ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
******
BÙI LÊ NHẬT
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA VĂN BẢN HÀNH
CHÍNH TRONG CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN
(CHIẾU, CHỈ, DỤ, TẤU, BIỂU, TƯ)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hán Nôm
Hà Nội-2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÙI LÊ NHẬT
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA VĂN BẢN HÀNH
CHÍNH TRONG CHÂU BẢN TRIỀU NGUYỄN
(CHIẾU, CHỈ, DỤ, TẤU, BIỂU, TƯ)
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Hán Nôm
Mã số: 602240
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Kim Sơn
Hà Nội-2013
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Lịch sử vấn đề
2
3. Mục tiêu nghiên cứu
17
4. Phạm vi nghiên cứu
17
5. Phương pháp nghiên cứu
18
6. Đóng góp luận văn
18
7. Cơ cấu luận văn
19
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư và châu bản triều Nguyễn
21
1.1. Chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư
21
1.1.1. Khái niệm chung
21
1.1.2. Lịch sử hình thành
22
1.1.2.1. Tại Trung Quốc
23
1.1.2.2. Tại Việt Nam
31
1.2. Châu bản triều Nguyễn
33
1.2.1. Khái niệm
33
1.2.2. Loại hình
35
1.2.3. Tình hình văn bản
36
1.3. Chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư trong châu bản triều Nguyễn
36
1.3.1. Đặc điểm nội dung
36
1.3.2. Bố cục hình thức
39
1.3. 3. Cách thức soạn thảo, ban hành, trung chuyển
43
1.3.4. Tình hình văn bản
47
1.4. Kết luận chương 1
48
Chương 2. Đặc điểm ngôn ngữ
50
2.1. Bối cảnh hình thành
50
2.1.1. Bối cảnh chính trị xã hội
50
2.1.2. Bối cảnh văn hóa
52
2.2. Đặc điểm
54
2.2.1. Nguồn gốc, cấu trúc
54
2.2.1.1. Từ vựng
56
2.2.1.2. Ngữ pháp
63
2.2.2. Tính chất
65
2.2.2.1. Tính quan phương
65
2.2.2.2. Tính quyền uy, tôn ti, trật tự
68
2.2.2.3. Tính thời vụ, tính công vụ chính xác và tính văn học nghệ
thuật
70
2. 2.3. Cấu trúc ngữ vựng đặc trưng
75
2.2.3.1. Trích dẫn
75
2.2.3.2. Vận thanh đối ngẫu
80
2.2.3.3. Tỉ hứng
83
2.3. Kết luận chương 2
85
PHẦN KẾT LUẬN
89
Chú thích
92
Tài liệu tham khảo
93
Phụ lục
103
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Ngôn ngữ là thành tố quan trọng trong văn hóa mỗi dân tộc. Tiến trình phát
triển ngôn ngữ của một dân tộc thể hiện diễn biến văn hóa của dân tộc ấy, bởi ngôn
ngữ là văn hóa được mã hóa. Theo quy luật chung, lịch sử phát triển của ngôn ngữ
Việt là quá trình vận động liên tục và không ngừng giao lưu, tiếp nhận ngôn ngữ
của những nền văn minh, văn hóa khác, cụ thể ở đây là Trung Quốc, Ấn Độ thời cổ-
trung đại và Pháp-Châu Âu thời cận-hiện đại. Trong lịch sử phát triển của mình,
giai đoạn từ đầu thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX là thời kỳ diễn ra nhiều biến động
lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến sự chuyển mình từ ngôn ngữ văn tự trung đại lên
hiện đại của dân tộc Việt. Vấn đề này đã được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu và
chứng minh, tuy nhiên một trong những tài liệu thể hiện dấu ấn đậm nét của thời kỳ
quá độ ngôn ngữ này là văn bản hành chính trong châu bản triều Nguyễn lại chưa
được phân tích. Hiện nay phần lớn bản gốc châu bản được lưu trữ tại Trung tâm lưu
trữ quốc gia I. Với giá trị về nhiều mặt: sử học, văn hóa học, văn bản học, thư tịch
học, ngôn ngữ học… đây xứng đáng là một trong những di sản văn hóa quí giá của
dân tộc Việt nói riêng và nhân loại nói chung.
Giá trị nhiều mặt của châu bản triều Nguyễn đặt ra nhiều hướng đi cho các
nhà nghiên cứu và hầu hết đều lựa chọn khai thác ở góc độ sử liệu, ít hoặc không đề
cập tới vấn đề ngôn ngữ. Một công trình đã đi sâu vào thực tại văn bản là Cấu trúc
nội tại của loại hình châu bản trên cứ liệu châu bản triều Minh Mạng của Thạc sỹ
Nguyễn Thu Hoài, nhưng mới dừng ở đặc điểm hình thức.
Thực tế tuy sử dụng ngôn ngữ Hán văn – vấn đề đã được nghiên cứu sâu và
kỹ - nhưng khía cạnh ngôn ngữ của văn bản hành chính trong châu bản vẫn là một
mặt quan trọng, tưởng cũ mà lại mới, nếu đặt cố định trong khung thời gian triều
Nguyễn và trong thế đối sánh theo từng triều vua. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi
triều Nguyễn là giai đoạn ra đời nhiều hình thức văn bản mới và có những đổi mới
ngay trong nội hàm những hình thức văn bản cũ, cũng là thời kỳ chuyển mình từ
trung cận đại lên hiện đại của ngôn ngữ viết nói riêng và tiếng Việt nói chung trong
2
bối cảnh giao thoa, va chạm với tiếng Pháp đồng thời vẫn chịu ảnh hưởng trực tiếp
từ các thể loại văn bản quản lý của nhà nước phong kiến trung đại Trung Hoa.
Đặt vấn đề ngôn ngữ của văn bản hành chính trong khung thời gian là toàn
bộ triều Nguyễn, chúng tôi buộc lòng phải bỏ qua một số thể loại chỉ xuất hiện
trong một triều vua như: công đồng phó, công đồng sai, công đồng khiến, công
đồng di… (chỉ dùng vào thời Gia Long), tập trung vào những thể thức văn bản được
sử dụng xuyên suốt trong các đời vua như: chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư, từ đó tạo tiền
đề cho việc khái quát đặc điểm chung của ngôn ngữ trong văn bản quản lý nhà nước
triều Nguyễn và thời kỳ trung đại.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu ngôn ngữ trong các văn bản chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư.
Trong lịch sử 4000 năm tồn tại của mình, chế độ phong kiến phương Đông
đã sản sinh ra rất nhiều dạng văn bản hành chính, trong đó chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu,
tư là những thể loại tiêu biểu. Ngoài giá trị về mặt điều hành, quản lý nhà nước, đây
còn là những tư liệu quan trọng tiêu biểu thể hiện lý luận, học thuật, phong cách sử
dụng ngôn ngữ của thời trung đại. Ngay khi chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư cũng như
các dạng văn bản hành chính trung đại khác còn đang thực thi chức năng, chính
quyền trung ương hiện thời và nhiều cá nhân đã đi sâu khảo cứu và định hình đặc
điểm ngôn ngữ, phong cách hành văn của từng thể loại nhằm giúp việc sử dụng
chúng đạt hiệu quả tối ưu. Ngoài giá trị với triều đại đương thời, văn bản hành
chính và những thành quả nghiên cứu về văn bản hành chính còn đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành hệ thống văn thư trong các triều đại tiếp sau. Dưới đây
chúng tôi sẽ hệ thống hóa các thành tựu trong lịch sử về nghiên cứu ngôn ngữ trong
văn bản hành chính theo cách phân kỳ của sử học để cung cấp cái nhìn toàn diện
hơn về đặc điểm từng thể loại.
2.1.1. Thời kỳ cổ trung đại:
Các nghiên cứu về ngôn ngữ văn tự trong văn thể hành chính của thời kỳ cổ
trung đại hầu như xuất phát từ Trung Quốc - cái nôi của chế độ phong kiến cũng
như văn bản quản lý nhà nước phương Đông. Tổng quan các nghiên cứu của thời kỳ
3
này được gọi chung là “tiểu học” và đi theo hai hướng: 1) hướng thứ nhất trọng tâm
nghiên cứu chú thích về ngữ nghĩa, thanh vận, hình dạng văn tự của từ đơn lẻ và có
trích dẫn một số văn đoạn mà từ ngữ được sử dụng, không quan tâm đến nghệ thuật,
nội dung nghĩa lý và chức năng thực thi của chỉnh thể văn bản mà những từ đó tạo
nên, thành tựu cao nhất là các tác phẩm dạng thuyết văn, tự điển, từ điển, xét trên
bình diện ngôn ngữ nói chung phải kể thêm vận thư; 2) hướng thứ hai trọng tâm tìm
hiểu nghệ thuật dụng văn, chức năng và nghĩa lý của chỉnh thể văn bản – kết tinh ý
nghĩa của hệ thống từ, thành tựu cao nhất là các nghiên cứu, bình luận mang tính
học thuật dạng chú sớ, luận (biện luận, thuyết luận).
Tên gọi “tiểu học” có liên quan đến nội dung chương trình học của thời trung
đại, trong đó tiểu học cung cấp các kiến thức và phương pháp cơ bản để nhận biết
chữ Hán – phân biệt với “đại học” trong quan niệm đương thời là “cái học của bậc
đại nhân”, chú trọng những kiến thức ứng dụng phục vụ con đường hoạn lộ, quan
trường trên cơ sở đã thông hiểu tiểu học. Trong chế độ khoa cử cũ, từ 14 tuổi trở
xuống học tiểu học, sau đó sẽ chuyển qua bậc đại học, nhưng có thể du di tùy theo
người học. Giáo sư Vương Lực trong mục Lời nói đầu sách Lịch sử ngôn ngữ học
Trung Quốc cho biết: “Ngữ văn học vào thời cổ trung đại được gọi là “tiểu học”.
Tên gọi “tiểu học” này khởi đầu có liên quan tới bậc học tiểu học. Căn cứ theo mục
Nghệ văn chí sách Hán thư, chúng ta biết người xưa 8 tuổi vào tiểu học, thầy dạy họ
“lục thư”. Nhận mặt chữ vốn là việc của bậc tiểu học, nhân đó gọi học vấn về nhận
chữ là tiểu học. Trong Nghệ văn chí sách Hán thư, “tiểu học” tự mình đứng riêng
thành 1 loại, tổng cộng có 10 phái, 15 thiên. Nếu lấy cổ làm chuẩn, trong đó bao
gồm cả cổ văn ký tự (chữ Hán giai đoạn tiền Hán được gọi là cổ văn), thì nhận chữ
trở thành một học vấn chuyên môn. Đây là nguyên nhân “tiểu học” trở thành một
danh xưng học thuật chuyên môn” [106, tr.2].
Bản thân các học giả trung đại tới đời Thanh chia các nghiên cứu về ngôn
ngữ văn tự của mình thành ba (03) loại: huấn hỗ, tự thư và vận thư “về sau, phạm vi
của tiểu học mở rộng. Tổng mục đề yếu trong Tứ khố toàn thư đời Thanh chia tiểu
học thành huấn hỗ, tự thư và vận thư. Đại thể, huấn hỗ nghiên cứu về nghĩa chữ, tự
4
thư nghiên cứu về hình chữ, vận thư nghiên cứu về âm chữ”, tuy nhiên “lúc nghiên
cứu về hình chữ (tự thư) không thể không giảng về quan hệ giữa hình chữ với âm,
nghĩa của chữ, mà sách vận thư lại kiêm cả tác dụng của từ điển, cho nên giới hạn
giữa ba (03) phạm trù này không thể phân biệt rạch ròi. Chỉ có thể khẳng định một
điểm: “Tiểu học” là học vấn liên quan đến văn tự; cổ nhân nghiên cứu tiểu học
không lấy ngôn ngữ làm đối tượng mà coi văn tự là đối tượng” [106, tr.2].
Trong Hán ngữ sử cảo, giáo sư Vương Lực cũng chia các nghiên cứu ngôn
ngữ của học giả trung đại làm hai (02) hướng là ngữ âm và ngữ nghĩa, tức đã xếp tự
thư vào thành một phạm trù cơ sở của cả hai hướng này, và chia làm ba giai đoạn:
giai đoạn từ đầu đời Hán sơ (TK III TCN) cho tới cuối Đông Tấn (TK V) là giai
đoạn trọng tâm vào nghiên cứu ngữ nghĩa; giai đoạn từ đầu thời Nam Bắc triều (TK
V) cho tới cuối triều Minh (TK XVII) là giai đoạn trọng tâm vào ngữ âm; giai đoạn
từ đầu đời Thanh tới nay là giai đoạn phát triển toàn diện. Các khảo cứu về ngôn
ngữ trong văn bản hành chính của thời trung đại thực chất là các chuyên luận hẹp,
xét trong cả ba (03) giai đoạn này đương nhiên đều thuộc ngạch thứ hai và trọng
tâm phương diện ngữ nghĩa chứ không phải ngữ âm. Tuy vậy không thể không đề
cập tới các tác phẩm theo hướng thứ nhất, theo Vương Lực là hướng ngữ âm, bởi
nhiều văn bản hành chính cũng vận dụng các thủ pháp thanh điệu được sử dụng
trong tác phẩm nghệ thuật. Dưới đây chúng tôi sẽ không phân tách nhỏ lẻ mà diễn
trình tổng hợp theo lịch đại thành tựu của các hướng trên với trục trung tâm là
những công trình thuộc hướng chú thích, bình luận và điểm xuyết thêm công trình
dạng từ điển, thuyết văn để có được một cái nhìn toàn diện nhất. Bản thân các kiến
giải trong những công trình này đều đề cập tới tự hình chữ là vấn đề cơ bản của Hán
ngữ nói chung, không thuộc trọng tâm đề tài nên chúng tôi không tách thành một
(01) hướng riêng.
2.1.1.1. Trung Quốc
Những tuyển tập có ghi chép về văn bản hành chính cổ đã xuất hiện từ khá
sớm, như Chu thư (Thượng thư), Chiến quốc sách , được xác định viết trong giai
đoạn Chiến quốc. Vào triều Tần, cùng thời điểm với sự xác lập các loại văn bản
5
chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư, cũng đã xuất hiện những luận đề về ngôn ngữ trong văn
bản hành chính, tiêu biểu như Thỉnh trừ bách gia thi thư nghị của Lý Tư. Tuy nhiên
những văn kiện, sách vở trên đây chưa thể coi là các nghiên cứu thực thụ, những
nghiên cứu sâu hơn về ngôn ngữ hoặc giả đã có nhưng trong thư tịch hiện nay
không còn. Các học giả ngôn ngữ hiện nay hầu như đều công nhận nghiên cứu ngôn
ngữ của học giả Trung Quốc cổ trung đại bắt đầu có từ đời Hán.
Các tác phẩm mang tính từ điển về ngôn ngữ-văn tự cổ đại trong thư tịch
Hán xuất hiện từ khá sớm, tiêu biểu như Phương ngôn của Dương Hùng (53 TCN –
18), Thuyết văn giải tự của Hứa Thận (58 – 157) hay Thích danh của Lưu Hi
(khoảng thế kỷ II), tất nhiên trong đó không đề cập tới ngôn từ trong từng văn thể
cụ thể mà phiên âm, thích nghĩa những từ đơn cơ bản trong tiếng Hán giai đoạn này
đúng như tên gọi của sách. Liên quan nhiều hơn đến nội dung văn bản cụ thể là Nhĩ
nhã (khuyết danh, hình thành trong giai đoạn cuối Tần – đầu Hán), một bộ sách
mang tính từ điển xuất phát từ mục tiêu chú giải kinh điển. Tuy vậy, trên bình diện
chuyên luận, Độc đoạn của Sái Ung (133 – 192) đời Đông Hán mới được xem là tác
phẩm mở đầu cho nghiên cứu ngôn ngữ văn thể hành chính. Trong quyển hai của
sách, tác giả đã luận bàn một cách hệ thống những điểm cơ bản nhất về cách sử
dụng ngôn từ, đặc biệt là đại từ nhân xưng trong các thể thức văn hành chính:
chương, tấu, biểu và bác nghị. Tiếp nối Sái Ung, Tào Phi (187 – 226) trong thiên
Luận văn sách Điển luận cũng lược bình về đặc điểm bốn nhóm văn thể thông dụng
thời kỳ này (tấu nghị, thư luận, minh lụy, thi phú), trong đó có tấu.
Sang đời Tấn có Văn Phú của Lục Cơ (261 – 303) giới thuyết về đặc trưng
mười văn thể thông dụng bao gồm: thi, phú, bi, lụy, minh, châm, tụng, luận, tấu,
thuyết; Hàn lâm luận của Lý Sung (khoảng 349 - 365) luận về tấu, biểu cùng các
thể loại khác như: thư, nghị, văn, tán, bác, luận, nạn, minh, hịch, hình, cáo, thi; Văn
chương lưu biệt luận của Chí Ngu (? - 311) đề cập tới mười một loại văn thể (đối
thi, phú, châm, minh, ai từ, ai sách, lụy, tụng, thất, đối vấn, bi minh) nhưng không
có chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư. Triều Tấn cũng là giai đoạn hợp nhất ba bộ sách
thuộc bậc tiểu học về âm vận, giải nghĩa từ và cú pháp cơ bản của cụm từ được soạn
6
riêng dành cho trẻ nhỏ là: Thương Hiệt thiên (vốn trước đây là ba bộ Thương Hiệt
Thiên của Lý Tư (280 – 208 TCN), Ái lịch thiên của Triệu Cao (?- 207 TCN), Bác
học thiên của Hồ Vô Kính (?-?) thời Tần), Huấn toản thiên của Dương Hùng (53
TCN – 18) thời Tây Hán, Bàng hi thiên của Giả Phường thời Đông Hán thành bộ
Tam thương nổi tiếng.
Những trước tác trên trải qua thời gian đều đã thất tán, nhưng qua trích dẫn
từ các bộ sách nổi tiếng có thể thấy được tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng tới
các học giả về văn thể sau này.
Trong hoàn cảnh văn tịch như vậy, Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp (465 -
520) đời Lương thời kỳ Nam Bắc triều xuất hiện đã mở ra cục diện mới trong
nghiên cứu ngôn ngữ văn thể trung đại. Ngoài việc giữ được sự toàn vẹn về văn bản,
đây còn là bộ sách chuyên sâu và hệ thống nhất về văn thể thời kỳ này so với trước
đó và có ảnh hưởng tới toàn bộ nghiên cứu về sau. Tác phẩm chia làm mười (10)
quyển, năm mươi (50) thiên, luận bàn về các thể loại: minh thi, nhạc phủ, toàn phú,
tụng tán, chúc minh, minh châm, lụy bi, ai điếu, tạp văn, giai ẩn, sử truyện, chư tử,
luận thuyết và chiếu sách, hịch di, phong thần, chương biểu, tấu khải, nghị đối, thư
ký.
Tiếp nối ngay sau Văn tâm điêu long, Văn chương lục khởi của Nhậm
Phưởng cũng là tác phẩm có ảnh hưởng lớn tới nghiên cứu văn thể đời sau. Bộ sách
chuyên sâu vào phân loại văn thể nên phần khảo cứu nội dung, nghệ thuật rất sơ
lược. Trong tám mươi lăm loại văn thể được tác giả tuyển chọn có chiếu, tấu, biểu
và hai thể loại liên quan là tấu kí và nhượng biểu.
Thời đại Tùy Đường là giai đoạn cải cách, khai sáng, định hình và phát triển
rực rỡ của các dạng văn thể với nhiều tác gia nổi tiếng. Đặc điểm ngôn từ các văn
thể hành chính như chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư thời kỳ này chỉ được đề cập môt
cách gián tiếp trong vài trích lục, tiểu tác và bị chìm lấp trong khối lượng đồ sộ các
trước tác nổi tiếng về thi từ cũng như các bình phẩm về văn chương nghệ thuật, khó
tìm ra công trình mang tính chuyên sâu đặc sắc và có ảnh hưởng lớn. Đáng chú ý
nhất giai đoạn này là các tác phẩm thuộc Thập tam kinh chú sớ như: Văn tuyển chú
7
của Lý Thiện, dịch chú các văn thể của Văn tuyển nhưng không bình về đặc điểm
văn phong, ngôn ngữ; Tứ thư tập chú của Khổng Dĩnh Đạt (574 - 648), trong đó có
dịch chú về thượng thư – văn tịch cổ đầu tiên ghi lại văn thể hành chính, tất nhiên
chưa đề cập tới chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư. Ngoài ra có thể kể đến bản chiếu Hình
biểu sớ bất thực chiếu của Đường Cao Tổ Lý Uyên (566 - 635), bình về tệ rườm rà,
hoa lá viển vông, không đi thẳng vào vấn đề của văn bản hành chính đương thời.
Các công trình đáng chú ý của triều Tống về ngôn ngữ trong văn bản hành
chính: Văn chương chính tông của Chân Đức Tú (1178 - 1235), trên phương diện
thể, dụng bình luận về bốn nhóm văn thể từ đời Hán trở về trước, bao gồm: từ mệnh,
nghị luận, tự sự và thi ca, trong đó chiếu, dụ được xếp vào nhóm từ mệnh; tấu, biểu
thuộc nhóm nghị luận; chưa được đề cập chỉ và tư; Trực Trai thư lục giải đề của
Trần Chấn Tôn, tuyển chọn và bình phẩm về bốn (04) thư lục: kinh, sử, tử, tập,
trong đó có chiếu (thuộc sử lục), tấu (thuộc tập lục). Đây cũng là thời kỳ xuất hiện
những manh nha của ngôn ngữ văn tự học hiện đại với các thuật ngữ “động tự”,
“tĩnh tự” tương đương với động từ (verb) và danh từ (noun) trong ngôn ngữ học
phương Tây.
Bước sang triều Minh có hai tác phẩm tiêu biểu về ngôn ngữ văn thể cổ trung
đại đề cập tới chiếu, biểu, tấu, dụ là Văn chương biện thể của Ngô Nạp và Văn thể
minh biện của Từ Sư Tăng.
Đời Thanh có hai (02) công trình ảnh hưởng lớn đến việc nghiên cứu thể loại
cũng như ngôn ngữ trong văn bản quản lý nhà nước cổ trung đại nói chung là Cổ
văn từ loại toản của Diệu Nãi và Kinh sử bách gia tạp sao của Tăng Quốc Phiên.
Trên tiêu chí văn phong, nội dung kinh điển và chức năng, Diệu Nãi xếp chiếu vào
nhóm chiếu lệnh cùng các thể loại: sắc, lệnh, cáo, chế, phù, còn Tăng Quốc Phiên
gộp chiếu và tấu nghị vào cùng nhóm cáo ngữ với lệnh, thư độc. Đây cũng là thời
kỳ phục hưng và phát triển mạnh của “tiểu học” - ngôn ngữ văn tự học trung đại cả
trên phương diện quan thư và cá nhân với các bộ sách nổi tiếng như: Khang Hi từ
điển, Từ Nguyên, Kinh truyện thích từ, Vựng âm diệu ngữ…
8
Ngoài ra phải đề cập tới phân mục khoa mục chí, văn nghệ chí, văn tịch chí,
bách quan chí, quan chức chí, văn học truyện có trong các bộ sử thể kỷ truyền, loại
chí hoặc các bộ hội điển mang tính chính thống, quan phương của nhà nước phong
kiến về thể chế, xã hội như Hán thư, Hậu Hán thư, Tấn thư, Tùy thư, Cựu Đường
thư, Tân Đường Thư, Tống sử, Liêu sử, Kim sử, Nguyên sử, Minh sử, Thanh sử cảo,
Đường lục điển, Đại Minh hội điển, Đại Thanh hội điển, Khâm định Đại Thanh hội
điển và một vài bộ sử trong 25 bộ biệt sử (nhị thập ngũ biệt sử)…
2.1.1.2. Việt Nam
Ngay sau khi giành được độc lập, những vương triều đầu tiên tại Việt Nam
đã có ý thức xây dựng cho mình một nền văn hiến, điển chương riêng nhằm thể hiện
tinh thần và ý chí độc lập tự chủ trước các vương triều Trung Quốc. Tuy nhiên, do
sự khắc nghiệt của điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa và sự tàn phá của chiến
tranh, các công trình về văn thư thời kỳ này còn lại không nhiều, phần lớn chỉ còn
tên ghi trong các mục văn tịch chí của các bộ sử thời Nguyễn và chủ yếu mang tính
chất tuyển soạn, ít khảo cứu, bình thuật.
Tác phẩm sớm nhất trong sử sách ghi lại có đề cập tới văn bản hành chính
trung đại nói chung là Công văn cách thức, soạn vào năm Hưng Long thứ 7 (1299)
triều Trần Anh Tông đời Trần, tuy nhiên tới nay đã mất.
Tiếp đến là bộ Thiên Nam dư hạ tập do Thân Nhân Trung (1418-1499) và
Đỗ Nhuận (1446-?) soạn theo ý Lê Thánh Tông vào năm Hồng Đức thứ 2 (1471)
đời Lê sơ, ghi chép về điển chương, chế độ, trong đó có văn thư, cáo sắc.
Sang đời Mạc có tác phẩm Ứng đáp bang giao của Mạc Trừng thời Mạc
soạn chép thư từ và biểu văn của các triều, tới nay còn ba (03) quyển.
Giai đoạn Lê mạt, Nguyễn Sơ nổi lên tác phẩm Vũ trung tùy bút, viết theo
thể ký của Phạm Đình Hổ với hơn chín mươi (90) bài tự thuật về nhiều vấn đề khác
nhau, trong đó có nhiều bài viết khảo cứu về học thuật, văn thể.
Triều Nguyễn là giai đoạn nở rộ nhiều công trình về đặc điểm văn thể và
ngôn ngữ văn thể hành chính, tiêu biểu như: Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy
Bích (1744 - 1818), tuyển chọn ghi chép và lược bình văn phong các tác phẩm văn
9
bản hai (02) đời Lê, Trần, trong đó có các thể công văn: chiếu, tấu, biểu, chế, sách,
tạ, khải, công văn; Văn loại (chép các bài chiếu, biểu, chế, lục, cáo, bi kí), Quân
trung từ mệnh tập (ghi chép thư, lệnh, tấu, biểu đấu tranh ngoại giao của Nguyễn
Trãi) của Dương Bá Cung (1794 - 1868)… Ngoài ra, phải kể tới Cổ kim khoa thí
thông khảo do Chuyết Hiên tàng bản ấn hành, khi lược khảo về khoa cử các triều
đại có nhắc tới các thể văn hành chính được sử dụng và có nhiều bình phẩm về văn
phong, ngôn từ nói chung của văn chương thời kỳ này trong mục Phó thuyết; các
mục ghi chép về văn thể trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ và Khâm định
Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (Quốc sử quán triều Nguyễn soạn); mục Khoa mục
chí, Văn tịch chí trong Lịch triều hiến chương loại chí (Phan Huy Chú (1782 -
1840); mục Thiên chương trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn (1726 - 1784)
Tuy nhiên văn thể trong các công trình này mới chỉ được đề cập trên phương diện
chức năng thể loại và cơ quan ban hành hoặc ở dạng liệt kê tên gọi, không phải
những nghiên cứu đích thực.
Về cơ bản, ngôn ngữ văn tự học hay tiểu học của giai đoạn trung đại tại Việt
Nam và Trung Quốc mang tính chất ngữ văn học, coi trọng hướng lý luận, biện chú
phụ theo kinh điển hơn là các nghiên cứu tách bạch đơn lẻ dạng từ điển. Cả hai
hướng này đều ứng dụng tổng hợp phương pháp xác định nghĩa, hình và âm của chữ,
trong đó hướng thứ nhất lấy đối tượng là từ cơ bản trong tiếng Hán và Hán văn để
chú thích, giảng nghĩa, hướng thứ hai xuất phát từ bản thân văn bản kinh điển để
bình luận, huấn giảng, gần giống với đối tượng của chuyên ngành ngữ dụng học
trong ngữ dụng học hiện đại.
Về phương pháp viết, những nghiên cứu về ngôn ngữ trong văn bản hành
chính thời kỳ trung đại tại Trung Quốc và Việt Nam đều tinh tuyển khảo cứu các tác
phẩm hành chính mang tính văn chương thể hiện phương pháp luận và nghệ thuật
hùng biện mẫu mực, đồng thời xếp chung nhóm loại này vào cùng văn tập với các
văn thể mang tính nghệ thuật khác, lấy đó làm chuẩn mực cho đương đại và sau này
noi theo. Tại Việt Nam do hoàn cảnh chiến tranh và điều kiện lưu giữ không tốt nên
các công trình để lại không nhiều, đặc biệt là các công trình nghiên cứu về văn thể.
10
2.1.2. Thời kỳ cận - hiện đại và đương đại (từ cuối thế kỷ XIX đến nay)
2.1.2.1. Trung Quốc
Trong thời kỳ chuyển giao từ phong kiến trung đại lên cận đại (những năm
cuối thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX), ngôn ngữ học nói chung và nghiên cứu về
ngôn ngữ trong văn bản hành chính cổ trung đại nói riêng tại Trung Quốc có những
biến chuyển mạnh mẽ khi tiếp xúc với các phương pháp, lý thuyết ngôn ngữ học
phương Tây. Sự tiếp xúc này chia rẽ ngôn ngữ học Trung Quốc theo hai hướng: một
là tiếp nối phát triển thành tựu của ngạch tiểu học; hai là ứng dụng hoàn toàn lý luận
và cách phân tích cấu trúc ngữ pháp, từ vựng của ngôn ngữ học phương Tây để định
hình đặc điểm ngôn ngữ Hán văn. Dù theo lý luận của phương Đông hay phương
Tây thì các nghiên cứu ngôn ngữ Hán cổ giai đoạn này về cơ bản gần giống hướng
đi của “tiểu học” thời kỳ trung đại, và trên thực tế, ngôn ngữ văn tự học của thời kỳ
này chính là ngạch “tiểu học” trong quá khứ do Chương Thái Viêm (1869-1936) đề
xướng đổi tên vào năm 1906. Xu hướng “tiểu học” trọng phân tích ngữ pháp (cấu
tạo, hình thái), âm vận và từ vựng xuất phát từ nhu cầu thiết thực đối với nhân loại
ở cả phương Đông cũng như phương Tây lúc này: phương Tây muốn vượt qua rào
cản văn tự để hiểu về văn hóa phương Đông cổ trung đại; phương Đông muốn tìm
lại giá trị văn hóa, ngôn ngữ của mình, sau một thời gian dài bị chìm lấp trước sự
xâm lấn của văn hóa và ngôn ngữ phương Tây.
Giáo sư Vương Lực trong Lịch sử ngôn ngữ học Trung Quốc chia thời kỳ
giao thời này làm hai giai đoạn: giai đoạn tạo lập (1898 - 1935) với các đại biểu là
Mã Kiến Trung (Mã thị văn thông), Dương Thụ Đạt (Cao đẳng quốc văn pháp, Từ
Thuyên, Mã thị văn thông khan ngộ, Hán ngữ văn ngôn tu từ học…), Lê Cẩm Hi
(Tân trước quốc ngữ văn pháp, So sánh văn pháp…); giai đoạn phát triển (1936 –
1948) với đại biểu là các nhà nghiên cứu và giáo sư: Vương Lực (Hán ngữ sử luận
văn tập, Cổ đại Hán ngữ…), Lữ Thức Tương, Cao Danh Khải, trong đó Lữ Thức
Tương và Cao Danh Khải chuyên về ngữ pháp ngôn ngữ hiện đại. Tuy nhiên các
học giả trên đặt trọng tâm nghiên cứu về hán ngữ cổ đại nói chung, ít đề cập tới văn
thể cụ thể.
11
Trên phương diện này phải nhắc tới hai nhà nghiên cứu tiên phong mở đầu
cho ngành văn thư học là: Từ Vọng Chi với Công độc thông luận (1931) lược thuật
về hợp nghĩa, phân loại, thể lệ, phương pháp soạn thảo, kết cấu, thủ pháp và dụng
ngữ của công văn trên cơ sở khảo chứng các văn bản chính trị nổi tiếng trong lịch
sử; Hứa Đồng Tân với hai tác phẩm giá trị về văn thể trung đại rải đều trong cả hai
thời kỳ theo cách phân chia của giáo sư Vương Lực, bao gồm: Công độc toàn nghĩa
(1934) giới thiệu nguyên lưu công độc (văn bản chính trị) và dịch chú các văn bản
nổi tiếng, Công độc học sử (1949) giới thiệu về nguyên lưu, đặc điểm của công độc
cũng như công độc học nói chung, trích tuyển các văn bản nổi tiếng trong lịch sử
Trung Quốc. Tuy nhiên các tác phẩm trên đều được viết bằng văn ngôn trung đại,
nếu không trang bị những kiến thức về ngữ pháp cơ bản của Hán ngữ trung đại khó
có thể hiểu được.
Kể từ những năm tám mươi của thế kỉ trước trở lại đây, khi các dân tộc trong
khối phong kiến Đông Á cũ (Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn
Quốc) ý thức hơn trong việc phục hưng lại văn hóa truyền thống nhằm tìm lại vị trí,
hình ảnh của mình trong văn hóa, văn hiến thế giới, các công trình về ngôn ngữ
trong văn thể cổ trung đại bùng phát với số lượng lên tới hàng nghìn và theo nhiều
khuynh hướng khác nhau: văn sử học, văn nghệ học, ngôn ngữ văn tự học, công văn
học, hồ sơ học…
Trong giai đoạn từ thập kỉ tám mươi đến đến thập kỉ chín mươi của thế kỉ
XX, nghiên cứu của giới văn nghệ học tập trung nghiên cứu mặt nội dung, kinh điển
và thủ pháp nghệ thuật trong các tác phẩm mang đậm tính văn chương, hoặc hùng
biện mẫu mực; các nghiên cứu về những thể loại mang đậm chất thông tin, hành
chính sự vụ như tư báo, tư trình, tư văn của thời cổ đại thì chú trọng đến nguồn gốc
diễn biến, phương pháp soạn thảo ban hành; các nghiên cứu của giới ngữ văn thuộc
ngạch sư phạm thì mang tính tổng hợp, tiêu biểu như Khái luận về nguồn gốc diễn
biến văn thể công văn cổ đại của Hồ Nguyên Đức, Nghiên cứu công văn cổ đại,
Lịch sử phát triển công văn cổ đại của giáo sư Đinh Hiểu Xương hay các công trình
về văn thể trung đại của Hồ Minh Ba, Lý Phong Khải…, ngoài khảo cứu nguồn gốc
12
diễn biến, nội dung, và phương pháp soạn thảo đã trình bày sơ qua phong cách hành
văn nhưng chưa đi chi tiết vào các khía cạnh từ vựng, ngữ pháp của từng chỉnh thể.
Nghiên cứu của giới lịch sử học, công văn học, lưu trữ và quản trị học, hồ sơ
học khảo cứu tất cả các dạng văn bản, trong đó có chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư nhưng
tập trung cách thức soạn thảo, ban hành cũng như cơ quan thực thi, một số đi vào
dịch thuật, mặt ngôn ngữ ít được đề cập, phần lớn là trên phương diện phong cách
chung, không đi vào chi tiết… Các tác giả tiêu biểu: Mẫn Canh Nghiêu (Nghiên cứu
công văn Trung Quốc, Sơ lược lịch sử công văn cổ đại), Miêu Phong Lâm (Công
văn học Trung Quốc), Lương Thanh Hối (Vựng dịch các loại công văn cổ kim), Lưu
Hậu Tân, Lý Cẩm Tú…
Nghiên cứu thuộc lĩnh vực ngôn ngữ học đa dạng hơn, coi trọng cả đặc điểm
ngôn ngữ Hán văn ở mặt tổng quát (từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm) cũng như xét đến
trong từng văn bản chỉnh thể (phong cách, đặc điểm cấu tạo câu, từ…) với các học
giả tiêu biểu: Vương Lực, Hà Cửu Doanh, Dương Bá Tuấn…
Nhìn chung so với giai đoạn cổ trung đại, các nghiên cứu giai đoạn hiện đại
phân loại văn thể rõ ràng hơn. Cách phân loại được nhiều người sử dụng nhất là
phân văn thể thành bốn loại dựa theo đặc tính ngôn ngữ, cách thức ban hành và
chức năng: loại chiếu lệnh; loại tấu nghị; loại quan phủ (trình lên, ban xuống, ngang
cấp); loại chuyên dụng. Những thành tựu có ý nghĩa trực tiếp nhất về ngôn ngữ
trong văn bản hành chính cổ thuộc nghiên cứu của những chuyên ngành: văn sử học,
phân ngành ngữ dụng học, phong cách học, phân tích diễn ngôn của ngôn ngữ học
hiện đại và công văn học, hồ sơ học.
2.1.2.2. Việt Nam
Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ viết Hán văn trong các văn bản cổ trung
đại tại Việt Nam giai đoạn hiện đại có nhiều nét giống với Trung Quốc, không chỉ
bởi đây ngôn ngữ ngoại nhập từ Trung Hoa, mà còn bởi khoảng cách gần về địa văn
hóa, chính trị tạo điều kiện tiếp xúc thuận lợi cho học phong giữa hai quốc gia cũng
như sự tương đồng về bối cảnh chính trị - kinh tế - xã hội. Theo đó, có thể chia theo
hai hướng: hướng ngôn ngữ học hiện đại kết hợp các thao tác kỹ thuật và lý luận
13
ngôn ngữ học từ phương Tây, chú trọng phân tích những đặc điểm chung của từ
vựng, ngữ pháp, ngữ âm Hán Việt cũng như tiếng Việt nói chung; hướng văn hóa
học, văn sử học, tâm lý học, triết học đặt trọng tâm là phân tích bình phẩm về nghệ
thuật dụng ngôn và ý nghĩa liên từ trong chỉnh thể văn bản, tác phẩm cụ thể.
Giai đoạn từ những năm đầu thế kỷ XX cho đến trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945 do hoàn cảnh lịch sử chúng ta không có nhiều chuyên luận về ngôn ngữ
trong các thể văn bản hành chính trung đại cụ thể. Những công trình tiêu biểu của
giai đoạn này phần nhiều thuộc về tầng lớp trí thức Nho học cũ, và đề cập tới ngôn
ngữ Hán văn ở mặt tổng quan, như: Xét về cách dùng chữ đặt câu trong sự học chữ
Hán, Nam học Hán tự, Nguồn gốc và phương pháp học chữ Hán, Hán văn sơ học
tiệp giải…
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho tới đầu thập kỷ tám
mươi, do hoàn cảnh chiến tranh và chú trọng nhiệm vụ tái thiết đất nước, tập trung
vào những vấn đề giáo dục cơ bản, hoàn thiện chữ quốc ngữ nên phần lớn nghiên
cứu trong nước về ngôn ngữ Hán văn trong văn bản hành chính trung đại chỉ ở dạng
bài giảng, bài soạn lưu hành nội bộ, không được công bố rộng rãi.
Các nghiên cứu về ngôn ngữ Hán văn chỉ nở rộ kể từ giữa thập kỷ tám mươi
trở lại đây. Trước tiên phải kể tới các công trình, giáo trình, bài giảng, bài soạn
thuộc ngành ngữ văn học, bao gồm văn học, ngôn ngữ và Hán nôm – ngạch học
trực tiếp nhất tại Việt Nam về Hán văn cổ đại cả về phương diện nghĩa lý, nội dung
và ngôn ngữ học.
Từ góc độ Hán Nôm, Hán ngữ cổ đại nói chung và ngôn ngữ trong văn bản
hành chính nói riêng là một trong những đối tượng nghiên cứu chính, do vậy có thể
tìm thấy vấn đề này trong các giáo trình đại học cơ sở như Giáo trình Hán Nôm
dành cho du lịch của Phạm Văn Khoái, Giáo trình Ngữ văn Hán Nôm (1984) của Lê
Trí Viễn và Đặng Ngọc San (chủ biên)… Tuy nhiên do vấn đề tư liệu và trong
phạm vi cơ sở, vấn đề ngôn ngữ trong những văn bản hành chính thường nhật chưa
được các giáo trình đề cập kỹ, chỉ dừng lại ở mức đặt vấn đề. Trên phương diện
chuyên luận, Tấu biểu đấu tranh ngoại giao Nguyễn Trãi của Nguyễn Văn Nguyên
14
đã khảo cứu về hai thể tấu, biểu trên phương diện so sánh văn bản, chú thích điển cố,
ít khảo cứu bình luận về ngôn ngữ và nghệ thuật dụng ngôn; Văn chương khoa cử
thời Lê sơ của Nguyễn Văn Thịnh, tuyển chọn và phân tích về một số văn thể thời
Lê, trong đó có văn bản hành chính. Ở quy mô nhỏ hơn là các bài viết tạp chí nhưng
do giới hạn về dung lượng nên mỗi bài viết thường chỉ tập trung vào một, hai vấn
đề cụ thể của ngôn ngữ Hán văn nói chung, trong đó có ngôn ngữ trong văn bản
hành chính Hán văn, như giới thiệu hoặc xem xét sơ qua đặc điểm cấu trúc, xuất xứ
hoặc lịch sử của một văn bản riêng lẻ hoặc một thể loại, không xem xét chỉnh thể
toàn bộ hệ thống văn bản hành chính cũng như đặc điểm ngôn ngữ của văn bản
hành chính của thời trung đại. Cũng phải nhắc tới các công trình tập trung vào
những vấn đề chung nhất của từ Hán Việt (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) tiêu biểu
như Ngữ pháp Hán ngữ cổ đại của Đinh Trọng Thanh. Ngoài ra phải kể đến các
sách từ điển – nguồn từ vựng Hán văn phong phú như Giúp đọc Nôm và Hán Việt
của Anthony Trần Văn Kiệm tại Mỹ, Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu, Tự điển
Hán Việt của Đào Duy Anh… Đương nhiên những tác phẩm dạng này không
nghiên cứu vấn đề ngôn ngữ Hán văn trong những văn bản hành chính cụ thể.
Song hành với ngạch Hán Nôm, mảng trung đại của ngành văn học tuy
không đi chi tiết vào văn tự, từ rời lẻ nhưng dựa trên cơ sở lý luận để phân tích,
bình điểm một cách hệ thống các chỉnh thể văn bản nên làm nổi bật được đặc điểm
nghệ thuật, phương pháp dụng chữ, câu để thể hiện ý đồ của tác giả sáng tạo văn
bản, có giá trị lớn đối với nghiên cứu ngôn ngữ ở mặt ngữ dụng, văn phong. Trong
các giáo trình về văn học trung đại tại các trường đại học cũng như sách giáo khoa
phổ thông đều có đề cập tới những văn bản và văn thể hành chính tiêu biểu nhưng
không đặt trong hệ thống văn bản pháp quy, hệ thống chức năng hành chính của văn
bản pháp quy mà đi từ góc độ nghệ thuật của văn bản và đặt vào hệ thống thể loại
của văn học nghệ thuật, về cơ bản gần giống với hướng “ngữ nghĩa – huấn hỗ” của
thời trung đại. Tuy nhiên do ít dựa trên thực tế văn bản Hán Nôm, chủ yếu phân tích
trên bản dịch nên các công trình ngạch văn học không cung cấp nhiều dữ liệu về
ngữ pháp, từ vựng. Những thể loại thường được khảo cứu, bình phẩm nhất là Chiếu
15
(Thiên đô chiếu, Tức vị chiếu, Cần Vương chiếu, Lâm chung di chiếu…), biểu (Tạ
ân biểu, Trần tình biểu), hịch (Hịch tướng sĩ), cáo (Bình ngô đại cáo), sớ (Thất trảm
sớ)
Từ góc độ của ngành ngôn ngữ học, nghiên cứu về Hán văn chủ yếu tập
trung vào lĩnh vực ngữ âm và từ vựng Hán Việt ở mặt tổng quan cũng như ảnh
hưởng của chúng tới tiếng Việt, không đi sâu vào các văn bản hành chính cụ thể của
thời trung đại.
Trong các chuyên ngành liên quan trực tiếp đến văn bản hành chính nói
chung như: lưu trữ-quản trị văn phòng hay hành chính, mặc dù có khảo xét văn bản
hành chính cổ trung đại nhưng đều ở góc độ kỹ thuật soạn thảo, phương thức ban
hành, và sơ lược về văn phong, còn vấn đề ngôn ngữ cụ thể trong văn bản chưa
được tìm hiểu kỹ, tiêu biểu như Văn bản quản lý nhà nước thời Nguyễn: Giai đoạn
1802 - 1884 của Vũ Thị Phụng.
Mặc dù các học giả tại Việt Nam hiện đại có quan tâm tới chiếu, chỉ, dụ, tấu,
biểu, tư cũng như các thể loại văn bản hành chính trung đại, tuy nhiên đa phần tập
trung vào bình diện văn chương nghệ thuật hoặc cơ quan ban hành, cách soạn thảo,
phát bố, lưu hành và mới chỉ đề cập tới hệ thống ngôn ngữ trong các văn bản nhóm
hành chính nghi thức, chưa phân tích nhóm văn bản xuất phát từ sự vụ hành chính
thường nhật của chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư.
2.2. Nghiên cứu ngôn ngữ chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư trong châu bản triều
Nguyễn
Là khối tư liệu độc bản thể hiện sát thực thể chế và điển chương của triều
Nguyễn nên ngay từ khi được tiếp quản sau chiến tranh, châu bản đã được quan tâm
khảo cứu, tuy nhiên phần lớn là các sách biên mục hoặc tuyển tập giới thiệu, ít công
trình đi sâu vào nội tại văn bản cũng như nội dung ngôn ngữ.
Những công trình biên mục, trích yếu tiêu biểu:
- Mục lục châu bản triều Nguyễn tập I do Uỷ ban Phiên dịch sử liệu Việt
Nam - Viện Đại học Huế biên dịch tóm tắt, công bố xuất bản năm 1960 gồm bốn
tập châu bản triều Gia Long (từ tập 1 đến tập 4) với 723 văn bản.
16
- Mục lục châu bản triều Nguyễn tập II cũng do Uỷ ban Phiên dịch sử liệu
Việt Nam - Viện Đại học Huế biên dịch tóm tắt, công bố xuất bản năm 1962 gồm
mười tập châu bản triều Minh Mệnh (từ tập 1 đến tập 10) với 971 văn bản.
- Mục lục châu bản triều Nguyễn tập I do Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước,
Trung tâm Lưu trữ quốc gia I biên tập xuất bản, NXB Văn hóa - Thông tin ấn hành
năm 2010.
- Mục lục châu bản triều Nguyễn tập II do Cục lưu trữ nhà nước phối hợp với
Đại học Huế, Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu văn hoá biên tập xuất
bản và được NXB Văn hoá ấn hành năm 1998. Bản dịch sang tiếng Anh của sách do
nhà xuất bản Thế giới ấn hành năm 2000 với sự tài trợ của Quỹ Toyota Foundation
(Nhật Bản).
Tiếp đến là các công trình tuyển dịch, lược thuật và đi sâu khai thác giá trị
nội dung của tư liệu châu bản như:
- Châu bản triều Tự Đức 1848 - 1883: tuyển chọn và lược thuật do nhóm tác
giả Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ Quang Phát tuyển chọn, lược dịch và Giáo
sư Trần Nghĩa giới thiệu.
- Châu bản triều Nguyễn - tư liệu Phật giáo qua các triều đại nhà Nguyễn
143 năm từ Gia Long 1802 đến Bảo Đại 1945 do Lý Kim Hoa sưu khảo, biên dịch
lược thuật gồm 250 văn bản châu bản về các vấn đề liên quan đến phật giáo triều
Nguyễn, nhà xuất bản Văn hoá thông tin ấn hành năm 2002.
- Ngự chế văn (Dụ văn) triều Minh Mạng do Trần Văn Quyền tuyển dịch và
giới thiệu, NXB Hà Nội năm 2000.
Công trình đầu tiên chuyên sâu vào vấn đề bố cục hình thức, thể cách của
văn bản châu bản triều Nguyễn là luận văn thạc sỹ Cấu trúc nội tại của loại hình
châu bản trên cứ liệu châu bản triều Minh Mạng, bảo vệ năm 2011 của thạc sỹ
Nguyễn Thu Hoài, tuy vậy trong luận văn của mình tác giả chưa nhắc đến khía cạnh
ngôn ngữ.
17
Nhìn chung các nghiên cứu về châu bản mới chỉ dừng lại ở việc trích dịch,
giới thiệu, tìm hiểu đặc điểm hình thức hoặc khai thác giá trị về sử liệu, chưa đi sâu
và hệ thống hóa đặc điểm ngôn ngữ.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Phân loại nhóm ngôn ngữ và phân tích đặc điểm các nhóm ngôn ngữ của văn
bản quản lý nhà nước Việt Nam giai đoạn 1902 - 1945 trong châu bản hành chính
triều Nguyễn ở sáu thể loại: chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Phạm vi tư liệu
Luận văn sử dụng tư liệu văn bản hành chính trong châu bản hiện lưu tại
Trung tâm Lưu trữ quốc gia I trên cơ sở tuyển chọn những văn bản tiêu biểu của 6
thể loại chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư. Điều này không ảnh hưởng lớn tới công việc
định hình hệ thống ngôn ngữ, bởi đặc điểm của văn bản hành chính là chuẩn mực
theo khuôn mẫu định sẵn. Ngoài ra, do là một luận văn thuộc chuyên ngành Hán
Nôm, chúng tôi chỉ đề cập tới các văn bản châu bản hành chính bằng chữ Hán, bỏ
qua các dạng châu bản hành chính bằng chữ quốc ngữ và tiếng Pháp trong hệ thống
châu bản.
4.2. Phạm vi nội dung
Mỗi ngôn ngữ là một chỉnh thể hoàn chỉnh cấu thành từ 3 phương diện: ngữ
âm, từ vựng và ngữ pháp, trong đó ngữ âm là biểu nghĩa bằng âm của từ vựng trong
ngôn ngữ, từ vựng là các thành tố hạt nhân trong kiến trúc ngôn ngữ, ngữ pháp là
kết cấu tổ chức của các thành tố hạt nhân trong ngôn ngữ. Mặc dù ngôn ngữ trong
văn bản là dạng ngôn ngữ viết không liên quan nhiều đến ngữ âm, nhưng tại Việt
Nam và Trung Quốc thời kỳ cổ trung đại, vận dụng thanh điệu bằng trắc vào câu
văn là một đặc điểm nổi bật nên ngoài từ vựng và ngữ pháp, chúng tôi sẽ nêu sơ qua
các vấn đề ngữ âm để tạo tiền đề làm rõ thủ pháp đối ngẫu trong các văn bản hành
chính: chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư. Vấn đề từ vựng, ngữ pháp cũng được trình bày
với tư cách là những nhân tố làm rõ đặc điểm của ngôn ngữ trong châu bản hành
chính.
18
5. Phương pháp nghiên cứu
Đặc điểm của ngôn ngữ chịu tác động của nhiều mặt, bao gồm cả tác nhân
chủ quan từ tâm lý chủ thể sử dụng và tác nhân khách quan của bối cảnh khu vực
địa lý – xã hội, đồng thời mang tính kế thừa lịch sử - đặc điểm được chủ nghĩa Mác
– Lênin đặc biệt nhấn mạnh. Điều này có thể nhận biết khi đi vào thực tế đặc điểm
ngôn ngữ sử dụng trong các văn bản chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư.
Chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư trong triều Nguyễn có lịch sử phát triển kế thừa
lâu dài, vừa mang đặc điểm chung của nhóm ngôn ngữ Hán tạng, vừa có đặc điểm
riêng của văn ngôn hành chính trung đại phương Đông nên cần kết hợp cả hai
phương pháp so sánh lịch sử và phương pháp loại hình khu vực để xem xét một
cách toàn diện. Nhiều tác phẩm không chỉ dừng lại ở trình bày công vụ sự việc mà
đạt đến tầm nghệ thuật như một tác phẩm văn học nghệ thuật thực thụ nên nếu chỉ
thuần áp dụng các phương thức phân tích kỹ thuật về cấu trúc, chú nghĩa từ, nghĩa
câu là chưa đủ, cần áp dụng phương pháp tổng hợp bình chú.
Ngôn ngữ và những biến động của ngôn ngữ dù xuất phát từ yêu cầu của
hoàn cảnh thực tế nhưng là sản phẩm của bộ óc con người nên chịu sự tác động của
con người. Ngôn ngữ viết hành chính phương Đông cổ trung đại bị ảnh hưởng nặng
từ ý đồ thể hiện quyền lực nhằm củng cố ngôi vị của giai cấp thống trị, do vậy cần
thiết có thêm cách nhìn từ góc độ tâm lý.
Từ thực tế trên, chúng tôi quyết định sử dụng phương pháp luận biện chứng
của chủ nghĩa duy vật lịch sử theo chủ nghĩa Mác - Lênin, đặt ngôn ngữ trong châu
bản trong mối quan hệ đa chiều để tìm hiểu khởi nguyên, phân biệt loại hình và
đánh giá một cách toàn diện các đặc điểm chung; kết hợp sử dụng các phương pháp
phân tích, loại hình, so sánh liên văn bản và liên ngôn ngữ khi đi sâu vào đặc điểm
ngữ pháp, cấu trúc ngôn từ từng thể loại nhằm làm rõ khác biệt chi tiết của các loại
văn bản.
6. Đóng góp của luận văn
- Cung cấp cái nhìn tổng quát về đặc điểm ngôn ngữ của văn bản quản
lý nhà nước trong châu bản giai đoạn 1802 – 1945, khía cạnh từ vựng và ngữ pháp.
19
- Là tư liệu tham khảo quan trọng cho các nhà ngôn ngữ học, văn bản
học, hành chính học và người nghiên cứu châu bản.
7. Cơ cấu luận văn
Phần mở đầu
1. Lý do chon đề tài.
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục tiêu nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp của luận văn
Phần nội dung
Chương 1: Chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu tư và châu bản triều Nguyễn
1.1. Chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư
1.1.1. Khái niệm chung
1.1.2. Lịch sử hình thành
1.1.2.1. Tại Trung Quốc
1.1.2.2. Tại Việt Nam
1.2. Châu bản triều Nguyễn
1.2.1. Khái niệm
1.2.2. Loại hình
1.2.3. Tình hình văn bản
1.3. Chiếu, chỉ, dụ, tấu, biểu, tư trong châu bản triều Nguyễn
1.3.1. Đặc điểm nội dung
1.3.2. Bố cục hình thức
1.3.3. Cách thức soạn thảo, ban hành, trung chuyển
1.3.4. Tình hình văn bản
1.4. Tiểu kết
Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ
2.1. Bối cảnh hình thành
20
2.1.1. Bối cảnh chính trị xã hội
2.1.2. Bối cảnh văn hóa
2.2. Đặc điểm ngôn ngữ
2.2.1. Nguồn gốc, cấu trúc
2.2.1.1. Từ vựng
2.2.1.2. Ngữ pháp
2.2.2. Tính chất
2.2.2.1. Tính quan phương mẫu mực phổ quát
2.2.2.2. Tính quyền uy, tôn ti, trật tự
2.2.2.3. Tính công vụ chính xác và tính văn học nghệ thuật
2.2.3. Cấu trúc ngữ vựng đặc trưng
2.2.3.1. Trích dẫn
2.2.3.2. Vận thanh đối ngẫu
2.2.3.3. Tỉ hứng
2.3. Tiểu kết
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục