Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong cuộc vận động giải phóng dân tộc từ 1925 đến 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.57 KB, 108 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
……………………………………………







VŨ THỊ LAN






TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG
CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TỪ 1925 ĐẾN 1945











LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC









Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
………………………………………………………






VŨ THỊ LAN






TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG

CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TỪ 1925 ĐẾN 1945



LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số : 60.31.02.04



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Hồng Tung









Hà Nội – 2014

Tôi cam đoan đây là đề tài nghiên cứu khoa học của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Hồng Tung.
Các số liệu , tài liệu nêu ra và trích dẫn trong luận văn là
trung thực. Kết qua
̉
nghiên cứu của luận văn không trùng với
các công trình khác.



Tác giả luận văn

Vũ Thị Lan










MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 6
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 7
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 11
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 11
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 12
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 12
7. Kết cấu của luận văn 12
Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN
TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 13
1.1. Một số quan niệm về vai trò nhân dân 13
1.1.1. Quan niệm về vai trò của nhân dân trong di sản văn hóa truyền thống
của dân tộc Việt Nam 13
1.1.2. Các quan niệm về vai trò của nhân dân trong lịch sử tƣ tƣởng chính trị

phƣơng Đông 18
1.1.2.1. Quan niệm của Nho giáo 18
1.1.2.2. Quan niệm của Phật giáo 21
1.1.2.3. Chủ nghĩa Tam dân 23
1.1.3. Chủ nghĩa nhân đạo phƣơng Tây 26
1.1.4. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin 30
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh vai trò của nhân dân trong cuộc vận động
giải phóng dân tộc 33
1.2.1. Khái niệm nhân dân 33
1.2.2. Dân là nền tảng của khối đại đoàn kết, là nguồn sức mạnh vô tận, nhân
tố quyết định thắng lợi của cách mạng 36
Chƣơng 2: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁC PHƢƠNG PHÁP ĐỂ PHÁT
HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC 47
2.1. Làm cho nhân dân hiểu vì sao phải làm cách mạng? 47
2.1.1. Cách mạng là gì? Cách mạng khó hay dễ? 47

2.1.2. Cách mạng Việt Nam đang tiến hành thuộc loại cách mạng gì? 50
2.1.3. Ai là những ngƣời cách mạng? 52
2.1.4. Cách mạng muốn thành công trƣớc hết phải có Đảng cách mạng 54
2.2. Vận động nhân dân tham gia vào các tổ chức cách mạng 58
2.3. Tổ chức và huấn luyện nhân dân 64
2.3.1. Thời kỳ trƣớc ngày 19-5-1941 64
2.3.2. Thời kỳ sau 19-5-1941 85
2.4. Lãnh đạo toàn dân, “đem sức ta mà giải phóng cho ta” 94
Kết luận 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

“Dân là gốc của nước”, “nước lấy dân làm gốc” là một truyền thống tốt đẹp
của các dân tộc phương Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng được Chủ
tịch Hồ Chí Minh kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình. Cùng với sự tổng kết từ bài học kinh nghiệm của các
cuộc cách mạng trên thế giới và cách mạng Việt Nam, khi khẳng định vai trò của
nhân dân, Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân… Trong xã hội, không gì tốt
đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”. Cho nên, “Chính phủ và
Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, bất cứ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân
mà làm và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đó là một lẽ rất đơn giản, rõ ràng” [58,
tr. 285]. Người nhắc nhở các cán bộ để lãnh đạo được nhân dân, để dân tin, dân yêu,
dân kính, dân ủng hộ thì từ cách làm việc, cách tổ chức, cách nói chuyện, tuyên
truyền khẩu hiệu… phải từ trong dân chúng ra. Về sâu trong quần chúng”. “Bất cứ
việc to việc nhỏ, phải xét rõ và làm cho hợp với trình độ văn hóa, thói quen, sinh
hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết
thực của quần chúng” [58, tr. 288].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, về vị trí, vai trò
của nhân dân là một đề tài lớn, hết sức phong phú, đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, nghiên cứu quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của nhân
dân trong cuộc vận động giải phóng dân tộc trong giai đoạn từ 1925 đến 1945, về
những phương pháp phát huy vai trò và năng lực của nhân dân trong cuộc vận động
giải phóng dân tộc thì chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu nào. Có thể
nói, đây là giai đoạn đánh dấu sự phát triển và tiếp tục hoàn thiện trong nhận thức
của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, về vị trí, vai trò của nhân dân
trong cuộc vận động giải phóng dân tộc.
Với tính cách là một luận văn thạc sĩ, bằng phương pháp kết hợp lịch sử và
lôgic và phương pháp cơ bản của chuyên ngành, tác giả cố gắng trình bày những
tìm hiểu ban đầu có tính hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân, về vai trò của

nhân dân và những phương pháp phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc vận động

giải phóng dân tộc.
Với những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
vai trò của nhân dân trong cuộc vận động giải phóng dân tộc từ 1925 đến 1945 ”
làm đề tài luận văn thạc sĩ của chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc nói
chung, về vai trò của nhân dân nói riêng trên thực tế đã thu hút được sự chú ý của
các nhà nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
Căn cứ vào nội dung có thể chia thành các nhóm sau:
2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc trong đó đề cập tới vai trò của nhân dân trong
cách mạng giải phóng dân tộc.
Lê Duẩn (1960): Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Nxb. Sự thật,
Hà Nội.
Võ Nguyên Giáp (1970): Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà chiến lược thiên tài;
Người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội.
Võ Nguyên Giáp (1975): Chiến tranh giải phóng và chiến tranh dựng nước,
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội.
Trần Văn Trà (1994): Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
Lê Mậu Hãn, Đinh Xuân Lâm (1994): Góp phần tìm hiểu tư tưởng độc lập
tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Mậu Hãn (2000): Tư tưởng Hồ Chí Minh rọi sáng con đường độc lập tự
do của dân tộc Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Mậu Hãn (2001): Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Quang Hưng, Phùng Hữu Phú, Bùi Đình Phong (2003): Bác Hồ với giai
cấp công nhân và công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.


Nguyễn Đức Bình, Đặng Xuân Kỳ, Lê Mậu Hãn (2003): Tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Hồng Chương (2003): Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Văn Đồng (2009): Hồ Chí Minh - Tinh hoa và khí phách của dân tộc,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Văn Thị Thanh Mai (2009): Hồ Chí Minh những chặng đường cách mạng,
Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội.
Trần Văn Giàu (2010): Hồ Chí Minh - Vĩ đại một con người, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
Vũ Khiêu (2010): Hồ Chí Minh - Ngôi sao sáng trên bầu trời Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Hồng Chương: Hồ Chí Minh và sự lựa chọn con đường Cách mạng
Tháng Mười - từ góc nhìn văn hóa, , ngày 14-5-2010.
Nguyễn An Ninh: Hồ Chí Minh với cuộc đổi mới tư duy đầu tiên của cách
mạng Việt Nam để tìm đường cứu nước, , ngày 06-06-
2011.
Bùi Đình Phong: Người tìm đường, mở đường, dẫn đường và thiết kế tương
lai, Báo điện tử, số ra 25/6/2011.
Bùi Đình Phong: "Dân là gốc, dân là chủ", , ngày
02-12-2011
Vũ Đình Hòe: Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng dân tộc và
chấn hưng đất nước, , ngày 13-07-201.
Các công trình nghiên cứu trên đã trình bày một cách có hệ thống những
nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc: con
đường cách mạng, nhiệm vụ cách mạng, tính chất cách mạng, phương pháp cách
mạng, động lực cách mạng… Hoặc nhìn nhận tư tưởng cách mạng giải phóng dân
tộc của Hồ Chí Minh từ một khía cạnh cụ thể chứ chưa có sự phân tích, khái quát
hoá một cách có hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh về nhân dân, về vai trò của nhân
dân trong cuộc vận động giải phóng dân tộc.


2.2. Nhóm các công trình, bài viết tạp chí nghiên cứu về phương pháp,
phong cách Hồ Chí Minh.
Phùng Hữu Phú (1995): Chiến lược đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phùng Hữu Phú (2010): Bí quyết thành công Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
Đặng Xuân Kỳ (2004): Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb Lý
luận Chính trị, Hà Nội.
Bùi Đình Phong (2005): Đỉnh cao tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, Nxb.
Lao Động, Hà Nội.
Nguyễn Văn Huyên (2010): Con người chính trị Việt Nam truyền thống và
hiện đại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Hồng Tung (2010): Văn hoá chính trị và lịch sử dưới góc nhìn văn
hóa chính trị, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Song Thành (2010): Hồ Chí Minh - Nhà văn hoá kiệt xuất, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
Phạm Ngọc Anh (2012): Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho dân
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Hồng Tung, Đinh Xuân Lâm (2010): Từ Pác Pó đến Ba Đình: những
chặng đường thắng lợi của bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, Tạp
chí Hội thảo Khoa học Quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội phát triển
bền vững Thủ đô Hà Nội Văn Hiến, anh hùng, vì hòa bình.
Đinh Xuân Lâm, Phạm Hồng Tung (2010): Từ Pác Pó đến Ba Đình: những
chặng đường thắng lợi của bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, Hội
thảo Khoa học Quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội phát triển bền vững
Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình.
Phạm Xanh: Sự nối tiếp tư tưởng trên đất Nghệ Tĩnh từ Phan Đình Phùng
qua Phan Bội Châu đến Hồ Chí Minh, , ngày 14-12-2010.
Phạm Hồng Chương: Suy nghĩ về hình thức và nội dung truyền bá chủ

nghĩa Mác-Lênin trong tác phẩm Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc,
, ngày 26-04-2012

Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu một cách khá
toàn diện về phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh từ khái niệm phương pháp
đến hệ thống cách phương pháp cụ thể, từ khái niệm phong cách đến hệ phong cách
Hồ Chí Minh, cũng như đã đưa ra hệ quan điểm văn hoá chính trị Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, nghiên cứu những phương pháp phát huy vai trò và năng lực của nhân
dân trong cuộc vân động giải phóng dân tộc thì chưa có công trình nào nghiên cứu.
2.3. Nhóm một số đề tài khoa học bàn về vai trò của nhân dân trong cuộc
vận động giải phóng dân tộc.
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng: “Sự nghiệp cách mạng là của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân theo tinh thần đổi mới của Đảng” (1995)
của Nguyễn Sanh Châu, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành triết học: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc” (1995), của Nguyễn Chính, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận và vận dụng vào công tác dân vận ở tỉnh Hải Dương”, (2008), của Lê
Văn Thuỷ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng lực lượng cách mạng trong tiến trình vận động khởi nghĩa giành chính
quyền năm 1945”, (2012), của Nguyễn Thị Nam, Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn.
Luận án tiến sĩ chuyên ngành chính trị học: “Nâng cao văn hoá chính trị
của cán bộ lãnh đạo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” (2000) của Lâm Quốc
Tuấn, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Luận án tiến sĩ chuyên ngành lịch sử: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề dân
tộc và giai cấp trong cách mạng Việt Nam” (2001) của Trần Văn Hải, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Trên đây là những luận văn, luận án đã bảo vệ và có những nội dung liên
quan đến đề tài của tác giả. Hai luận văn của tác giả Nguyễn Sanh Châu, Nguyễn
Chính đã phân tích nguồn gốc hình thành quan điểm Hồ Chí Minh “cách mạng là sự
nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” cũng như những quan điểm và

giải pháp thực hiện tư tưởng: sự nghiệp cách mạng là của dân, do nhân dân và vì
nhân dân của Đảng ta. Luận văn của tác giả Nguyễn Thị Nam đã trình bày được một
số phương pháp xây dựng lực lượng cách mạng, nhưng chủ yếu phân tích và làm rõ
quá trình xây dựng lực lượng cách mạng và sự vận dụng của Đảng trong xây dựng
khối đại đoàn kết hiện nay. Luận văn của tác giả Lê Văn Thuỷ thì chú trọng đến
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận đối với công tác dân vận ở tỉnh
Hải Dương. Còn luận án của tác giả Lâm Quốc Tuấn và Trần Văn Hải thì chủ yếu
đưa ra cơ sở khoa học về vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng Việt Nam, về
vai trò của Đảng và Mặt trận dân tộc thống nhất trong các thời kỳ cách mạng Việt
Nam, về những yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo hiện nay ở nước ta.
Tóm lại, tất cả các công trình và bài viết nói trên đều đã đề cập đến tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, về vai trò của nhân dân trong cuộc
vận động giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của nhân dân cũng như hệ thống các phương pháp để phát huy vai trò và năng
lực của nhân dân trong cuộc vận động giải phóng dân tộc từ 1925 đến 1945 là một
vấn đề mới, đang rất cần được đi sâu nghiên cứu hơn nữa.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Làm rõ những phương pháp phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc vận
động giải phóng dân tộc.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Phân tích, đánh giá những yếu tố ảnh hưởng đến quan điểm Hồ Chí Minh
về vai trò của nhân dân trong cuộc vận động giải phóng dân tộc.
+ Làm rõ những phương pháp phát huy, nâng cao năng lực của nhân dân
trong cuộc vận động giải phóng dân tộc.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và việc phát huy
vai trò của nhân dân trong cuộc vận động giải phóng dân tộc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là một hệ thống
những luận điểm mới mẻ và sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược
và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Trong phạm vi

nghiên cứu của luận văn tác giả chỉ tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
vai trò của nhân dân trong cuộc vận động giải phóng dân tộc từ 1925 đến năm 1945.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng những lý luận cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc,
các quan điểm về vai trò của văn hoá chính trị đối với hoạt động của nhà chính trị,
và các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về vai trò nhân dân
trị đối với sự phát triển đất nước hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử và
những phương pháp truyền thống như phân tích, lôgic - lịch sử, so sánh, tổng hợp,
thống kê, tổng kết thực tiễn… Đặc biệt luận văn sử dụng cách tiếp cận liên ngành
của môn nghiên cứu văn hóa chính trị để triển khai thực hiện các nội dung nghiên
cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đi sâu phân tích đánh giá quan niệm của Hồ Chí Minh về nhân dân
và vai trò của nhân dân trong cách mạng giải phóng dân tộc, những phương pháp
vận động, tập hợp, lãnh đạo nhân dân của Hồ Chí Minh từ những năm 1925 đến
1945 từ đó làm căn cứ thực tiễn để hình thành những quan điểm và giải pháp phát
huy các nguồn lực của dân làm lợi cho dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc
nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn gồm: Phần mở đầu; nội dung; kết luận; danh mục tài liệu
tham khảo. Phần nội dung của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.







Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN
TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1.1. Một số quan niệm về vai trò nhân dân
1.1.1. Quan niệm về vai trò của nhân dân trong di sản văn hóa truyền
thống của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng “lấy dân làm gốc” là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, được hình thành và phát triển trong quá trình lao động sản xuất và chiến đấu
chống giặc ngoại xâm. “Lấy dân làm gốc” không chỉ đã trở thành nội dung, mục
tiêu chủ yếu mà còn là cơ sở, là căn cứ để hình thành và triển khai đường lối cai trị,
quản lý xã hội của các triều đại phong kiến Việt Nam, nó được biểu hiện trong tư
tưởng và hành động của nhiều vị vua anh minh thời Lý, Trần, Lê, của nhiều nhà tư
tưởng như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, v.v…
Và đến chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm nhân dân là người chủ đất nước là sự tiếp
thu từ truyền thống dân tộc và từ tư tưởng dân chủ tư sản Pháp từ rất sớm. Có thể
nói rằng tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” là tư tưởng thể hiện những giá trị triết học
và nhân văn sâu sắc, nhất quán trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách
mạng của Người. là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Nổi bật là tư tưởng “Khoan thư sức dân” của Trần Quốc Tuấn. Ông chủ
trương thân dân, dựa vào dân để đánh giặc, giữ nước. Ông hiểu rằng không thể
thắng giặc nếu chỉ dựa vào quân đội vào vũ khí mà còn phải dựa vào dân. Ông nêu
bật chân lý của chiến tranh giữ nước là phải đoàn kết toàn dân “vua tôi đồng lòng,
anh em hòa mục, cả nước góp sức”. Để ”Khoan thư sức dân” theo ông, triều đình
phải quan tâm đến đời sống của nhân dân, sử dụng hợp lý sức dân, thực thi chính
sách ”ngụ binh ư nông”; quan tâm đến lợi ích của dân, kết hợp hài hòa lợi ích của
quan - quân - dân “không có cơm thì ta cho ăn, không có áo thì ta cho mặc. Quan
thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta
cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui
cười” [29, tr. 272]; phải lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của dân, giáo dục tư tưởng
chính trị cho dân “nếu giặc đến thì không những thái ấp của ta không còn mà bổng
lộc của các ngươi cũng mất, gia quyến ta bị tan mà vợ con các ngươi cũng khốn”

“Khoan thư sức dân”, trọng dân, tin dân, yêu thương dân đó là “kế sâu rễ bền gốc,
đó là thượng sách giữ nước”[18, tr. 77].
Chính nhờ tư tưởng trọng dân, tin dân, yêu thương dân, nhà Trần đã động
viên, lôi cuốn nhân dân vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Trong 30 năm
cuối thế kỷ XIII, quân và dân nhà Trần đã ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên
- Mông.
Đó là tư tưởng “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” của Nguyễn Trãi. Theo
Nguyễn Trãi, Dân là những người bị áp bức nặng nề nhất trong xã hội, đó là “dân
đen”, “con đỏ”,… là những nô tỳ, những người nông dân, những người lao động
cùng khổ và chịu thiệt thòi nhất trong xã hội, nhưng họ là lực lượng lớn trong xã
hội, là người nuôi sống xã hội. Theo ông, dân là những người đang ngày đêm “Vun
đất ải, luống mồng tơi. Liêm, cần tiết cả tua hằng nắm”, nhưng “Những quy mô
lộng lẫy, đều là do sức lao khổ của nhân dân” [35]. Dân cũng là yếu tố quyết định
đến sự hưng vong của một triều đại, họ là lực lượng to lớn có sức mạnh “như
nước”: “Lật thuyền thấm thía, dân như nước”,. Dân là lực lượng cơ bản và là sức
mạnh chủ yếu của cuộc kháng chiến.

Để đánh giặc và trị nước, Nguyễn Trãi cho rằng: “Phân mưu việc lớn phải
lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”. “Đạo làm tướng
phải lấy nhân nghĩa làm gốc”. Trong thời binh biến, Nguyễn Trãi nói: “Việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân”[18, tr. 284]. Cứu nước trước hết phải cứu dân. Yên dân tất
nhiên không phải là trị cho dân sợ, ngồi yên, không rục rịch, mà làm cho dân sung
túc. Yên dân là điều kiện để ổn định xã hội. Nhân nghĩa là lòng thương người, sự
khoan dung với kẻ lầm đường, lạc lối. Nhân nghĩa là “trừ bạo”, đánh đuổi giặc
ngoại xâm. Dân là người bị đau khổ nhất trong cảnh áp bức bóc lột của giặc Minh:
“Nướng dân đen trên lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”[18, tr. 285].
Nhưng để đánh đuổi giặc ngoại xâm để giành độc lập “mở nền thái bình muôn
thuở” và “để rửa nỗi sỉ nhục ngàn thu” thì nhân dân ta “Lấy đại nghĩa để thắng hung
tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”. Nhân nghĩa là nhân đạo, yêu chuộng hòa bình
đó là nét đặc sắc trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi, là đường lối chính trị, là
chính sách cứu nước và dựng nước. Nhân nghĩa trở thành cơ sở của đường lối trị
nước và chuẩn mực trong ứng xử, là nguyên tắc trong giải quyết công việc quốc gia.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trước nguy cơ xâm lược của kẻ thù mới là
thực dân Pháp, tư tưởng về vị trí, vai trò của nhân dân thời kỳ này có những nội
dung mới: Thứ nhất, đây là lần đầu tiên họ đã phá uy quyền vô thượng của vua
quan, hạ bệ quyền lực của vua quan xuống đồng thời đưa “thần dân” lên địa vị làm
chủ. Việc đảo lộn trật tự có tính chất thần thánh tưởng như “tiên thiên” ấy thật sự là
một cuộc cách mạng trong tư tưởng. Đặt chủ quyền của đất nước vào người dân, họ
đã thay đổi một cách cơ bản địa vị của người dân, mang đến cho người dân một khả
năng tích cực, chủ động mới. Mặt khác, lần đầu tiên họ mang lại cho người dân
những ý niệm về quyền của mình tuy còn hết sức sơ lược. Thứ hai, khái niệm dân
đã được mở rộng - tất cả các hạng người trong xã hội đều coi là dân, không phân
biệt tôn giáo, đảng phái, nam nữ bình quỳên và không phân biệt tầng lớp trên dưới
(tất nhiên có sự loại trừ kẻ bán nước).
Các nhà tư tưởng thời kỳ này, tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh
đã tiếp thu tinh thần thời đại và sớm nhận thức được thực chất vấn đề là phải duy

tân đổi mới, chủ trương chung của thời kỳ này là “khai dân trí, chấn dân khí, hậu
dân sinh” (Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy học chữ
quốc ngữ, kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa. Chấn dân khí: thức
tỉnh tinh thần tự lực tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải
thoát được nọc độc chuyên chế. Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai
hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội hóa…). Bởi mất nước vì thiếu dân
trí và dân khí, Phan Bội Châu đã từng nói: “Ngồi ngẫm nghĩ về lý do vì đâu nước ta
mất, vì đâu dân ta khốn khổ, thì thấy có hai nguồn cơn là ngu và hèn” [21, tr. 35]
nên muốn khôi phục lại độc lập cho dân tộc thì phải mở mang dân trí, chấn hưng
dân khí.
Xuất phát từ chủ nghĩa “đồng chủng”, “đồng văn”, “đồng châu”, Phan Bội
Châu chủ trương cầu viện từ Nhật, bởi Nhật được suy tôn là “người anh cả da
vàng”, đứng về nghĩa lý thì Việt Nam là đồng chủng nên Nhật phải nên thương xót
mà bảo toàn, còn đứng về lợi hại mà nói thì Việt Nam là đồng châu nên Nhật phải
nên giúp đỡ mà cầu viện nên “Bây giờ ta sang Nhật, đem lợi hại thuyết phục họ, tất
nhiên họ sẽ vui lòng viện trợ ta. Nếu họ không viện trợ bằng binh lính thì việc mua
khí giới, nhờ lương thực cũng có phần dễ. Vậy nên bây giờ muốn tìm ngoại viện,

không gì bằng sang Nhật là hơn cả” [21, tr. 99]. Cùng với đó, ông vẫn lo khai mở
dân trí và đào tạo nhân tài; khai mở dân trí bằng tuyên truyền, đào tạo nhân tài bằng
tuyển chọn người đi học Nhật Bản. Còn Phan Chu Trinh sớm trông thấy nguy cơ
của việc xin Nhật viện trợ về quân sự, ông cho rằng cầu viện Nhật Bản là một việc
dại dột: “Chắc gì Nhật hơn Pháp”, do đó ông phản đối sự cầu viện Nhật Bản mà chủ
trương dựa vào Pháp để chống quân chủ hủ hậu, dựa vào Pháp để cầu tiến bộ dần
dần, rồi dần dần yêu cầu cải cách cho đến khi được bình đẳng với Pháp “Pháp Việt
đề huề” vì theo ông các nước lớn Âu Mỹ là “xứ sở của văn minh”, là “quê hương
của tiến bộ”, “nước Pháp làm tiền đạo văn minh cả hoàn cầu”.
Để đánh đuổì thực dân Pháp, giành độc lập cho dân tộc, Phan Bội Châu chủ
trương dùng bạo động cách mạng. Trong Phan Bội Châu niên biểu, khi nhấn mạnh
về phương pháp cách mạng của Việt Nam Quang phục hội, ông đã nói: “Bây giờ

chúng tôi tìm đường sống ở trong muôn vàn cái chết, chỉ nghĩ đến bạo động mà
thôi”. Nhưng bạo động mà Phan Bội Châu chủ trương chủ yếu là bạo động của số
đông, trước hết là bạo động của binh lính, nhưng cũng là bạo động của cá nhân với
những “tiếng nổ lớn” để “làm cho người ta giật mình tỉnh lại, để đánh thức nhân
tâm, để cảnh cáo quân thù, để hâm nóng lòng người” [21, tr. 153] chứ chưa phải là
bạo động của quần chúng nhân dân. Còn Phan Chu Trinh lại cho rằng “Chớ bạo
động, bạo động là dại dột, là trẻ con. Bạo động thì chết là vô ích, như lũ phù du rơi
vào ngọn đèn”. Vì thế, theo ông không cần bạo động cách mạng, chỉ cần học, học
mãi, học cho giỏi rồi Tây nó phải nể, phải xem ngang hàng, rồi cũng trả lại độc
lập… Vì vậy, nhận xét về phương pháp của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trong
thư gửi Chủ tịch Đoàn Quốc tế Cộng sản ngày 18-12-1924, Nguyễn Ái Quốc đã báo
cáo về việc được tiếp xúc với một số thành viên cũ của Việt Nam Quang phục hội
như sau:
“Tôi đã gặp tại đây vài ba nhà cách mạng quốc gia An Nam, trong số này có
người đã rời xứ sở từ ba mươi năm nay. Trong thời gian đó, ông ta đã tổ chức nhiều
cuộc nổi dậy chống Pháp. Tất cả những cuộc nổi dậy đó đều đã đưa tới cái chết của
mấy tên sỹ quan và binh lính Pháp, sự chiếm đoạt mấy khẩu súng và… là việc
người của chúng ta chạy thoát, do không được giúp đỡ và viện trợ.

Mục đích duy nhất của ông này là trả thù cho nước, cho nhà đã bị bọn Pháp
tàn sát… Ông không hiểu chính trị và là càng không hiểu tổ chức quần chúng.
Trong cuộc thảo luận tôi đã giải thích cho ông hiểu sự cần thiết của tổ chức và sự vô
ích của những hành động không có cơ sở.” [55, tr.9]
Đề cao vai trò của nhân dân, Phan Bội Châu, đã viết những lời tâm huyết gửi
quốc dân, đồng bào: “Kẻ làm vua kia, chỉ là người đứng đầu một làng, là viên quản
lý một công ty mà thôi. Nếu nó chết đi thì làng và công ty vẫn còn đó. Nó cũng chỉ
là một phần số con người trong một nước, có hay không một phần số người này, đối
với nước có thêm bớt gì đáng kế… Ta thương yêu nhất là dân”[87, tr. 200]. Trong
tác phẩm Hải ngoại huyết thư, Cụ đã chỉ ra ba nguyên nhân mất nước:
“Một là vua sự dân chẳng biết,

Hai là quan chẳng thiết gì dân,
Bà là dân chỉ biết dân,
Mặc quân với nước, mặc thần với ai”.
Đặc biệt là Cụ đã thấy vai trò to lớn của dân, không thể thiếu dân. Cụ nói:
“Sông xứ Bắc, bể phương Đông,
Nếu không có dân thì cũng là không có gì”.
Vậy dân là ai ? Trong Hải ngoại huyết thư, Phan Bội Châu đã chỉ rõ mười
hạng người là: các nhà phú hào; các quan lại tại chức; các con nhà quyền quý; giáo
đồ thiên chúa giáo; thủy, lục quân; đồ đảng, hội đảng; thông ngôn, ký lục, bồi bếp;
giới phụ nữ; con em nhà giặc bị tàn sát; học sinh hải ngoại.
Mặc dù đề cao vai trò của nhân dân, nhưng do hạn chế của những quan điểm
giai cấp nên Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh chưa có phương pháp đánh giá và
vận động nhân dân một cách khoa học, chưa tập hợp, đoàn kết được lực lượng,
không có sức mạnh nên nghiệp lớn không thành. Các ông mới chỉ quan niệm cuộc
giải phóng như là kết quả của một cuộc nổi dậy đồng thời của quân lính dưới cờ
Pháp và quân lính cách mang, cho nên một việc trọng đại nhất của các nhà cách
mạng thời kỳ này là ở trong nước lo việc vận động lính bộ, lính thủy, ở ngoài nước
lo lập Quang phục quân.
Hơn nữa, vào thời điểm này, các nhà tư tưởng dân chủ tư sản vẫn đặt hy
vọng ở cái gọi được là “đồng chủng” đó. Vì vậy, khái niệm nhân dân vẫn được coi

như là những cộng đồng người, lớn nhất là cộng đồng chủng tộc Việt, cần khôi phục
chủ quyền của cộng đồng mình từ tay bọn “dị chủng”. Còn vấn đề dân quyền của
mỗi người dân thì chưa được đặt ra, hay có được đề cập tới cũng còn rất mới mẻ và
không căn bản. Đó chính là điểm đặc thù của tư tưởng dân chủ tư sản ở nước Việt
Nam đầu thế kỷ này.
Như vậy, tư tưởng trọng ý dân, lòng dân, tin dân, dựa vào dân, đoàn kết
toàn dân… là một truyền thống tốt đẹp trong lịch sử của dân tộc. Mặc dù có những
hạn chế nhất định (đó là do hạn chế của tính thời đại, tính lịch sử), nhưng đó là một
trong yếu tố quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước của cha ông ta.

1.1.2. Các quan niệm về vai trò của nhân dân trong lịch sử tƣ tƣởng
chính trị phƣơng Đông
1.1.2.1. Quan niệm của Nho giáo
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho, không bao giờ
Người giấu hay làm mờ nguồn gốc văn hóa của mình là Nho giáo. Người đã từng
khai trong lý lịch gửi Quốc tế cộng sản năm 1925: “Tôi xuất thân từ một gia đình
nhà nho Việt Nam”. Đến năm 1935, tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII, một
lần nữa, Người lại tự giới thiệu là thuộc “thành phần gia đình nhà nho” Có thể nói
rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ có ảnh hưởng phần nào từ tư tưởng của Nho giáo.
Nhưng ảnh hưởng của Nho giáo như thế nào đến Hồ Chí Minh và cụ thể là tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhân dân và vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc?
Đề cao vai trò của nhân dân, Mạnh Tử cho rằng: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi,
quân vi khinh” tức là: dân là thứ nhất, xã tắc là thứ yếu, vua là thường. Ông cho
rằng, vua (nhà cầm quyền) phải có lòng thương yêu dân, chân thật với dân, vui sự
vui của dân, lo sự lo của dân; như thế dân mới thương yêu mình, vui sự vui của
mình, lo sự lo của mình. Ông đề cao trách nhiệm của nhà cầm quỳên đối với dân,
coi việc cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tình thần cho dân là trách nhiệm
của nhà cầm quyền.
Nhấn mạnh vai trò của Dân, Tuân Tử cũng cho rằng: “Trời sinh dân không
phải vì vua, mà trời lập ra vua để vì dân”. Ông ví, dân như nước, vua như thuyền,
nước chở thuyền và nước cũng lật thuyền.

Nhưng để được dân tin, dân yêu, thì nhà cầm quyền (ông vua) phải có đạo
đức. Trong quan niệm của Nho giáo “Đức là gốc, tài sản là ngọn. Nếu bỏ gốc mà
lấy ngọn, thì sẽ cùng tranh lợi với dân, cướp bóc dân. Vì thế, nếu chỉ lo góp nhặt tài
sản thì dân chúng sẽ xa rời ngay; biết phân phát tài sản thì dân chúng sẽ quy thuận
ngay. Nếu ở trên phản lại lòng dân, chỉ biết ra những mệnh lệnh trái lẽ, thì dân
chúng sẽ đối xử lại bằng những điều trái nghịch. Nếu ở trên phản lại lòng dân, chỉ lo
tích tụ tài sản, châu báu, ngọc ngà thì dân chúng sẽ đối xử lại bằng hành động bội

nghịch, khiến cho tài sản của vua ngày càng khánh kiệt” [30, tr.33]. Do đó, theo
Khổng Tử: “Quản lý lãnh đạo một quốc gia có nghìn cỗ xe, phải xử lý nghiêm túc
cẩn thận, chu đáo tất cả mọi việc, phải đặc biệt giữ điều tín với dân, tiết kiệm chi
tiêu, yêu mến dân, sử dụng sức dân trong thời gian thích hợp”[30, tr. 105]. Theo
ông, vua muốn có sức mạnh, trị vì đất nước, thì vua phải được lòng dân. Để được
lòng dân, để dân hiểu, dân tin thì vua cần “dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân,
dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng những dân hiểu được thế nào là
nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận
gốc từ mặt tư tưởng”[30, tr.123]. Và để được dân chúng kính trọng, trung thành thì
vua phải là người: “có thái độ nghiêm túc, đoan chính đối với mọi việc của dân
chúng”, để được dân chúng trung thành thì vua phải “hiếu thảo với cha mẹ, hiền từ
với già trẻ, gái trai”, để dân chúng tự động viên nhau, cổ vũ nhau làm nhiều điều tốt
thì vua phải “sử dụng cất nhắc người tốt, giáo dục người không có năng lực” [30, tr.
139].
Mặc dù đã nhấn mạnh vị trí, vai trò của nhân dân, nhấn mạnh yếu tố đạo
đức nhưng trong quan niệm của Nho giáo, xã hội chia làm hai loại người: quân tử
và tiểu nhân. Dân chỉ là hạng tiểu nhân, những người hèn kém, những người lao
động chân tay, những người phụ nữ, Dân chỉ là đối tượng để “chăn dắt” phục vụ
cho quyền lực của giai cấp phong kiến. Còn quân tử là những người trí trức quan
lại. Vua là Thiên tử (con trời), quan lại là phụ mẫu (cha mẹ) để chăn dắt dân. Vì
vậy, dân chỉ có vai trò quan trọng đối với địa vị của vua và sự tồn vong của đất
nước, dân chỉ là ”thứ quý nhất” khi dân được gắn chặt trong mối quan hệ với vua.
Và đạo đức mà Nho giáo đề cập là đạo đức của người quân tử - những người thuộc
tầng lớp trên, những người có học thức, có trí tuệ, có đạo đức.

Từ chủ nghĩa dân tộc, nhiều tư tưởng Nho giáo được Hồ Chí Minh phát huy
phù hợp với mục tiêu và lý tưởng của cách mạng như đạo đức nhân nghĩa trí dũng,
cần liệm liêm chính… và vì thế, quan niệm về vai trò của nhân dân được Hồ Chí
Minh vận dụng và phát triển theo lợi ích của cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền
với độc lập của dân tộc, tự do ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Theo Hồ Chí Minh, Dân là những người yêu nước, không phân biệt đảng
phái, tôn giáo, dân tộc, giàu nghèo, trai gái…, là “đồng bào”, những “con Rồng
cháu Tiên” và đạo đức mà Người đề cập là đạo đức mới, đạo đức cách mạng khác
với đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, hai chân chổng lên trời.
Người cho rằng: “Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp rộng lớn và khó thực
hiện, nó không thể do một người hay một nhà mà làm tốt được…” [55, tr. 513 -
514]. Vì vậy, để hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng. Khi dạy lớp cán bộ đầu tiên (1925), Hồ
Chí Minh đã đặt 23 điều tư cách người cách mạng lên trang đầu của cuốn sách
Đường cách mệnh. Sau này, trong bài Người cách mạng mẫu mực Người lại chỉ rõ
việc thực hành đạo đức cách mạng là một yêu cầu quan trọng và nó được thể hiện
cụ thể trong ba mối quan hệ chủ yếu: đối với mình phải “cần kiệm, hòa mà không
tư, cả quyết sửa lỗi mình…; đối với người phải “khoan thứ, có lòng bày vẽ cho
người, không táo bạo, hay xem xét người…”; đối với việc phải “xem xét hoàn cảnh
kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm, phục tùng đoàn thể” [55, tr. 280 - 281].
Nhấn mạnh vai trò của nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng: “sức mạnh của
dân chúng không thể thiếu đối với sự thành công của sự nghiệp cách mạng” [56, tr.
513 - 514]. Người nhắc nhở: người cách mạng phải đặt quyền lợi của Tổ quốc lên
trên hết và trước hết. “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho
dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta kính
ta”. Người cách mạng phải là những “ công bộc của dân, nghĩa là gánh vác việc
chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân” [80, tr. 64- 65].
Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải là những người “Giàu sang không thể
quyến rũ, nghèo đói không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”, “phải lo
trước thiên hạ và vui sau thiên hạ”, và chính Người là một tấm gương về sự hy sinh
vì sự nghiệp cứu nước, cứu dân, không một chút nghĩ cho riêng mình. Trong Di

chúc khi đề cập đến việc riêng Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ
Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này,
tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa,

nhiều hơn nữa” [34, tr. 623]
1.1.2.2. Quan niệm của Phật giáo
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong cuộc vận
động giải phóng dân tộc ta thấy tư tưởng của Người không chỉ có ảnh hưởng của tư
tưởng Nho giáo mà còn có mối quan hệ mật thiết với tư tưởng của đạo Phật.
Quan điểm của Phật giáo có ưu điểm là tinh thần tư bi, cứu khổ, cứu nạn, hoà
đồng hiệp, Ý hoà đồng duyệt, Giới hoà đồng tu, Kiến hoà đồng giác, Lợi hoà đồng
quân. Hiểu một cách tổng quát, nghĩa là khuyên mọi người chung sống vui vẻ, nói
năng, ý chí thuận hoà, biết cùng nhau chia sẻ vui buồn, thương yêu lẫn nhau, chớ
làm những việc mất lòng nhau.
Trong quan điểm của Đức Phật không chấp nhận có một quyền lực siêu
nhiên nào có thể kiểm soát và chi phối vận mệnh con người. Theo quan điểm của
Đức Phật, mỗi người tự làm chủ vận mệnh của mình, tự mình tạo nghiệp và thọ
hưởng kết quả của nghiệp; không ai cứu rỗi được mình và mình cũng không thể tu
thay cho người khác.
Trả cho con người quyền làm chủ cuộc đời mình, trong cả ba thời quá khứ -
hiện tại - tương lai, đạo Phật mang tính nhân bản, và tính tự do tuyệt đối. Đây là nét
độc đáo của đạo Phật. Chính đặc điểm nay giúp con người có niềm tin, sức mạnh
phi thường để vượt qua mọi khó khăn, trở ngại gian nan để hoàn thành đạo nghiệp.
Một nét độc đáo góp phần hình thành nhân cách vĩ đại của Đức Phật, cũng là
một yếu tố căn bản khiến đạo Phật có thể lưu truyền mãi đến ngày nay, là tính bình
đẳng đích thực. Đức Phật không những chủ trương bình đẳng giữa những đẳng cấp
trong xã hội, giữa hai giới nam và nữ, mà còn bình đẳng giữa loài người với mọi
chúng sinh. Đặc biệt hơn cả là sự bình đẳng giữa Ngài là vị Giáo chủ tối cao với tất
cả các môn đệ. Bằng trí tụê siêu xuất của một bậc Giáo chủ toàn triệt, Đức Phật đã
thấy mọi chúng sinh đều có Phật tính, mọi chúng sinh đều có thể thành Phật
Chính Đức Phật đã làm một cuộc cách mạng lớn khi mạnh mẽ xoá bỏ đẳng cấp,
khiến lung lay cả thể chế cố định từ bao đời nay. Ngài dõng dạc tuyên bố: “Không

có đẳng cấp khi mọi dòng máu cùng đỏ; không có đẳng cấp khi mọi nước mắt cùng

mặn”[77, tr.43]. Trong giáo đoàn của Ngài, mọi người đều được cư xử ngang nhau,
đều được hưởng pháp âm vi diệu như nhau, đều có điều kiện tu hành giống nhau, và
đều có cơ hội chứng thành quả nếu tu hành đắc lực. Đối với phụ nữ, xã hội đương
thời không xem trọng, các giáo phái khác cũng không cho gia nhập. Riêng Đức
Phật, Ngài vẫn cho phép Di mẫu cùng một số nữ đệ tử xuất gia, Chư Ni trong thời
Đức Phật cũng Thánh quả, cũng có những vị nổi danh đệ nhất về trí tuệ, thần thông,
biện tài như Chư Tăng không khác.
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn của thế giới, đó là vũ khí tư tưởng cứu
dân, cứu nước. Trong cuộc đấu tranh cách mạng, những tư tưởng của Phật giáo
đóng góp to lớn trong việc khơi dậy và phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
trong quần chúng nhân dân. Và khẳng định sức mạnh của quần chúng nhân dân,
“Thuyết từ bi cứu khổ của Phật Tổ xui Phật tử tham gia những cuộc vận động yêu
nước thương dân chớ không xui ai cả”[21, tr. 230]. Với tâm từ bi vô cùng rộng lớn,
nên Đức Phật đối xử bình đẳng với tất cả mọi người, không biệt thân sơ, thù bạn,
tạo nên sự đồng thuận lớn trong đời sống của nhân dân.
Như vậy, Phật giáo là một tôn giáo lớn, nó có những mặt tiêu cực không
tránh khỏi (quan niệm đời là bể khổ, dẫn đến cái nhìn đời bi quan, tiêu cực, từ bỏ
đấu tranh cho hạnh phúc nơi dương thế để đi tìm hạnh phúc ở kiếp sau ). Nhưng tư
tưởng của Phật giáo cũng có những mặt tích cực, để lại những dấu ấn sâu sắc trong
tư duy, hành động, cách ứng xử cho con người: đó là tư tưởng tư bi bác ái, thương
người, vị tha, quan tâm đến nỗi khổ của người khác, sẵn sàng cứu giúp người hoạn
nạn, ; là nếp sống có đạo đức, trong sạch giản dị, giữ giới,chăm lo làm việc thiện,
; là tinh thần dân chủ, bình đẳng, chống lại mọi sự phân biệt đẳng cấp, chủ trương
ai cũng có thể thành Phật cả. Đức Phật đã từng nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh
là Phật sẽ thành”; là tư tưởng đề cao lao động, chống lười biếng “nhất nhật bất tác,
nhất nhật bất thực. Và cuối cùng, tư tưởng tích cực của Phật giáo còn được thể hiện
ở chủ trương sống không xa lánh việc đời mà gắn bó mật thiết với nhân dân, với
nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù của dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hòa cùng tư tưởng Phật giáo, không chỉ là ở tư
tưởng, tình cảm mộc mạc trong lòng Người, mà tấm lòng đó còn được thể hiện qua


những hành động của Người. Người đã từng nói: “Tôi cũng học Phật và nhớ được
một câu: “mình không vào địa ngục cứu chúng sinh thì ai vào?”. Và sự thật là suốt
cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn thể hiện phẩm chất của một con người giàu sang
không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục,
tất cả chỉ với một mong ước: “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”
[80, tr. 187]. Vì thế, với lý tưởng ”cứu khổ - cứu nạn”, Người đã tìm mọi cách để tố
cáo tội ác của bọn đế quốc thực dân, đưa những người nô lệ vượt qua gông cùm,
xiềng xích tới bờ “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” [66, tr. 20], để nhân dân không còn
lầm than với cuộc đời nô lệ, và mọi người sống chan hòa, bình đẳng, tương thân
tương ái với nhau; với lòng “từ bi - hỷ xả”, Người đã gửi trọn tình thương cho nhân
dân, cho dân tộc, và cho nhân loại, cho những cảnh nghèo túng của nhân dân; với
tinh thần dân chủ, bình đẳng, yêu lao động Người luôn đề cao vai trò của nhân
dân, “lấy tấm lòng của nhân dân làm tấm lòng của mình” [66, tr. 41], đặc biệt có tư
tưởng giải phóng phụ nữ, ứng xử có văn hóa đối với phụ nữ. Người nói: phụ nữ là
phân nửa của xã hội, nếu không giải phóng được phụ nữ thì không thể xây dựng
được chủ nghĩa xã hội, không thể giải phóng được loài người
Với lòng yêu nước thương dân và triết lý đạo Phật, Người đã vượt lên tất cả,
tự mình với hành trang tinh thần dân tộc đi tìm “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” cho
những người nô lệ, để giải phóng dân tộc, xây dựng nên một nước Việt Nam hoàn
toàn độc lập, nhân dân Việt Nam được tự do và sống một đời hạnh phúc.
1.1.2.3. Chủ nghĩa Tam dân
Tư tưởng của Tôn Trung Sơn được hình thành và phát triển trong cuộc sống
đấu tranh cách mạng của ông. Khi bắt đầu sự nghiệp cách mạng, tức thời kỳ chiến
tranh Trung - Nhật, ông từng theo con đường của chủ nghĩa cải lương. Không bao
lâu ông đã trở thành nhà dân chủ cách mạng kiên định, là người tổ chức và lãnh đạo
phong trào cách mạng dân chủ (1895 -1911).
Cương lĩnh cách mạng “Tam dân chủ nghĩa” (hay chủ nghĩa tam dân) của
phái dân chủ tư sản là sự thể hiện tập trung tư tưởng chính trị của Tôn Trung Sơn.

Chủ nghĩa tam dân gồm ba bộ phận: dân tộc, dân quyền, dân sinh. Trong đó,
dân tộc - độc lập theo Tôn Trung Sơn là “một loại bửu bối để mưu đồ cho quốc gia

được cường thịnh và cho dân tộc được sinh tồn”, có thể cứu nước Trung Hoa khỏi
họa diệt vong [74, tr. 57]. Ông kịch liệt lên án chủ nghĩa thực dân áp bức, bóc lột
các dân tộc và quốc gia nhỏ yếu. Vì vậy, để đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, cứu nước
Trung Hoa, ông đưa ra biện pháp kết hợp các tông tộc. Bởi ông quan niệm quan hệ
gia tộc và tông tộc được người Trung Quốc sùng bái nhất, và chỉ có nó thiếu hẳn
chủ nghĩa dân tộc. Dân quyền chủ trương lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến, xây
dựng nhà nước cộng hòa, trong đó nhân dân sẽ giữ vị trí làm chủ. Để đảm bảo chủ
nghĩa dân quyền được thực hiện, Tôn Trung Sơn chủ trương “quy định phạm vi giới
hạn quyền của dân: tuyển cử, bãi miễn, sáng chế, phúc quyết; quyền của chính phủ:
hành chính, lập pháp, tư pháp, khảo thí, giám sát”[74, tr. 59]. Còn về dân sinh, Tôn
Trung Sơn chủ trương “đập tan tình trạng nghèo nàn của mọi người trong nước ta
và làm cho mọi thành phần đều được bình quân về mặt tài phú mà không có kẻ cực
nghèo nữa”. Và biện pháp để thực hiện dân sinh là: Một là, bình quân địa quyền,
giải quyết vấn đề điền địa, đánh thuế đất của địa chủ khai hoặc mua lại cho nông
dân. Hai là, tiết chế tư bản đồng thời xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại do nhầ
nước sở hữu và quản lý. Nội dung của chủ nghĩa dân sinh là thuần túy kinh tế
Như vậy, tư tưởng về vai trò của nhân dân được thể hiện trong quan niệm
của Tôn Trung Sơn về con người chính trị thông qua Cương lĩnh cách mạng “Tam
dân chủ nghĩa”. Ý tưởng của chủ nghĩa tam dân là: “dân hữu, dân trị, dân hưởng”.
Ý tưởng của “dân hữu, dân trị, dân hưởng” là nhân dân cộng hưởng quốc gia, nhân
dân cộng quản chính trị, nhân dân cộng quản lợi ích”. Theo nghĩa này, nhân dân với
quốc gia không chỉ là cộng sản, mọi quyền bính đều “cộng”, đều cùng là của chung,
như thế mới là chủ nghĩa dân sinh chân chính [36, tr. 76-77].
Trong quan điểm của Tôn Trung Sơn, quần chúng nhân dân là người làm ra
lịch sử, nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ. Họ là những con người chính trị đích
thực. Chính họ là lực lượng lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh
thần, là chủ thể sáng tạo ra lịch sử và là nhân tố quyết định đến sự tồn vong của một

chế độ xã hội. Mọi lý tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải thông qua
hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất kính trọng Tôn Trung Sơn và Ngừơi hiểu rõ cái
quý giá nhất trong lý luận và tư tưởng của Tôn Trung Sơn là ở chỗ thích hợp với

điều kiện nước ta. Sau này, nhờ được tìm hiểu có hệ thống tư tưởng của Tôn Trung
Sơn và trực tiếp tham gia vào phong trào cách mạng ở Trung Quốc, Nguyễn Ái
Quốc đã khái quát chủ nghĩa Tam Dân thành mấy điểm là:
- Chủ nghĩa dân tộc: độc lập cho mọi dân tộc;
- Chủ nghĩa dân quyền: tự do cho nhân dân;
- Chủ nghĩa dân sinh: hạnh phúc và hưởng thụ của nhân dân.
Năm 1945, cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền mới được thành
lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy ba khái niệm : Độc lập - Tự do - Hạnh phúc để
đạt tiêu ngữ cho nước Việt Nam mới. Đó chính là ba nguyên tắc lớn của chủ nghĩa
Tam Dân của Tôn Trung Sơn, và cũng là mục tiêu cơ bản mà cách mạng Việt Nam
cần đạt tới.
Mặc dù có điểm tương đồng giữa Hồ Chí Minh và Tôn Trung Sơn khi đề cập
đến mục tiêu đấu tranh nhưng biện pháp thực hiện thì khác hẳn nhau. Hồ Chí Minh
chủ trương đoàn kết toàn dân tộc trong mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở lấy
liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh theo hệ tư tưởng
vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Tôn
Trung Sơn theo hệ tư tưởng tư sản, xây dựng độc lập dân tộc theo con đường phát
triển tư bản chủ nghĩa. Hồ Chí Minh chủ trương dân quyền tự do: tự do của công
dân của một nước độc lập, với những quyền cơ bản của công dân từ tự do bầu cử,
ứng cử và bãi miễn; bình đẳng trước pháp luật; tự do báo chí và ngôn luận; tự do
hội họp và lập hội; tự do cư trú, đi lại ở trong nước và ra nước ngoài Tự do gắn
liền với dân chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Tôn Trung Sơn thì
không đề ra mục tiêu tự do, bởi Trung Quốc “từ xưa đến nơi đã “sống quen trong
khung cảnh tự do”, “đã tự do quá mức” [74, tr. 59]. Và trong quan niệm của Hồ Chí
Minnh “dân sinh hạnh phúc” không phải chỉ có nội dung kinh tế mà hạnh phúc của

nhân dân bao gồm cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần, đời sống kinh tế và
văn hóa ngày càng cao, tư tưởng tình cảm và đạo đứ ngày càng lành mạnh.
Có thể nói, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh hết sức kính trọng và
yêu mến Tôn Trung Sơn không chỉ vì Ông là nhà cách mạng vĩ đại của nước Trung
Quốc anh em, mà còn vì chủ nghĩa Tam Dân do ông đề xuất “có nhiều điểm thích
hợp” với điều kiện Việt Nam, và Người nguyện “cố gắng làm người học trò nhỏ của

×