Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận môn công nghệ tri thức Xây dựng hệ chuyên gia chẩn đoán, phát hiện lỗi, hỏng hóc, sự cố cho máy vi tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.89 KB, 26 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TIỂU LUẬN MÔN
Đề tài:
Knowledge
Xây dựng hệ chuyên gia chẩn đoán,
phát hiện lỗi, hỏng hóc, sự cố cho máy vi tính
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Phan Huy Khánh
Học viên thực hiện :
Võ Phi Thanh
Nguyễn Trần Sỹ
Hoàng Công Tiến
Nguyễn Thị Hà Phương
Lớp : Cao học KHMT – K24 (QB)
Quảng Bình, tháng 12 năm 2012
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
Công nghệ tri thức là một bộ môn của tin học có tính chất công nghệ, trong đó đối tượng
thông tin được xử lí là các tri thức trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó và quá trình xử lí
bằng máy tính nhằm giải quyết những bài toán phức tạp thông thường đòi hỏi một trình độ
cao về trí tuệ chuyên gia trong lĩnh vực bằng các công cụ toán học; phát triển các phương
pháp lựa chọn và thu thập tri thức, các cơ chế lập luận trên các thông tin tri thức và việc thực
hiện các phương pháp đó trên máy tính 3
Vận dụng những kiến thức thu nhận được trong quá trình học tập, tìm hiểu và nghiên cứu về
môn Công nghệ tri thức, được sự phân công và hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS. Phan Huy
Khánh, chúng em đã chọn một phần nội dung kiến thức để đi sâu nghiên cứu và làm đề tài
tiểu luận cho môn học 3
Nội dung của tiểu luận được chia làm 2 phần như sau: 3


Phần I. Lý thuyết: 3
PHẦN I. LÝ THUYẾT 4
I.1. Tri thức (Knowledge) 4
I.2. Chia sẻ tri thức 7
I.3. Kiến thức tình huống 8
I.4. Kiến thức một phần 8
I.5. Kiến thức khoa học 9
I.6. Quản trị tri thức 11
I.7. Nhu cầu dẫn tới quản trị tri thức 11
I.7.1. Xuất phát từ nhu cầu nhân sự 11
I.7.2. Xuất phát từ nhu cầu kinh tế 13
I.7.3. Công nghệ và nhu cầu về một hệ thống quản trị tri thức 13
I.7.4. Cơ cấu tổ chức và nhu cầu về một hệ thống quản trị tri thức 14
PHẦN II. BÀI TẬP 17
II.1. Giới thiệu bài toán 17
II.2. Thu thập và phân loại tri thức 17
II.2.1. Nhóm hỏng hóc từ nguồn điện 17
II.2.2. Nhóm hỏng hóc từ màn hình 18
II.2.3. Nhóm hỏng hóc từ các thiết bị xử lý 18
II.2.4. Nhóm hỏng hóc do dữ liệu 18
II.3. Xây dựng các luật và sự kiện 19
II.3.1.Tập sự kiện 19
II.3.2. Tập các luật 19
II.4. Chuyển các luật và sự kiện về ngôn ngữ Prolog 20
II.5. Demo 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 2
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

LỜI MỞ ĐẦU

Công nghệ tri thức là một bộ môn của tin học có tính chất công nghệ, trong đó
đối tượng thông tin được xử lí là các tri thức trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó và
quá trình xử lí bằng máy tính nhằm giải quyết những bài toán phức tạp thông thường
đòi hỏi một trình độ cao về trí tuệ chuyên gia trong lĩnh vực bằng các công cụ toán
học; phát triển các phương pháp lựa chọn và thu thập tri thức, các cơ chế lập luận trên
các thông tin tri thức và việc thực hiện các phương pháp đó trên máy tính.
Vận dụng những kiến thức thu nhận được trong quá trình học tập, tìm hiểu và
nghiên cứu về môn Công nghệ tri thức, được sự phân công và hướng dẫn của thầy giáo
PGS.TS. Phan Huy Khánh, chúng em đã chọn một phần nội dung kiến thức để đi sâu
nghiên cứu và làm đề tài tiểu luận cho môn học.
Nội dung của tiểu luận được chia làm 2 phần như sau:
Phần I. Lý thuyết:
Phần II. Bài tập: Xây dựng hệ chuyên gia chẩn đoán, phát hiện lỗi, hỏng hóc, sự
cố cho máy vi tính.
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 3
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

PHẦN I. LÝ THUYẾT
Câu 1. />I.1. Tri thức (Knowledge)
Tri thức được định nghĩa trong từ điển Oxford là:
(i) Sự tinh thông và các kỹ năng mà con người thu được thông qua kinh nghiệm
hoặc giáo dục; sự hiểu biết lý thuyết hoặc thực tiễn của một vấn đề.
(ii) Những gì được biết đến trong một lĩnh vực cụ thể hoặc trong tổng thể; các sự
kiện và thông tin.
(iii) Nhận thức hoặc sự hiểu biết thu được bằng kinh nghiệm của một sự kiện hay
tình huống. Những cuộc tranh luận triết học rỗng rãi bắt đầu với Plato công thức của
tri thức là “justified true belief”.
Tuy nhiên, không có định nghĩa duy nhất về tri thức hiện nay, và viễn cảnh
cũng không phải một, mà ở đó có rất nhiều lý thuyết cạnh tranh. Sự thu nhận tri thức
bao gồm quá trình nhận thức phức tạp: nhận thức, học tập, giao tiếp, hội họp và lý

luận. Thuật ngữ kiến thức cũng được sử dụng để có nghĩa là sự tự tin kiến thức của
một chủ đề với khả năng sử dụng nó cho một mục đích cụ thể thích hợp.
Định nghĩa tri thức (triết học)
Robert Reid, Knowledge (1896). Thomas Jefferson BuildingWashington, D.C.
" Chúng ta giả sử rằng chính chúng ta không đủ trình độ tri thức khoa học "
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 4
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

của một vấn đề, để phản bác nó hiểu nó theo cách tình cờ, mà vấn đề đó
nhà triết học biết, khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta biết nguyên nhân mà
thực tế phụ thuộc, như là nguyên nhân của thực tế đó và không có thêm
cái khác, và,, mà thực tế không thể khác hơn được. Bây giờ mà khoa học
biết là cái gì đó của loại này là điều hiển nhiên - chứng kiến cả những
người mà sai lầm đòi hỏi nó lẫn những người mà thật sự có nó, kể từ khi
một dạng đơn thuần tự mình tưởng tượng, hình dung được, trong khi đó
sau này cũng được thực sự, trong điều kiện được mô tả. Do vậy, đối
tượng thích hợp (của) kiến thức khoa học không đủ tiêu chuẩn là cái gì đó
mà không thể là khác hơn là chính nó được.
Aristotle, Posterior Analytics (Sách1 Phần 2)
Định nghĩa về tri thức là một vấn đề đang tranh luận của những nhà triết học
trong lĩnh vực nhận thức luận. Định nghĩa cổ điển miêu tả, nhưng không phải cuối
cùng xác nhận bởi Plato, chỉ rõ rằng một phát biểu phải hội đủ ba tiêu chí để được coi
là tri thức : nó phải được chứng minh, đúng đắn và tin tưởng. Một số cho rằng các điều
kiện này là không đủ, như những ví dụ của trường hợp Gettier được cho là chứng
minh. Có một số lựa chọn thay thế được đề xuất, trong đó có những lý lẽ của Robert
Nozick cho một yêu cầu mà tri thức ' theo dõi sự đúng đắn 'và yêu cầu bổ sung của
Simon Blackburn mà chúng tôi không muốn nói tới những người đáp ứng bất kỳ
những điều kiện này thông qua ‘ một lỗi, thiếu sót, hay thất bại ' để có tri thức.
Richard Kirkham cho thấy rằng định nghĩa của chúng ta về kiến thức yêu cầu niềm tin
là tự hiển nhiên cho những người tin tưởng.

Ngược lại với cách tiếp cận này, Wittgenstein theo dõi các nghịch
lý Moore , Mà ta có thể nói "Ông tin rằng nó, nhưng nó không phải là như vậy", nhưng
không phải "Anh ta biết nó, nhưng nó không phải là như vậy". Ông đi vào để lập luận
rằng đây không tương ứng với các trạng thái khác biệt về tinh thần, mà đúng hơn là
những cách nói khác về niềm tin. Điều gì là khác nhau ở đây, không phải là trạng thái
tinh thần của người nói, nhưng hoạt động này họ được tham gia. Ví dụ, vì để biết rằng
ấm đun nước là sôi không phải là để được ở trong trạng thái đặc biệt của tâm, nhưng
để thực hiện một nhiệm vụ cụ thể với các phát biểu rằng ấm đun nước được đun sôi.
Wittgenstein đã tìm cách để vượt qua những khó khăn của các định nghĩa bằng cách
tìm đến một cách là "tri thức" được sử dụng trong ngôn ngữ tự nhiên. Ông thấy tri thức
như là một trường hợp một gia đình giống. Sau ý tưởng này, "tri thức " đã được tái tạo
như là một khái niệm cụm(cluster) chỉ ra rằng các tính năng có liên quan, nhưng đó
không phải là mô tả đầy đủ bởi bất kì định nghĩa nào.
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 5
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

Tri thức hay kiến thức có nhiều ý nghĩa tùy theo văn cảnh, nhưng lúc nào
cũng có liên quan với những khái niệm như hiểu biết, ý nghĩa, thông tin, giảng dạy,
giáo dục, giao tiếp, diễn tả, học hỏi và kích thích trí óc. Môn học về tri thức được gọi
nhận thức luận. Trong nhận thức luận, một định nghĩa phổ biến của tri thức là nó bao
gồm ba tiêu chí khả tín, xác thực, và chứng minh được.
Tri thức là:
• Các thông tin, các tài liệu, các cơ sở lý luận, các kỹ năng khác nhau, đạt được
bởi một tổ chức hay một cá nhân thông qua các trải nghiệm thực tế hay thông
qua sự giáo dục đào tạo; các hiểu biết về lý thuyết hay thực tế về một đối tượng,
một vấn đề, có thể lý giải được về nó;
• Là những gì đã biết, đã được hiểu biết trong một lĩnh vực cụ thể hay toàn bộ,
trong tổng thể;
• Các cơ sở, các thông tin, tài liệu, các hiểu biết hoặc những thứ tương tự có được
bằng kinh nghiệm thực tế hoặc do những tình huống, hoàn cảnh cụ thể. Những

tranh cãi về mặt triết học nhìn chung bắt đầu với phát biểu của Plato: tri thức
như là "justified true belief". Tuy nhiên không có một định nghĩa chính xác nào
về tri thức hiện nay được mọi người chấp nhận, có thể bao quát được toàn bộ,
vẫn còn nhiều học thuyết, các lý luận khác nhau về tri thức.
Tri thức giành được thông qua các quá trình nhận thức phức tạp: quá trình tri giác,
quá trình học tập, tiếp thu, quá trình giao tiếp, quá trình tranh luận, quá trình lý luận,
hay kết hợp các quá trình này.
Tri thức có 2 dạng tồn tại chính là tri thức ẩn và tri thức hiện
• Tri thức hiện là những tri thức được giải thích và mã hóa dưới dạng văn bản, tài
liệu, âm thanh, phim, ảnh,… thông qua ngôn ngữ có lời hoặc không lời, nguyên
tắc hệ thống, chương trình máy tính, chuẩn mực hay các phương tiện khác. Đây
là những tri thức đã được thể hiện ra ngoài và dễ dàng chuyển giao, thường
được tiếp nhận qua hệ thống giáo dục và đào tạo chính quy.
• Tri thức ẩn là những tri thức thu được từ sự trải nghiệm thực tế, dạng tri thức
này thường ẩn trong mỗi cá nhân và rất khó “mã hóa” và chuyển giao, thường
bao gồm: niềm tin, giá trị, kinh nghiệm, bí quyết, kỹ năng VD: Trong bóng
đá, các cầu thủ chuyên nghiệp có khả năng cảm nhận bóng rất tốt. Đây là một
dạng tri thức ẩn, nó nằm trong mỗi cầu thủ. Nó không thể “mã hóa” thành văn
bản, không thể chuyển giao, mà người ta chỉ có thể có bằng cách tự mình luyện
tập.
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 6
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

I.2. Chia sẻ tri thức
Biểu tượng có thể được dùng để cho biết ý nghĩa và có thể được dùng như một
quá trình động. Do đó việc chuyển giao các biểu tượng có thể được xem như là một
trong quá trình quy nạp, nhờ đó mà kiến thức có thể được chuyển giao. Các hình thức
giao tiếp khác bao gồm mô phỏng, tường thuật cùng với một loạt các phương pháp
khác. Không có lý thuyết đầy đủ về chuyển giao kiến thức hoặc giao tiếp.
Trong khi nhiều người sẽ đồng ý rằng một trong những công cụ phổ biến và

quan trọng nhất cho việc chuyển tải các kiến thức là bằng văn bản (trong nhiều loại),
lý lẽ trên tính hữu dụng của từ văn bản tồn tại tuy nhiên, với một số học giả hoài nghi
về tác động của nó trên xã hội. Trong bộ sưu tập các bài luận của mình Technopoly
Neil Postman minh chứng cho luận cứ chống lại việc sử dụng các văn bản thông qua
một đoạn trích từ tác phẩm của Plato Phaedrus (Postman, Neil (1992) Technopoly,
Vintage, New York, trang 73). Trong đoạn trích này học giả Socrates kể lại câu
chuyện của Thamus, vị vua Ai Cập và Theuth người phát minh ra chữ viết. Trong câu
chuyện này, Theuth trình bày phát minh mới của mình "viết" để vua Thamus, nói với
Thamus rằng phát minh mới của mình "sẽ cải thiện cả trí tuệ và bộ nhớ của người Ai
Cập" (Postman, Neil (1992) Technopoly, Vintage, New York, trang 74 ). Vua Thamus
hoài nghi về phát minh mới này và bác bỏ nó như một công cụ của hồi ức hơn là kiến
thức được giữ lại. Ông lập luận rằng chữ viết sẽ lây nhiễm sang người Ai Cập với
những kiến thức giả, vì họ sẽ có thể đạt được sự thật và những câu chuyện từ một
nguồn bên ngoài và sẽ không còn bị buộc phải giữ lại một lượng lớn tinh thần của kiến
thức bản thân (Postman, Neil (1992) Technopoly, Vintage, New York, trang 74).
Andrew Robinson cũng nhấn mạnh, trong công việc của mình “Các Nguồn gốc
của Viết”, khả năng cho các văn bản sẽ được sử dụng để truyền bá thông tin sai lệch
và có cho khả năng của từ bằng văn bản để giảm kiến thức xã hội (Robinson, Andrew
(2003) The Origins of Writing in Crowley and Heyer (eds) Communication in History:
Technology, Culture, Society, Boston pp 34). Con người thường chủ quan hóa thông
tin mới mà họ nhận thức thành kiến thức, nhưng trên thực tế đã in vào tâm trí của họ
với những kiến thức sai lầm.
Dựa vào sự phân loại tri thức, có thể chia các hình thức chia sẻ tri thức thành bốn dạng
chính:
• Ẩn - Ẩn: Khi người chia sẻ và người tiếp nhận giao tiếp trực tiếp với nhau (ví
dụ: học nghề, giao tiêp, giảng bài ) thì việc tiếp nhận này là từ tri thức ẩn
thành tri thức ẩn. Tri thức từ người này không qua trung gian mà chuyển ngay
thành tri thức của người kia.
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 7
Tiểu luận môn công nghệ tri thức


• Ẩn - Hiện: Một người mã hóa tri thức của mình ra thành văn bản hay các hình
thức hiện hữu khác thì đó lại là quá trình tri thức từ ẩn (trong đầu người đó) trở
thành hiện (văn bản, tài liệu, v.v.).
• Hiện - Hiện: Tập hợp các tri thức hiện đã có để tạo ra tri thức hiện khác. Quá
trình này được thể hiện qua việc sao lưu, chuyển giao hay tổng hợp dữ liệu.
• Hiện - Ẩn: Tri thức từ dạng hiện trở thành dạng ẩn. Điển hình quá trình này là
việc đọc sách. Học sinh đọc sách (tri thức hiện) và rút ra được các bài học, tri
thức cho mình (ẩn).
I.3. Kiến thức tình huống
Kiến thức tình huống là kiến thức cụ thể cho một tình hình cụ thể.
Một số phương pháp tạo các kiến thức, chẳng hạn như thử và lỗi, Hoặc học hỏi
từ kinh nghiệm có xu hướng tạo kiến thức tình huống rất cao. Một trong những lợi ích
chính của phương pháp khoa học là những lý thuyết nó tạo được số tình huống ít hơn
so với những kiến thức thu được bằng phương pháp khác. Kiến thức về tình hình
thường được nhúng trong ngôn ngữ, văn hóa, hoặc truyền thống.
[sửa]
Kiến thức tạo ra thông qua những kinh nghiệm được gọi là kiến thức "một sự
đến sau", nghĩa là sau đó. Sự tồn tại thuần túy của một thuật ngữ như "sự đến sau" có
nghĩa là điều này cũng có một bản sao. Trong trường hợp này đó là kiến thức "tiên
nghiệm", có nghĩa là trước đây. Các kiến thức trước bất kỳ kinh nghiệm nào có nghĩa
là có một số "giả định" rằng một trong đó được gán là thừa nhận. Ví dụ: nếu bạn đang
nói về một ghế rõ ràng để bạn có ghế là trong không gian, Mà nó là 3D. Kiến thức này
không phải là một trong những kiến thức mà có thể "quên", thậm chí có người bị
chứng quên kinh nghiệm của thế giới trong 3D. Xem thêm: một Tiên nghiệm.
I.4. Kiến thức một phần
Một kỷ luật của “epistemology” tập trung vào một phần kiến thức. Trong hầu
hết các trường hợp thực tế, không thể có một sự hiểu biết đầy đủ thông tin của một
miền, vậy thì chúng ta phải sống với thực tế là kiến thức của chúng tôi là luôn luôn
không đầy đủ, Nghĩa là, một phần. Hầu hết các vấn đề thực sự phải được giải quyết

bằng cách tận dụng sự hiểu biết một phần của bối cảnh vấn đề và dữ liệu của vấn đề.
Điều đó là rất khác nhau từ các phép toán đơn giản thông thường có thể giải quyết một
vấn đề ở trường, nơi mà tất cả dữ liệu được cho và có sự hiểu biết hoàn hảo của công
thức cần thiết để giải quyết chúng. Ý tưởng này cũng có mặt trong các khái niệm
“phạm vi hợp li” mà giả rằng trong thực tế đời sống người dân các tình huống thường
có một số tiền giới hạn của thông tin và đưa ra quyết định phù hợp.
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 8
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

I.5. Kiến thức khoa học
Sự phát triển của các phương pháp khoa học đã góp phần đáng kể cho sự hiểu
biết của chúng ta về kiến thức. Để được gọi là khoa học, một phương pháp của thẩm
vấn phải dựa trên tập hợp quan sát, thực nghiệm và đo bằng chứng tuân theo các
nguyên tắc cụ thể của lý luận.
[5]
Các phương pháp khoa học bao gồm các bộ sưu tập
của dữ liệu qua quan sát và thử nghiệm, và công tác xây dựng, thử nghiệm giả thuyết.
Khoa học, và tính chất của kiến thức khoa học cũng đã trở thành chủ đề của Triết học.
Như khoa học tự nó đã phát triển, những kiến thức đã phát triển một cách sử dụng
rộng hơn đã được phát triển trong sinh học / tâm lý-thảo luận ở nơi khác như meta-
epistemology, Hoặc di truyền epistemology, Và đến một mức độ nào liên quan tới "Lý
thuyết phát triển nhận thức".
Sir Francis Bacon, "Knowledge is Power"
Lưu ý rằng "epistemology" là nghiên cứu các kiến thức và cách nó được thu
được. Khoa học là" quá trình sử dụng hàng ngày để hoàn thành những suy nghĩ logic
thông qua các suy luận của sự kiện được xác định bởi các thí nghiệm tính toán. Sir
Francis Bacon, quan trọng trong lịch sử phát triển của các phương pháp khoa học, tác
phẩm của ông thành lập và phổ biến rộng rãi một phương pháp quy nạp cho yêu cầu
thông tin khoa học. Tác phẩm nổi tiếng của ông, "Kiến thức là sức mạnh", được tìm
thấy trong Meditations Sacrae (1597).

Cho đến thời gian gần đây, ít nhất truyền thống phương Tây, nó chỉ đơn giản là
nắm một điều gì đó kiến thức đã được sở hữu duy nhất của con người (và / hoặc Thiên
Chúa) - và có lẽ người lớn ở đó. Đôi khi các khái niệm có thể giãn ra để (ii)Xã hội-là-
như thế, Như trong "kiến thức sở hữu bởi các nền văn hóa Coptic" (trái ngược với các
thành viên cá nhân của mình), nhưng điều đó đã không được đảm bảo một trong hai.
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 9
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

Cũng không phải là nó bình thường để xem xét bất tỉnh kiến thức trong bất kỳ cách có
hệ thống cho đến khi cách tiếp cận này đã được phổ biến rộng rãi bởi Freud.
Các lĩnh vực sinh học, trong đó "kiến thức" có thể nói đến cư trú, bao gồm: (iii)
hệ thống miễn dịch, Và (iv) trong DNA của mã di truyền. Xem danh sách bốn "lĩnh
vực nhận thức luận": Popper, (1975) Và Traill (2008 [1]: Bảng S, trang 31)-cũng có sự
tham khảo của cả hai để Niels Jerne.
Xem xét như vậy có vẻ để gọi cho một định nghĩa riêng biệt của "kiến thức" để
trang trải các hệ thống sinh học. Đối với sinh vật học, kiến thức phải được hữu ích và
có sẵn đến hệ thống, dù rằng hệ thống không cần phải được nhận thức. Vì vậy, các tiêu
chuẩn dường như:
• Hệ thống rõ ràng nên năng động và tự tổ chức (không giống như một cuốn sách
chỉ ngày của riêng mình).
• Các kiến thức phải chiếm một số loại đại diện của "thế giới bên ngoài"
[10]
, Hoặc
cách tương tác với nó (trực tiếp hoặc gián tiếp).
• Phải có một số cách cho hệ thống để truy cập thông tin này một cách nhanh
chóng đủ cho nó trở nên có ích.
Tôn giáo, ý nghĩa của kiến thức
Trong nhiều biểu hiện của Kitô giáo, như Công giáo và Anh giáo, Kiến thức là một
trong bảy quà tặng của Chúa Thượng đế.
Trong Hồi giáo, kiến thức (tiếng Ả Rập: ملع, ʿ ILM) cho ý nghĩa rất lớn. "The Biết

tất cả" (al-ʿ Alim) Là một trong những 99 tên phản ánh các thuộc tính khác biệt của
Tốt. Qur'an khẳng định rằng kiến thức đến từ Chúa (2:239) Và hadith khác nhau
khuyến khích việc thu được kiến thức. Muhammad được báo cáo đã cho biết: "Tìm
kiến thức từ cái nôi đến cái mộ" và "Hóa ra người đàn ông của kiến thức là những
người kế thừa của các tiên tri". Học giả Hồi giáo, nhà thần học và luật gia thường được
cho tiêu đề học giả, Nghĩa là "knowledgable"(có kiến thức)
Hindu Thánh hiện nay hai loại kiến thức, Paroksha Gnyana và Aporoksha Gnyana.
Paroksha Gnyana (cũng đánh vần Paroksha-Jnana) Là kiến thức cũ: kiến thức thu
được từ sách vở, tin giả, vv Aporoksha Gnyana (cũng đánh vần Aparoksha-Jnana) Là
những kiến thức kinh nghiệm trực tiếp, nghĩa là, kiến thức mà một trong những phát
hiện ra cho mình.
Cây Cựu Ước của các kiến thức về cái tốt và cái xấu chứa đựng những kiến thức
mà tách người đàn ông từ Chúa: "Và Chúa LORD nói ,Behold, con người trở thành
như là một trong chúng ta, để biết cái tốt và cái xấu " (Genesis 3:22)
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 10
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

Trong Gnosticism thần thánh kiến thức hoặc Gnosis được hy vọng sẽ đạt được và
thoát ra từ thế giới vật lý của demiurge. Và trong kiến thức Thelema và giao tiếp với
một thiên thần của Chúa là mục đích của cuộc sống, là tương tự như Gnosis hoặc giác
ngộ trong các tôn giáo bí ẩn khác.
I.6. Quản trị tri thức
Có nhiều cách hiểu về quản trị tri thức, dưới đây là một số định nghĩa đã được
đưa ra:
1. Quản trị tri thức là tạo ra tri thức, và việc này được nối tiếp với việc thể hiện
kiến thức, truyền bá và sử dụng kiến thức, và sự duy trì (lưu giữ, bảo tồn) và cải
biên kiến thức
[1]
.
2. Quản trị tri thức là quá trình của việc quản lý một cách cẩn trọng tri thức để đáp

ứng các nhu cầu hiện hữu, để nhận ra và khai thác những tài sản tri thức hiện có
và có thể đạt được và để phát triển những cơ hội mới
[2]
.
3. Quản trị tri thức là hoạt động mà hoạt động này quan tâm tới chiến lược và
chiến thuật để quản lý những tài sản mà trọng tâm là con người (human center
assets)
[3]
.
4. Quản trị tri thức là quá trình hệ thống của việc nhận dạng, thu nhận và chuyển
tải những thông tin và tri thức mà con người có thể sử dụng để sáng tạo, cạnh
tranh và hoàn thiện
[4]
.
Trên cơ sở tổng kết các định nghĩa khác nhau về quản trị tri thức, McAdam và
McGreedy (1999) đã chỉ ra rằng chúng thể hiện một miền rộng lớn từ những quan
điểm có tính cơ giới (coi tri thức là tài sản) tới quan điểm thiên về định hướng xã hội
(tri thức được tạo ra trong tổ chức thông qua những quan hệ xã hội). Các định nghĩa về
quản trị tri thức thể hiện nổi bật các đặc tính sau:
• Quản trị tri thức là một lĩnh vực có liên quan chặt chẽ với lý luận và thực tiễn,
và là một lĩnh vực mang tính đa ngành đa lĩnh vực.
• Quản trị tri thức không phải là công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin chỉ là
yếu tố hỗ trợ, nhưng lại đóng vai trò rất quan trọng trong việc quản trị tri thức.
• Quản trị tri thức lấy yêu tố con người làm trọng tâm
I.7. Nhu cầu dẫn tới quản trị tri thức
I.7.1. Xuất phát từ nhu cầu nhân sự
Từ khía cạnh nhân sự, những nhu cầu về việc tăng việc trao đổi, chia sẻ và sáng
tạo trong các nhóm hoạt động gồm nhiều lĩnh vực khác nhau là một trong những lý do
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 11
Tiểu luận môn công nghệ tri thức


chính dẫn tới việc xây dựng quản trị tri thức. Bên cạnh đó, nhu cầu tăng khả năng xử
lý của nhân viên trong các tình huống phức tạp và lưu giữ những tri thức khi các nhóm
làm việc tan rã hay tái lập cũng khiến việc xây dựng hệ thống QTTT trở nên cần thiết.
Thứ nhất, nhu cầu về việc đẩy mạnh trao đổi, chia sẻ và sáng tạo trong các
nhóm hoạt động ngày càng lớn hơn. Lí do là vì các công ty đang có xu hướng kết hợp
với nhau để tăng khả năng cạnh tranh. Do đó, nhân viên trong các công ty khác nhau
thường xuyên phải làm việc với nhau. Hơn nữa, để phát triển một sản phẩm đòi hỏi
phải có sự kết hợp của nhiều lĩnh vực khác nhau (thiết kế, kĩ thuật, marketing, v.v.).
Nói cách khác, thành viên của một nhóm làm việc phải từ các bộ phận khác nhau, mà
họ thường chỉ biết rõ về lĩnh vực chuyên môn của mình mà thiếu những hiểu biết cần
thiết về các lĩnh vực khác. Sự khác biệt về văn hóa cũng có thể gây khó khăn trong quá
trình làm việc nhóm. Vì vậy, việc tăng khả năng và hiệu quả làm việc nhóm, mà điển
hình là việc chia sẻ và trao đổi, của các thành viên trong nhóm là vô cùng cần thiết.
Quản trị tri thức có thể trở thành lời giải tối ưu cho bài toán này, bởi vì nó thúc đẩy
thảo luận và chia sẻ tri thức trong nhóm và tổ chức.
Lí do thứ hai là về việc các nhóm làm việc được thành lập và giải tán . Hiện
nay, các nhóm làm việc thường được thành lập để giải quyết những vấn đề, những dự
án trong thời gian ngắn. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, các nhóm này thường được giải
tán, thành viên trở về với công việc thường ngày hoặc tham gia các nhóm làm việc
khác, nơi mà khả năng chuyên môn của họ có giá trị hơn là tri thức thu được ở các lĩnh
vực khác trong dự án. Điều quan trọng là, những tri thức đó lại không được lưu trữ lại,
trở thành “tài sản cá nhân” của nhân viên. Khi nhân viên đó ra đi, tri thức của công ty
cũng mất đi theo. Quản trị tri thức có thể giúp công ty giải quyết vấn đề này một cách
hiệu quả, bởi vì trong đó có quá trình “nắm bắt” các tri thức ẩn – qua các quá trình trao
đổi trực tiếp và việc lưu trữ tri thức ẩn dưới dạng hiện.
Ngoài ra, trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt hiện nay, đòi hỏi về kĩ năng
và khả năng ra quyết định của nhân viên ngày càng cao hơn. Ngày nay, thời gian chính
là yếu tố cạnh tranh quyết định giữa mọi công ty. Bạn có thể phải đối mặt với những
thay đổi, những sáng tạo bất ngờ từ phía đối thủ, sự chuyển dịch mạnh mẽ của thị

trường không ổn định. Công ty của bạn rất có thể sẽ không bắt kịp được những bước
tiến của môi trường bên ngoài. Vì vậy, việc phản ứng và ra quyết định trước một tình
huống của nhân viên cần phải không những chính xác mà còn phải càng nhanh càng
tốt. Điều này đòi hỏi trình độ tri thức của nhân viên phải cao hơn và thông tin phải
được cung cấp nhanh chóng, chính xác hơn. Nếu quản trị tri thức tốt, bạn hoàn toàn có
thể giải quyết được những vấn đề này.
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 12
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

I.7.2. Xuất phát từ nhu cầu kinh tế
Lý thuyết kinh tế cũ cho rằng mọi tài sản đều dễ bị giảm giá trị khi thu hồi,
nhưng điều này không đúng với tri thức. Những quy luật chi phối tri thức thì khác hẳn
những quy luật chi phối thế giới vật chất. Ví dụ:
• Cùng một cái máy tính, khi người A đang sử dụng, những người khác không sử
dụng được nữa.
• Sau khi người A sử dụng và chuyển giao cho người khác, chất lượng máy tính
coi như bị hao mòn và giảm giá trị.
Nhưng với tri thức, khi một người đang dùng, những người khác cũng có thể sử
dụng được. Và tri thức càng sử dụng nhiều thì càng tăng giá trị. Các nhà kinh tế học
gọi đó là quy luật tăng lợi nhuận: càng sử dụng, càng cung cấp nhiều giá trị - từ đó tạo
ra một chu trình tự tăng cường. Tri thức là biến số duy nhất lý giải nguyên nhân có
một khoảng cách ngày càng lớn giữa giá trị thị trường và cơ sở tài sản của một công ty
thành đạt. Không như các tài nguyên có giới hạn như đất, vốn, và nhân công, tài sản tri
thức và trí tuệ là những nguồn tài khuyên không giới hạn có thể sinh ra nhiều lợi
nhuận qua hệ thống sử dụng và ứng dụng chúng. Tri thức rộng giúp bạn có cái nhìn đa
chiều về cùng một hiện tượng, một biến đổi bất thường trên thị trường. Từ đó vừa có
khả năng chống đỡ, vừa có lợi thế cạnh tranh so với đối thủ. Muốn có được điều này,
các doanh nghiệp bắt buộc phải không ngừng sáng tạo, sáng tạo không ngừng nghỉ để
bắt kịp với xu thế chung của thời đại. Cứ như thế tri thức ngày càng gia tăng.
Quản trị tri thức mang đến cơ hội duy nhất biến tri thức thành hệ thống giúp công ty

của bạn tạo ra lợi thế về thời gian giữ cho sự cạnh tranh được liên tục, tạo ra giá trị
kinh tế và giá trị thị trường không thể chối cãi được.
I.7.3. Công nghệ và nhu cầu về một hệ thống quản trị tri thức
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã thay đổi hoàn toàn công
việc. Hiện nay chúng ta có thể thu thập và lưu trữ một khối lượng lớn thông tin dễ
dàng, truyền tải chúng một cách nhanh chóng. Các công việc được hoàn thành dựa vào
công nghệ, đặc biệt là máy tính, ngày càng nhiều. Sự quan trọng của công nghệ là
không thể phủ nhận. Nhưng, công nghệ không tạo ra yếu tố cạnh tranh cho công ty của
bạn. Bạn vừa sở hữu một công nghệ hoàn toàn mới, giúp công ty bạn vượt lên trên đối
thủ của mình. Nhưng, thời gian sau đó, khi mà đối thủ tạo ra công cụ tương tự, hoặc
cũng mua công nghệ đó, thì yếu tố cạnh tranh của bạn sẽ bị mất đi. Trong thời đại
công nghệ hiện nay thời gian cho một cuộc chạy đua công nghệ như vậy ngày càng
ngắn dần, do vậy, chúng ta không thể coi công nghệ như yếu tố cạnh tranh lâu dài.
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 13
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

Trong khi đó, công nghệ với hai lợi ích chính là lưu trữ và truyền tải thông tin
lại cho phép ta xây dựng một hệ thống lưu trữ và phân phối thông tin hiệu quả. Công
nghệ trở thành một nhân tố giúp lưu trữ, phân phối và trao đổi tri thức hữu hiệu. Bằng
cách kết hợp công nghệ với quản trị tri thức một cách hiệu quả, công ty có thể tạo ra
các yếu tố cạnh tranh mới, nâng cao khả năng cạnh tranh lâu dài của mình.
Bên cạnh đó, nhờ có công nghệ phát triển mà các công việc, các quy trình được
hoàn thành nhanh chóng và hiệu quả hơn. Vòng đời của sản phẩm, từ lúc được nghiên
cứu, sản xuất, tới khi bán ra và các dịch vụ hậu mãi cũng do đó ngắn lại. Các sản phẩm
cũng liên tục được nâng cấp và cải tiến, thị trường liên tục thay đổi. Do vậy, thời gian
cho ra sản phẩm trở thành một yếu tố sống còn đối với công ty, các quyết định ngày
càng phải được đưa ra nhanh chóng và chính xác hơn. Vậy yếu tố nào khiến cho công
ty làm được điều này? Công nghệ có thể giúp chúng ta thu thập, lưu trữ, truyền tải
thông tin một cách vô cùng hiệu quả, nhưng để biến thông tin thành tri thức, thành
quyết định, thì lại cần đến con người và kiến thức, kinh nghiệm của họ.

Tri thức chứ không phải công nghệ trực tiếp giúp nhân viên sở hữu nó ra quyết
định. Quản trị tri thức, với sự hỗ trợ của công nghệ, có thể giúp cho nhân viên của
công ty làm việc hiệu quả hơn, tự mình đưa ra những quyết định sáng suốt hơn, giảm
bớt sai lầm và thoả mãn yêu cầu của khách hàng đúng lúc nhất, v.v.
I.7.4. Cơ cấu tổ chức và nhu cầu về một hệ thống quản trị tri thức
Cũng giống như công nghệ, cơ cấu tổ chức ngày nay thay đổi quá nhanh.Chính
những thay đổi về cơ cấu tổ chức này đã đặt chúng ta vào tình thế không thể không có
một hệ thống quản trị tri thức hữu hiệu.
Hãy thử tưởng tượng rằng, bạn đang phụ trách một dự án lớn và đột nhiên gặp
phải một vấn đề nan giải. Sau một thời gian tìm kiểm giải pháp, một thành viên trong
đội nhớ ra rằng trong một dự án trước kia, vấn đề tương tự cũng đã nảy sinh và được
giải quyết khá hiệu quả. Bạn lục tìm chồng hồ sơ cao chất ngất cố gắng tìm ra một qui
trình nào đó hay ít nhất là một gợi ý nhưng tất cả những gì mà bạn phát hiện ra là các
thành viên của đội dự án đó đang làm việc ở khắp các chi nhánh của công ty trên toàn
thế giới.
Ngày nay, các công ty làm việc theo định hướng dự án. Mỗi thành viên được
nhặt ra từ các bộ phận chức năng khác nhau để tạo ra một đội duy nhất. Các đội sau
khi hoàn thành xong dự án thường chuyển lên một dự án khác cao hơn hoặc phân tán
sang các dự án khác. Các tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng thu được trong suốt quá trình
phát triển sản phẩm , dịch vụ lại không được chuyển đến các đội dự án phụ trách việc
phát triển các phiên bản sau trong quá trình tiến hoá dịch vụ sản phẩm đó . Ngoài ra
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 14
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

với cơ cấu tổ chức làm việc theo đội và dự án, các kỹ năng được phát triển trong quá
trình hợp tác thưòng sẽ bị mất đi khi đội đó tan rã và các tri thức qui trình mà đọi thu
được sẽ không có điều kiện để sử dụng lại trong tương lai. Một hệ thống quản tri tri
thức trong trường hợp này sẽ giúp công ty bạn nắm bắt được các tri thức dự án, cho
phép bạn sử dụng lại nó trong tương lai.
Toàn cầu hoá tạo ra một sân chơi phẳng, cạnh tranh hơn bao giờ hết. 20 năm

trước cả bạn và tôi không ai có thể nghĩ Ấn Độ lại có thể trở thành sân sau của Mĩ với
hàng loạt các “call center” nằm rải rác khắp đất nước, cung cấp dịch vụ cho khách
hàng trên toàn thế giới, đặc biệt là các khách hàng từ Châu Âu và Mĩ. Ngày nay,
Microsoft không nhất thiết phải dộng tay vào tất cả các giai đoạn tạo ra một phần
mềm. Họ có thể chuyển phần việc gia công “ ít chất xám” sang các nước khác với mức
lương chỉ bằng ½ mức phải trả cho một lập trình viên tại Redmond. Cũng lúc đó, để
sản xuất ra một chiếc máy tính xách tay, Dell có một tập hợp hơn 40 nhà cung cấp – là
những công ty, xưởng, nhà máy trên toàn thế giới chuyên sản xuất linh kiện lắp ráp.
Toàn cầu hoá jnhững công thức bí truyền, chiến lược kinh doanh, các thiết kế Đó là
lý do vì sao chúng ta cần quản trị tri thức.
Bên cạnh toàn cầu hóa, cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn khi các nước đang
dần dần dỡ bỏ các qui định, để thị trường tự điều chỉnh theo những qui luật vốn có của
nó. Giả sử, bạn đang có lợi thế về giá so với đối thủ cạnh tranh bởi vì nhà cung cấp của
bạn ở Hàn Quốc và chính phủ Hàn Quốc thì đã dỡ bỏ các hàng rào qui định khiến đầu
vào của bạn rẻ hơn. Trong khi đó, tại Ấn Độ - nơi các hàng rào thuế quan vẫn còn tồn
tại, đối thủ của bạn đang phảichật vật mua đầu vào với mức giá cao hơn. Đột nhiên,
Ấn Độ quyết định dỡ bỏ tất cả các hàng rào thuế quan. Chuyển gì xảy ra tiếp? Cả bạn
và đối thủ cạnh tranh giờ đều xuất phát từ cùng một điểm. Bạn mất đi mất lơi thế cạnh
tranh. Thứ duy nhất bạn có thể làm là cắt giảm chi phí. Bạn bắt đầu loay hoay với việc
cắt giảm biên chế, xa thải chỗ này một ít, đuổi việc chỗ kia một chút. Bạn quên mất
một điều rằng khi bạn đẩy một ai đó ra khỏi công ty bạn cũng đẩy luôn nguồn tri thức
ẩn mà anh ta mang trong đầu. Trong khi đó đối thủ của bạn lại lựa chọn một phương
thức tiếp cận khác, xây dựng một hệ thống quản trị tri thức và các kỹ năng để tránh
sáng tạo lại những gì đã có, đạt được mục tiêu cắt giảm chi phí đồng thời cả lợi thế
cạnh tranh dài hạn.
Trong môi trường cạnh tranh như vậy, bạn không thể nói “Tôi có sản phẩm tốt?
Vậy thì tại sao tôi lại cần quan tâm đến marketing cơ chứ?”. Để phát triển một sản
phẩm, dịch vụ mới đòi hỏi sự kết hợp hoàn hảo của nhiều lĩnh vực khác nhau từ
marketing, nghiên cứu, thiết kế, sản xuất đến tài chính Khi có quá nhiều người từ các
lĩnh vực chuyên môn khác nhau tham gia vào một dự án rất dễ gây ra sự hiểu lầm cũng

Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 15
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

như bất đồng ý kiến về lợi ích . Quản trị tri thức trả lời câu hỏi về tài sản tri thức, về
quyền sở hữu, về niềm tin trước và sau khi công việc kết thúc
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 16
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

PHẦN II. BÀI TẬP
Bài tập 1. Chẩn đoán, phát hiện lỗi, hỏng hóc, sự cố cho máy vi tính.
II.1. Giới thiệu bài toán
Những năm gần đây, ngành công nghiệp máy tính cá nhân đã có những bước
phát triển rất mạnh mẽ. Mọi người đã quen thuộc với cảnh máy vi tính xuất hiện trong
từng hộ gia đình như một thiết bị điện tử thông dụng. Tuy nhiên, chúng ta không thể
phủ nhận rằng máy tính là một thiết bị phức tạp và khó sử dụng. Khi những hỏng hóc
xuất hiện, cho dù là những hỏng hóc rất nhỏ, cũng có thể làm người sử dụng bối rối.
Vì vậy, sự xuất hiện một phần mềm hướng dẫn mọi người tự tay khắc phục những lỗi
thông dụng là thực sự cần thiết.
Có hai giải pháp cho vấn đề trên. Một là là tổng hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu về
kiến thức phần cứng máy tính, những sự cố thông thường và cách khắc phục. Hai là
xây dựng một hệ chuyên gia chẩn đoán sự cố máy tính.
Cả hai phương án điều khả thi, nhưng với tình hình hiện nay, phương án thứ hai
là phù hợp hơn cả. Một chương trình “thông minh” sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian,
công sức cho người sử dụng. Hơn nữa, như chúng ta đã biết, việc xây dựng một hệ
chuyên gia đòi hỏi phải có một kho tri thức và công cụ xây dựng chương trình chuyên
dụng. Hiện nay, nguồn thông tin khổng lồ trên Internet đã đáp ứng được yêu cầu thứ
nhất. Thứ hai, ngôn ngữ Prolog là đủ mạnh để xây dựng bất kỳ chương trình thuộc lĩnh
vực trí tuệ nhân tạo nào.
Chính vì những lý do trên, cộng với mong muốn áp dụng những kiến thức đã học
từ môn Hệ chuyên gia, chúng tôi đã chọn đề tài “Xây dựng hệ chuyên gia chẩn đoán,

phát hiện lỗi, hỏng hóc, sự cố cho máy vi tính”. Đây thực ra là một lĩnh vực hẹp so với
một hệ chuyên gia chẩn đoán, sữa chữa máy vi tính và các thiết bị ngoại vi.
II.2. Thu thập và phân loại tri thức
Trong quá trình tổng hợp và phân loại tri thức, chúng tôi chia các hỏng hóc thông
thường thành bốn nhóm. Các hỏng hóc thuộc cùng một nhóm thì có chung một số biểu
hiện ban đầu. Việc khoanh vùng này giúp việc mô tả các luật rõ ràng hơn. Phần này
giới thiệu các biểu hiện đặt trưng của mỗi nhóm và dấu hiệu nhận biết các lỗi chi tiết
bên trong nhóm. Hình 3.1 trang bên sẽ mô tả các tri thức đã được phân loại này.
II.2.1. Nhóm hỏng hóc từ nguồn điện
Dấu hiệu: đèn led nguồn tắt, quạt nguồn không chạy, màn hình không hiển thị.
Các thiết bị có khả năng gây ra lỗi: cáp nguồn bị lỏng, bộ nguồn bị cháy.
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 17
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

Chẩn đoán:
 Kiểm tra lại cáp nguồn. Nếu như cáp nguồn của máy tính bị lỏng thì nó chính
là nguyên nhân.
 Ngược lại, nếu như cáp nguồn không bị lỏng mà máy tính vẫn không khởi
động được thì có thể có lỗi về bộ nguồn của máy tính.
II.2.2. Nhóm hỏng hóc từ màn hình
Dấu hiệu: đèn led nguồn sáng, có một tiếng bíp ngắn chứng tỏ máy tính khởi
động được, nhưng màn hình lại không hiển thị thông tin.
Các thiết bị có khả năng gây ra lỗi: do cáp tín hiệu hoặc màn hình
Chẩn đoán:
 Kiểm tra lại cáp tín hiệu màn hình, nếu lỏng thì đây chính là nguyên nhân.
 Nếu cáp tín hiệu màn hình không lỏng thì nguyên nhân có thể là chỉnh sai các
nút điều khiển trên màn hình.
 Nếu cáp tín hiệu màn hình không lỏng và các nút trên màn hình cũng không
chỉnh sai thì có thể nguyên nhân chính là do màn hình bị hỏng.
II.2.3. Nhóm hỏng hóc từ các thiết bị xử lý

Dấu hiệu: đèn led nguồn sáng, nhưng màn hình không hiển thị thông tin, kèm
theo một dãy các tiếng bip phát ra từ loa hệ thống gắn trong case.
Các thiết bị có khả năng gây ra lỗi: CMOS, BIOS, mainboard, RAM, CPU…
Chẩn đoán: số lượng tiếng bip và khoảng thời gian giữa chúng cho biết một thiết
bị cụ thể nào đó là nguyên nhân gây ra lỗi (xem lại phần II - thu thập tri thức chuyên
gia):
II.2.4. Nhóm hỏng hóc do dữ liệu
Dấu hiệu: màn hình có hiển thị thông tin, loa máy tính phát ra một tiếng bip ngắn
chứng tỏ quá trình kiểm tra phần cứng thành công, tuy nhiên máy tính không vào được
hệ điều hành.
Các thiết bị có khả năng gây ra lỗi: ổ cứng, cáp dữ liệu ổ cứng, hệ điều hỏng.
Chẩn đoán:
 Nếu màn hình xuất hiện thông báo “Hard Disk Failure” thì nguyên nhân có
thể là do lỏng cáp dữ liệu hoặc cáp nguồn đĩa cứng.
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 18
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

 Nếu cắm lại cáp mà kết quả vẫn không thay đổi, thì nguyên nhân là do ổ đĩa
cứng có vấn đề.
 Nếu không có thông báo “Hard Disk Failure”, thì nguyên nhân xuất phát từ
phần mềm như lỗi hệ điều hành, hoặc master boot_record, boot sector bị hỏng
(gọi chung là lỗi hệ điều hành).
II.3. Xây dựng các luật và sự kiện
II.3.1.Tập sự kiện
− Không sử dụng được máy tính
− Máy hay tự động RESET
− Máy hay treo hoặc tự động tăt nguồn
− Không vào được Hê Điều Hành hoặc không khởi động được
− Ổ cứng hỏng hay hoạt động bình thường
− Tình trạng đèn ổ cứng là tắt hoặc sáng

− Có âm thanh đọc ổ cứng
− Hỏng màn hình
− Lỏng cáp màn hình
− Tình trạng đèn màn hình xanh hoặc chớp đỏ
− Màn hình bị tắt trong tiến trình khởi động
− Máy tính bị tắt sau khi hiển thi thông điệp trên màn hình
− Điện vào máy tính có hay không
II.3.2. Tập các luật
− R1: Nếu ((Nguồn điện “hỏng”) hoặc (cáp màn hình”lỏng”) hoặc
(Mainboard “hỏng”) hoặc (Ram “hỏng”) hoặc (ổ cứng “hỏng”)) thì không sử dụng
được máy tính
− R2: Nếu (điện vào máy là "có") và ( (âm thanh đọc ổ cứng là "không")
hoặc tình trạng đèn ổ cứng là "tắt")) thì (ổ cứng "hỏng").
− R3: Nếu (điện vào máy là "có") và (tình trạng đèn màn hình là "chớp
đỏ") thì (cáp màn hình "lỏng"). à à khắc phục: tháo ra và gắn chặt lại.
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 19
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

− R4: Nếu (lỗi khi chạy phần mềm hay chơi Game) hoặc (màn hình bị
nhiễu) thì (Card màn hình lỗi). à khắc phục: tháo ra gắn chặt lại, làm vệ sinh và
upload driver mới cho Card màn hình
− R5: Nếu ((Máy hay tự động RESET) hoặc (Máy hay bị treo) hoặc (Máy
không khởi động được và có âm thanh phát ra) ) thì RAM gặp sự cố. à khắc phục:
Tháo ram ra chùi sạch và cắm lại thật chặt. Nếu có 2 RAM thì bạn chạy thử 1 cây.
Nếu vẫn treo đổi cây kia. Có thể một trong 2 cây bị lỗi. Nếu có điều kiện thay thử
RAM khác xem nó bình thường hay không. Nếu vẫn bị vấn đề cũ thì có nghĩa là
không phải do RAM.
− R6: Nếu ((Máy hay bị treo) hoặc (Máy tự động tắt nguồn) hoặc (Máy
không khởi động được) ) thì MAIN hỏng.
− R7: Nếu ((Máy không khởi động được) hoặc (không nhận HDD) hoặc

(không nhận CDROM) ) thì Nguồn điện bị lỗi. à khắc phục: thử đôi dây cắm nguồn
khác còn dư hay bỏ các dây cắm không cần thiết như CDROM thử vấn đề có giải
quyết không. Trong trường hợp bạn kết luận do nguồn thì nên đi thay cái mới chứ
dừng tiết kiệm di sửa.
− R8: Nếu (Máy tính bị tắt trong tiến trình khởi động) thì do hệ thống quá
nóng hoặc xung đột giữa các thiêt bị.
− R9: Nếu (Máy tính bị tắt sau khi hiển thị thông điệp”NTLDR is
missing”) thì Windows bị lỗi. à khắc phục: Khôi phục NTLDR và file ntdetect.com
từ đĩa cài đặt Windows .
− R10: Nếu (Máy tính bị tắt sau khi hiển thị thông điệp” Bad or Missing
Command Interpreter”) thì Windows bị lỗi. à khắc phục: Khôi phục tập tin
COMMAND.COM của Windows.
II.4. Chuyển các luật và sự kiện về ngôn ngữ Prolog
main:-
new(Start, dialog('He chuyen gia chuan doan va khac phuc su co
may tinh')),
send(Start, append, text('May tinh cua ban khong su dung duoc
phai khong ?')),
send(Start, append, button(ok,and(message(@prolog,
check_power),message(Start, destroy)))),
send(Start, append, button(no, message(Start, destroy))),
send(Start, open).
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 20
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

check_power:-
new(Check_power, dialog('Chuan doan')),
send(Check_power, append, text('Da co dien vao may tinh
chua?')),
send(Check_power, append, button(co, and(message(@prolog,

option),message(Check_power, destroy)))),
send(Check_power, append, button(khong, and(message(@prolog,
call_power),message(Check_power, destroy)))),
send(Check_power, open).
call_power:-
new(Power, dialog('Chuan doan')),
send(Power, append, text('Kiem tra dau noi cap dien,cac cau
chi')),
send(Power, append, button(thoat, message(Power, destroy))),
send(Power, open).
option:-
new(Option, dialog('Chuan doan')),
send(Option, append, text('Da co dien vao may tinh nhung:')),
send_list(Option, append,[
new(S, new(S, menu(lua_chon, cycle)))]),
send_list(S, append,
[khong_co_am_thanh_doc_o_cung,den_o_cung_tat,den_man_hinh_chop
_do,may_hay_tu_dong_reset,may_khong_khoi_dong_duoc_va_co_tieng
_bit,may_bi_tat_trong_tien_trinh_khoi_dong]),
send(Option, append, button(yes,
if(S?selection ==den_man_hinh_chop_do, and(message(@prolog,
card_video),message(Option, destroy)),
if(or(S?selection ==den_o_cung_tat, S?selection
==khong_co_am_thanh_doc_o_cung), and(message(@prolog,
hdd),message(Option, destroy)),
if(or(S?selection ==may_hay_tu_dong_reset, S?selection
==may_khong_khoi_dong_duoc_va_co_tieng_bit),
and(message(@prolog, ram),message(Option, destroy)),
if(S?selection ==may_bi_tat_trong_tien_trinh_khoi_dong,
and(message(@prolog, check_message),message(Option, destroy)))

)
)
)
)),
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 21
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

%send(Option, append, button(no, message(Option, destroy))),
send(Option, open).
hdd:-
new(Hdd, dialog('Chuan doan')),
send(Hdd, append, text('o cung bi hong. Ban nen thay o
cung')),
send(Hdd, append, button(thoat, message(Hdd, destroy))),
send(Hdd, open).
card_video:-
new(Video, dialog('Chuan doan')),
send(Video, append, text('cap man hinh bi long. Ban nen cam
lai cap chat hon')),
send(Video, append, button(thoat, message(Video, destroy))),
send(Video, open).
ram:-
new(Ram, dialog('Khac Phuc')),
send(Ram, append, text('RAM gap su co!!! Ban nen thao RAM ra
lau sach va cam lai that chat')),
send(Ram, append, button(thoat, message(Ram, destroy))),
send(Ram, open).
check_message:-
new(Check_message, dialog('Chuan doan')),
send(Check_message, append, text('Co thong diep phat ra hay

khong?')),
send(Check_message, append, button(co, and(message(@prolog,
error_message),message(Check_message, destroy)))),
send(Check_message, append, button(khong, and(message(@prolog,
interative_system),message(Check_message, destroy)))),
send(Check_message, open).
interative_system:-
new(System, dialog('Khac Phuc')),
send(System, append, text('Do he thong qua nong hoac xung dot
giua cac thiet bi')),
send(System, append, button(thoat, message(System, destroy))),
send(System, open).
error_message:-
new(Error_message, dialog('Chuan doan')),
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 22
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

send_list(Error_message, append,[new(T, new(T,
menu(thong_diep_nhu_sau, cycle)))]),
send_list(T, append,
[ntldr_is_missing,bad_or_missing_command_interpreter]),
send(Error_message, append, button(yes, if(T?selection
==ntldr_is_missing, and(message(@prolog,
error_ntldr),message(Error_message, destroy)),
if(T?selection ==bad_or_missing_command_interpreter,
and(message(@prolog, error_command),message(Error_message,
destroy)))
)
)),
send(Error_message, open).

error_ntldr:-
new(Ntldr, dialog('Khac Phuc')),
send(Ntldr, append, text('Khoi phuc NTLDR va file ntdetect.com
tu dia cai dat Windows . ')),
send(Ntldr, append, button(thoat, message(Ntldr, destroy))),
send(Ntldr, open).
error_command:-
new(Command, dialog('Khac Phuc')),
send(Command, append, text('Khoi phuc file COMMAND.com tu dia
cai dat Windows . ')),
send(Command, append, button(thoat, message(Command,
destroy))),
send(Command, open).
II.5. Demo
- Mở SWI-PROLOG
- Thực hiện lệnh Open/Consult, mở file sucomaytinh.pl
- Tại dấu nhắc lệnh?- gõ main. nhấn Enter
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 23
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 24
Tiểu luận môn công nghệ tri thức

KẾT LUẬN
Xây dựng một hệ chuyên nói chung và hệ chuyên gia về chẩn đoán, sửa chữa
máy tính là một công việc đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Trong quá trình thực
hiện tiểu luận, chúng em đã thực hiện được những công việc sau:
Phần lý thuyết: Nghiên cứu những vấn đề cơ bản của tri thức thông qua
và các tài liệu trên Internet
Phần bài tập:

- Mô tả bài toán, tổng hợp và phân loại tri thức
- Mô tả tri thức bằng logic vị từ, chuyển về ngôn ngữ Prolog
- Cài đặt bài toán bằng phần mềm Swi-Prolog
Tuy nhiên, do thời gian và khả năng tiếp cận còn hạn chế nên đề tài chỉ dừng lại ở
mức tìm hiểu những lý thuyết cơ bản, chưa mở rộng quy mô chẩn đoán cả chiều sâu
lẫn chiều rộng và chưa khai thác các chức năng của ngôn ngữ lập trình, đây cũng là
hướng phát triển của đề tài trong tương lai.
Xin chân thành cảm ơn Thầy giáo PGS.TS Phan Huy Khánh, đã tận tình giúp đỡ
chúng em hoàn thành tiểu luận này.
Xin chân thành cảm ơn ý kiến đóng góp của thầy giáo và bạn đọc quan tâm để đề
tài được hoàn thiện hơn.
Nhóm 1 – Lớp KHMT K24 QB thực hiện Trang 25

×