Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




PHẠM ĐỨC TIẾN



VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 27





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Ngọc Anh











HÀ NỘI, THÁNG 5 NĂM 2010



1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
1. Tính cấp thiết của đề tài 4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 5
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 10
6. Những đóng góp mới của đề tài 10
7. Kết cấu của luận văn 10
CHƯƠNG 1: NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON
NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 11
1.1. Khái niệm nhân tố con người và phát huy nhân tố con người 11
1.1.1. Khái niệm con người 11
1.1.2. Khái niệm nhân tố con người 14
1.1.3. Khái niệm phát huy nhân tố con người 18
1.2. Phát huy nhân tố con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh 22
1.2.1. Phát huy nhân tố con người với tư cách vừa là động lực vừa là mục tiêu của
sự nghiệp cách mạng 22
1.2.2. Phát huy nhân tố con người với tư cách là một thực thể thống nhất giữa phẩm
chất và năng lực 28
1.2.4. Những biện pháp để phát huy nhân tố con người 38
CHƯƠNG 2: PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN

NAY DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 56
2.1. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người trong bối cảnh
hiện nay 56
2.2. Nền kinh tế thị trường và những yêu cầu đối với việc phát huy nhân tố con
người 58
2.2.1. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 58
2.2.2. Yêu cầu với việc phát huy nhân tố con người 65
2.3. Thực trạng phát huy nhân tố con người trong quá trình đổi mới ở nước ta 70

2
2.3.1. Những thành tựu 70
2.3.2. Những hạn chế 73
2.4. Mục tiêu và những giải pháp phát huy nhân tố con người trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 77
2.4.1. Mục tiêu của việc phát huy nhân tố con người 77
2.4.2. Những giải pháp phát huy nhân tố con người 78
KẾT LUẬN 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99

3
NHỮNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BCHTW Ban chấp hành Trung ương
CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNCS Chủ nghĩa cộng sản
CNTB Chủ nghĩa tư bản
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CSXH Chính sách xã hội
ĐCSVN Đảng Cộng sản Việt Nam
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP Tổng sản phẩm trong nước
GNP Tổng sản lượng quốc gia
HDI Chỉ số phát triển con người
Nxb Nhà xuất bản
UN Liên hiệp quốc
UNDP Chương trình phát triển Liên hiệp quốc
UNESCO Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá Liên hiệp quốc
WTO Tổ chức thương mại thế giới
XHCN Xã hội chủ nghĩa


4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam
(6.1991) đã khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Đây thật sự là
bước trưởng thành trong tư duy lý luận của Đảng, là sự đánh giá đúng đắn giá
trị hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước những biến động to lớn, phức tạp
của thế giới và nhiệm vụ nặng nề của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
hơn bao giờ hết, việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh có tầm quan trọng đặc biệt.
Nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp cũng như hệ thống tư tưởng của
Người, chúng ta thấy tư tưởng về con người và phát huy nhân tố con người để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một vấn đề trung tâm, xuyên suốt. Đây được
coi là những tư tưởng có giá trị to lớn, làm rõ nhân tố có vai trò quyết định
đối với những thắng lợi to lớn, rực rỡ của cách mạng Việt Nam trong quá
khứ, hiện tại và tương lai.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học – công nghệ phát triển như
vũ bão, toàn cầu hoá trở thành xu thế tất yếu, kinh tế tri thức trở thành một

đặc trưng của nền kinh tế thế giới thì vai trò động lực, vị trí trung tâm của con
người trong quá trình phát triển đã thực sự được khẳng định. Con người và
phát huy nhân tố con người thu hút sự quan tâm, chú ý, được thảo luận rộng
rãi trên các diễn đàn trong nước và quốc tế. Trong tiến trình phát triển cả lí
luận và thực tiễn đều chứng minh: nhân tố con người đóng vai trò quyết định
xu hướng vận động của thế giới đương đại. Luôn theo sát sự biến động của
thời cuộc, đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò của nhân tố con người, Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6.1996) của Đảng Cộng sản Việt
Nam chỉ rõ: Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững; nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn
lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách

5
mạng Việt Nam. Con người thực sự là nguồn lực của mọi nguồn lực, tài
nguyên của mọi tài nguyên, là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất quyết định
thành công của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta.
Phát huy nhân tố con người trong thực tiễn đổi mới ở nước ta trong
những năm qua đã giành được những thắng lợi to lớn bước đầu, góp phần
quan trọng thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh”. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu ấy, sự tác động của cơ
thế thị trường đang bộc lộ nhiều bất cập có liên quan đến phát huy nhân tố
con người, ảnh hưởng đến sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Làm
thế nào để phát huy có hiệu quả nhân tố con người trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay? Đây là vấn đề lý
luận và thực tiễn quan trọng đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách cơ bản,
có hệ thống nhằm tìm kiếm những giải pháp kịp thời, phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn.
Với lý do đó, tôi quyết định chọn đề tài: “Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về phát huy nhân tố con ngƣời trong nền kinh tế thị trƣờng định

hƣớng xã hội chủ nghĩa” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người là
một chủ đề hấp dẫn, được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm
nghiên cứu. Các tác giả đã đạt được những thành tựu quan trọng khi nghiên
cứu về chủ đề nêu trên. Những thành tựu đó có thể khái quát với những nét cơ
bản sau:
2.1. Các luận án, luận văn:
Lê Quang Hoan (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc
phát huy nhân tố con người trong CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay, Luận án
Tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

6
Đây là một công trình rất công phu của tác giả Lê Quang Hoan. Trong Luận
án này, tác giả đã làm rõ nguồn gốc, quá trình hình thành phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người; phân tích làm rõ quan niệm của Hồ Chí Minh về
con người và vai trò của con người trong tiến trình cách mạng Việt Nam…
Tác giả đã rất thành công trong việc phân tích sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người, vai trò của con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.
Phùng Thu Hiền (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người
với việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện
nay, Luận văn Thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Với đề tài này, tác giả Phùng Thu Hiền đã làm rõ quan niệm Hồ Chí Minh về
nhân tố con người, làm rõ những thành công, hạn chế trong việc phát huy
nhân tố con người ở nước ta và đề ra những phương hướng, giải pháp để phát
huy nhân tố con người trong thời kỳ đổi mới…
2.3. Sách chuyên khảo:
Hồ Chí Minh (1995), Về xây dựng con người mới, Nxb CTQG, Hà Nội.
Cuốn sách tập hợp những bài nói, bài viết, những tác phẩm văn thơ… của

Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt Nam. Công trình này do
tập thể cán bộ phòng tư liệu Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh sưu tầm, tuyển chọn,
đồng chí Nguyễn Huy Hoan, Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh làm chủ
biên. Đây thực sự là những tư liệu quý, thể hiện trực tiếp, cô đọng những tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người, về phương thức đánh giá, bồi
dưỡng, chăm lo và xây dựng, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp
cách mạng nước ta.
Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá hiện đại hoá (Nghiên cứu xã hội học), Nxb CTQG, Hà Nội.
Cuốn sách là sự chuyển tải nội dung của Chương trình khoa học công nghệ
cấp Nhà nước: “Con người Việt Nam - Mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội” mang mã số KX.07 do Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Minh Hạc

7
(Chủ nhiệm) cùng với nhóm học giả có uy tín trong nước thực hiện. Đây là
một công trình được thực hiện một cách công phu, đạt chất lượng cao, đem lại
những thành tựu to lớn và quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu về con người
và phát huy nguồn lực con người. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân
tích khái quát truyền thống văn hoá dân tộc, đi sâu làm rõ vấn đề phát huy và
sử dụng đúng đắn vai trò động lực của con người trong sự phát triển kinh tế -
xã hội. Trên cơ sở đó, các tác giả đặt vấn đề chuẩn bị con người Việt Nam
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển đất nước.
Dưới giác độ của một nhà khoa học xã hội, với bề dày nghiên cứu lâu
năm, PGS.TS Hồ Sĩ Quý đã đưa ra những nhận thức sâu sắc về con người và
vai trò của con người trong cuốn sách: “Con người và phát triển con người”
(Giáo trình dùng cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên
ngành triết học) do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành năm 2007. Ở công trình
này, PGS.TS Hồ Sĩ Quý đã nghiên cứu rất sâu những vấn đề lí luận chung về
con người và phát triển con người; làm rõ những vấn đề phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu con người, trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những gợi ý

rất quan trọng về xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Lưu Ngọc Trịnh (1996), Chiến lược con người trong “Thần kỳ kinh tế
Nhật Bản”, Nxb CTQG, Hà Nội.
Trong tác phẩm này, PGS Lưu Ngọc Trịnh đã phân tích vai trò quyết định của
nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và trong nền
kinh tế thị trường nói riêng. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu quá trình phát huy
và sử dụng nhân tố con người trong công cuộc phát triển kinh tế Nhật Bản,
tổng kết những bài học của họ và đưa ra những gợi ý rất quan trọng trong việc
vận dụng những bài học của Nhật Bản để sử dụng, phát huy có hiệu quả nhân
tố con người ở Việt Nam…
2.4. Các bài báo đăng trên các tạp chí:

8
Là một nhà khoa học quan tâm nhiều đến vấn đề con người và phát huy
nhân tố con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh, PGS.TS. Phạm Ngọc Anh có
nhiều công trình bàn đến vấn đề này. Trong bài “Nguồn lực con người trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lý
luận số 2, 1995 và “Quan niệm Hồ Chí Minh về vai trò động lực của lợi ích”,
đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng số 4, 1999, PGS đã khẳng định vai trò quyết
định của nhân tố con người; phân tích sâu sắc về lợi ích, nguồn động lực quan
trọng thúc đẩy người lao động phát huy tài năng, trí tuệ của mình, đồng thời
đưa ra các giải pháp, đặc biệt là chăm lo đến lợi ích của người lao động nhằm
phát huy nhân tố con người trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Nhân tố con người và phát huy nhân tố con người cũng là những nội
dung quan trọng được đề cập đến trong một số bài viết sau đây:
Nguyễn Trọng Chuẩn, “Nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội”, Tạp chí Triết học, số 4, 1990.
Nguyễn Tuấn Dũng, “Hồ Chí Minh về chiến lược con người trong cách mạng

Việt Nam”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5, 2000.
Thành Duy, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối
với con người”, Tạp chí lịch sử Đảng, số 12, 2005
Trên đây là những thành tựu rất quan trọng mà các nhà khoa học đã đạt
được trong lĩnh vực nghiên cứu về con người, nhân tố con người và phát huy
nhân tố con người trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Những thành tựu ấy
là cơ sở quan trọng để giới khoa học cùng bàn sâu hơn, kỹ hơn về lĩnh vực
này.
Với tinh thần khiêm tốn học hỏi, tác giả của luận văn xin phép được kế
thừa, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của các nhà khoa học, lấy đó làm
những gợi ý quan trọng để phục vụ cho quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề
tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”

9
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích khái quát những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát huy nhân tố con người, luận văn làm sáng tỏ thực trạng phát
huy nhân tố con người trong thời kỳ đổi mới, chỉ ra những mặt tích cực, hạn
chế, tìm nguyên nhân để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát huy có hiệu
quả nhân tố con người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ
Khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phát
huy nhân tố con người, giá trị của những quan điểm đó;
Làm rõ thực trạng phát huy nhân tố con người trong thời kỳ đổi mới ở
nước ta;
Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nhân tố con người
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

dưới sánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người thể hiện trong
các bài phát biểu, bài viết, các tác phẩm, hoạt động thực tiễn của Người;
Chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về phát huy nhân tố con người;
Thực trạng phát huy nhân tố con người trong thời kỳ đổi mới ở nước ta:
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm…
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người và
phát huy nhân tố con người, luận văn tập trung nghiên cứu việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chủ yếu từ năm 1986 đến
nay.

10
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về phát huy nhân tố con người, đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu một số
công trình khoa học của các tác giả trong và ngoài nước đã được công bố có
liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn, tác giả đã sử dụng một số phương pháp chủ yếu như:
logíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, diễn dịch – quy nạp, so sánh đối chiếu,
gắn lý luận với thực tiễn…
6. Những đóng góp mới của đề tài
Phân tích thực trạng của việc phát huy nhân tố con người trong thời kỳ

đổi mới, đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với những kết quả đạt được, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo trong việc giảng dạy và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh các hệ trung
cấp, cao đẳng, đại học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương và 6 tiết.
Chƣơng 1: Nhân tố con ngƣời và phát huy nhân tố con ngƣời trong
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
Chƣơng 2: Phát huy nhân tố con ngƣời trong nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa dƣới ánh sáng tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh


11
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHÂN TỐ CON NGƢỜI VÀ PHÁT HUY
NHÂN TỐ CON NGƢỜI TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Khái niệm nhân tố con ngƣời và phát huy nhân tố con ngƣời

1.1.1. Khái niệm con người
Theo mỗi bước tiến hoá, con người không ngừng nhận thức và cải tạo
tự nhiên, xã hội và bản thân. Trong quá trình nhận thức về chính mình, con
người luôn trăn trở với câu hỏi “Con người là gì” và tìm cách trả lời câu hỏi
ấy.
Thời kỳ cổ đại, người ta giải thích nguồn gốc của con người theo hai xu
hướng: Hoặc đi tìm cái bản nguyên đầu tiên cấu tạo nên con người và thế
giới; hoặc là định nghĩa con người trong mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn

nhưng mang nặng tính huyền bí, chất phác.
Sang thời kỳ phong kiến, khi nhà thờ đóng vai trò chi phối, quyết định
mọi mặt đời sống thì con người được hiểu là sản phẩm của Chúa, con người
phải sống theo định mệnh, phải tin tưởng, hi sinh vô điều kiện vì Chúa.
Thời kỳ Phục hưng và Khai sáng được coi là bắt đầu một thời kỳ mới
trong việc khám phá bản chất con người, khi phương thức sản xuất TBCN
được xác lập và dần thắng thế ở châu Âu. Quan niệm về con người thời kỳ
này thường gắn với con người cá nhân (cái tôi như một chủ thể), khẳng định
vai trò con người trong xã hội, hướng con người tới sự giải phóng khỏi thần
học, khỏi sự áp bức và nô dịch. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi phương pháp
siêu hình máy móc nên nhận thức về con người thời kỳ này còn nhiều hạn
chế.
Sự xuất hiện chủ nghĩa Mác – Lênin đã đem đến phương pháp khoa
học để làm sáng tỏ khái niệm “Con người”. Xuất phát từ thực tế sinh hoạt, lao
động sản xuất, chủ nghĩa Mác cho rằng “Bản chất con người không phải là
một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của

12
nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”[48, tr10]. Như
vậy, bản chất con người không phải trừu tượng mà rất hiện thực, không nhỉ là
tự nhiên mà còn là lịch sử; con người là một thực thể thống nhất giữa yếu tố
sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của
con người. Với ý thức của mình - điều khác biệt với con vật – con người
không thu mình, thụ động trước hoàn cảnh mà luôn hoạt động, lao động, suy
nghĩ, tìm tòi để cải tạo tự nhiên, làm tự nhiên phải biến đổi, phải phục vụ cho
cuộc sống con người. Như thế, bằng lao động và thông qua lao động, giao
tiếp, con người làm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản thân, trở thành chủ nhân
của bản thân, của tự nhiên, xã hội.
Kế thừa tinh hoa tư tưởng văn hoá dân tộc và nhân loại, tiếp thu, vận
dụng, phát triển một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã

nâng tư tưởng về con người lên một tầm cao mới, hình thành nên chủ nghĩa
nhân văn Hồ Chí Minh. Tuy không có một tác phẩm nào bàn riêng về con
người, nhưng tư tưởng về con người lại được hiểu thật đa dạng, phong phú,
trở thành một tư tưởng xuyên suốt, thâm nhập toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh. Vấn đề con người luôn luôn được nhắc đến như một mục tiêu
thiêng liêng, cao cả nhất của sự nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi. Nó
trở thành mục tiêu, lý tưởng, được toả sáng trong từng suy nghĩ, cử chỉ, hành
động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ hệ thống tư tưởng của Người, chúng ta thấy toát lên nội dung quan
niệm về con người như sau:
Khái niệm con người được Hồ Chí Minh sử dụng với nhiều cách gọi
khác nhau, ứng với những điều kiện, hoàn cảnh, khía cạnh khác nhau, song
vẫn giữ lập trường giai cấp, tính cách mạng, khoa học, đạt được sự hài hoà
giữa con người cá nhân và con người xã hội, dân tộc, quốc tế. Trong quan
niệm của Hồ Chí Minh, con người là tổng hợp của các quan hệ xã hội từ hẹp
đến rộng. Người từng khẳng định: “Chữ Người, nghĩa hẹp là gia đình, anh
em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài

13
người” [60, tr644]. Hồ Chí Minh không bao giờ xem xét con người một cách
trừu tượng mà luôn luôn xuất từ hoàn cảnh con người hiện thực cụ thể trong
các quan hệ xã hội với nhiều bình diện, nhiều chiều khác nhau. Đặc biệt ở Hồ
Chí Minh, bên cạnh những khái niệm phổ quát như giai cấp công nhân, giai
cấp vô sản, nhân dân lao động, chúng ta đã thấy xuất hiện thêm các khái niệm
mới: “Người nô lệ mất nước”, “Người cùng khổ”. Theo nhận xét của nhiều
nhà nghiên cứu, đấy là những khái niệm xuất hiện đầy ấn tượng và là một
cách tiếp cận riêng của Hồ Chí Minh trong quan niệm về con người. Có thể
khẳng định: Cách tiếp cận cơ bản nhất của Hồ Chí Minh vẫn là đặt con người
trong mối quan hệ với cộng đồng dân tộc. Bởi vì, hơn bất cứ ai, Hồ Chí Minh
luôn luôn ở trong lòng nhân dân, đập cùng một nhịp tim, chia cùng một mức

sống, mang cùng một truyền thống anh hùng… với nhân dân. Hồ Chí Minh
gắn bó với con người, với nhân dân từ trong khối óc và con tim, trọn vẹn suốt
cuộc đời.
Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã
hội. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn quan niệm con người là một hệ thống cấu trúc
bao gồm tổng hoà nhiều yếu tố hợp thành như: thể xác và tâm hồn, thể lực và
trí tuệ, cái sinh vật và cái xã hội… Con người ai cũng có chỗ hay chỗ dở, ai
cũng có tính tốt tính xấu, có thiện có ác [60, tr72]… Vấn đề là làm sao cho
phần xấu mất dần đi, phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân; con người ta sinh ra,
ai cũng lớn lên, già đi rồi chết; người ta ai cũng muốn sung sướng, mạnh
khoẻ… Cách quan niệm như thế cho phép Hồ Chí Minh đạt tới cái nhìn toàn
diện về con người; là cơ sở để Người hiểu, cảm thông, lo lắng cho con người
do chính con người sáng tạo ra.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Bản chất con người mang tính lịch sử -
xã hội. Đứng vững trên quan điểm duy vật mácxít, Hồ Chí Minh đã biết kết
hợp nhuần nhuyễn các yếu tố truyền thống và hiện đại, cá nhân và cộng đồng,
dân tộc và quốc tế để xem xét, đánh giá đúng đắn về bản chất con người…

14
Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể khái quát: Trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, con người với tư cách là cá nhân, tập thể, cộng đồng hay cả
nhân loại đều là một chỉnh thể thống nhất giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã
hội, mang bản chất xã hội - lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá
trị vật chất và tinh thần.
1.1.2. Khái niệm nhân tố con người
Trong lịch sử, quan niệm về nhân tố con người cũng xuất hiện từ rất
sớm. Do chưa xuất phát từ con người hiện thực, con người hoạt động thực
tiễn nên quan niệm về nhân tố con người trong các hệ thống triết học trước
Mác mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu từng khía cạnh của nhân tố con người
với lập trường duy tâm, thần bí, siêu hình. Tuy mỗi người đều có một sắc thái

riêng, song họ gặp nhau ở tư tưởng khẳng định con người là giá trị cao nhất,
là thước đo của vạn vật, chủ thể duy nhất sáng tạo ra tất cả; nguyên tố người
là tình thương đối với tất cả. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là Protago (490
– 420), Hàn Dũ (765 – 824), Chu Đôn Di (1017 – 1073)…
Tuy chưa đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh nhưng triết học trước Mác
đã có công khai phá khái niệm nhân tố con người ở một số khía cạnh tiêu
biểu, đặt nền tảng cho việc nghiên cứu nhân tố con người ở các giai đoạn tiếp
theo.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác – Lênin đã đem đến một cái nhìn mới,
đúng đắn và toàn diện về nhân tố con người. Xuất phát từ con người hiện
thực, chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: Nhân tố con người là tổng thể các yếu
tố sinh vật và yếu tố xã hội cấu thành nên con người. Con người vừa là động
lực lại vừa là mục tiêu của sự phát triển.
Theo Ăngghen: Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo
đuổi những mục đích tự thân. Khi đánh giá sự khác nhau căn bản giữa lịch sử
phát triển của xã hội với quá trình tiến hoá của tự nhiên, chủ nghĩa Mác –
Lênin chỉ rõ: Trong lịch sử của xã hội, nhân tố hoạt động hoàn toàn chỉ là
những con người có ý thức, hành động, có suy nghĩ, hay có nhiệt tình theo

15
đuổi những mục đích nhất định, vì thế, không có gì xảy ra mà lại không có ý
định tự giác, không có mục đích mong muốn. Những quan điểm này của chủ
nghĩa Mác – Lênin đã đặt cơ sở phương pháp luận cho việc tiếp cận và nghiên
cứu về nhân tố con người.
Với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội, vai trò quyết định của
nhân tố con người ngày càng được khẳng định. Đó chính là lý do mà nhiều
nhà khoa học trên thế giới cũng như Việt Nam quan tâm nghiên cứu về vấn đề
này. Do xuất phát từ những giác độ khác nhau, với những mục tiêu, phương
pháp khác nhau nên có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhân tố con người.
Tựu trung, các quan niệm này thể hiện hai xu hướng chính:

Xu hướng thứ nhất, nhấn mạnh mặt hoạt động của nhân tố con người,
nhấn mạnh sự thể hiện các phẩm chất và đặc trưng bản chất của con người
trong hoạt động có định hướng và biến đổi. Một số nhà khoa học đại biểu cho
xu hướng này là G.A. Emel Janov, L.V. Nicolaeva. O.N. Krutova, N.E.
Zelinsky, E.F. Sulimov…
Xu hướng thứ hai lại nhấn mạnh vào các đặc trưng bản chất cá nhân
của con người được thể hiện trong hoạt động có định hướng tích cực, nhân
đạo. R.G. Janovski, A.K. Uledov, N.M. Berezhnoi… là những đại biểu cho xu
hướng này.
Ở Việt Nam, phương pháp tiếp cận hoạt động – giá trị - nhân cách (Kết
quả nghiên cứu của Chương trình khoa học KX-07 của Giáo sư Phạm Minh
Hạc chủ trì: “Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội”) được lựa chọn làm phương pháp quan trọng để xác định đối
tượng nghiên cứu. Phương pháp này cho phép tiếp cận nhân tố con người như
một hệ thống cấu trúc phức tạp trong quá trình vận động phát triển, bao quát
được những đặc trưng bản chất nói lên con người vừa là chủ thể hoạt động,
chủ thể mang những đặc trưng phẩm chất năng lực, đồng thời là chủ thể tiếp
thu và sáng tạo các giá trị xã hội. Nó cho phép làm nổi bật vai trò chủ thể tự

16
giác, sáng tạo của con người và khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực phát triển xã hội.
Kế thừa sáng tạo các kết quả nghiên cứu trước đây, với phương pháp
tiếp cận hoạt động – giá trị - nhân cách, chúng ta có thể kết luận: Nhân tố con
người là toàn bộ những dấu hiện riêng có, những yếu tố nói lên vai trò của
con người như là chủ thể hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội, với những yếu tố, những tiêu chí về vai trò xã hội, về trí tuệ nhân
cách (năng lực –phẩm chất) của con người
Xét về cấu trúc, nhân tố con người được xác định ở ba phương diện



Nhân tố
con người
1. Hoạt động của con người
2. Tổng hoà những đặc trưng về phẩm chất và năng lực
3. Sự thống nhất của tính cá nhân và tính xã hội

Ba phương diện này thống nhất biện chứng với nhau trong quá trình
vận động phát triển, trong đó “nhân tố hoạt động” đóng vai trò quyết định.
Xét về mặt nội dung, nhân tố con người được xác định như là những
chỉ tiêu về số lượng, chất lượng nói lên khả năng của con người, của cộng
đồng người như là một tiềm năng cần khai thác và phát huy; đó là số lượng
lao động, sức khỏe, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, thái độ lao động,
ý thức xã hội - chính trị của cá nhân, của nguồn lao động, của các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội. Nội dung này chỉ ra những tiêu chí nói lên mức độ, khả
năng sáng tạo của con người trong hệ thống các quan hệ xã hội cũng như
trong tiến trình phát triển của lịch sử mà trong đó con người là chủ thể.
Những kết quả nghiên cứu trên đây là cơ sở để tìm ra một quan niệm
khoa học về nhân tố con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không đưa ra quan niệm cụ thể về nhân tố con người
nhưng thực chất, Người đã đề cập đến nhân tố con người một cách toàn diện
trong hệ thống tư tưởng của mình. Với phương pháp khái quát hoá, đặc biệt

17
với phương pháp tiếp cận hoạt động – giá trị - nhân cách, chúng ta thấy Hồ
Chí Minh đề cập đến nhân tố con người với một số nội dung sau:
Thứ nhất, xét theo phương diện nhân tố con người với tư cách là chủ
thể hoạt động, Hồ Chí Minh luôn coi trọng hoạt động tự giác của con người.
Hồ Chí Minh quan niệm: Con người ta muốn sống thì phải có ăn, mặc, ở, đi
lại, các nhu cầu này được thoả mãn nhờ lao động. Nhờ có lao động sản xuất

mà tư tưởng của con người và chế độ xã hội biến đổi. Trong xã hội, mọi thứ
đều do con người làm ra. Vì vậy, Người đi đến khẳng định: Lao động là
nguồn sống, nguồn hạnh phúc của xã hội, lao động là vinh quang.
Thứ hai, nhân tố con người với tư cách là tổng hoà các phẩm chất, năng
lực của con người. Hồ Chí Minh luôn yêu cầu: Mỗi người phải tu dưỡng, rèn
luyện để vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa chuyên. Đức chính là đạo đức
cách mạng, những phẩm chất tiêu biểu mà Người thường đề cập đó là: Trung
với nước, hiếu với dân; là yêu thương con người; là cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư… Tài trong quan niệm Hồ Chí Minh là năng lực, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ của mỗi người. Đức và tài phải thống nhất, hài hoà, tác động
biện chứng với nhau như Người nhắc nhở: Có đức mà không có tài thì làm
việc gì cũng khó, nhưng có tài mà không có đức đó là kẻ vô dụng…
Nhấn mạnh đến phẩm chất, năng lực - những yếu tố cấu thành nên nhân tố
con người nhưng Hồ Chí Minh luôn lưu ý: Đạo đức cách mạng không chỉ
dừng lại ở suy nghĩ – tư tưởng mà quan trọng hơn là phải thông các hoạt động
thực tiễn, qua phong trào cách mạng để cải tạo thực tiễn.
Thứ ba, nhân tố con người với những tiêu chí về nhân cách, việc giáo
dục, tạo dựng mẫu con người mới được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Vì lẽ
đó, Người sớm khẳng định: Muốn có chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có
những con người XHCN. Đó phải là những con người kiểu mẫu về năng lực,
nhân cách, đóng vai trò quyết định đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Để có được con người mới xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải quan tâm và
đầu tư mạnh mẽ cho công tác giáo dục - đào tạo, đẩy mạnh vận động tuyên

18
truyền để xác lập động cơ, nhu cầu, niềm tin, lý tưởng… qua đó mà nâng cao
năng lực hoạt động của con người.
Như vậy, theo quan niệm Hồ Chí Minh, nhân tố con người là hệ thống
những thuộc tính, những đặc trưng quy định vai trò chủ thể tích cực, chủ
động, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt

hoạt động với tổng hoà các đặc trưng về phẩm chất, năng lực, giá trị xã hội
của con người.
1.1.3. Khái niệm phát huy nhân tố con người
Để làm rõ “phát huy nhân tố con người là gì?”, việc trước tiên chúng ta
cần làm là phải phân biệt khái niệm này với khái niệm “nguồn lực con
người”, “nguồn nhân lực”.
Khi nói đến “nguồn lực con người” và “nguồn nhân lực”, chúng ta
thường bắt gặp một khái niệm phổ quát chung khẳng định đó là tổng hoà các
tiềm năng của con người, tổ chức xã hội có thể khai thác và thu hút vào quá
trình phát triển kinh tế - xã hội. Khái niệm này bao gồm một số tiêu chí sau:
- Là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần,
sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất;
- Là tổng thể sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện
sức mạnh và sự tác động của con người trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội;
- Đó là sự kết hợp thể lực và trí tuệ, cho thấy khả năng sáng tạo, chất
lượng - hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người… Nó
còn là kinh nghiệm sống, đặc biệt là kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con
người, là nhu cầu và thói quen tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình,
của cộng đồng.
- Nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo,
có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo
dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học - công nghệ hiện đại.

19
Phát huy nguồn lực con người là khái niệm nói lên ba phương diện:
Phát triển nguồn nhân lực, sử dụng nguồn nhân lực và nuôi dưỡng môi trường
cho nguồn nhân lực.
Như vậy, nhân tố con người (khái niệm đã nêu ở trên) là cái cốt lõi, đặc
trưng xã hội, là thuộc tính xã hội, giữ vị trí trung tâm trong tiềm năng của
nguồn lực con người. Nhân tố con người phản ánh bản chất xã hội, mặt chất

lượng của nguồn lực con người, nhấn mạnh tính tích cực, tự giác, sáng tạo của
nguồn lực con người trong quan hệ với kinh nghiệm, thói quen, thể lực của
chủ thể.
Trong trường hợp xem xét mối quan hệ với các nhân tố khác thì khái
niệm “nhân tố con người” và “nguồn lực con người” có cùng một nghĩa như
nhau. Chúng đều biểu hiện những đặc trưng thuộc tính cơ bản của con người
như: Nhân tố hoạt động, sống, khả năng tái sinh và tiềm năng vô tận của thể
lực và trí tuệ, phẩm chất và năng lực của con người. Do đó, phát huy nhân tố
con người có thể hiểu như phát huy nguồn lực con người, khi con người trở
thành một điều kiện, một tiềm năng cần phát huy để tạo ra động lực phát triển
xã hội. Nhân tố con người phải trở thành nguồn nhân lực, nguồn lực sinh ra
các nguồn lực khác [49, tr125].
Khi tìm hiểu khái niệm “phát huy nhân tố con người”, nổi lên một số
quan niệm sau đây:
- Nói đến phát huy nhân tố con người là chỉ ra các nguyên nhân, điều
kiện, môi trường, giải pháp cho con người trong các hoạt động cải tạo tự
nhiên và xã hội nhằm đạt hiệu quả cao. Nói đến phát huy nhân tố con người là
nói đến việc phát hiện, sử dụng những tiềm năng sáng tạo của con người như
thể lực, năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn, những truyền thống tốt
đẹp;
- Thực chất của phát huy nhân tố con người là hướng vào mỗi cá nhân,
đề cao tính độc lập tự chủ, đoàn kết, sáng tạo, chăm lo tới đời sống của nhân

20
dân. Hoặc đặt con người vào đúng vị trí sáng tạo của nó, để con người có cơ
hội bộc lộ mình ở nhiều vị trí khác nhau, được cống hiến tối đa;
- Phát huy nhân tố con người phải biểu hiện ở chất lượng cao của
nguồn nhân lực. Sức mạnh con người Việt Nam phải thể hiện thành sức mạnh
đội ngũ nhân lực, trong đó có bộ phận nhân tài, trên nền sức mạnh dân trí với
cốt lõi là nhân cách, nhân phẩm đậm đà bản sắc dân tộc. Nâng cao chất lượng

nhân tố con người thông qua giáo dục và đào tạo nhằm tạo ra động lực phát
triển để tạo nên những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp
xây dựng xã hội mới.
Như vậy, nói đến nhân tố con người là nói đến vai trò chủ thể một quá
trình cải biến xã hội với những tiềm năng về thể lực và trí tuệ, phẩm chất và
năng lực, đóng vai trò là nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển. Nhưng
bản thân những đặc trưng đó chưa đem lại sự biến đổi tích cực, đúng quy luật,
có hiệu quả. Vì thế, vấn đề là phải làm sao để phát huy và biến nó thành động
lực. Phát huy nhân tố con người là một quá trình bao gồm hai mặt: Tích cực
hoá nhân tố con người trên cơ sở không ngừng nâng cao chất lượng nhân tố
con người. Tích cực hoá nhân tố con người là quá trình phát hiện, bồi dưỡng,
sử dụng có hiệu quả tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người. Nâng cao
chất lượng nhân tố con người là hướng vào gia tăng các giá trị về phẩm chất
xã hội: Lý tưởng chính trị, đạo đức, niềm tin… những năng lực tổ chức, quản
lý, nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đây là hai mặt có quan hệ biện chứng
với nhau. Nếu quá trình tích cực hoá nhân tố con người nhằm hiện thực hoá
tiềm năng của chủ thể, tạo nên động lực phát triển thì quá trình nâng cao chất
lượng nhân tố con người lại tạo tiềm năng, chuẩn bị con người cho sự phát
triển xã hội.
Qua những quan niệm trên, chúng ta đi đến khái niệm: Phát huy nhân
tố con người là phát hiện, làm bộc lộ, khai thác, sử dụng, tận dụng những yếu
tố, những quá trình cấu thành nên nhân tố con người.

21
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, Người từng nhắc đến cụm từ
“phát huy nhân tố con người”, song không chỉ ra nội hàm khái niệm về phát
huy nhân tố con người. Tuy nhiên, khái niệm đó được thể hiện trong toàn bộ
hệ thống tư tưởng, trong hành động cách mạng của Người. Phát huy nhân tố
con người thường được Hồ Chí Minh diễn đạt dưới một số hình thức như:

Phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, của cộng đồng dân tộc Việt
Nam; huy động sức mạnh của mỗi con người Việt Nam yêu nước, mỗi một
“con rồng cháu tiên”; phát huy vai trò của cán bộ đảng viên, của các tầng lớp,
giai cấp, các thế hệ già trẻ gái trai…
Từ nhận thức tư tưởng cũng như trong hoạt động thực tiễn, để phát huy
nhân tố con người, Hồ Chí Minh luôn bắt đầu từ hiểu con người, trên cơ sở đó
mà đánh giá đúng đắn về khả năng hoạt động, về tiềm năng sức mạnh, năng
lực, phẩm chất, nhân cách để dùng người và tìm cách phát huy nguồn sức
mạnh to lớn đó. Nói cách khác, phát huy nhân tố con người trong tư tưởng Hồ
Chí Minh chính là phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, của con
người Việt Nam; là sự hiểu biết, đánh giá đúng đắn, cảm thông và tin tưởng
con người, lấy đó làm cơ sở để phát hiện, tạo điều kiện làm bộc lộ, sử dụng,
bồi dưỡng, phát huy những yếu tố cấu thành nên nhân tố con người.
Với cách hiểu như vậy, phát huy nhân tố con người được Hồ Chí Minh
đề cập với một số nội dung sau đây:
- Phát huy nhân tố con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu
của sự nghiệp cách mạng;
- Phát huy nhân tố con người với tư cách là một thực thể thống nhất
giữa phẩm chất và năng lực;
- Biết dùng người để phát huy nhân tố con người;
- Hồ Chí Minh đưa ra những biện pháp để phát huy nhân tố con người
gồm:
+ Có lòng yêu thương vô hạn, sự cảm thông, sự tin tưởng tuyệt đối vào
con người và ý chí đấu tranh để giải phóng con người;

22
+ Có chính sách đúng đắn để phát huy động lực của con người;
+ Xây dựng thể chế, pháp chế đảm bảo cho quyền lợi con người;
+ Phải có chiến lược giáo dục đúng đắn, phù hợp để bồi dưỡng, phát
huy nhân tố con người…

Những nội dung này sẽ được làm rõ trong phần tiếp theo của luận văn.
1.2. Phát huy nhân tố con ngƣời trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

1.2.1. Phát huy nhân tố con người với tư cách vừa là động lực, vừa
là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Đây là tư tưởng chủ đạo, bao trùm và xuyên suốt, vừa có ý nghĩa như
tiền đề xuất phát đồng thời lại là mục đích trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh. Nhân tố con người là vốn quý nhất, là động lực vĩ đại, nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; dân là vốn quý nhất, có dân là có tất
cả nên phải bắt đầu từ nhân tố con người, vì con người, cho con người và trở
về với con người.
Một là, nhân tố con người – nhân tố quý nhất, động lực quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nhân tố con người là vốn quý nhất, quyết định thắng lợi được Hồ Chí
Minh đề cập ở ba cấp độ là: Nhân dân nói chung; công nhân, nông dân, trí
thức, bộ đội, cán bộ; mỗi một con người cụ thể - tức là nhân dân lao động (trừ
bọn Việt gian, phản động). Hồ Chí Minh nói: “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong
bầu trời không gì quý bằng nhân dân” [63, tr276]; “cán bộ là gốc của công
việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” [60,
tr240]; “Chúng ta phải biết quý trọng con người, nhất là công nhân, vì công
nhân là vốn quý nhất của xã hội” [64, tr373]…“Phải biết quý trọng sức người
vì sức người là vốn quý nhất của ta” [65, tr313].
Tư tưởng “Dân vi bản”, “Dân vi quý” đã được bàn nhiều trong lịch sử
mà tiêu biểu nhất là trong Nho giáo. Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng “Dân
vi bản”, “Dân vi quý” đã thể hiện một sắc thái mới, với tư thế mới. Nói đến

23
“Dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nói đến toàn thể nhân dân, nói đến dân
chủ. Điều này được thể hiện rõ nét trong tác phẩm “Dân vận”, Người viết:
“Nước ta là nước dân chủ.

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự ngiệp kháng
chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã tới chính phủ trung
ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [60, tr698].
Như vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn đặt nhân dân vào địa vị cao nhất, địa
vị làm chủ trong những vấn đề quan trọng nhất của cách mạng và xã hội: Lợi
ích, quyền hạn, công việc, trách nhiệm, chính quyền, Đoàn thể (tức là Đảng),
quyền hành và lực lượng đều nhằm vào mục tiêu: Vì dân, của dân, do dân, ở
nơi dân. Nó xác định vai trò dân chủ: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra. Dân vừa là chủ nhưng dân vừa thực hiện công việc làm chủ, vừa bị lãnh
đạo, vừa là chủ thể, vừa là khách thể, vừa là lực lượng, động lực vừa là mục
tiêu của cách mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng đời sống mới, tiến lên xã hội chủ nghĩa
đều phải bắt đầu từ vốn con người, từ việc phát huy nhân tố con người. Nếu
khinh dân, xem khinh việc sử dụng và phát huy nhân tố con người sẽ là một
sai lầm rất to, rất có hại, có quan hệ đến thành hay bại của sự nghiệp cách
mạng.
Vai trò nhân tố con người thể hiện tập trung ở vai trò quần chúng nhân
dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử chứ không phải "vài ba cá nhân
anh hùng nào"; thông qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất: Lao động sản
xuất, đấu tranh chính trị - xã hội và sáng tạo các giá trị văn hóa - tinh thần.
Hồ Chí Minh nói: "Vì chúng ta quên một lẽ rất đơn giản dễ hiểu: tức là
vô luận việc gì, đều do người làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả"
[60, tr241]. "Tất cả của cải vật chất trong xã hội đều do công nhân và nông

24
dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống
còn phát triển" [62, tr203]; quần chúng còn là người sáng tác nữa (các giá trị

văn hóa - tinh thần). Hồ Chí Minh giải thích cơ sở khoa học cho vai trò đó
xuất phát từ chỗ: "lực lượng dân chúng nhiều vô cùng … dân chúng biết giải
quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người
tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra" [60, tr295]. "Là vì công
nông bị áp bức nặng hơn, là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn
hết, là vì công nông là chân không tay rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp
khổ, nếu được thì được cả thế giới" [57, tr266]. "Vì chủ nghĩa xã hội chỉ có
thể xây dựng được với sự giác ngộ lao động sáng tạo của hàng chục triệu
người" [63, tr495].
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân tố con người đóng vai trò
là động lực to lớn, quyết định đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng “Dân là vốn quý nhất, có dân là có tất cả” cho thấy trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, nhân tố con người là nguồn lực quan trọng nhất, nguồn lực của
mọi nguồn lực. Vai trò ấy được Người kế thừa từ tư tưởng: “Chở thuyền cũng
là dân, lật thuyền cũng là dân” để rồi khái quát ở tầm chân lý: “Dễ trăm lần
không dân cũng chịu; Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Hai là, trong quá trình giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa động lực
và mục tiêu, Hồ Chí Minh chú ý đến mức độ mục tiêu đạt được trong điều kiện,
cụ thể của từng giai đoạn cách mạng.
Mục tiêu tổng quát là: Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng
con người. Mục tiêu đó biểu hiện thành các mục tiêu cụ thể:
Giai đoạn trước khi giành được chính quyền thì mục tiêu cao nhất là độc
lập dân tộc. "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy " [58,
tr198]. Sau khi giành được chính quyền, thì mục tiêu: Ăn, mặc, ở, học hành lại
được ưu tiên hơn. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn
no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: "Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có
mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành" [59, tr152]. Sau 1954,

×