bia
huyện Gia Lâm, Hà Nội.
4. Đóng góp mới của luận văn
- Khảo sát, thống kê toàn bộ số lƣợng thác bản văn bia của huyện Gia Lâm do
Viện Viễn Đông Bác Cổ sƣu tầm trong những năm đầu của thế kỉ XX hiện đang
đƣợc lƣu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (142 thác bản văn bia).
- Lần đầu tiên văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội đƣợc nghiên cứu có hệ thống
về cả nội dung và hình thức. Hơn nữa đề tài đƣa ra những thống kê, so sánh đối
chiếu mang tính tổng hợp, khái quát cao nhất về văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
từ trƣớc đến nay.
4


Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
- Chúng tôi cố gắng đƣa ra những nhận xét đánh giá chung nhất, khách quan
nhất cùng những ƣu điểm nổi bật về những giá trị về văn hóa, lịch sử, phong tục
tập quán của vùng đất này thông qua những văn bia nơi đây; góp phần làm cơ sở
cho các ngành nghiên cứu về vùng đất này.
- Đƣa ra danh mục văn bia huyện gia Lâm, Hà Nội và phần lƣợc thuật các thác
bản văn bia theo 8 tiêu chí.
- Phần phụ lục dịch 9 tấm bia tiêu biểu, có nguyên văn, phiên âm, dịch nghĩa.
5. Bố cục luận văn
- Luận văn gồm có 4 phần: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và
phần phụ lục.
- Phần nội dung đƣợc chia ra 3 chƣơng:
+ Chƣơng 1: Giới thiệu lịch sử địa lý, văn hóa truyền thống của huyện Gia

Lâm, Hà Nội.
+ Chƣơng 2: Đặc điểm văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội.
+ Chƣơng 3: Tìm hiểu giá trị nội dung văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội.
- Phần phụ lục bao gồm:
+ Danh mục văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
+ Phiên âm, giới thiệu một số văn bia tiêu biểu
6. Quy ƣớc trình bày
- Các tài liệu trích dẫn để trong ngoặc vng và đánh số theo thứ tự trong
danh mục Tài liệu tham khảo cùng số trang của tài liệu đƣợc trích dẫn. Ví dụ:
Đại Việt sử kí tồn thư [159, tr.133]. Các văn bia cũng có số thứ tự từ 1 đến 142
cũng đồng thời là những số thứ tự đầu của chúng tơi trong phần tài liệu tham
khảo. Ví dụ [1] tức là bia số 1, [2] là bia số 2...
-

Những chữ trên văn bia bị mờ trong phần phụ lục cúng tôi thống nhất để

trong ngoặc [.].

5


Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I
LỊCH SỬ ĐỊA LÝ, VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG GIA LÂM, HÀ NỘI
1.1 LỊCH SỬ ĐỊA LÝ
1.1.1 Lịch sử chống ngoại xâm

Gia Lâm là huyện có truyền thống đấu tranh đánh giặc giữ nƣớc, kiên cƣờng

bất khuất. Trải qua các triều đại lịch sử đều có những nhân tài đánh giặc giữ
nƣớc, cứu dân. Tiêu biểu là ngƣời anh hùng Thánh Gióng ở làng Phù Đổng,
ngƣời có công đánh giặc Ân thời vua hùng thứ 6, sách Đại Việt sử kí tồn
thư[ 159, tr 133-134] ghi rằng: “ Vào đời vua hùng thứ 6 ở hƣơng Phù Đổng, bộ
Vũ Ninh, có ngƣời nhà giàu, sinh một con trai, đến năm hơn ba tuổi, ăn uống béo
lớn nhƣng khơng biết cƣời nói cƣời. Gặp lúc trong nƣớc có tin nguy cấp, vua sai
sứ giả đi tìm ngƣời có thể đánh lui đƣợc giặc. Ngày hôm ấy, đứa trẻ bỗng nói
đƣợc, bảo mẹ ra mời thiên sứ vào, nói: “Xin cho một thanh gƣơm, một con ngựa,
vua không phải lo gì”. Vua ban cho gƣơm và ngựa, đứa trẻ liền phi ngựa vung
gƣơm tiến lên trƣớc, quan quân theo sau, đánh tan giặc ở chân núi Vũ Ninh.
Quân giặc tự quay giáo đánh lẫn nhau, chết rất nhiều, bọn sống sót đều rạp lạy,
tơn gọi đứa trẻ ấy là thiên tƣớng, liền đến xin hàng cả. Đứa trẻ phi ngựa lên trời
mà đi. Vua sai sửa sang chỗ vƣờn nhà đứa trẻ lập đền thờ, hàng năm cúng tế. Về
sau Lý Thái Tổ phong là Xung Thiên Thần Vƣơng”. Đúng nhƣ Thủ tƣớng Phạm
Văn Đồng nhận xét: “Hình ảnh ngƣời anh hùng làng Gióng phản ánh một trang
lịch sử oanh liệt chống ngoại xâm trong đó nổi lên chiến công con em ngƣời dân
thƣờng”.
Vào thời nhà nƣớc Vạn Xuân (thế kỉ thứ VI) huyện Gia Lâm có là nhiều
tƣớng tài giúp Lí Bí đánh giặc Lƣơng nhƣ Cao Đƣờng ngƣời thơn Tình Quang,

6


Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
Nguyễn Tuấn ngƣời thôn Trân Tảo (Phú Thị). Nguyễn Tuấn là ngƣời dùng mƣu
giết hai tƣớng giặc là Lƣơng Tử Sùng và Tơn Vấn.
Thời Lý huyện Gia Lâm cịn có Nguyên Phi Ỷ Lan. Nguyên phi Ỷ Lan ngƣời
quê ở làng Thổ Lỗi (xã Dƣơng Xá), bà đã thay chồng trông coi việc nƣớc khi
chồng đem quân đánh giặc. Khi làm Thái hậu bà đã phụ chính cho con là Lý
Nhân Tơng, bà có nhiều cải cách có ý nghĩa nhƣ khuyến nơng, chăm sóc nhân

dân, giải phóng phụ nữ, ngƣời nghèo. Tên tuổi và những chiến công vẻ vang của
bà đã làm rạng danh cho non sông đất nƣớc.
Thời Trần tại xã Kiêu Kỵ có Nguyễn Chế Nghĩa là tƣớng tiên phong của
Phạm Ngũ Lão, từng đánh bại quân Nguyên xâm lƣợc và đƣợc giao trọng trách
trấn giữ biên giới Lạng Sơn.
Thời Tây Sơn, xã Ninh Hiệp là quê mẹ của công chúa Ngọc Hân - vợ vua
Quang Trung, ngƣời anh hùng áo vải nổi tiếng của dân tộc. Ngọc Hân là nhà văn,
nhà thơ từng tham dự vào việc triều chính.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lƣợc quân và dân
Gia Lâm đã mƣu trí, dũng cảm, kiên cƣờng chiến đấu chống kẻ thù. Những tên
gọi: Đại đội Hồng Hà, Đội nữ du kích Trƣng Trắc, Tiểu đồn Thiên Đức... với
những chiến cơng “Sóng sơng Hồng”, “Lửa phi trƣờng ”, “Sấm đƣờng 5”....làm
kẻ thù khiếp sợ. Vừa chiến đấu vừa sản xuất phục vụ chiến đấu, nhân dân và du
kích của những tên làng nhƣ Trung Mầu, Kim Sơn, Yên Viên...cùng với bộ đội
chủ lực đã lập lên những chiến công vang dội trên mảnh đất Gia Lâm, góp phần
vào những thắng lợi quan trọng ở Bắc Ninh và thủ đô Hà Nội.
1.1.2 Lịch sử địa lý
Huyện Gia Lâm nằm ở đồng bằng châu thổ sơng Hồng, đất đai mầu mỡ phì
nhiêu. Gia Lâm hiện nay là một huyện ngoại thành của thủ đô Hà Nội, trải qua
các giai đoạn lịch sử khác nhau thì huyện Gia Lâm cũng có những thay đổi về
địa lý diên cách:
7


Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
Vào thời Hùng Vƣơng huyện Gia Lâm thuộc bộ Vũ Ninh (một trong 15 bộ
thời Hùng Vƣơng), đến thời nhà Tấn thuộc quận Giao Chỉ, thời Đinh thuộc đạo
Bắc Giang, thời Tiền Lê thuộc lộ Bắc Giang, thời Lý thuộc phủ Thiên Đức, thời
Trần thuộc lộ Bắc Giang, nhà Minh thuộc phủ Bắc Giang, thời hậu Lê thuộc phủ
Thuận An, đến thời Nguyễn (Gia Long gọi là trấn Kinh Bắc; năm Minh Mệnh 3

đổi là trấn Bắc Ninh, năm Minh Mệnh 12 gọi là tỉnh Bắc Ninh).
Năm 1831, huyện Gia Lâm có 10 tổng, 79 thơn sở. Đó là các tổng: Cổ Biện,
Kim Sơn, Đặng Xá, Gia Thụy, Cự Linh, Đông Dƣ, Đa Tốn, Nghĩa Trai, Nhƣ
Kinh và Lạc Đạo. Thời kỳ Pháp xâm lƣợc nƣớc ta, ba tổng Nghĩa Trại, Nhƣ
Kinh và Lạc Đạo chuyển về các huyện Văn Giang, Văn Lâm, Hƣng Yên.
Năm 1946 huyện Gia Lâm nhập về tỉnh Hƣng Yên, cuối năm 1949 huyện Gia
Lâm trở về Bắc Ninh.
Năm 1961 huyện Gia Lâm sát nhập vào thủ đô Hà Nội, huyện Gia Lâm và
một số xã của huyện Tiên Du, Từ Sơn, Thuận Thành (Bắc Ninh), Văn Giang
(Hƣng Yên), gồm 31 xã và 2 thị trấn. Năm 1982 hai thị trấn mới đƣợc thành lập
là Sài Đồng và Đức Giang. Năm 1982 huyện Gia Lâm gồm 31 xã: Ngọc Thụy,
Thƣợng Thanh, Việt Hƣng, Gia Thụy, Bồ Đề, Giang Biên, Hội Xá, Cổ Bi, Đặng
Xá, Phú Thị, Kim Sơn, Lệ Chi, Dƣơng Quang, Dƣơng Xá, Kiêu Kỵ, Trâu Quỳ,
Đa Tốn, Văn Đức, Kim Lan, Bát Tràng, Yên Viên, Dƣơng Hà, Đình Xuyên,
Ninh Hiệp, Phù Đổng, Trung Mầu, Cự Khối, Thạch Bàn, Long Biên, Đông Dƣ,
Yên Thƣờng và 4 thị trấn: Gia Lâm, Sài Đồng, Đức Giang, Yên Viên.
Năm 2004 theo nghị định 132/NĐ - CP của Chính phủ, tách 10 xã của huyện Gia
Lâm để thành lập Quận Long Biên. Huyện Gia Lâm hiện nay với diện tích đất tự
nhiên 114km2 đƣợc giới hạn nhƣ sau: Phía Đơng, Đơng Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh
và Bắc Giang. Phía Nam, Đơng Nam giáp tỉnh Hƣng n. Phía Bắc giáp huyện
Đơng Anh, Hà Nội. Phía Tây giáp quận Long Biên, Hà Nội. Có sơng Hồng, sơng
Đuống chảy qua.
8


Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
Huyện Gia Lâm hiện nay có 22 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 2 thị trấn:
thị trấn Yên Viên, thị trấn Trâu Quỳ và 20 xã: Lệ Chi, Kiêu Kỵ, Đình Xuyên,
Dƣơng Hà, Ninh Hiệp, Bát Tràng, Kim Sơn, Cổ Bi, Dƣơng Xá, Dƣơng Quang,
Đa Tốn, Phú Thị, Đặng Xá, Kim Lan, Văn Đức, Đông Dƣ, Yên Thƣờng, Phù

Đổng, Trung Mầu, Yên Viên.
Do đối tƣợng của luận văn nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
theo địa giới hiện nay dựa trên các thác bản văn bia do Viện Viễn Đông Bác Cổ
sƣu tầm, nên chúng tôi gặp khơng ít khó khăn về địa giới hành chính. Gia Lâm là
một huyện lớn của thủ đô Hà Nội trải qua các thời kì lịch sử có sự thay đổi về
mặt địa lý hành chính. Điều này cũng thể hiện khá rõ trên văn bia, những địa
danh ghi trên văn bia. Viện Viễn đông Bác cổ sƣu tầm văn bia vào những năm
đầu của thế kỉ XX, tính đến nay cũng khoảng đƣợc 80 năm mà địa giới hành
chính huyện Gia Lâm lúc đó cũng khác. Về khơng gian trong phạm vi huyện
cũng có thay đổi, có những xã thời bây thuộc huyện Gia Lâm thời bấy giờ nhƣng
bây giờ lại thuộc huyện khác, có những xã thời đó khơng thuộc huyện Gia Lâm
thì bây giờ lại thuộc huyện Gia Lâm: xã Phù Đổng trƣớc đây thuộc huyện Tiên
Du, tỉnh Bắc Ninh bây giờ lại thuộc huyện Gia Lâm, xã Đình Vỹ (n Thƣờng)
trƣớc đây thuộc huyện Đơng Ngàn nay thuộc huyện Gia Lâm... Tên gọi các xã
thời bấy giờ khác quá xa so với bây giờ, ví dụ: xã Giao Tất, Giao Tự nay là xã
Kim Sơn, xã Hạ Dƣơng nay là xã Dƣơng Hà, xã Đổng Viên, Phù Dực nay thuộc
xã Phù Đổng, xã Tiểu Lâm nay thuộc thị trấn Yên Viên ...Quy mô xã ngày nay
cũng rộng hơn trƣớc, vài ba xã trƣớc đây mới sát nhập thành một xã bây giờ. Do
vậy việc thống kê tƣ liệu gặp rất nhiều khó khăn. Chúng tơi cố gắng tìm tịi tra
cứu cẩn thận để đƣa ra con số thống kê đầy đủ nhất về số lƣợng văn bia huyện
Gia Lâm theo địa giới hiện nay dựa trên các thác bản văn bia do Viện Viễn đông
Bác cổ đã sƣu tầm. Theo thống kê của chúng tôi huyện Gia Lâm có 142 văn bia
trên địa bàn của 15/22 xã và thị trấn thuộc huyện.
9


Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
1. 2. Văn hóa truyền thống
1. 2.1 Văn hóa lịch sử


Gia Lâm là vùng đất văn hiến ghi dấu ấn của ơng cha từ thời xã xƣa cịn rải
rác khắp huyện. Nơi đây có nhiều đình chùa, đền thờ trong huyện thờ các vị thần
thời vua Hùng chứng tỏ mảnh đất này có lịch sử rất lâu đời, tồn tại hàng ngàn
năm và có một nền văn minh sớm. Phát hiện nhiều ngôi mộ cổ đời Hán ở vào thế
kỷ đầu Cơng Ngun nhƣ: rìu, búa ở Trung Mầu, Phù Đổng. Di chỉ văn hóa ở
Trâu Quỳ, Dƣơng Xá, Kim Sơn, Ninh Hiệp, Yên Thƣờng còn lƣu lại dấu vết tồn
tại của ngƣời lao động, sinh sống và phát triển. Gia Lâm là nơi có nhiều di tích
đƣợc mọi ngƣời biết đến nhƣ: đền Phù Đổng thờ Đức Thánh Gióng; đền Bà Tấm
thờ Nguyên Phi Ỷ Lan, chùa Nành, chùa Keo, chùa Kiến Sơ...Gia Lâm là mảnh
đất “địa linh, nhân kiệt”, ở nơi đây vào thế kỷ XVIII chúa Trịnh Cƣơng đã cho
xây dựng cung điện tại xã Cổ Bi hay còn gọi là hành Cung Cổ Bi mà ngày nay
chúng ta còn đƣợc biết đến qua câu “Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ
Pháp”.
Trong các di tích lịch sử văn hố cịn bảo lƣu đƣợc nhiều di vật cổ quý hiếm
có giá trị lớn, tiêu biểu khơng những ở huyện mà cịn là di sản quý của quốc gia,
nhƣ: Tƣợng Quan Âm Nam Hải ở chùa Đào Xuyên xã Đa Tốn, bộ tƣợng Tam
thế ở chùa Nành xã Ninh Hiệp, nhang án đá ở chùa Minh Ngộ (chùa Cầu Chùa)
thôn Chu Xá xã Kiêu Kỵ đều có niên đại vào thế kỷ XVI. Đền, chùa Bà Tấm xã
Dƣơng Xá có đơi sƣ tử đá, phiến đá thời Lý – Trần; chùa Báo Ân có hệ thống
gạch thời Trần. Đặc biệt là những di vật khảo cổ học nhƣ trống đồng Giao Tất xã
Kim Sơn hiện lƣu giữ tại Bảo tàng lịch sử, thạp đồng Đông Sơn xã Đa Tốn hiện
lƣu giữ tại kho Bảo tàng Hà Nội, hệ thống mũi tên đồng, lƣỡi rìu đồng, gốm ở
Trung Mầu, những hiện vật khảo cổ học nhƣ gốm tại Bát Tràng, và mới nhất
hiện đã và đang khai quật tại Kim Lan, rồi những hiện vật nhƣ mũi tên đồng,
giáo đồng, rìu đồng, gạch cổ ở các di chỉ khảo cổ học nhƣ di chỉ Gốc Đề, Nghè
10


Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
Ơng Hai bên bờ sơng Nghĩa Trụ xã Đa Tốn...và còn rất nhiều những di vật khác

hiện đang đƣợc lƣu giữ trong các di tích lịch sử văn hố mang những giá trị mỹ
thuật, văn hố, lịch sử có niên đại khác nhau.
Gia Lâm là vùng đất lâu đời ở đây còn lƣu giữ đƣợc rất nhiều những lễ hội
truyền thống mang đậm đà bản sắc dân tộc. Trên địa bàn huyện Gia Lâm hiện
nay có 84 lễ hội đƣợc tổ chức hàng năm, trong đó có những lễ hội đƣợc tổ chức
ở những di tích nổi tiếng nhƣ đền Thánh Gióng, đền Chử Đồng Tử, đền Bà Tấm.
Ở Trung Mầu ngày vui mở hội thi đấu vật “làng có đơ” nổi tiếng trong vùng,
ngồi ra những sinh hoạt văn hóa nhƣ: hát quan họ, hát trống qn, cị lả, hát ví,
múa lân, đánh kiếm, kéo co...là những hoạt động của quần chúng làng xã. Gia
Lâm không chỉ đƣợc biết đến là một vùng đất văn hiến, có bề dầy lịch sử mà Gia
Lâm cịn là nơi có nhiều nghề truyền thống, nhiều phong tục tập quán tín ngƣỡng,
nhiều sản vật mang đặc trƣng riêng, độc đáo của một vùng quê đồng bằng Bắc
Bộ, nhƣ nghề gốm sứ ở xã Bát Tràng.
Theo sử sách ghi lại thì xã Bát Tràng đã có lịch sử gần 600 năm và nghề gốm
sứ ở Bát Tràng đã tồn tại ít nhất gần 500 năm. Theo sách Nguyễn Trãi toàn tập
(tập 2 - Dư Địa Chí) [161, tr.464] soạn vào thế kỷ thứ XV thì Bát Tràng chắc
chắn đã có tên gọi vào thời Lê Sơ. Nhƣ vậy là vào những năm sau của thế kỷ
XIV tên xã Bát đã có. Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi chép: “Làng Bát Tràng
làm đồ bát chén”, “Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, Huê Cầu thuộc huyện Văn
Giang. Hai làng ấy cung ứng đồ cống cho Trung Quốc là 70 bộ bát đĩa, 200 tấm
vải thâm”. Trong loại phong thổ ký về xứ Kinh Bắc đời Lê, Phong thổ Hà Bắc
đời Lê[174, tr.15] viết rằng: “Về phía bắc Thƣợng kinh có 4 phủ, 21 huyện. Sông
Thiên Đức, núi Vệ Ninh đều ở trong khu vực này. Đất ở xứ này mầu trắng,
ruộng tốt thứ nhất, các đồ đất nung ở Bát Tràng, men và sắc khơng kém gì hàng
Trung Quốc. Mỗi khi đến kỳ đem quà tặng Trung Quốc, số lƣợng đến 17 đôi bát
đĩa”. Nhƣ vậy ghề gốm ở Bát Tràng cũng có từ lâu đời và sớm nổi tiếng, đƣợc
11


Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội

nhiều ngƣời biết đến và đã đi vào ca dao Việt Nam. Ngồi gốm Bát Tràng huyện
Gia Lâm cịn có các nghề truyền thống, nghề địa phƣơng khác. Trong các loại
sách phong thổ ký về xứ Kinh Bắc đời Lê, sách Phong thổ Hà Bắc thời Lê[174],
tr.39] nói về phía bắc thƣợng kinh có chép rằng: “Làng Bát Tràng làm các đồ sứ
đƣa ra nƣớc ngoài. Đến nhƣ làng Kiêu Kị giọt mỏng lá vàng, lá bạc. Tƣơng làng
Phú Thị đã ngon, không bằng tƣơng làng Yên Viên bán khắp, Đa Tốn có bánh
mía nƣớng, Gia Thị và vùng cầu Lã Côi, Yên Thƣờng đều trồng hành tỏi các thứ
rau, suốt năm khơng lúc nào khơng có. Phù Đổng có gạo nếp ngon nhất, Trai
Phù Đổng đi bn thuyền, buôn bè ở các nơi để lập nghiệp. Làng Cổ Bi cúng
thần, Làng Phú Thị có trị giáp trúc truyền tiếng bông sọng”. Sách Phong thổ Hà
Bắc thời Lê đã khái quát đƣợc toàn bộ những nghề truyền thống, đặc sản địa
phƣơng, phong tục của huyện Gia Lâm vào thời Lê. Có những nghề truyền thống
vẫn cịn tồn tại đến ngày nay, không ngừng lớn mạnh và phát triển, nổi tiếng
khắp trong và ngoài nƣớc, nhƣ: nghề gốm sứ ở làng Bát Tràng hay nghề dát vàng
ở làng Kiêu Kị. Điều này cũng cho thấy ngƣời dân nơi đây rất cần cù, chịu khó,
sáng tạo. Đây là một nét đẹp trong văn hóa của huyện Gia Lâm, nó góp phần tạo
nên sự đậm đà trong bản sắc dân tộc Việt Nam. Những văn hóa đặc sắc, vơ giá
này cần đƣợc bảo lƣu và phát triển để hòa vào dòng chảy của văn hóa dân tộc,
góp phần tạo nên sự phồn vinh, thịnh vƣợng của đất nƣớc.
Gia Lâm là cửa ngõ đông bắc của thủ đô Hà Nội, nơi giao tiếp nhiều
đƣờng giao thông lớn, đƣờng quốc lộ 1, quốc lộ 5, đƣờng sắt Hà Nội - Hải Phòng,
Hà Nội - Lạng Sơn - Lào Cai, có sơng Hồng, sơng Đuống, sân bay Gia Lâm, các
nhà ga bến xe, bến bãi kho tàng, hệ thống thông tin vô tuyến, hữu tuyến...ngày
một phát triển thuận lợi cho việc giao dịch trong và ngoài nƣớc. Là huyện đồng
bằng Bắc Bộ, nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, sông Đuống với 6.400 ha đất
trong đê và 2100 ha đất bãi. Nhìn chung địa hình huyện Gia Lâm nằm trong địa
hình của miền đồng bằng tiếp giáp miền trung du độ cao thấp chênh lệch nhau
12



Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
không nhiều. Đất đai Gia Lâm mầu mỡ, là điều kiện thuận lợi cho phát triển
trồng trọt cây cối quanh năm tƣơi tốt. Chăn nuôi gia súc, gia cầm ngày một phát
triển phong phú. Gia Lâm sớm phát triển sản xuất nông thực phẩm, nhiều thứ đã
trở thành đặc sản quê hƣơng nổi tiếng khắp vùng: đậu Dƣơng, tƣơng Sủi, cà Hàn,
cải Vân, dƣa bẹ Đông Dƣ, hành tỏi Cổ Bi, Dƣơng Xá, chuối Kim Quan...Nghề
dát vàng làng Kiêu Kỵ, đúc diệp cầy, nồi gang Nhân Lễ, nghề làm tre nan ở làng
Táo, làng Dƣơng, vặn võng làng Vịa, đan quạt làng Vo, sơ chế thuốc nam ở tổng
Nành, chăn tằm, ƣơm tơ ở Bắc Cầu, Hạ Dƣơng, tay thợ bậc thợ trong vùng nổi
tiếng với thợ mộc Giang Cao, thợ nề làng Lở.
Huyện Gia Lâm có nhiều phong cảnh đẹp, nhiều di tích, danh thắng làm
hài lịng du khách thập phƣơng. Gia Lâm tự hào có những cơng trình kỳ vĩ, đó là
chùa Kiến Sơ (Phù Đổng) với những pho tƣợng đặc sắc nói lên thành tựu lớn lao
của nghệ thuật tạo hình. Đền Phù Đổng là cả một cơng trình kiến trúc cổ nổi
tiếng. Đặc biệt những bức trạm trổ tại nhà múa rối nƣớc xây dựng giữa hồ và hai
con rồng đá trƣớc Tam quan là những tác phẩm điêu khắc có giá trị. Đền Phù
Đổng là cơng trình văn hóa lớn của nhà nƣớc, di tích lịch sử đã đƣợc xếp hạng
cấp Quốc gia. Đền bà Tấm là một khu vực đẹp. Hiện nay con sƣ tử đá và phiến
đá tạo hình con phƣợng cịn lại tiêu biểu cho trƣờng phái nghệ thuật chạm khắc
thời Lý.
1.2.2 Danh nhân, đỗ đạt
Gia Lâm có nhiều làng, xã nổi tiếng về tài học, có nhiều ngƣời đỗ đạt, tiêu
biểu là các xã: Phú Thị, Kim Sơn. Gia Lâm cũng có những danh nhân nổi tiếng
mà tên tuổi của họ đƣợc nhiều ngƣời trong cả nƣớc biết tới. Chẳng hạn nhƣ dòng
họ Cao Bá ở xã Phú Thị: Cao Bá Quát, Cao Bá Đạt, Cao Bá Nhạ. Huyện Gia
Lâm cũng là quê hƣơng của Chử Đồng Tử, Thánh Gióng - hai nhân vật trong Tứ
bất tử của Phật giáo Việt Nam. Huyện Gia Lâm còn là quê của Nguyên Phi Ỷ
Lan hay còn gọi là Bà Tấm ngƣời xã Dƣơng Xá, huyện Gia Lâm), công chúa
13



Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
Ngọc Hân (công chúa Ngọc Hân ngƣời xã Ninh Hiệp). Trong các khoa thi dƣới
thời phong kiến (từ khoa thi đầu tiên năm 1075 đến khoa thi cuối cùng năm 1919)
huyện Gia Lâm có 73 Tiến sĩ đƣợc vinh danh mà tên tuổi của họ đƣợc khắc ghi
vào bia đá bảng vàng, từng đƣợc giao trọng trách giữ nhiều chức vụ quan trọng
trong triều đình. Trong các xã của huyện Gia Lâm thì Phú Thị là xã có nhiều
ngƣời đỗ đạt nhất (11 ngƣời đỗ Tiến sĩ). Huyện Gia Lâm có những dịng họ lớn,
có nhiều ngƣời đỗ đạt cao làm lên sự thiêng liêng, vẻ vang cho vùng đất. Chẳng
hạn nhƣ làng Kim Sơn có 5 hiền, 2 Tể tƣớng: Nguyễn Mậu Tài, Nguyễn Mậu Dị,
Nguyễn Duy Viên, Nguyễn Mậu Thịnh, Nguyễn Khiêm Ích, xã Phú Thị có bốn
Thƣợng thƣ cùng ở một ngõ: Nguyễn Quang Nhuận, Cao Dƣơng Trạc, Đoàn Bá
Dung, Trịnh Bá Tƣớng. Ở xã Phú Thị cịn có gia đình ba đời nối nhau đỗ Tiến sĩ:
Nguyễn Huy Nhuận (bố), Nguyễn Huy Dận (con), và Nguyễn Huy Cận (cháu).
Có khoa thi hai trai làng cùng đỗ Tiến sĩ nhƣ Trịnh Bá Tƣớng và Nguyễn Huy
Mãn (khoa 1721) hay Nguyễn Huy Thuật và Nguyễn Đình Nhất (khoa 1733).
Danh nhân đỗ đạt là một ƣu điểm nổi bật của huyện Gia Lâm, có thể nói Gia
Lâm là vùng đất hiếu học, vùng đất khoa bảng.
1.2.3 Một số danh nhân tiêu biểu
1. Nguyên Phi Ỷ Lan (1044 - 1117), bà chính quê làng Thổ Lỗi, sau đổi
thành Siêu Loại, Thuận Thành, Bắc Ninh - nay thuộc xã Dƣơng Xá, huyện Gia
Lâm, Hà Nội . Bà là vợ vua Lý Thánh Tông. Năm 1069 Vua Lý Thánh Tông
cầm quân đi đánh giặc đã trao quyền nhiệp chính cho bà. Cũng năm ấy nƣớc Đại
Việt bị lụt lớn, mùa màng màng mất trắng, nhiều nơi dân đói nổi loạn. Nhờ có Ỷ
Lan cáng đáng việc nƣớc biết đề ra những kế sách đúng đắn, quyết đoán táo bạo,
loạn lạc đã đƣợc dẹp yên, dân đói đã đƣợc cứu sống. Bà đƣợc nhân dân yêu mến
gọi là Quan Âm nữ. Năm 1072, Vua Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, triều đình
rối ren. Ỷ Lan lúc đõ trở thành Hồng Thái hậu nhiếp chính cho vua Lý Nhân
Tơng (lúc đó mới 7 tuổi) nhờ đó Đại Việt nhanh chóng đƣợc cƣờng thịnh. Ỷ Lan
14



Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
đã tổ chức thực thi những biện pháp dựng nƣớc yên dân khiến cho thế nƣớc và
sức dân mạnh lên. Năm 1077 triều Tống mang quân sang xâm lƣợc nƣớc ta, với
tồn quyền điều khiển triều đình, Ỷ Lan đã huy động cả dân tộc vào trận đè bẹp
quân thù. Ngun phi Ỷ Lan ngồi là một nhà chính trị bà còn là ngƣời am hiểu
về thơ văn.
- Tác phẩm hiện cịn: có thơ trong sách Quốc âm tùng ký 國 音 叢 記
2. Cao Bá Quát (? - 1854), tự Chu Thần, hiệu Cúc Đƣờng và Mẫn Hiên,
ngƣời làng Phú Thị, huyện Gia Lâm. Ông là em ruột Cao Bá Đạt và chú Cao Bá
Nhạ. Thủa nhỏ ông nổi tiếng thần đồng. Năm 1831 (Minh mệnh thứ 12) thi
hƣơng đậu Á Nguyên, rồi thi Hội nhƣng không đậu. Nhƣng tiếng tăm ông lừng
lẫy. Năm 1841 (Thiệu Trị thứ 1) ông đƣợc bổ làm hành tẩu ở Huế, là bạn xƣớng
họa cùng Tùng Thiện vƣơng Miên Thẩm, rồi ra làm giáo thụ Quốc Oai (Sơn
Tây). Sau đó ơng tham gia cuộc khởi nghĩa Mỹ Lƣơng chống lại triều đình
nhƣng bị thất bại.
- Tác phẩm chính của ơng hiện cịn:
- Cúc Đường thi thảo 菊 堂 詩 草
- Chu Thần thi tập 周 臣 詩 集
- Mẫn Hiên thi loại 敏 軒 詩 類
- Mẫn Hiên thi tập 敏 軒 詩 集
- Mẫn Hiên thi văn tập 敏 軒 詩 文 集
- Mẫn Hiên loại thuyết. 敏 軒 類 說
3. Cao Bá Đạt (? - 1854), là ngƣời làng Phú Thị, huyện Gia Lâm. Ông là anh
ruột Cao Bá Quát và thân phụ Cao Bá Nhạ. Lúc thiếu thời ông có tiếng là học
giỏi, thơ hay. Năm Minh Mệnh thứ 15 (1834) đậu Cử nhân, làm Tri huyện Nông
Cống, Thanh Hóa vì có chính sự giỏi, đƣợc nhân dân u mến. Năm 1854, Cao
Bá Quát, em ông khởi nghĩa ở Sơn Tây chống lại triều đình, ơng bị bắt giải về
15



Phạm Minh Đức- Nghiên cứu văn bia huyện Gia Lâm, Hà Nội
kinh chịu tội, dọc đƣờng ông tự vẫn. Nhân dân Nông Cống thƣơng tiếc ông lập
miếu thờ.
- Tác Phẩm :
- Cao Bá Đạt thi tập 高 伯 達 詩 集 (có chép lẫn thơ của một số ngƣời khác).
- Có thơ văn trong các sách: Đại Nam văn tập 大 南 文 集 , Khánh vãn tập
慶 挽 集 ...
4. Đặng Công Chất (1621 - 1683) ngƣời làng Phù Đổng huyện Tiên Du (nay
thuộc Gia Lâm, Hà Nội). Đỗ Trạng nguyên năm Vĩnh Thọ thứ 4(1661), đời vua
Lê Thần Tông, đƣợc cử làm Đốc trấn xứ Cao Bằng. Sau đó đƣợc cử đi sứ sang
Trung Quốc, lúc về làm tới Thƣợng thƣ Bộ Binh, Thƣợng thƣ Bộ Hình. Lúc mất
đƣợc tặng Thiếu Bảo, tƣớc Bá.
- Tác phẩm:
- Đại Việt Lê triều đế vương trung hưng công nghiệp thực lục 大 越 黎 朝 帝
王 中 興 功 業 實 籙 (cùng Hồ Sĩ Dƣơng).
- Trùng san Lam Sơn thực lục 重 刊 藍 山 實 籙 (cùng Hồ Sĩ Dƣơng)
5. Nguyễn Mậu Tài (1615 - 1688), ngƣời xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm. Ơng
có chí lập thân từ từ bé, vƣợt qua mọi khó khăn, tìm thầy giỏi để theo học. Năm
Bính Tuất niên hiệu Phúc Thái (1646), đời vua Lê Chân Tông, ông đỗ Tiến sĩ rồi
làm quan trải qua nhiều chức trọng: Giám sát Ngự sử Hải Dƣơng, Tham chính
xứ Sơn Nam, Đốc đồng Sơn Tây, Hữu Thị lang Bộ Hộ, Bồi tụng...Năm 1673 ông
đƣợc cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1675 ông đƣợc thăng Thƣợng thƣ
bộ Hình, rồi Thƣợng thƣ Bộ Binh. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi: “Nguyễn
Mậu Tài làm quan trải nhiều chức trọng suốt 40 năm vẫn thanh khiết nhƣ kẻ hàn
sĩ”.
- Tác phẩm:
- Kim Sơn gia phả 金 山 家 譜
16




×