Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo và việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào Khmer ở Trà Vinh trong sự nghiệp đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.13 KB, 91 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






SƠN RỐT





TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO
VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO KHMER Ở TRÀ VINH
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Hồ Chí Minh học












HÀ NỘI – 2013





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






SƠN RỐT





TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO
VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO KHMER Ở TRÀ VINH
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI




Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 02 04





Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. Đỗ Quang Hƣng









HÀ NỘI – 2013




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng
dẫn của GS.TS Đỗ Quang Hưng. Các tư liệu sử dụng trong luận văn hoàn toàn trung
thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các kết

luận của luận văn chưa được công bố trong công trình nào khác.




























LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn, lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến
quý thầy cô trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, quý thầy cô
trường Đại học Sài Gòn – những người đã rất tâm huyết giảng dạy trao truyền
những kiến thức quý báu cho chúng tôi trong suốt quá trình học chương trình đào
tạo cao học cũng như những ý kiến đóng góp để hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo trường Cao đẳng Cần Thơ và
Tổ Chính trị, nơi tôi đang công tác đã luôn tạo những điều kiện thuận lợi nhất giúp
tôi hoàn thành quá trình đào tạo cao học, Tỉnh Ủy, Ủy Ban nhân dân tỉnh Trà Vinh,
Sở Nội vụ tỉnh Trà Vinh, Ban Tôn giáo, Ban Dân tộc, Hội đoàn kết sư sãi yêu nước
tỉnh Trà Vinh, trung tâm học liệu Đại học Cần Thơ…đã giúp đỡ tôi về mặt tài liệu.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến GS.TS Đỗ Quang Hưng, người
hướng dẫn khoa học, thầy luôn đồng hành giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng
như thực hiện đề tài.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến gia đình, người thân, bạn
bè, đồng nghiệp đã hết lòng quan tâm, ủng hộ, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt
quá trình học tập và thực hiện luận văn.

Tác giả luận văn


Sơn Rốt



1

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 4
PHẦN NỘI DUNG 9

Chương 1: TƯ TƯỞNG, QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC TÔN
GIÁO 9
1.1. Cơ sở hình thành 9
1.1.1. Cơ sở lý luận 9
1.1.2. Cơ sở thực tiễn 13
1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo 19
1.3. Những quan điểm của Đảng và Nhà Nước về công tác tôn giáo hiện nay 26
1.3.1. Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà Nước về công tác tôn giáo 26
1.3.2. Chính sách đổi mới của Đảng và Nhà Nước ta về công tác tôn giáo 30
Chương 2: THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI VỀ TÔN GIÁO ĐỐI VỚI
ĐỒNG BÀO KHMER Ở TỈNH TRÀ VINH TỪ 1990 ĐẾN NAY 36
2.1. Tình hình đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở tỉnh Trà Vinh 36
2.2. Đặc điểm hệ thống tổ chức của Phật giáo Nam tông Khmer tỉnh Trà Vinh 39
2.3. Vị trí, vai trò của Phật giáo Nam Tông đối với đời sống tinh thần và xã hội của
đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh 41
2.4.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện công tác tôn giáo đối với đồng
bào Khmer ở tỉnh Trà Vinh 43
2.4.1. Thực hiện sự đổi mới công tác tôn giáo của Đảng bộ tỉnh Trà Vinh đối với
chức sắc tôn giáo, nhân sĩ dân tộc Khmer 43
2.4.2. Quá trình thực hiện chính sách tôn giáo nói chung ở tỉnh Trà Vinh đối với
đồng bào Khmer từ 1990 đến nay 47
2.4.3. Kết quả và thành tựu 48
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CÔNG TÁC TÔN GIÁO TĂNG CƯỜNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO KHMER Ở TỈNH TRÀ VINH HIỆN NAY 65
3.1. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về tầm quan trọng của
công tác tôn giáo góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện
nay 65




2

3.2. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào Khmer, sớm rút ngắn sự
chênh lệch về mọi mặt giữa dân tộc Khmer với các dân tộc khác trong tỉnh 66
3.3. Nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ, trí thức người Khmer 69
3.4. Làm phong phú giá trị văn hóa, khắc phục mặc cảm, nghi kỵ, kỳ thị 74
3.5. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động phá hoại của bọn phản
động và các thế lực thù địch chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc 76
PHẦN KẾT LUẬN 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 82























3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HĐKSSYN: Hội đoàn kết sư sãi yêu nước
KĐĐKDT: Khối đại đoàn kết dân tộc
UBND: Ủy ban nhân dân
























4

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Tôn giáo là một vấn đề quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, với chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch họ đang tìm
cách khống chế, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Lợi dụng vấn đề tôn giáo để công
kích, tuyên truyền, xuyên tạc lịch sử vùng đất Nam bộ Việt Nam, để đòi ly khai, tự
trị gây chia rẻ KĐĐKDT. Các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài, họ tìm
cách phát tán tài liệu, băng đĩa ghi âm, ghi hình, kích động các phần tử quá khích
trong dân, đồng bào có đạo, và các đối tượng đội lốt chức sắc tôn giáo tăng cường
hoạt động truyền đạo trái phép, dùng vật chất lôi kéo tín đồ, hoặc lợi dụng những sơ
hở, yếu kém của chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước để vu khống
Đảng, Nhà nước ta vi phạm nhân quyền dân tộc, tôn giáo.
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết 24- NQ/TW/1990 của Bộ Chính
trị “về công tác tôn giáo trong tình hình mới”; Chỉ thị số 68 của Ban bí thư ngày
18/04/1991: “về công tác nhà ở vùng đồng bào dân tộc Khmer”; Chỉ thị 37-
CT/TW/1998; các văn kiện của các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi
mới….Để thực hiện công tác tôn giáo có hiệu quả đối với đồng bào dân tộc thiểu số
cả nước nói chung và tỉnh Trà Vinh nói riêng, tỉnh Trà Vinh đã cụ thể hoá nội dung
nghị quyết thành những chủ trương, chính sách, pháp luật xây dựng thành chương
trình hành động cụ thể, bước đầu đã có những chuyển biến tích cực. Song vẫn còn
thiếu sót, đó là nhận thức về quan điểm, nguyên tắc, chủ trương đổi mới của Đảng
và Nhà nước trong một số cán bộ làm công tác tôn giáo vẫn còn yếu, chưa đủ khả
năng để giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo; công tác vận động đồng
bào tín đồ Phật giáo Nam tông Khmer còn chưa thống nhất, chưa phát huy sức mạnh

đồng bộ của cả hệ thống chính trị từ tỉnh, huyện đến xã, đồng thời chất lượng các tổ
chức cơ sở đoàn thể còn nhiều yếu kém.
Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với
đồng bào Khmer theo tín đồ Phật giáo Nam tông ở tỉnh Trà Vinh, và phát huy những
mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của nó; xây dựng niềm tin vào sự nghiệp



5

đổi mới, huy động được đông đảo đồng bào Khmer vào thực hiện sự nghiệp “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, qua đó thể hiện được ước nguyện
“sống tốt đời đẹp đạo” của đông đảo đồng bào Khmer theo tín ngưỡng, tôn giáo và
không theo tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề bức xúc hiện nay. Do đó, nghiên cứu việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, chính sách, quan điểm của
Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo nhằm thực hiện tốt chính sách tôn giáo của
tỉnh Trà Vinh đối với đồng bào Khmer là vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp, tế nhị.
Nhưng với mong muốn có thể góp sức của mình vào công tác quan trọng của địa
phương, nên tôi đã chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo và việc
thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào Khmer ở tỉnh Trà Vinh trong sự
nghiệp đổi mới” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình, trên cơ sở đó nhằm phát
huy thành tựu đã đạt được khắc phục những hạn chế của công tác tôn giáo, từ đó đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác thực hiện chính sách tôn giáo đối với
đồng bào Khmer trong sự nghiệp đổi mới để thực hiện đúng với chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tôn giáo dân tộc Khmer đã được các học giả nước ngoài và trong nước
nghiên cứu trên góc độ của nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau và có nhiều
công trình được công bố.
Trong những công trình của các học giả trong nước đã được công bố về tôn

giáo dân tộc Khmer ở Trà Vinh và đồng bằng sông Cửu Long có thể kể đến những
công trình sau:
“Công tác quản lý của Nhà nước đối với Phật giáo Nam tông Khmer ở Trà
Vinh”, Ban tôn giáo Trà Vinh, 2008. Trong đó nêu lên tình hình hoạt động của Phật
giáo Nam tông Khmer ở Trà Vinh, vai trò, vị trí của Phật giáo Nam tông đối với đời
sống tinh thần của đồng bào Khmer ở Trà Vinh. Làm rõ những thành quả đạt được
trong công tác quản lý Nhà nước đối với Phật giáo Nam tông Khmer, đồng thời nêu
lên những thiếu sót và đề ra phương hướng thực hiện tốt công tác quản lý của Nhà
nước đối với Phật giáo Nam tông Khmer ở Trà Vinh.



6

“Truyền thống đấu tranh cách mạng của đồng bào Khmer Nam Bộ dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-1975)”, đề tài khoa học do Ủy ban
dân tộc và miền núi, cơ quan đặc trách công tác dân tộc ở Nam Bộ thực hiện, 2000-
2001. Các tác giả đã trình bày khá đầy đủ, chi tiết các cuộc đấu tranh chống áp bức
bóc lột, bất công của đồng bào dân tộc Khmer cũng như sự đoàn kết đấu tranh của
các dân tộc trong vùng nhằm chống áp bức, chống xâm lược bảo vệ quê hương, bảo
vệ tổ quốc từ trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập cho đến kết thúc cuộc
kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
“Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
đồng bào Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long”, luận án tiến sĩ lịch sử của Nguyễn
Thu Thủy, 2001. Tác giả đã trình bày khái quát một số chính sách đối với người
Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long trước 1975; cơ sở lý luận và thực tiễn hoạch
định chính sách của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào Khmer trong
thời kỳ 1975-2000 và chính sách dân tộc của Đảng.
“Phát triển đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ trong
công cuộc đổi mới hiện nay", luận án tiến sĩ của Trần Thanh Nam, 2001. Tác giả đã

phân tích vai trò của đời sống tinh thần trong sự phát triển xã hội, các yếu tố thuộc
đời sống tinh thần nói chung, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc
Khmer đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, trong đó có nhiều yếu tố thuộc văn hóa
và những yếu tố ảnh hưởng đến đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người Khmer
đồng bằng sông Cửu Long.
Các công trình trên từ nhiều góc độ khác nhau đề cập đến hàng loạt vấn đề liên
quan đến tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào Khmer ở Trà Vinh và đồng bằng sông
Cửu Long; liên quan đến củng cố KĐĐKDT. Nhưng vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh để thực hiện chính tôn giáo đối với đồng bào Khmer ở Trà Vinh thì chưa
có công trình nào công bố.
Do đó, tôi chọn đề tài: “tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo và việc
thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào Khmer ở Trà Vinh trong sự nghiệp
đổi mới” làm đề tài luận văn của mình với mong muốn tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề này và đưa ra những biện pháp để thực hiện chính sách đoàn kết tôn
giáo của đồng bào Khmer theo hệ phái Phật giáo Nam tông ở Trà Vinh.



7

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Luận văn làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo cũng như những
chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về chính sách tôn giáo và
nhằm đánh giá sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách tôn giáo ở Trà
Vinh trong những năm đổi mới vừa qua. Thông qua đó đề xuất những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo và nâng cao công tác vận
động đồng bào Khmer thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước góp phần ổn định đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối với đồng
bào Khmer trên địa bàn tỉnh nhà.

- Nhiệm vụ:
Luận văn tìm hiểu cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ
trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác tôn giáo. Từ đó, tìm hiểu quá
trình vận dụng nội dung trên ở tỉnh Trà Vinh trong việc thực hiện chính sách tôn
giáo tăng cường xây dựng KĐĐKDT. Trà Vinh là một tỉnh có nhiều dân tộc và
nhiều tôn giáo nhưng luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu về chính sách tôn giáo đối với
đồng bào Khmer trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng:
Luận văn nghiên chỉ tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
tôn giáo và việc vận dụng để thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào Khmer
ở tỉnh Trà Vinh.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi là trên địa bàn tỉnh Trà Vinh, và chỉ tập
trung nghiên cứu về việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện công tác tôn
giáo đối với đồng bào Khmer theo hệ phái Phật giáo Nam tông trong sự nghiệp đổi
mới từ 1990 đến nay.



8

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về công tác tôn giáo.
- Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài
ra đề tài còn sử dụng nhiều phương pháp khác như: Phân tích, tổng hợp, điều tra xã

hội học, so sánh, đối chiếu, phương pháp logic…
6. Đóng góp của đề tài
Nếu đề tài sau khi làm sáng tỏ được tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn
giáo và việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với đồng bào Khmer ở Trà Vinh
trong sự nghiệp đổi mới, nêu lên được thực trạng trong giai đoạn hiện nay. Từ đó,
đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo và
nâng cao công tác vận động đồng bào Khmer thực hiện tốt chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước sẽ góp phần ổn định đời sống kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
7. Cấu trúc đề tài:
Ngoài phần trang bìa, lời cam đoan, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh
mục tài liệu tham khảo, đề tài chia thành 3 chương 12 tiết.










9

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG, QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH
VỀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO
1.1. Cơ sở hình thành
1.1.1. Cơ sở lý luận:

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho học, từ nhỏ Hồ Chí Minh đã được
làm quen với sách vở, với chữ nho, Người đã đọc được những điều về đoàn kết,
đồng tâm, đồng chí trong các lời dạy của Khổng Tử, Mạnh Tử như: “một cái áo làm
bằng lông cừu sắc trắng, đâu phải do một con là đủ”, “một cây làm chẳng nên non,
ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Tính chất cộng đồng chặt chẽ trong gia đình Việt
Nam, truyền thống “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải
thương nhau cùng” của dân tộc Việt Nam, một đất nước với nền văn hóa phương
Đông còn là cái nôi cho tư tưởng đại đoàn kết trong Hồ Chí Minh sinh ra và trưởng
thành [20, tr.177,178].
Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh tìm gặp
ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc trong đó có
những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo. Chủ nghĩa Mác- Lênin
coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo
hiện thực khách quan. Nhưng Chủ nghĩa Mác- Lênin cũng thừa nhận vai trò của tôn
giáo trong đời sống xã hội, thừa nhận tôn giáo là một hiện tượng xã hội còn tồn tại
lâu dài, đồng thời tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân
dân. Tư tương Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo dựa trên những luận điểm chủ yếu
của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo nhưng lại được vận dung sáng tạo vào điều
kiện của Việt Nam.
Người có một cái nhìn biện chứng có tính phát hiện về một số đặc điểm cơ bản
có tính tôn giáo học về tôn giáo phương Đông và Việt Nam, không chỉ tôn trọng đời
sống đức tin của người có tôn giáo mà còn sớm tách biệt mặt chính trị trong thực
tiễn đời sống tôn giáo và nhất là thấy rõ vai trò văn hóa, những giá trị nhân văn của



10

các tôn giáo và đạo đức tôn giáo. Hồ Chí Minh tìm kiếm những giá trị tương đồng
giữa các hệ ý thức và tôn giáo xem nó như chỗ bắt gặp, phương tiện quan trọng để

người mácxít có thể đối thoại, vận động người có tôn giáo vào mặt trận cách mạng.
Người chỉ ra cơ sở cho việc giải quyết vấn đề tôn giáo trong tổng thể vấn đề dân
tộc, khuyến khích khuynh hướng tư tưởng đúng đắn: các tôn giáo ở nước ta có thể
đồng hành với dân tộc, trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình ấy, đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương – giáo có
tầm quan trọng đặc biệt.
Hồ Chí Minh luôn gắn vấn đề tôn giáo với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Quan trọng hơn, Người luôn luôn trong và dưới vấn đề đại đoàn kết dân tộc, phục
vụ mục tiêu cứu nước, giành độc lập dân tộc và cũng là điều kiện tiên quyết cho
quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Là người mácxít, vô thần – nhà cách mạng chuyên nghiệp – nhưng Hồ Chí
Minh không bị các quan điểm tả khuynh của Liên Xô, Trung Quốc và của phong
trào cộng sản công nhân quốc tế (nhất là giai đoạn còn tồn tại Quốc tế Cộng sản) chi
phối, ngược lại, trên quan điểm thực chứng, Người vượt lên trên lối tư duy đối đầu
vô thần – hữu thần, cộng sản – tôn giáo để có một điểm vượt trội, tìm ra những
điểm tương đồng của các hệ ý thức và tôn giáo (có lợi cho cuộc đấu tranh dân tộc và
giai cấp ở một nước như Việt Nam lúc đó). Nói cách khác là tìm ra “một hằng số”
trong quan hệ đạo – đời, rất hữu hiệu khi giải quyết vấn đề tôn giáo trong cách
mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái
Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi
Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa”
Như vậy, ngay từ rất lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức tôn
giáo là có giá trị nhân bản, phù hợp với đạo đức của xã hội. Hơn nữa, chính Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng giữa học thuyết tôn giáo và cách
mạng trong một đoạn văn nổi tiếng: “học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó
là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái
cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó phù hợp với điều




11

kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung
đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho mọi người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu
hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất
định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng
làm người học trò nhỏ của các vị ấy”. Tìm ra sự tương đồng là một trong những nét
đặc sắc nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo. Đây cũng là cơ sở lý
luận quan trọng bậc nhất để xây dựng KĐĐKDT, trong đó có đồng bào các tôn giáo
vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh cũng là người sớm có những quan điểm nhân văn, rạch ròi trong
việc nhìn nhận vấn đề tôn giáo. Ở Người tuyệt nhiên không có một chút nào sự kỳ
thị, nghi ngại đức tin tôn giáo, con người tôn giáo bất kể thuộc tôn giáo nào: luôn
thấy ở họ có hai con người: con người công dân, cơ bản là người lao động và yêu
nước và con người tôn giáo – tuyệt đối tôn trọng và không tranh biện lý thuyết [29,
tr.126].
Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh sớm nhìn nhận những giá trị tích cực về mặt văn
hóa, đạo đức nơi các tôn giáo và khả năng đóng góp của các tôn giáo trong việc làm
giàu thêm đời sống văn hóa, tinh thần cho xã hội. Đồng thời, Người cũng đòi hỏi sự
kiên quyết đấu tranh, loại bỏ việc lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng vào những mục đích
chống dân tộc, chống con người, phản văn hóa.
Cách “chữa bệnh tôn giáo” của Hồ Chí Minh không bao giờ chỉ đóng khung
trong chuyện tôn giáo cụ thể, không chỉ là vấn đề nhận thức luận, ý thực hệ mà đó
còn là vấn đề với con người nói chung trong tổng thể các quan hệ chính trị, xã hội,
văn hóa, trong hữu thức và vô thức cũng như trong việc chống sự tha hóa, biến chất
của chính bộ máy nhà nước, đảng cầm quyền. Trong xã hội, hình ảnh Hồ Chí Minh
được đánh giá “như một nhà hiền triết ngày xưa, chịu đau khổ để cứu vớt loài người
khỏi cảnh trầm luân. Người theo đạo Phật thì liên hệ đến Thích Ca Mầu Ni, người

theo đạo Hồi thì liên hệ đến Mohamet, người theo đạo Cơ đốc thì liên hệ với Chúa
kitô …đều là những người vì cứu rỗi loài người mà bị đóng đanh trên thánh giá,
hoặc tự nguyện xuống địa ngục, hoặc bị kẻ thù giết hại. Tất cả chỉ vì chúng
sinh”[29, tr.127]. Nhận xét đó của một trí thức Pháp thực không có lời ngợi ca nào
hơn đối với Người trong lĩnh vực này.



12

Nước Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo, trong đó có tôn giáo thu hút
được nhiều tín đồ như: Phật giáo, Ki tô giáo. Lịch sử đã chứng minh: với cộng đồng
các dân tộc, các tôn giáo đó, lúc giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân thì hùng mạnh,
lúc bị chia rẻ hoặc tự chia rẻ thì yếu ớt. Đối với tôn giáo, hơn bao giờ hết cần có
đoàn kết thật lòng và bền vững. Vượt lên các nhà cách mạng phương Tây, Người
nhận thức sâu sắc và toàn diện về ý nghĩa quan trọng của khối đoàn kết toàn dân,
trong đó vấn đề đoàn kết đồng bào các tôn giáo là nhiệm vụ xuyên suốt trong công
tác tôn giáo. Sức mạnh đoàn kết là nguyên nhân của mọi thành công.
Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đến luật pháp với tư cách là công cụ để nhân
dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của mình. Ngay sau khi cách mạng
tháng Tám thành công, Nhà nước Cộng hòa non trẻ mới ra đời, Hồ Chí Minh đã chủ
trương quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân phải được đảm bảo bằng pháp
luật. Hiến pháp năm 1946 đã ghi rõ: “mọi công dân Việt Nam có quyền tự do tín
ngưỡng”.
Có luật pháp chưa đủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ
khi tiếp xúc với đồng bào các tôn giáo nhất là những người làm công tác tôn giáo
vận, phải thật sự tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân. Điều này đã được ghi trong
mệnh lệnh của Chính Phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành ngày
9/9/1952: “chính quyền, quân đội và đoàn thể phải tôn trọng tín ngưỡng, phong tục
tập quán của đồng bào”. Tinh thần của mệnh lệnh này cũng nói lên quan điểm, công

tác tôn giáo là nhiệm vụ của mọi người, mọi đoàn thể chính trị, xã hội. Vì vậy, ở
nhiều hội nghị từ Đại hội Đảng đến hội nghị tập huấn cán bộ phụ nữ, thanh niên,
công an, Mặt trận, nông dân… Chủ tịch Hồ Chí Minh đều đề cập đến tôn giáo và
công tác tôn giáo.
Thực chất của tự do tín ngưỡng tôn giáo được Hồ Chí Minh khẳng định: “là
cốt đoàn kết tất cả các đồng bào để làm cho Tổ quốc độc lập, chứ không phải để
chia rẽ, phản đối tôn giáo”. Đối với đồng bào các tôn giáo, Người chủ trương tuyên
truyền vận động để họ hiểu rõ và tin tưởng vào chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước ta về tự do tín ngưỡng, từ đó giáo dục quần chúng thực hiện đúng quyền
tự do tín ngưỡng tôn giáo của mình.



13

1.1.2. Cơ sở thực tiễn:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo, không những được hình thành
trên cơ sở lý luận mà nó còn được tiếp thu qua cơ sở thực tiễn. Đối với Hồ Chí
Minh việc thông qua thực tiễn để xác lập tư tưởng, phương pháp, đường lối, thì
được xem như là điểm xuất phát, điểm đích đến của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về công tác tôn giáo được hình thành trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của
phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những thành công hay thất bại của
các phong trào đều được Người nghiên cứu để rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết
cho mình. Người cho rằng: “tôn giáo, dân tộc là một bộ phận quan trọng trong
KĐĐKDT, nếu chúng ta làm tốt công tác dân tộc - tôn giáo thì khối đại đoàn kết
mới được giữ vững” [8, tr.31].
Phong trào cách mạng Việt Nam đã diễn ra mạnh mẽ từ khi thực dân Pháp
xâm lược. Lịch sử hào hùng dân tộc đã chứng tỏ rằng bước vào thời đại mới, chỉ có
tinh thần yêu nước và có một lực lượng lãnh đạo cách mạng đúng đắn, có lý luận

dẫn đường phù hợp với quy luật phát triển của thời đại, phải có khối đại đoàn kết
toàn dân thì mới thắng lợi. Do đó, Người đã nung nấu ý chí quyết tâm đi tìm đường
cứu nước. Trong thời gian bôn ba khắp các châu lục, người đã khảo sát tình hình
các nước tư bản, các nước thuộc địa, nghiên cứu cuộc cách mạng tư sản và các
nguyên nhân để giành thắng lợi. Tổng kết thực tiễn đấu tranh của các thuộc địa
Người đã thấy rõ những hạn chế là chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa đoàn kết,
chưa có tổ chức lãnh đạo và họ chưa biết cách tổ chức như thế nào.
Đến khi cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi cùng với sự lãnh đạo tài tình
của Lênin, đã đưa Người đến bước ngoặt quyết định trong việc tìm đường cứu
nước. Từ chỗ chỉ biết đến cách mạng tháng Mười một cách cảm tính. Người đã
nghiên cứu một cách thấu đáo con đường cách mạng Tháng Mười, và những bài học
kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đem lại cho phong trào cách mạng
thế giới đặc biệt là bài học huy động, tập hợp lực lượng quần chúng đông đảo công
nông để giành và giữ chính quyền cách mạng, để đánh tan sự can thiệp của 14 nước
đế quốc muốn bóp chết nhà nước Xô Viết non trẻ. Hồ Chí Minh nghiên cứu cách



14

mạng tháng Mười không phải chỉ qua báo chí, sách vở, mà còn ngay trên đất nước
Lênin. Điều này giúp cho Người hiểu sâu sắc thế nào là một cuộc cách mạng đến
nơi đến chốn, để chuẩn bị cho cuộc cách mạng Việt Nam. Từ đó, Người đã rút được
nhiều kinh nghiệm quý báu để đưa cuộc cách mạng Việt Nam thắng lợi hoàn toàn.
Từ lịch sử dân tộc và thực tiễn cách mạng, Hồ chí Minh đã rút ra một bài học
là: “sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì
nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm
lấn” [25, tr.348]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo luôn bao trùm rộng
lớn và có ý nghĩa quyết định thành công trong cuộc đời và sự nghiệp của Người,
đặc biệt là thấy rõ sự khác nhau giữa trước và sau năm 1945. Thời kỳ trước Cách

mạng Tháng Tám, dưới bút danh Nguyễn Ái Quốc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết
nhiều mẫu chuyện, bài báo chủ yếu vạch trần những thủ đoạn tàn bạo của Chủ nghĩa
thực dân và những người cầm đầu giáo hội ở Việt Nam cấu kết với chủ nghĩa thực
dân. Lúc này đoàn kết tôn giáo chưa được nhắc đến vì hoàn cảnh hoạt động bí mật
khiến cho những người Cộng sản trước và sau khi lập Đảng chưa có điều kiện thực
hiện tốt công tác mặt trận của mình. Những luận điểm của Nguyễn Ái Quốc chủ yếu
tập trung trong Chương “chủ nghĩa giáo hội” trong tác phẩm nổi tiếng bản án chế độ
thực dân Pháp.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có cuộc hợp mặt với đại biểu các tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Cao
Đài tại thủ đô Hà Nội, Người nói: “dân tộc giải phóng thì tôn giáo mới được giải
phóng. Lúc này chỉ có quốc gia mà không phân biệt tôn giáo nữa, mỗi người đều là
công dân của nước Việt Nam và có nhiệm vụ chiến đấu cho nền độc lập hoàn toàn
của Tổ quốc” [45, tr.10]. Người kêu gọi các tôn giáo hãy dẹp bỏ hiềm khích đoàn
kết cùng toàn dân lo cho nền độc lập của nước nhà.
Đầu năm 1946, phát biểu trong lễ mừng Liên hiệp quốc gia do các Phật tử
trong Hội Phật giáo cứu quốc tổ chức tại Hà Nội, Hồ Chí Minh đã viết: “nước Phật
(chỉ Ấn Độ) ngày xưa có những bốn đảng phái làm ly tán lòng dân và hại Tổ quốc,
nhưng nước Việt Nam ngày nay chỉ có một đảng phái là toàn dân quyết tâm giành
độc lập.



15

Sau khi ký hiệp định Giơnevơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn
thể đồng bào cả nước hãy đoàn kết, Người nói: “tôi thiết tha kêu gọi tất cả những
người thật thà yêu nước không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến
nào và trước đây đã đứng về phe nào, chúng ta thật lòng cộng tác, vì dân, vì nước
mà phấn đấu để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong nước Việt

Nam yêu quý của chúng ta” [43, tr.323].
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra khuyết điểm mà nhiều cán bộ làm công tác tôn
giáo hay mắc là thái độ định kiến, hẹp hòi với đồng bào có đạo. Người coi đó là kẻ
thù bên trong rất đáng sợ “vì nó phá hoại từ trong phá ra”. Người viết: “Tư tưởng
hẹp hòi thì hành động cũng hẹp hòi. Tư tưởng hẹp hòi thì nhiều thù mà ít bạn (như
vấn đề tôn giáo)”. Hoặc những quan niệm thành kiến sai lầm cho rằng: “đồng bào
Công giáo là lạc hậu là khó vận động”. Người nhắc nhở cán bộ khi vào nhà đồng
bào có đạo không được nằm trước bàn thờ, khi nói chuyện, tuyên truyền chính
sách cũng phải thận trọng, ý tứ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán: “đồng thời vì
cán bộ ta kém, có nơi có những hành động lố lăng, phạm đến tín ngưỡng và quyền
lợi của đồng bào tôn giáo”. Nhiều cán bộ làm công tác tôn giáo chỉ lo mỗi việc
vận động đồng bào có đạo tham gia kháng chiến kiến quốc, công việc của đạo thì
để phía tôn giáo lo. Nói theo ngôn ngữ thời nay là chỉ lo phần “đẹp đời” còn “tốt
đạo” là việc của riêng tôn giáo. Đây là một quan niệm thiếu biện chứng triết học.
Bởi vì “tốt đạo” và “đẹp đời” luôn gắn bó khăng khít với nhau. Có một ngôi nhà
thờ mới, rõ ràng là “tốt đạo” vì bà con có nơi thờ tự khang trang, nhưng nhà thờ
cũng là một công trình văn hóa của địa phương nên nó làm đẹp cho cả xã hội và
nó cũng chứng tỏ chính sách tôn giáo đúng đắn của Nhà nước, nó lại cổ vũ động
viên đồng bào có đạo phấn khởi thi đua xây dựng xã hội thì cũng là “đẹp đời” nữa.
Còn khi đời sống nhân dân được cải thiện thì “có thực mới vực được đạo”, đồng
bào lại có điều kiện để xây, sửa nhà thờ khang trang, rước lễ sầm uất. Đẹp đời lại
đưa đến tốt đạo là thế. Chính vì vậy, đi đến đâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sâu
sát, tìm ra những điển hình mà biểu dương. Về Thanh Hóa, Người khen ngợi đồng
chí Lý An không chỉ biết giúp nhà dân mà còn biết giúp nhà thờ trang hoàng bàn
thờ ngày lễ Giáng sinh. Nói chuyện với cán bộ tỉnh Nam Định, Người biểu dương
nữ đồng chí Nguyễn Thị Kim đã “đi sát với quần chúng, hiểu rõ tâm trạng của



16


quần chúng, giúp đỡ quần chúng thiết thực giải quyết những thắc mắc và những
khó khăn trong đời sống hàng ngày”. Còn khi tập huấn cán bộ làm công tác Mặt
trận, Người lại nhắc nhở cán bộ cần chú ý đến việc nâng cao đời sống của đồng
bào các tôn giáo vì nguyện vọng của các tín đồ chỉ đơn giản là “phần xác ấm no,
phần hồn thong dong”. “Ở Việt Nam, có vấn đề tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa
giáo: nơi nào cán bộ tốt, tổ chức hợp tác xã đưa lại quyền lợi cho giáo dân thì giáo
dân rất đồng tình…Ta quan tâm đời sống quần chúng thì quần chúng sẽ theo ta. Ta
được lòng dân thì không sợ gì cả”.
Hiến pháp của Nhà nước tuyên bố mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Thế nhưng trong thực tế, khi giải quyết từng vụ việc cụ thể liên quan đến tôn giáo,
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại cân nhắc rất có lý, có tình. Tại Văn Hải, Phát Diệm (Ninh
Bình), đầu năm 1947, một số giáo dân bị bắt vì có hành vi chống đối chính quyền
kháng chiến, nhưng khi Giám mục Lê Hữu Từ bảo lãnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ra lệnh thả ngay và cử đặc phái viên là ông Vũ Đình Huỳnh kiểm tra lệnh này với
lời nhắn nhủ: “chú nói với Ủy ban hành chính tỉnh, gọi làng Văn Hải cho họ đảm
bảo 4 người còn bị giữ lại vì án sát nhân. Bảo làng làm giấy cam đoan, bao giờ
Chính phủ xét hỏi, thì làng phải đem 4 người đó ra để tòa án xét hỏi. Giải thích cho
mọi người biết rằng: đó là do lòng khoan hồng của Chính phủ và do sự tận tâm của
cụ Từ”.
Công tác tôn giáo vận là một công tác rất khó khăn phức tạp nên nếu chỉ có
riêng những cán bộ chuyên trách thì không làm nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phối
hợp với các chức sắc tôn giáo để làm việc này. Trong thư trao đổi với Giám mục
Lê Hữu Từ ngày 23/3/1947, Người phân tích nguyên nhân của những vụ lộn xộn ở
vùng giáo: “một đằng có những người Công giáo nhẹ dạ, dễ tin; đằng khác có
những cán bộ cấp thấp của Chính phủ thiếu tế nhị, rồi những kẻ gây rối lợi dụng
khai thác hai yếu tố trên, nhằm tạo ra bầu không khí không lành mạnh” rồi đề ra
biện pháp khắc phục: “một đằng, chúng ta cần giải thích cho người Công giáo hiểu
rõ chủ trương chính sách của Chính phủ như Đức cha đã làm. Đằng khác, cần giáo
dục cán bộ của Chính phủ, như bản thân tôi đang làm. Như vậy thì bọn gây rối sẽ

không còn có thể chia rẽ chúng ta và sự đoàn kết toàn dân sẽ được thực hiện”.



17

Đây là một kiểu mẫu rất đáng cho những người làm công tác tôn giáo ngày nay
học tập, tiếp thu. Có lẽ, trong lịch sử nước ta cũng rất ít có nhà lãnh đạo nào mạnh
dạn như Chủ tịch Hồ Chí Minh khi bắt tay, cộng tác mật thiết với các chức sắc cao
cấp của các tôn giáo. Nhưng chính nhờ sự cộng tác này mà cuộc kháng chiến đỡ tổn
thất xương máu hơn. Có lần Người thông báo tình hình chiến sự với Giám mục Lê
Hữu Từ và đề nghị: “bao giờ vì chiến thuật mà cần phá cầu Trì Chính, thì cụ sẽ bảo
đồng bào địa phương Phát Diệm tự phá giùm. Vậy nhờ cụ báo cho đồng bào phá
cầu ấy đi. Đồng thời làm cây cầu phao bằng tre, để dân đi lại cho tiện. Đến khi cấp
bách, sẽ phá cầu phao”.
Làm công tác tôn giáo là phải vận động đồng bào các tôn giáo tham gia các
phong trào kháng chiến, kiến quốc. Nhưng phát động phong trào gì cần phù hợp
theo giáo lý, giáo luật của các tôn giáo thì phong trào đó mới có sức lôi cuốn mạnh.
Những phong trào cứu đói, mùa đông binh sĩ, cầu hồn cho các liệt sĩ bỏ mình cho
Tổ quốc…là đúng tinh thần “thương người như thể thương thân” của đạo Công
giáo, “lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha” của Phật giáo…nên được các tín đồ các tôn
giáo nhiệt liệt hưởng ứng. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn khích lệ những
tấm gương của các cá nhân, tập thể tôn giáo có thành tích trong các phong trào trên.
Người viết thư biểu dương linh mục Lê Văn Yên ở Bắc Ninh luôn chăm sóc thương
binh, khen giáo dân xứ Văn Giáo (Nghĩa Hưng, Nam Định) đã tiết kiệm chi tiêu để
quyên góp tiền ủng hộ quỹ “mùa đông binh sĩ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chủ
trì 2 phiên họp của Chính phủ để tạo điều kiện cho các Giám mục Việt Nam gửi hai
bức điện văn cho Tòa thánh và giáo dân toàn thế giới đề nghị ủng hộ nền độc lập
của nước Việt Nam mới, gây được tiếng vang lớn trên công luận hồi cuối tháng
9/1945. Không có những điều kiện đó, làm sao các bức điện thư đó được chuyển đi

một cách nhanh chóng như vậy, trong điều kiện giao thông và liên lạc rất khó khăn
bấy giờ.
Cán bộ làm công tác tôn giáo phải là người am hiểu giáo lý, giáo luật của các
tôn giáo để khi giao tiếp, nói được ngôn ngữ tôn giáo với đồng bào có đạo. Chủ tịch
Hồ Chí Minh là một người như vậy. Người không chỉ viết thư thăm hỏi, chúc mừng
khi lễ Giáng sinh, lễ Phật đản mà còn chia sẻ với các tín đồ bằng tâm tình tôn giáo.
Với Công giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi họ “phụng sự Thiên Chúa và Tổ



18

quốc”, “kính chúa, yêu nước”. Với đồng bào Phật giáo, Người động viên các tín đồ
hãy hành động theo lời Đức Phật: “lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”. Còn với đồng
bào Cao đài, Hòa Hảo, Người thúc đẩy lòng “ái quốc”…Hiểu rõ các tôn giáo,
Người biết chắt lọc những tinh hoa của các tôn giáo. Nói về Khổng Tử, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết “tuy khổng tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử
có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”. Có
những điều không tốt liên quan đến tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng phê phán
gay gắt như việc lợi dụng tôn giáo để làm chính trị hay bóc lột dân chúng, nhưng
không bao giờ Người xúc phạm đến giáo lý của các tôn giáo hay niềm tin của các
tín đồ. Linh mục Giáo sư, Viện sĩ Trần Tam Tỉnh đã nhận xét: “các lời lẽ Cụ phê
phán Giáo hội không bao giờ chạm tới khía cạnh đức tin nhưng chỉ nằm ở phạm vi
các vấn đề cơ chế và chính trị”.
Làm công tác tôn giáo là luôn phải quan tâm đến mọi sự kiện liên quan đến
đồng bào các tôn giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh mau mắn chia vui với linh mục
Nguyễn Duy Lộc ra vùng kháng chiến để đi theo cách mạng năm 1946 và cũng kịp
thời chia buồn về việc các Giám mục, linh mục, giáo dân ở Vinh bị thương do bom
đạn giặc Mỹ năm 1968…Các bài điếu linh mục Phạm Bá Trực năm 1954 hay thư
gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng về việc con trai bác sĩ hy sinh năm 1947 là những áng văn

xúc động, thấm đẫm tình người. Người luôn quan tâm đến nhu cầu của đồng bào
các tôn giáo từ chuyện sắp xếp chỗ làm lễ cho các linh mục theo kháng chiến đến
cho phép linh mục Nguyễn Văn Ngọc được phép mang lương thực, thực phẩm vào
tiếp tế cho 600 linh mục, chủng sinh ở Huế đầu năm 1949 vì lý do chiến sự đang
diễn ra, từ việc khen thưởng kịp thời cho những giáo sĩ, tín đồ có thành tích xuất sắc
đến lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của bà con khi Người về các địa phương…
Không ít người hiểu đơn giản công tác quản lý tôn giáo về mặt Nhà nước chỉ
là giữ cho tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Hiểu như vậy là thiếu biện
chứng. Bản thân gốc Hán tự của chữ quản lý đã bao hàm không chỉ giữ cho ổn định
mà còn làm cho thăng tiến, phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh vốn thông hiểu Hán
học và cả phép biện chứng mácxít nên Người không bao giờ nghĩ giản đơn rằng tôn
giáo sẽ mất đi nay mai. Trong thư chúc mừng lễ Giáng sinh năm 1948, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: “hôm nay, đồng bào lễ Chúa trong một bầu khí chiến tranh, vì giặc



19

Pháp đang còn giày xéo trên đất nước ta. Song rồi đây, thắng lợi sẽ cho chúng ta lễ
Chúa long trọng hơn, trong một bầu không khí vui vẻ và tươi sáng của một nước
hoàn toàn thống nhất và độc lập”. Đây là một tiên đoán tài tình và chính xác. Nước
nhà hòa bình, độc lập, các tôn giáo ở Việt Nam đều phát triển cả về chất và lượng.
1.2. Nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo
Tư tưởng, quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo không chỉ
là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về tôn giáo vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam mà Người còn có những cống hiến mới, sáng tạo mới đặc
biệt quan trọng vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin. Kết hợp hài hòa giữa
lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc, với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ
đỏ trong nội dung tư tưởng của Người, theo Hồ Chí Minh toàn bộ công tác tôn giáo
phải hướng đến mục tiêu cơ bản và cấp thiết là độc lập, tự do cho dân tộc. Nội dung

tư tưởng của Người về công tác tôn giáo có thể tóm gọn qua các nội dung sau:
Một là, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng của nhân dân.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tín ngưỡng tôn giáo là một
trong những quyền con người được nhiều nước thừa nhận như giá trị chung của
nhân loại. Hồ Chí Minh là người sớm tiếp thu tư tưởng dân chủ tiến bộ của phương
Tây, trong đó có nhân quyền, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền tự do tín
ngưỡng là quan điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo.
Tư tưởng đó được thể hiện nhất quán cả trong lý luận và hoạt động thực tiễn hoạt
động cách mạng của Người và đã trở thành nguyên tắc nền tảng xuyên suốt trong
chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Năm 1945, chỉ sau một ngày đọc bản tuyên ngôn Độc lập ở quảng trường Ba
Đình, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời do Người chủ tọa
diễn ra vào ngày 3/9/1945, Hồ Chí Minh đã phát biểu: “tôi đề nghị Chính phủ ta
tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết” [36, tr.9]. Đến năm 1946, Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người chỉ đạo biên soạn
cũng đã ghi nhận: “Nhân dân có quyền tự do tín ngưỡng”. Chính cương của Mặt
trận Liên Việt, ở điểm 1 điều thứ 7 khẳng định: “tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng,
tự do thờ cúng của mọi người”. Và điều 8 trong Chính cương của Đảng Lao động



20

Việt Nam, cũng khẳng định: “tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của mọi
người dân”. Tất cả những văn bản ấy đều có sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh
nhằm thể hiện sự tôn trọng quyền tự do tôn giáo của nhân dân
Năm 1951, trước luận điệu xuyên tạc của kẻ địch về cộng sản là vô gia đình,
vô đạo và vô Tổ quốc, thậm chí cho rằng Việt cộng diệt đạo. Trước tình hình ấy, Hồ
Chỉ tịch thấy cần nói rõ để tránh sự hiểu lầm đang diễn ra trong đồng bào các tôn
giáo, nên trong buổi kết thúc lễ ra mắt của Đảng lao động Việt Nam, Người phát

biểu: chúng tôi xin nói rõ để tránh mọi sự có thể hiểu lầm:…Vấn đề tôn giáo, thì
Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi
người” [42, tr.184]
Khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, ngày 8/3/1955, một lần nữa Người
khẳng định chính sách nhất quán lâu dài của Đảng và Nhà nước là tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Điều này được ghi rõ trong Hiến pháp,
Chính phủ nhất định làm đúng như vậy. Phải vạch trần những luận điệu xuyên tạc
của bọn đế quốc và bè lũ tay sai hòng lừa dối, chia rẽ đồng bào như chúng thường
nói Chính phủ cấm đạo và nhiều điều vô lý khác.
Đến ngày 14/6/1955, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 234/SL về vấn đề tôn giáo gồm
5 chương và 16 điều. Sắc lệnh 234/SL, lần đầu tiên ghi nhận rất chi tiết, cụ thể về
quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân: Sắc lệnh này được đồng bào có đạo
nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ nội dung cơ bản về quyền tự do tín ngưỡng:
Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân, không
ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều: “có quyền tự do
tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào” [45, tr.593]. Các nhà tu hành
được tự do giảng đạo tại các cơ sở thờ tự. Khi truyền bá tôn giáo, nhà tu hành có
nhiệm vụ giáo dục cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý
thức tôn trọng chính quyền và pháp luật của Nhà nước. Mọi công dân có hay không
có tín ngưỡng, tôn giáo đều được hưởng mọi quyền lợi của người công dân (kể cả
trong bầu cử người vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước) và phải làm mọi



21

nghĩa vụ của người công dân. Các tôn giáo được xuất bản và phát hành kinh sách
có tính chất tôn giáo, nhưng phải tuân theo luật xuất bản, được mở trường đào tạo
những người chuyên hoạt động tôn giáo của mình. Những nơi thờ tự và các đồ thờ,

các trường giáo lý của tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Các di sản văn hóa có trong
tôn giáo cần được bảo vệ, giữ gìn. Liên quan tới vấn đề này, khi nói về Hiến pháp
năm 1946, Người nhấn mạnh: “trong Hiến pháp nước ta đã định rõ: Tín ngưỡng tự
do. Nếu ai làm sai Hiến pháp, …sẽ bị trừng phạt” [41, tr.44]. Tôn trọng tự do tín
ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo phá hoại sự nghiệp
cách mạng của nhân dân, tuyên truyền chiến tranh, phá hoại đoàn kết, ngăn trở tín
đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm phạm đến tự do tín ngưỡng và tự do không tín
ngưỡng của người khác hoặc làm những việc trái pháp luật. Người nhấn mạnh: “bảo
vệ tự do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo để phản
Chúa, phản nước” [38, tr.56].
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến tín ngưỡng truyền thống ở Việt Nam,
nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Người cho rằng: “việc cúng bái tổ tiên hoàn
toàn là một hiện tượng xã hội” [37, tr.479]. Người luôn giáo dục cán bộ, đảng viên
tôn trọng phong tục tập quán, tín ngưỡng của mọi người. Đối với những người có
công với dân, với nước, những bậc tiên hiền, liệt sĩ hy sinh vì nước, vì dân…Người
luôn tỏ lòng ngưỡng mộ. Bản thân Người đã có nhiều lần nhắc đến “tổ tiên” với tình
cảm chân thành, tôn kính và nhận thấy “tổ tiên rực rỡ, anh em hòa thuận”. Hồ Chí
Minh luôn nhắc nhở hậu thế ghi lòng, tạc dạ công ơn của các bậc tiền bối. Tư tưởng
của Bác phù hợp với truyền thống của dân tộc Việt Nam là “uống nước nhớ nguồn,
ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Người thường dấy lên trong mỗi con người niềm tự hào
về con Rồng, cháu Lạc, về nghĩa “đồng bào” và khuyên mọi người dân Việt Nam
dù khác nhau về tín ngưỡng, dân tộc, thế hệ… cũng đều phải có trách nhiệm với
ông cha để giữ gìn những gì mà tổ tiên để lại: “các vua Hùng đã có công dựng nước,
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Thờ cúng tổ tiên vừa là tín ngưỡng vừa là đạo lý làm người, đồng thời cũng là
nét đẹp của văn hóa dân tộc. Do vậy, người Việt Nam dù là dân tộc đa số hay thiểu
số, theo tín ngưỡng này hay tôn giáo khác, ở trong nước hay ở nước ngoài vẫn vọng

×