Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp hiện nay theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.98 KB, 79 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HÀ NỘI



LƯƠNG THỊ BÍCH NGỌC

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



LƯƠNG THỊ BÍCH NGỌC

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

Luận văn thạc sĩ Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 27

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN LINH KHIẾU



HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC

Trang
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

4

2. Tình hình nghiên cứu

5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

7

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

7

6. Dự kiến đóng góp của đề tài


7

7. Kết cấu của đề tài

8
Phần nội dung

Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức cho

9

thanh niên – sinh viên
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức và vai trò đạo đức trong 9
đời sống xã hội
1.1.1 Khái niệm về đạo đức

9

1.1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trị đạo đức

12

1.1.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của thanh niên – sinh 14
viên
1.1.3.1 Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội, của dân tộc

14

1.1.3.2. Thanh niên là lực lượng quyết định vận mệnh của dân tộc, sự phát


16

triển của đất nước
1.1.3.3. Sự phát triển của xã hội phụ thuộc phần lớn vào thanh niên

18

1.1.3.4. Đoàn Thanh niên là cánh tay đắc lực, đội hậu bị của Đảng, đồng thời 21
là người giáo dục dìu dắt thiếu niên, nhi đồng
1. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên –

23

sinh viên
1.2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh

1

23


1.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cho

29

thanh niên – sinh viên

31

1.2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực, nguyên tắc,

phương pháp giáo dục đạo đức cho thanh niên – sinh viên
1.2.3.1. Những chuẩn mực giáo dục đạo đức cho thanh niên – sinh viên

31

1.2.3.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp giáo dục

32

đạo đức cho thanh niên – sinh viên
Chương 2 : Thực trạng đạo đức, giáo dục đạo đức cho sinh viên trường 38
Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên hiện nay và một số giải
pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho
sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1 Thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học

38

Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên hiện nay
2.1.1 Vài nét khái quát về Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên

38

2.1.2 Sự cần thiết của việc giáo dục rèn luyện đạo đức cho sinh viên Trường

39

Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
2.1.3 Đặc điểm của sinh viên và thực trạng đạo đức của sinh viên Trường


42

Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
2.1.4 Thực trạng công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên ở trường đại học

46

Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên hiện nay
2.1.5. Nguyên nhân của những hạn chế

51

2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả 53
của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên ở trường đại học Kỹ thuật Công
nghiệp Thái Nguyên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
2.2.1. Giải pháp nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc giáo dục đạo 53
đức đối với sinh viên trường đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

2


2.2.2. Giải pháp về nội dung giáo dục đạo đức đối với sinh viên trường Đại 55
học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2.3. Giải pháp về hình thức, phương pháp, phương tiện và điều kiện giáo 59
dục đối với sinh viên trường đại học Kỹ thuật Công ngiệp Thái Nguyên hiện
nay
2.2.4. Giải pháp kết hợp giữa nhà trường, các tổ chức xã hội và gia đình 61
trong việc nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối sống đối với sinh
viên trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên

2.2.5. Giải pháp đối với người học

63

2.3 Giáo dục đạo đức đối với sinh viên trường đại học Kỹ thuật Công nghiệp 63
Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Phần kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phần phụ lục

3

67
69
73


KÝ HIỆU VIẾT TẮT
CNH,HĐH

: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

ĐH KTCN

: Đại học Kỹ thuật Công nghiệp


HSV

: Hội sinh viên

Nxb

: Nhà xuất bản

SV

: Sinh viên

TB

: Trung Bình

TBK

: Trung bình khá

TN

: Thanh niên

TSSV

: Tổng số sinh viên

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa

XS

: Xuất sắc


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh là nhà văn hóa lớn đồng thời cũng là nhà giáo dục vĩ đại của
dân tộc. Người là tấm gương sáng cho muôn đời sau học tập và noi theo. Hồ Chí
Minh ln đánh giá cao vai trị, vị trí, khả năng của thanh niên đối với sự nghiệp
cách mạng nước nhà. Người cho rằng: thanh niên là người chủ tương lai của nước
nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên. Vì thế,
trước lúc đi xa Người không quên căn dặn Đảng ta phải luôn chú trọng công tác
giáo dục, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ về mọi mặt, coi đó là việc làm thường xuyên và
cần thiết.
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau Hồ Chí Minh đặt
vấn đề bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng lên hàng đầu. Theo Người, để
xứng đáng là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh thì phẩm chất hàng
đầu cần có ở thanh niên là đạo đức cách mạng, có đạo đức cách mạng mới làm tấm
gương sáng gương lôi cuốn quần chúng nhân dân. Trong bản “Di Chúc” Hồ Chí
Minh lưu ý: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên,
đào tạo họ thành những lớp người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa
chuyên. Lời di huấn của người đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, Đảng ta ln
coi cơng tác thanh niên và vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên là vấn đề sống còn
của dân tộc, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi nhanh chóng và sâu
sắc. Q trình tồn cầu hóa đã và đang trở thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ,

tác động đến mọi quốc gia, dân tộc, gia đình và cá nhân. Thanh niên Việt Nam,
trong đó sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên cũng là một
trong những đối tượng chịu ảnh hưởng khá mạnh của xu thế này. Trong những năm
gần đây, công tác giáo dục đạo đức đối với sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Công
nghiệp Thái Nguyên đã đạt được nhiều kết quả khích lệ, nhưng bên cạnh đó vẫn còn
rất nhiều hạn chế cần phải sớm khắc phục.

4


Trước tình hình đó, vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên nói chung
và sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Cơng nghiệp Thái Ngun nói riêng ngày
càng trở nên cấp bách. Với lý do trên, tôi chọn “Giáo dục đạo đức cho sinh viên
trường đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên hiện nay theo tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ xưa đến nay, thanh niên ln được coi là rường cột của đất nước, tương
lai của dân tộc và hạnh phúc của mỗi gia đình. Bởi vậy “thanh niên” đã được nhiều
tác giả nghiên cứu, tìm hiểu ở các góc độ khác nhau cụ thể như:
Tác giả Nguyễn Phương Hồng với “Thanh niên, học sinh với sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1997; Tác giả
Văn Lam với “Bồi dưỡng đạo đức cộng sản cho thanh niên” Nxb Thanh niên, HN,
1985; Tác giả Võ Minh Tuấn với “Giáo dục ý thức đạo đức cho sinh viên Việt Nam
hiện nay” Nxb Thanh niên, HN, 2005; Tác giả Dương Tự Đam với “Thanh niên
giáo dục và phát triển” Nxb Thanh niên, Hà Nội,2007; Tác giả Văn Tùng với “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và cơng tác thanh niên” Nxb Thanh niên, Hà
Nội,2006; Các tác giả Quang Vinh, Trần Kim Duyên, Văn Song với “Hồ Chí Minh
về giáo dục và tổ chức thanh niên” Nxb Thanh niên, Hà Nội,2005…
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” do PGS.TS Thành Duy chủ biên. Đây là cơng
trình nghiên cứu vừa tổng hợp vừa có tính hệ thống. Cơng trình nằm trong chương trình

nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh “KX 02.08”.
- Năm 1985 Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức cuộc hội thảo khoa học Bác Hồ
với công tác thanh niên. Một số tham luận đó đã được chỉnh lý, biên tập và xuất bản
thành sách Bác Hồ với sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ trẻ, Nxb Thanh niên, Hà nội.
- Mai Văn Bình (1991), Một số vấn đề thời đại và đạo đức, Trường đại học
sư phạm I Hà Nội.
- Nguyễn Văn Truy (chủ biên) (1993), Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Khắc Chương, (1995) Một số vấn đề về giáo dục đạo đức và giảng
dạy đạo đức ở THPT, Vụ Giáo viên- Bộ Giáo Dục.

5


- Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và đạo Đức, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Trần Hậu Khiêm (1995), Hỏi đáp về đạo đức học, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự nghiệp giáo dục (1997), Kỷ yếu hội thảo Khoa
học khu vực phía Nam - về nghiên cứu giáo dục phía Nam thuộc viện Khoa học
giáo dục Việt Nam xuất bản.
- Phạm Minh Hạc (1999), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
- Phạm Đình Nghiệp, (2000) Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ
Việt Nam, Nxb thanh niên, Hà Nội.
- Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc, (2003) Mấy vấn đề về đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
nội.
Hầu hết các tác giả đã đề cập tới các vấn đề như: vai trò, nhiệm vụ của thanh
niên trong giai đoạn hiện nay; giáo dục đạo đức cộng sản cho thanh niên; những
nguyên tắc, phương pháp xây dựng, phát triển ý thức đạo đức mới cho sinh viên;

thanh niên với các vấn đề xã hội và phát triển; công tác tổ chức giáo dục cho thanh
niên… Bên cạnh đó cịn có nhiều giáo trình dùng trong các trường Đại học, cao
đẳng, các sách tham khảo, bài viết đăng trên các tạp chí như: tạp chí Giáo dục, Tạp
chí Cộng sản, tạp chí Thanh niên… quan tâm đề cập đến vấn đề này.
Mặc dù có nhiều tác giả nghiên cứu về “thanh niên” ở những phương diện
khác nhau song về vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên các tác giả
chưa nghiên cứu một cách chuyên biệt, cụ thể.
Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi,
xã hội ngày càng phát triển bởi vậy, vấn đề thanh niên và giáo dục đạo đức cho
thanh niên nói chung và sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng cần được
tiếp tục đi sâu nghiên cứu.

6


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở, nghiên cứu thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên
Trường Đại học học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên hiện nay, đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên
theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên,
đạo đức và giáo dục đạo đức cho thanh niên - sinh viên
- Tìm hiểu thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên ở Trường
Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên theo
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên, đạo đức, giáo
dục đạo đức cho thanh niên - sinh viên, thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho
sinh viên trường đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
thanh niên, đạo đức, giáo dục đạo đức cho thanh niên - sinh viên; luận văn chỉ tìm
hiểu thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Kỹ thuật
Công nghiệp Thái Nguyên hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm, đường lối của Đảng về thanh niên - sinh viên, đạo đức và giáo dục đạo
đức.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chú trọng các phương pháp

7


phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp lơgíc và phương pháp lịch sử, kết hợp
lơgíc với lịch sử, phương pháp điều tra xã hội học.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
- Góp phần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên, đạo đức, giáo
dục đạo đức cho thanh niên - sinh viên.
- Chỉ rõ thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại
học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức cho sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp Thái Nguyên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương và 5 tiết


8


CHƢƠNG I
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO THANH NIÊN - SINH VIÊN
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức và vai trò đạo đức trong đời sống
xã hội
1.1.1 Khái niệm về đạo đức
Khi đề cập đến khái niệm “đạo đức” trong lịch sử đã có nhiều quan niệm
khác nhau:
Ở phương tây, “đạo đức” theo tiếng la tinh là mos, moris, nghĩa là phong tục
tập quán, tiếng Hy Lạp đạo đức là ethicos, cũng có nghĩa là thói quen, tập quán.
Như vậy, theo nghĩa gốc của khái niệm khi nói đến đạo đức là nói đến những thói
quen, tập quán sinh hoạt và ứng xử của con người trong cộng đồng.
Ở phương Đông, trong các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại (Khổng Tử, Mặc tử, Mạnh Tử…) thì “đạo” có nghĩa là con đường, đường đi, là
đường sống của con người trong xã hội. “Đức” dùng để nói đến nhân đức, nhân tính
và đức là biểu hiện, nguyên tắc, luận lý của đạo. Theo đó, đạo đức chính là những
yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: “Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội, là tập hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhằm
điều chỉnh đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ
với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức
mạnh của dư luận”[17,tr.8]. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt bao
gồm hệ thống những quan điểm, quan niệm, quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội.
Nó ra đời, tồn tại và biến đổi theo yêu cầu của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ
thể, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích,
hạnh phúc của xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng khái niệm “đạo đức” theo cả nghĩa rộng và

nghĩa hẹp:
Theo nghĩa rộng: đạo đức là một hình thái ý thức xã hội dùng để điều chỉnh
hành vi của con người cho phù hợp với lợi ích hạnh phúc và làm giàu tính nhân văn
trong quan hệ xã hội.

9


Theo nghĩa hẹp: đạo đức là những luân lí, chuẩn mực, quy tắc ứng xử trong
quan hệ giữa con người với con người, công việc, bản thân, với thiên nhiên và môi
trường sống.
Đạo đức là một phạm trù rất rộng được biểu hiện ở mọi mặt của đời sống xã
hội những với nghĩa thông thường nhất đạo đức được biểu hiện là tinh thần và hành
động vì người khác, vì nhân dân, vì xã hội, là tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ
người khác.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân
tộc Việt Nam được hình thành trong trường kỳ lịch sử, đồng thời kế thừa lịch sử tư
tưởng đạo đức ở Phương Đơng, Phương Tây, tinh hoa văn hóa nhân loại đặc biệt là
tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Với tư duy độc lập, sáng
tạo Hồ Chí Minh xuất phát từ thực tiễn Việt Nam đã kế thừa có chọn lọc, thâu hóa
những giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới phù hợp
với yêu cầu cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Người đã làm nên cuộc cách
mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam bởi từ Hồ Chí Minh nền đạo đứcViệt Nam
đã mang bản chất mới – nền đạo đức mới đạo đức cách mạng.
Đạo đức của người khác hẳn với các kiểu đạo đức cũ của các giai cấp thống
trị, áp bức bóc lột của nhân dân lao động, xóa bỏ những chuẩn mực đạo đức mang
tính cổ hủ, lạc hậu hết sức hà khắc của chế độ phong kiến; trái ngược với đạo đức cá
nhân chủ nghĩa, ích kỉ cực đoan của giai cấp tư sản, lại càng xa lạ với đạo đức tôn
giáo luôn khuyên con người an phận, cam chịu trên trần tục để hướng về cuộc sống
tốt đẹp nơi “thiên đàng”. Điều này đã được Hồ Chí Minh nói rõ: “Có người cho đạo

đức cũ và đạo đức mới khơng có gì khác nhau, nói như vậy là lầm to, đạo đức cũ và
đạo đức mới khác nhâu nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân
chổng lên trời, đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu
ngẩng lên trời”[25,tr.320]. Người cịn nói: “Đạo đức đó khơng phải là đạo đức thủ
cựu, nó là đạo đức mới đạo đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng cá nhân mà vì
lợi ích chung của Đảng, của dân tộc và của loài người”[24, tr.252].
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Hồ Chí Minh đề xướng và cùng với
Đảng dày công xây dựng, bồi đắp là đạo đức cách mạng mang bản chất giai cấp
công nhân, kết hợp với những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa
đạo đức nhân loại vận động và phát triển cùng thực tiễn cách mạng Việt Nam, trở
thành vũ khí mạnh mẽ của Đảng và dân tộc ta trong cơng cuộc đấu tranh vì độc lập
dân tộc, CNXH.

10


Tiêu chí mà Hồ Chí Minh dùng để đánh giá đạo đức con người là ở hành
động, ở việc làm, ở cách đối nhân xử thế. Bởi vậy, đạo đức phải được xem xét trong
3 mối quan hệ cơ bản: với mình, với người và với cơng việc. Trong các quan hệ đó
chính hành động của con người đã hình thành nên những hành vi, chuẩn mực đạo
đức xã hội. Đạo đức là ở chỗ mình có nghiêm khắc với chính bản thân hay khơng?
Thái độ của mình đối với ông bà, bố mẹ, anh chị, em, đồng nghiệp, với Đảng, với
Nhà nước, quần chúng , kẻ thù…như thế nào? Có hết lịng, tồn tâm, tồn ý đối với
cơng việc hay khơng? Trong thư gửi đồng chí Hồng Mai - Giám đốc Sở công an
Khu XII, Người viết:
Tư cách người cơng an cách mạng là:
Đối với tự mình, phải cần, kiệm, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.

Đối với cơng việc, phải tận tụy.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo[24, tr.406-407].
Tất cả những hành động đó xác định đạo đức của mọi người, đạo đức không
phải chỉ những lý tưởng cao xa mà còn là thái độ, hành vi, việc làm cụ thể của mỗi
người trong cuộc sống, linh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu hàng ngày. Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm tới đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Trong suốt 24
năm trên cương vị Chủ tịch nước, Người ln kiên trì việc giáo dục đạo đức mới,
đạo đức cách mạng cho người cán bộ, đảng viên nhằm ngăn chặn, khắc phục những
hiện tượng tha hóa có thể hoặc đã xảy ra, nhất là để chống lại những khuynh hướng
sai lệch về quyền lực (quan liêu, lạm dụng quyền lực), các tệ nạn có thể trở thành
nguy cơ làm sụp đổ sự nghiệp của một người, thậm chí của cả một Đảng.
Hồ Chí Minh đã nêu những nội dung, những chuẩn mực chung có ý nghĩa cơ
bản và có tính phổ cập đối với mọi người, mọi tầng lớp, đồng thời Người cũng chỉ
rõ những chuẩn mực cụ thể đối với từng tầng lớp như: công nhân, nông dân, thanh
niên, phụ nữ, thiếu niên, nhi đồng, bộ đội, công an … Song đối tượng Người chú ý
nhiều nhất là đạo đức của người cách mạng, người cán bộ, đảng viên.
Hồ Chí Minh xem đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như
gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Người cán bộ đảng viên càng cần phải
có đạo đức cách mạng. Vì “khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân” [24, tr.253]. Theo Người, lãnh đạo không phải là ra lệnh mà
chủ yếu bằng lôi kéo, thuyết phục. Để lôi kéo thuyết phục con người, trước hết phải

11


từ cái tâm, cái đức của con người, phải miệng nói, tay làm, phải đầu tàu gương mẫu.
Người dạy muốn hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân thì cán bộ đảng viên phải mực
thước, phải “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ”[26, tr.568].
Hồ Chí Minh cho rằng lấy đạo đức làm gốc, khơng có nghĩa là tuyệt đối hóa
mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, “hồng” và “chuyên” phải

kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đơi, khơng thể có mặt này, thiếu mặt kia.
Nói chuyện tại Đại hội SV Việt Nam lần thứ II, Người cho rằng: “Thanh niên phải
có đức, có tài. Có tài mà khơng có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi
nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những khơng làm được gì ích lợi cho xã hội, mà
cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài ví như ơng Bụt khơng làm
hại gì, nhưng cũng khơng lợi gì cho lồi người”[28, tr.172]. Người thực sự có đức
thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để
hồn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là những quy tắc, chuẩn mực,
nguyên tắc rèn luyện tu dưỡng đạo đức do Hồ Chí Minh đề ra được xã hội thừa
nhận dùng làm nguyên tắc điều chỉnh quan hệ giữa người với người trong suốt q
trình xây dựng, hồn thiện con người mới – con người xã hội chủ nghĩa.
1.1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trị đạo đức
Đạo đức là một hiện tượng phổ biến trong xã hội, tồn tại một cách tất yếu
khách quan nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi, quan hệ ứng xử của con người với
nhau trong xã hội. Bởi thế, vai trò của đạo đức từ sớm đã được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm tới.
Kế thừa quan niệm của các bậc “tiền bối”, Hồ Chí Minh xem xét vai trò của
đạo đức được thể hiện trong cả xã hội và đối với con người.
Trong xã hội: Hồ Chí Minh lấy đạo đức làm tiêu chí chung trong thang giá trị
để phân loại con người. Người viết: “Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác
nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là
người cao thượng”[26, tr.568]. Bác không dựa vào chức vụ, thu nhập để đánh giá,
tôn vinh con người mà dựa chủ yếu vào đạo đức bởi khi đánh giá, xem xét một con
người không chỉ dựa vào trình độ, năng lực mà phải căn cứ vào hành vi đạo đức họ
thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi. Hồ Chí Minh dùng hành vi đạo đức làm tiêu chí để
đánh giá và phân loại con người, Người khẳng định: “Trên quả đất có hàng mn
triệu người, song số người ấy có thể chia thành hai hạng người thiện và người
ác”[24, tr.643]. Hồ Chí Minh lấy đạo đức làm trung tâm để đánh giá phân loại con
12



người vì đạo đức giữ vai trị rất quan trọng trong đời sống xã hội, đạo đức thuộc ý
thức xã hội và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội, các chuẩn mực đạo đức được hình
thành, thay đổi cùng với sự thay đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội. Nhưng đạo
đức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại, tham gia cải biến tồn tại xã hội, ảnh
hưởng mạnh mẽ tới sự nghiệp cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Đạo đức tham gia vào mọi mặt của đời sống xã hội, điều chỉnh xã hội một
cách toàn diện về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, là động cơ thôi thúc
con người chống lại những cái ác cái xấu đồng thời giữ gìn, phát triển những cái tốt,
cái thiện góp phần ổn định xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực thì đạo đức cịn
những tiêu cực như tính bảo thủ, trì trệ làm xã hội kém phát triển được cần được
khắc phục.
Đối với con người, nhất là đối với người cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức
cách mạng là gốc, là nền tảng, là ngọn nguồn của sức mạnh. Người viết: “Cũng như
sông thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn, cây phải có gốc,
khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì
dù tài giỏi đến mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng dân
tộc, giải phóng cho lồi người là cơng việc to tát, mà tự mình khơng có đạo đức
khơng có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì”[24, tr.252].
Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là ngọn nguồn của sức mạnh vì theo Người,
làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là sự nghiệp vẻ vang nhưng nó
cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ, sức có
mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang, địi hỏi sự phấn đấu
khơng ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ, việc chăm lo cái gốc đó phải là cơng việc
thường xun của tồn Đảng, tồn dân và tồn xã hội.
Đặc biệt hơn cả Hồ Chí Minh lấy đức làm gốc nhưng khơng tuyệt đối hóa mặt
đức coi nhẹ mặt tài mà có sự kết hợp hài hòa giữa đức với tài, hồng với chuyên,
phẩm chất với năng lực. Người luôn quan tâm giáo dục cho cán bộ, Đảng viên, quần

chúng về tất cả mọi mặt “đức – trí – thể - mỹ” nhằm đào tạo những con người toàn
diện phục vụ cho cách mạng, phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
xây dựng nước nhà ngày càng giàu mạnh văn minh.
Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm về đạo đức góp phần làm phong phú thêm kho
tàng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, có giá trị to lớn khơng chỉ đối với Việt Nam
mà với toàn thể nhân loại tiến bộ trên thế giới.
13


1.1.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của thanh niên – sinh viên
1.1.3.1 Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội, của dân tộc
Hồ Chí Minh là người đã từng hoạt động trong các phòng trào thanh niên ngay
từ khi còn rất trẻ, lại tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lênin sớm, từng tham gia hội
quốc tế thanh niên Cộng sản, là người trực tiếp sáng lập và lãnh đạo tổ chức thanh
niên tiến bộ ở nước ta, là chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, chính vì vậy Người đã nhìn nhận,
đánh giá một cách rất nhân hậu, khách quan, thực tiễn và khoa học về vị trí, vai trị
của thanh niên trong tiến trình lịch sử của dân tộc, nhất là trong cuộc đấu tranh
giành độc lập tự do, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng CNXH.
Từ những năm 40 của Thập kỷ 20, Hồ Chí Minh khẳng định muốn thức tỉnh dân
tộc, phải thực tỉnh thanh niên: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ
tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”[14, tr.94]. Người vô cùng lo lắng cho tiến
đồ cách mạng trước thực trạng của thanh niên chưa được tổ chức, chưa được giáo
dục:
“Thế thì thanh niên của ta đang làm gì Nói ra thì buồn, buồn lắm: Họ khơng làm
gì cả. Những thanh niên khơng có phương tiện thì khơng dám rời q, cịn những kẻ
đã xuất dương thì chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn tính tị mị của tuổi trẻ mà thơi. Hởi
Đơng Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất nếu đám thanh niên của Người
khơng hồi sinh”[21, tr132-133].
Từ sự nhìn nhận đó, Hồ Chí Minh quyết tâm thức tỉnh, giác ngộ, tổ chức giáo
dục thanh niên đưa thanh niên bước vào cuộc đấu tranh cách mạng. Người khẳng

định:
“Thanh niên là một bộ phận của dân tộc. Dân tọc bị nô lệ thì thanh niên cũng bị
nơ lê. Dân tộc được giải phóng thì thanh niên mới được tự do. Nước nhà thinh hay
suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên, đặc biệt là phải rèn luyện cho
thanh niên những nhân cách đạo đức, coi đó là phẩm chất tiêu biểu nhất, là “cái
gốc” làm nên nhân cách con người. Vì vậy việc xây dựng con người mới nói chung,
các thế hệ thanh niên nói riêng là yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng”[30,
tr.75].

14


Ngay từ ngày nền độc lập còn non trẻ, Hồ Chí Minh đã phát động một cuộc cách
mạng triệt để trong lĩnh vực đạo đức. Để trở thành người cách mạng, mỗi thanh niên
phải rèn luyện đạo đức cách mạng, phải đấu tranh bền bỉ hàng ngày mà phát triển và
củng cố đạo đức ấy, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong.
Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh đạo đức cách mạng cho thanh niên: Là chủ nghĩa
tập thể, nó phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân. Chí cơng vơ tư cũng là
để xây dựng chủ nghĩa tập thể, để tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân. Đó là u cầu quan
trọng trong q trình xây dựng đạo đức mới, bởi vì lịng minhg chỉ biết vì Đảng, vì
tổ quốc, vì đống bào thì mình sẽ tiến đến chí cơng vơ tư. Người quan niệm: “Thiện”
nghĩa là tốt đẹp vẻ vang, là phục vụ lợi ích cho nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ
Tổ quốc, phụng sự nhân dân, chí cơng vơ tư, cần, kiệm, liêm ,chính. “Ác” là khơng
lo cho lợi ích chung của Nhà nước, của dân tộc, quan liêu mệnh lệnh, tham ô lười
biếng, Như vậy, theo Người phẩm chất thanh niên con người dưới chế độ mới gồm
cả đức và tài, đức gắn với tài, đức với tài phải xuyên thấm, quện chặt vào nhau và
thống nhất với nhau trong đó đức là gốc. Hồ Chí Minh thường gọi “bậc tài đức”,
“kẻ hiền năng”, nghĩa là phải có đức, có tài thì mới phụng sự được Tổ quốc, phụng
sự được nhân dân. Đức tài luôn thống nhất trên cơ sở của đức và tài là cái nền tảng

cho tài năng nảy nở và phát triển. Người không đặt vấn đề mặt nào quan trọng hơn
mặt nào, vấn đề là ở chỗ vai trị, vị trí mỗi yếu tố đó trong phẩm chất con người.
Đạo đức và tài năng là hai mặt không thể tách rời nhau trong phẩm chất của con
người. Đạo đức chỉ có ý nghĩa khi nó dẫn đến tài năng, thông qua tài năng mà bộc
lộ. Tài năng chỉ có tác dụng tích cực khi nó đặt trên nền tảng của đạo đức, phục vụ
cho mục tiêu phấn đấu của đạo đức. Trong nhiều lần và ở các thời điểm khác nhau,
khi nói chuyện với thanh niên, Người thường ân cần nhắc nhở thanh niên đấu tranh
khắc phục những nhược điểm như ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá
nhân, tự cao, tự đại, bệnh anh hùng chủ nghĩa.
Ngày nay, khi đất nước hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất đi lên xây
dựng CNXH, thực hiên cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) chúng ta phải
nhận thức sâu sắc tầm nhìn xa trong rộng và sự tin cậy của Người đối với thế hệ trẻ.

15


Người từng nói: Thanh niên là người chỉ tương lai của nước nhà. Nước nhà
thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên. Thanh niên muốn làm
chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng
của mình phải làm việc chuẩn bị cho cái tương lai đó.
1.1.3.2. Thanh niên là lực lượng quyết định vận mệnh của dân tộc, sự phát
triển của đất nước
Hồ Chí Minh sớm nhận thấy tiềm năng to lớn của thanh niên trong các cuộc
đấu tranh cách mạng và sự nghiệp phát triển của xã hội. Thanh niên có ưu thế là trẻ,
khỏe, chiếm số lượng đơng trong xã hội, hăng hái nhiệt tình, nhanh nhẹn, giàu ước
mơ, đức hi sinh. Thanh niên tiêu biểu cho sức sống, sự phát triển của một dân tộc
nếu được chăm sóc, giáo dục, rèn luyện, dìu dắt đúng hướng thì họ có khả năng
“dời non lấp bể” trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh ln đặt niềm tin, kỳ vọng vào thanh niên. Người xem vận
mệnh dân tộc phụ thuộc chặt chẽ vào tầng lớp thanh niên. Từ những năm 20 của thế

kỷ XX, trong thời gian hoạt động ở Pháp Người đã viết nhiều bài báo tố cáo tội ác
của thực dân Pháp gây ra ở Đông Dương và các nước thuộc địa, phụ thuộc. Người
vạch trần hậu quả của chính sách cai trị do thực dân Pháp thi hành ở Đơng Dương,
đó chính là chính sách văn hóa nô dịch tàn tạ, mê muội thế hệ trẻ Việt Nam. Trong
tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925 Người nêu rõ: “Hỡi
Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất nếu đám thanh niên già cỗi của
Người không sớm được hồi sinh”[12, tr.133]. Theo Người. muốn giành được độc
lập dân tộc thì phải giác ngộ, hướng cuộc đấu tranh của quần chúng đi theo quỹ đạo
của cuộc cách mạng vô sản, trước hết phải giác ngộ thanh niên từ thức tỉnh thanh
niên tới thức tỉnh dân tộc. Thự hiện tư tưởng đó ngay khi tới Quảng Châu (1924)
Hồ Chí Minh trực tiếp gặp gỡ các thanh niên yêu nước trong nhòm “Tâm tâm xã”
và tổ chức ra nhóm cách mạng đầu tiên – Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
nhằm quy tụ tất cả những thanh niên Việt Nam yêu nước, đầy nhiệt huyết vào trong
một tổ chức, giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin giúp họ hiểu được vì sao phải làm
cách mạng và làm cách mạng như thế nào. Kết thúc khoa học các hội viên được đưa
về trong nước làm nhiệm vụ tuyên truyền, giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin xây
16


dựng cơ sở cách mạng và lãnh đạo quần chúng đáu tranh. Đến cuối năm 1928
Hooin Việt Nam cách mạng thanh niên đề ra chủ trương “vơ sản hóa” đưa hội viên
của mình vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền cùng lao động với cơng nhân phát
triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng, từ tự phát chuyển sang tự giác, vươn
lên trở thành lực lượng chính trị độc lập, giác ngộ và đi theo con đường cách mạng
vô sản, làm phá sản mọi tư tưởng của chủ nghĩa cải lương, đẩy lùi khuynh hướng
dân chủ tư sản của tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng. Hội đã giáo dục, rèn luyện
được các hội viên, chiến sĩ cách mạng chân chính làm nịng cốt cho việc thành lập
Đảng sau này, làm tròn nhiệm vụ thức tỉnh dân tộc trong nửa cuối những năm 20
đầu của thế kỉ XX.
Năm 1930 Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, từ đó thanh niên có lý tưởng

cách mạng soi đường hăng hái tham gia váo các phong trào đấu tranh, sẵn sàng
chấp nhận mọi hi sinh gian khổ cuang với Đảng, quần chúng nhân dân làm nên mốc
son chói lọi trong lịch sử dân tộc – Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chỉ trong
vòng 15 năm từ năm 1930 đên 1945 đã có hàng nghìn thanh niên trở thành cán bộ
trung kiên của Đảng, hầu hết các anh hùng liệt sỹ của dân tộc hi sinh anh dũng
trong thời kỳ này đều ở tuổi đời còn rất trẻ như Trần Phú, Lý Tự Trọng, Nguyễn
Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong… những tấm gương xả thân vì nghĩa
lớn, đã tơ thắm thêm trang sử vàng dân tộc, làm rạng ngời truyền thống của thanh
niên Việt Nam. Người khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước
nhà, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu một phần là do thanh niên”[24, tr.185].
Thanh niên có vai trị rất quan trọng đối với sự nghiệp của nước nhà. Vì vậy, Người
yêu cầu thanh niên phải tự mình phấn đấu học tập, rèn luyện để nắm lấy tri thức, bồi
dưỡng ý chí nghị lực, tinh thần cách mạng để lực lượng thanh niên thực sự là
“người chủ tương lai của đất nước”.
Trong thư gửi cho thanh niên, học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người viết: “Non sơng Việt Nam có trở nên vẻ
vang hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay khơng chính là nhờ một phần lớn ở cơng học tập

17


của các cháu”[23, tr.33]. Sự nghiệp cách mạng nước ta cịn vơ vàn khó khăn, gian
khổ nhưng Hồ Chí Minh luôn lạc quan, tin tưởng vào sự thắng lợi tất yếu của cách
mạng Việt Nam “với một thế hệ thanh niên hăng hái, kiên cường, chúng ta nhất
định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc”[31, tr.66]. Trực tiếp sáng lập, rèn luyện, chứng kiến sự trưởng thành,
cống hiến của tổ chức thanh niên đối với dự nghiệp cách mạng dân tộc, Người nhận
thấy thế hệ thanh niên hôm nay xứng đáng là lực lượng kế tục xuất sắc sự nghiệp
cách mạng nước nhà, với một thế hệ như thế tiền đồ đất nước nhất định sẽ “vô cùng

vững chắc và vẻ vang”. Đó là kết luận quan trọng nhất được rút ra từ sự nhìn nhận
khách quan khoa học của Hồ Chí Minh đối với vai trị lịch sử mà các thế hệ thanh
niên đã đảm nhiệm.
1.1.3.3. Sự phát triển của xã hội phụ thuộc phần lớn vào thanh niên
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên và giản dị ấy, hơn ai hết Người vô cùng yêu
quý thanh niên(TN), bởi TN là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già,
đồng thời là người dìu dắt thế hệ TN tương lai. Nhưng khơng phải vì u q, tin
tưởng thanh niên mà Người đánh giá thiếu khách quan, thiếu toàn diện, thiên lệch
và cảm tính về họ. Ngay từ tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người đặt vấn đề phải
cấp bách tổ chức TN Cộng sản đồn ở Đơng Dương để thực hiện các chủ trương,
đường lối để tổ chức và giáo dục TN, nhi đồng thành những chiến sỹ tuyệt đối trung
thành với sự nghiệp cách mạng giành độc lập tự do cho dân tộc. Không phải ngẫu
nhiên tổ chức Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam mang tên Thanh niên (thanh niên Cộng
sản liên đoàn) và tờ báo cách mạng đầu tiên ra đời ngày 21/06/1925 là tờ “Thanh
niên”. Sau này, Người tiếp tục khẳng định: Thanh niên là thế hệ anh hùng trong
thời đại anh hùng và luôn mong mỏi họ phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng là những
người anh hùng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng
CNXH.
Cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp thắng lợi, đất nước vẫn tạm thời bị
chia cắt, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở miền Bắc đang gặp vơ vàn khó khăn,
nhưng Hồ Chí Minh vẫn son sắt tin tưởng rằng, với một thế hệ TN hăng hái kiên

18


cường chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. trong bối cảnh miền Bắc bước vào công cuộc xây
dựng CNXH để làm hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến ở miền Nam.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận TN là lớp người xung phong
trong cơng cuộc phát triển kinh tế, văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng CNXH, là lực

lượng cơ bản trong bộ đội công an và dân quân tự vệ đang hăng hái giữ gìn trật tự
trị an, bảo vệ Tổ quốc. Người khẳng định: Trong mọi việc, thanh niên thi đua thực
hiện khẩu hiệu: “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”[20, tr.32].
Ở miền Nam, Mỹ - Ngụy ra sức thẳng tay đàn áp, khủng bố hòng tiêu diệt
các chiến sỹ cộng sản nằm vùng, tiêu diệt các phong trào yêu nước đòi thi hành hiệp
định Giơ – ne – vơ, đòi thống nhất đất nước. Trong tình hình đen tối đó, Hồ Chí
Minh đã biểu dương kịp thời tinh thần anh dũng, khí thế cách mạng kiên cường của
tuổi trẻ miền Nam và khẳng định vai trò của họ với niềm tin tưởng tuyệt đối: “Các
cháu thanh niên miền Nam sinh ra và lớn lên trong hai cuộc chiến tranh yêu nước,
đã được rèn luyen thành thế hệ thanh niên vô cùng gan dạ, thông minh không sợ
gian khổ, hy sinh, quyết chiến thắng”[28, tr.72].
Từ việc xác định rõ vị trí, vai trị của TN trong tiến trình cách mạng của dân
tộc, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng, củng cố tổ chức TN
nhằm tập hợp đông đảo lực lượng TN, giáo dục, đào tạo TN nói chung, giáo dục
đạo đức cách mạng cho TN nói riêng.
Những năm đầu của Thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng và chỉ thị của
Hồ Chí Minh, ngày 26/03/1931 Đồn thanh niên cộng sản Đơng Dương ra đời.
Trước sự kiện to lớn đó Người rất tự hào sung sướng thấy như mình trẻ lại, thấy
tương lai dân tộc ta vô cùng vững chắc và vẻ vang. Người đặc biệt quan tam, dìu dắt
tổ chức Đoàn thanh niên từ việc lớn tới việc nhỏ, từ việc xây dựng tổ chức, định
hướng hoạt động, chỉ rõ nhiệm vụ chính trị của phong trào TN đến việc cải tiến lề
lối, tác phong làm việc của cán bộ đoàn nhằm tập hợp và giáo dục toàn diện, trước
hết là giáo dục đạo đức cho từng đoàn viên, thanh niên. Người dạy TN phải thấm
nhuần tinh thần làm chủ nước nhà và phải trau dồi đạo đức cách mạng, phải xung

19


phong trong mọi công tác, xung phong là đi trước, làm trước để lôi cuốn quần
chúng chứ không phải xa rời quần chúng. Người phê phán mạnh mẽ những TN chỉ

bo bo nghĩ đến lợi ích riêng của mình, tự tư tự lợi, tham lam vật chất, ham sung
sướng, tránh khó nhọc, lười biếng, coi thường lao động. Từ sự nhìn nhận đánh giá
và phê phán đó Người phân tích, căn dặn: Huy hiệu của TN nước ta là tay cầm cờ
đỏ sao vàng tiến lên, ý nghĩa của nó là TN phải xung phong gương mẫu trong công
tác, trong học hỏi, trong tiến bộ, trong đạo đức cách mạng. Thanh niên phải thành
một lực lượng to lớn và vững chắc trong cuộc kháng chiến và kiến quốc, đồng thời
phải vui vẻ và hoạt bát. Người mong toàn thể các cháu nam nữ TN cố gắng làm tròn
nhiệm vụ để xứng đáng với cái huy hiệu tươi đẹp và vẻ vang ấy. Qua thực tiễn, Hồ
Chí Minh vui mừng khắng định: “Là người theo dõi để tổ chức thanh niên từ bước
đầu hiếm hoi chỉ có 8 cháu, ngày nay từng thấy có hàng triệu đồn viên thanh
niên… một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên cường, chúng ta nhất định thành
công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc”[21, tr.35].
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của TN trong tiến trình
lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng thể hiện rõ tư tưởng chiến lược của Người,
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn coi trọng việc xây dựng lực lượng chính trị
trong TN, rèn luyện và đào tạo toàn diện để họ trở thành nguồn sinh lực mới cho
Đảng, kế tục xuất sắc sự nghiệp các mạng vẻ vang. Trong công tác giáo dục TN,
trước hết phải giáo dục họ sống có lý tưởng, có ý chí quyết tâm cao, kiên trì, khổ
luyện, vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Người căn dặn TN: “Khơng có việc gì khó,
chỉ sợ lịng khơng bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên”[25, tr.95]. Điều gì
phải thì cố làm cho kỳ được dù là việc nhỏ, điều gì trái thì hết sức tránh dù là điều
nhỏ. Nhiệm vụ của người TN trí thức là học, học để phụng sự Tổ quốc, học để
phụng sự nhân dân làm cho dân giàu nước mạnh. Đối với TN thì cần phải đặt câu
hỏi học để làm gì? Học để phụng sự ai? Học phải đi đôi với hành, chỉ biết lao động
trí óc mà khơng biết lao động chân tay, chỉ biết lí luận mà khơng biết thực hành thì

20



tri thức ấy mới đạt được một nửa. Người nhấn mạnh phải giáo dục đạo đức cho TN
để họ vừa “hồng” vừa “chun”.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã nhìn nhận đánh giá TN theo quan điểm thực tiễn
và phát triển. Người thấy rõ những ưu điểm của họ, coi họ là bộ phận quan trọng
của dân tộc, là lực lượng nòng cốt để xây dựng CNXH, đồng thời cũng chỉ ra những
nhược điểm, yếu kém của TN. Để khắc phục tất cả những nhược điểm ấy, theo
Người phải tổ chức TN lại đưa họ vào sự nghiệp cách mạng, qua đó giáo dục họ
tồn diện mà cái gốc là giáo dục đạo đức. Người thường căn dặn cán bộ, Đảng viên
và nhân dân ta khi nhìn nhận đánh giá TN phải đấu tranh chống thói xem thường,
bảo thủ thành kiến, hẹp hòi. Đừng xem xét TN một cách cứng nhắc, cần phải đi sâu
vào đời sống để hiểu rõ tâm lý của tầng lớp TN, giúp đỡ họ giải quyết vấn đề một
cách thiết thực. Đối với những TN mắc khuyết điểm, sai lầm, Hồ Chí Minh khơng
cho là hư hỏng phải bỏ đi mà chỉ coi là chậm tiến, để động viên khuyến khích họ
phấn đấu tiến bộ. Đó khơng chỉ là tình u thương sâu sắc, là trách nhiệm cao cả mà
cịn là cách nhìn biện chứng, khoa học đối với thế hệ trẻ. Chính điều đó đã đem lại
cho tổ chức Đoàn và phong trào TN thêm sức mạnh về tư tưởng, vật chất, tổ chức
trong các hoạt động học tập, lao động sản xuất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà
trực tiếp là giáo dục đạo đức cho TN.
1.1.3.4. Đoàn Thanh niên là cánh tay đắc lực, đội hậu bị của Đảng, đồng
thời là người giáo dục dìu dắt thiếu niên, nhi đồng
Theo Hồ Chí Minh, thanh niên có tiềm năng là vơ cùng to lớn, để hiện thực
hóa tiềm năng đó thì trước hết cần phải tập hợp thanh niên trong một tổ chức cách
mạng. Người cho rằng: “Thanh niên ta rất hăng hái. Ta biết họp lịng hăng hái đó
lại và dìu dắt đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực lượng rất mạnh mẽ” [26,
tr.162]. Đoàn thanh niên cộng sản vừa là tổ chức gần gũi của Đảng, vừa là người
phụ tá đắc lực cho Đảng, Đoàn trực tiếp giáo dục chủ nghĩa cộng sản cho TN, vận
động TN đi theo lý tưởng của Đảng; lôi cuốn tập hợp TN xung phong thực hiện
xuất sắc nhiệm vụ Đảng giao phó; Đồn ln là lực lượng tích cực, gương mẫu tiên
phong trong việc thực hiện những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.


21


Thơng qua các hoạt động đồn giới thiệu những đồn viên ưu tú làm cơ sở cho
Đảng xem xét kết nạp Đảng viên mới. Bởi vậy, Đoàn thanh niên là nguồn lực bổ
sung cho đội ngũ của Đảng, một lực lượng hùng hậu, trẻ khỏe, đầy nhiệt huyết góp
phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh. Theo Người, Đoàn thanh niên có vai
trị rất lớn trong việc giáo dục, dìu dắt thanh thiếu niên nhi đồng bởi cách mạng là
sự nghiệp của nhiều thế hệ nối tiếp nhau, thế hệ trẻ là người kế tục sự nghiệp cách
mạng dân tộc. Việc chăm lo giáo dục, dìu dắt các em thiếu niên, nhi đồng là chiến
lược đào tạo đội ngũ kế cận chuẩn bị cho tương lai.
Thanh niên có một vai trò rất lớn trong việc tổ chức, hướng dẫn, dìu dắt thiếu
niên, nhi đồng, giúp đỡ các em học tập, vui chơi lành mạnh tránh những tác động
xấu ở bên ngoài xã hội. “Đoàn thanh niên Lao động là cánh tay đắc lực của Đảng
trong việc tổ chức và giáo dục thế hệ thanh niên và nhi đồng thành những chiến sĩ
tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản”[29, tr.21].
Trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh đã đề cập về mối quan hệ giữa
Đảng với tổ chức Đồn. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người viết: “Đường
chính trị, thì thanh niên theo Đảng chỉ huy, nhưng việc làm thì thanh niên độc
lập”[19, tr.295]. Có nghĩa là , Đoàn thanh niên do Đảng cỗng sản lãnh đạo và phải
lấy mục tiêu, lý tưởng của Đảng làm tôn chỉ hoạt động của tổ chức mình nhưng
Đồn thanh niên hồn toàn tự chủ trong việc đề ra kế hoạch, chương trình hành
động.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh thanh niên có vai trị vơ cùng to lớn trong tiến
trình lịch sử cách mạng. Thanh niên là bộ phận quan trọng của dân tộc, là lực lượng
nòng cốt trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vận
mệnh của dân tộc, tương lai của đất nước tùy thuộc vào phẩm chất và bản lĩnh của
thanh niên. Thanh niên là lực lượng to lớn, là đội quân xung kích trên mọi mặt trận,
là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Đảng. Thanh niên còn là lực lượng kế thừa và

tiếp bước các thế hệ cha anh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

22


×