Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Nghiên cứu phát triển thư viện điện tử trong các trường đại học trên bản địa Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 135 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





Phạm Thị Mai







NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRONG
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC THƯ VIỆN









Hà Nội - 2009



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



Phạm Thị Mai




NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRONG
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY


Chuyên ngành: Khoa học Thư viện
Mó số: 60 32 20

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC THƯ VIỆN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Nguyễn Hữu Hựng







Hà Nội - 2009
MỤC LỤC

NỘI DUNG
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
Chương 1. THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN GIÁO
DỤC ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
10
1.1. Thư viện điện tử
10
1.1.1. Khái niệm thư viện điện tử
10
1.1.2. Các yếu tố cấu thành TVĐT
15
1.1.2.1. Người dùng tin điện tử
15
1.1.2.2. Vốn tài liệu điện tử
16
1.1.2.2.1. Nguồn tài nguyên điện tử
16
1.1.2.2.2. Siờu dữ liệu
18
1.1.2.3. Cán bộ thư viện điện tử
19
1.1.2.4. Cơ sở vật chất, kỹ thuật

21
1.1.2.4.1. Phần cứng
21
1.1.2.4.2. Phần mềm
24
1.1.3. Điều kiện để xây dựng thư viện điện tử
27
1.2. Giáo dục đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội
27
1.2.1. Khỏi quỏt về thành phố Hà Nội
27
1.2.2. Hệ thống các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội
30
1.2.3. Hệ thống thư viện đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội
32
1.3. Vai trũ của thư viện điện tử đối với giáo dục trong hệ thống
các trường đại học trên địa bàn Hà Nội
34
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ
TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

37
2.1. Khỏi quỏt lịch sử hỡnh thành và phát triển của một số thư viện
37
trường đại học trên địa bàn Hà Nội
2.1.1. Nhóm thư viện các trường đại học đa ngành
37
2.1.2. Nhóm thư viện các trường đại học chuyên ngành
40
2.2. Thực trạng phát triển thư viện điện tử trong các trường đại

học trên địa bàn Hà Nội hiện nay
45
2.2.1. Người dùng tin điện tử
45
2.2.2. Vốn tài liệu điện tử
48
2.2.3. Nguồn nhõn lực
50
2.2.4. Cơ sở vật chất, kỹ thuật
53
2.2.4.1. Tổ chức và trụ sở làm việc
53
2.2.4.2. Trang thiết bị
54
2.2.4.3. Phần mềm thư viện
56
2.2.4.4. Kinh phí đầu tư
58
2.2.5. Sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện
58
Chương 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ TRONG
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
61
3.1. Xây dựng chính sách phát triển thư viện điện tử phự hợp
61
3.1.1. Mục tiờu của chớnh sỏch
61
3.1.2. Nội dung của chớnh sỏch
61
3.1.2.1. Chính sách phát triển thư viện điện tử tầm vĩ mô

61
3.1.2.1. Chính sách phát triển thư viện điện tử tầm vi mô
66
3.2. Tăng cường phát triển hạ tầng, và cơ sở vật chất kỹ thuật
76
3.2.1. Mở rộng diện tớch
3.2.2. Tăng cường phát triển hạ tầng kỹ thuật thông tin
76
76
3.2.2.1. Mạng intranet có tốc độ kết nối nhanh với internet.
77
3.2.2.2. Đầu tư hệ thống máy chủ (Server system).
77
3.2.2.3. Đầu tư hệ thống máy trạm
78
3.2.2.4. Đầu tư hệ thống các thiết bị ngoại vi cho TVĐT
78
3.2.2.5. Đầu tư thiết bị kiểm soát ra vào
79
3.2.2.6. Đầu tư các thiết bị an ninh
79
3.2.3. Đầu tư phần mềm
79
3.2.3.1. Đầu tư phần mềm TVĐT
79
3.2.3.2. Xõy dựng phần mềm hệ thống
83
3.3. Phát triển nguồn nhân lực cho xây dựng thư viện điện tử
84
3.4. Đầu tư tài chính cho phát triển thư viện điện tử

86
3.5. Đào tạo người sử dụng
89
3.6. Tăng cường chia sẻ và khai thác nguồn lực thông tin
90
3.6.1. Phỏt triển cỏc sản phẩm và dịch vụ thông tin điện tử
90
3.6.2. Bảo quản kho tư liệu điện tử
91
3.6.3. Xây dựng hệ thống thông tin thư viện đại học trên địa bàn Hà
Nội
92
3.6.4. Vấn đề bản quyền trong việc phát triển TVĐT
94



DANH MỤC CÁC Kí HIỆU, TỪ VIẾT TẮT

1.
Cơ sở dữ liệu
CSDL
2.
Cụng nghệ thụng tin
CNTT
3.
Đại học
ĐH
4.
Đại học Quốc gia

ĐHQG
5.
Siờu dữ liệu
SDL
6.
Thụng tin
TT
7.
Thư viện
TV
8.
Thư viện ảo
TVA
9.
Thư viện điện tử
TVĐT
10.
Thư viện số
TVS
11.
Trung tâm Thông tin Thư viện
TTTT-TV



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của công

nghệ thông tin (CNTT), xu thế hình thành xã hội thông tin (TT) toàn cầu thì TT có
vai trò vô cùng quan trọng. TT là nguồn lực phát triển của mỗi quốc gia: TT không
bao giờ mất đi hoặc cạn kiệt khi được sử dụng mà ngược lại càng sử dụng thì giá trị
càng cao. TT là cơ sở cho sự phát triển sản xuất bởi TT có thể làm rút ngắn quy
trình sản xuất thông qua quá trình chuyển giao. Đồng thời TT còn là cơ sở cho sự
phát triển khoa học bởi khoa học luôn có sự kế thừa và phát triển, TT trước làm tiền
đề cho sự nghiên cứu khoa học sau này. Vì vậy, việc xây dựng hệ thống TT – thư
viện (TV) hiện đại là việc làm rất cần thiết nhằm tạo lập được nguồn tin phong phú,
đa dạng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dùng tin, tạo động lực cho sự phát triển
mạnh mẽ về kinh tế - xã hội, sản xuất, khoa học và công nghệ.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nêu: “Phát triển mạnh, kết hợp
chặt giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát
huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và phát triển kinh tế tri thức. Thống nhất định hướng giữa phát triển khoa học
và công nghệ với chấn hưng giáo dục và đào tạo, phát huy quan hệ tương tác thúc
đẩy lẫn nhau giữa hai lĩnh vực quốc sách hàng đầu này” đã tạo đà cho sự phát triển
khoa học công nghệ trong giáo dục. Muốn phát triển kinh tế tri thức phải có TT.
Theo Giáo sư, Viện sĩ Đặng Hữu - Trưởng ban CNTT thì “Kinh tế tri thức là nền
kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định
đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống”. Mặt
khác, việc tiếp nhận vốn tri thức lại không dễ như tiếp nhận đồng vốn. Việc chuyển
giao, tiếp nhận phải thông qua giáo dục đào tạo. Giáo dục đào tạo do đó trở thành
ngành sản xuất vốn tri thức - ngành sản xuất cơ bản nhất, quan trọng nhất trong nền
kinh tế tri thức.


2

Tuy nhiên, để giáo dục đào tạo phát triển, ngoài những nhân tố như chương
trình học, trình độ, phương pháp của cán bộ giảng dạy còn có nhân tố khác đóng vai

trò quan trọng đối với giáo dục đó là cơ sở vật chất, trang thiết bị trong đó gồm hệ
thống cơ quan TT - TV hiện đại, có đủ khả năng đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo
dục, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thế giới TV hiện
nay đang trải qua một giai đoạn thay đổi lớn, các TV ĐH và TV nghiên cứu đang
đối mặt với sự phát triển mới. Cùng với sự phát triển việc sử dụng các công nghệ
mới, sự gia tăng TT số dưới dạng xuất bản phẩm điện tử và nguồn tin trên mạng, và
sự có mặt Internet ở khắp mọi nơi, làm cho việc quản lý, lưu trữ TT gặp rất nhiều
khó khăn. Việc xây dựng thư viện điện tử (TVĐT) có vai trò rất lớn trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất phát từ lợi ích mà TVĐT mang lại
cho nền kinh tế tri thức đó là sự chuyển giao TT nhanh nhất, thuận lợi nhất, tiết
kiệm nhiều nhất thời gian cho bạn đọc. Trong khi người ta không thể phủ nhận là
TV cũng là một nguồn TT quan trọng cho các nhà khoa học. Các nhà khoa học phần
nhiều thích truy cập nhanh tới các kết quả nghiên cứu mới nhất, đây là một trong
những điểm mà TVĐT có ưu điểm đáng kể hơn TV truyền thống.
Giáo dục ĐH đang đứng trước những thách thức mới, thời cơ mới. Một trong
những nhân tố quan trọng cho việc nâng cao chất lượng giáo dục ĐH đó là TV. Mà
sức mạnh của hệ thống các trường ĐH phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước thể hiện trước hết là cung cấp nguồn nhân lực, trí lực cho đất nước.
Họ là những người được đào tạo về cơ bản, có trình độ, có kiến thức, nắm bắt
những tri thức mới. Vậy với vai trò là nhân tố hỗ trợ cho việc nâng cao chất lượng
đào tạo thì TVĐT trong các trường ĐH có vai trò: hỗ trợ cho việc thay đổi phương
pháp giảng dạy, phương pháp học tập ở bậc ĐH. TVĐT làm thay đổi phương cách
vận dụng tri thức của người học, đồng thời làm thay đổi phương pháp đánh giá
người học
Qua đánh giá thực tế, nhìn chung hệ thống các cơ quan TT - TV ở nước ta
hiện nay còn nghèo nàn, lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của sự phát
triển như vũ bão về mọi mặt, đặc biệt là kinh tế tri thức.


3


Những năm gần đây, khái niệm TVĐT xuất hiện nhiều trong các tài liệu
nghiên cứu. Tuy nhiên, việc phát triển TVĐT trong các trường ĐH nói riêng chưa
được quan tâm nghiên cứu.
Vấn đề xây dựng TV hiện đại ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước quan
tâm chỉ đạo. Ngày 4 tháng 5 năm 2007 Bộ Văn hóa - TT ra Quyết định số
10/2007/QĐ- BVHTT phê duyệt “Quy hoạch phát triển ngành TV Việt Nam tới
năm 2010 và định hướng phát triển tới năm 2020” trong đó có nội dung: Ứng dụng
khoa học công nghệ cao nhằm tự động hóa, hiện đại hóa trong khâu hoạt động của
TV. Phát triển TVĐT và TV kỹ thuật số. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có
trình độ chuyên môn cao và ngoại ngữ thông thạo, không những làm việc tốt ở
trong nước mà còn làm việc tốt ở nước ngoài dưới dạng chuyên gia hoặc hợp tác
giao lưu trao đổi TT. Sưu tầm, bảo tồn và phát huy vốn di sản văn hóa trong TV
theo phương pháp hiện đại dựa vào CNTT phát triển ở mức cao. Hình thành 3 trung
tâm bảo quản vùng tại Hà Nội, Huế, Tp Hồ Chí Minh. Số hóa 100% tài liệu quý
hiếm trong TV”.
Dưới sự chỉ đạo đó nhiều cơ quan TT - TV đã tiến hành xây dựng TVĐT
nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước. Tuy nhiên, vấn đề này còn mới mẻ
nhất là đối với TTTT - TV các học viện, trường ĐH, cao đẳng (gọi chung là TV
ĐH) do thiếu kinh nghiệm và chưa có phương pháp luận khoa học cụ thể trong việc
phát triển TVĐT. TV dưới các hình thức biến thể khác nhau, là một yếu tố cấu
thành của trường ĐH và là điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực cho đất nước. Tuy nhiên, cho đến nay việc phát triển TVĐT ở nhiều TV
mới chỉ mang tính phong trào mà chưa có hệ thống, thiếu quy hoạch và tầm nhìn
chiến lược trên cả bình diện quốc gia. Một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay là
cần có sự nghiên cứu chuyên sâu, đưa ra giải pháp phát triển TVĐT cụ thể tại các
TTTT - TV trong các trường ĐH, tạo cơ sở cho sự phát triển đồng bộ, hệ thống.
Với những lý do trên tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu phát triển thư viện điện
tử trong các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội hiện nay”.




4

2. Tình hình nghiên cứu
Thực tiễn phát triển TVĐT được dễ dàng nhận thấy từ các trường ĐH được
hỗ trợ từ dự án trong nước cũng như nước ngoài. Tuy vậy, việc xây dựng TVĐT chỉ
dừng lại ở một số trường đơn lẻ, chưa có sự phát triển đồng bộ, hệ thống.
Việc nghiên cứu về TVĐT ở Việt Nam cho đến nay cũng mới chỉ mang tính
riêng lẻ, chỉ dừng lại ở những khía cạnh riêng biệt mang tính kỹ thuật như:
“Thư viện điện tử dưới góc nhìn đào tạo” của tác giả Bùi Loan Thuỳ đăng
trên Tạp chí TT & Tư liệu số 3 năm 2005. Đề cập đến các nội dung như so sánh
mục tiêu đào tạo giữa các cơ sở đào tạo cán bộ TT - TV tại các trường ĐH ở nước
ta, xem xét yêu cầu xây dựng TVĐT và tác động của xu thế xây dựng TVĐT tới
chương trình đào tạo, tổ chức giảng dạy và trang thiết bị cần thiết cho các cơ sở đào
tạo cán bộ TT - TV hiện nay.
“Thư viện điện tử Trường ĐH tổng hợp Amsterdam và vấn đề xây dựng thư
viện điện tử Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Huệ đăng trên Tạp chí TT & Tư liệu
số 3 năm 2004. Giới thiệu kinh nghiệm xây dựng TVĐT tại Trường ĐH tổng hợp
Amsterdam, Hà Lan trên ba phương diện: xây dựng kho tư liệu số, phương thức tiếp
cận và khai thác TT, các dịch vụ của TVĐT. Nêu vấn đề xây dựng kho tài liệu số
hoá và phát triển các mối liên kết của các TV khi xây dựng TVĐT ở Việt Nam.
“Xây dựng thư viện điện tử và vấn đề số hoá tài liệu ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Tiến Đức đăng trên Tạp chí TT & Tư liệu số 2 năm 2005. Trình bày tiếp
cận xây dựng TVĐT, xem xét khía cạnh cấu trúc, hạ tầng cơ sở kỹ thuật và phát
triển kho tư liệu số hoá của TVĐT. Đề cập việc tổ chức số hoá tài liệu số trong
phạm vi mạng lưới của các tổ chức TT khoa học công nghệ ở Việt Nam.
“Các tiêu chí đánh giá và lựa chọn phần mềm cho thư viện điện tử ở Việt
Nam” của tác giả Tạ Bá Hưng, Nguyễn Điến, Nguyễn Thắng đăng trên Tạp chí TT
& Tư liệu số 2 năm 2005. Đề cập đến các tiêu chí đánh giá và lựa chọn phần mềm

cho TVĐT: nhóm tiêu chí về CNTT, tiêu chí về chuẩn nghiệp vụ TT - TV, và nhóm
tiêu chí đối với các phân hệ chức năng và một số lưu ý trong điều kiện ở Việt Nam.


5

Bên cạnh đó còn một số công trình nghiên cứu khác: “Thư viện số (TVS) -
Định nghĩa và vấn đề” của tác giả Cao Minh Kiểm đăng trên Tạp chí TT & Tư liệu
số 3 năm 2000: Phân tích những đặc điểm chủ yếu của TVS, nêu những vấn đề kỹ
thuật, xây dựng kho tài liệu số, xây dựng SDL cần được quan tâm giải quyết khi bắt
tay xây dựng TVS, trao đổi một số ý kiến xung quanh việc xây dựng TVS ở Việt
Nam; Bài viết “TVS với hệ thống mã nguồn mở” của tác giả Nguyễn Minh Hiệp
nêu một số định nghĩa TVS, những phần mềm nguồn mở TVS tiêu biểu; Bài viết
của tác giả Phùng Ngọc Sáng với nhan đề “Một số khái niệm - thuật ngữ về TVĐT,
TVS” phân biệt giữa các khái niệm liên quan đến TVĐT. Bài “Giải pháp xây dựng
các bộ sưu tập tài liệu số” của tác giả Nguyễn Hữu Ty nêu sự khác nhau của các
khái niệm như TVĐT, TVS, ý nghĩa của bộ sưu tập số, các giải pháp xây dựng bộ
sưu tập tài liệu số gồm lựa chọn tài liệu đầu vào, lựa chọn công nghệ, số hoá nguồn
tài liệu.
Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu trong các Kỷ yếu Hội thảo khoa
học tiếp cận xây dựng TVS ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội nghị ngành TT Khoa học và
công nghệ - Lần thứ V, và gần đây nhất là Kỷ yếu hội thảo quốc tế về TVS lần thứ
X tại Hà Nội năm 2007 với một số bài tiêu biểu như: “Xây dựng và phát triển
TVĐT trong hệ thống TV ĐH ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Huy Chương, bài
viết “Liên hợp TV về các nguồn tin điện tử, hiện trạng và xu hướng khai thác các
nguồn tin điện tử của Việt Nam” của tác giả Trần Thu Lan và Đào Mạnh Thắng,…
Theo thống kê từ các cơ sở đào tạo sau ĐH, có một số công trình nghiên cứu:
“Tìm hiểu việc xây dựng và khai thác tài liệu điện tử tại Trung tâm TT-TV Đại học
Quốc gia (ĐHQG) Hà Nội” của tác giả Trần Thị Tâm; Luận văn thạc sỹ năm 2003
của tác giả Nguyễn Hoàng Sơn với đề tài “Xây dựng mô hình thư viện điện tử ở Việt

Nam” đề cập đến các vấn đề lý luận về TVĐT bao gồm: Chiến lược của hệ thống
TT, khái niệm TVĐT, khảo sát nghiên cứu các yếu tố cấu thành TVĐT; Tình hình
phát triển TVĐT ở Việt Nam thông qua khảo sát một số TV; Đề xuất một số giải
pháp xây dựng mô hình TVĐT ở Việt Nam từ việc lập dự án đến việc thực thi dự
án.


6

Do vậy, có thể nói rằng chủ đề “Nghiên cứu phát triển thư viện điện tử trong
các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội hiện nay” có nội dung nghiên cứu mới và là đề
tài đầu tiên về lĩnh vực này. Luận văn sẽ nghiên cứu nội dung mang tính tổng quát từ
các vấn đề mang tính kỹ thuật đến chính sách phát triển TVĐT, trên cơ sở đó đưa ra
các giải pháp phù hợp cho sự phát triển TVĐT trong các trường ĐH ở Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá thực trạng phát triển TVĐT trên địa bàn Hà
Nội, từ đó luận chứng và đề xuất giải pháp phát triển TVĐT trong các trường ĐH
trên địa bàn Hà Nội hiện nay để nâng cao chất lượng đào tạo của các trường.
Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục tiêu trên trong đề tài tác giả cần giải quyết những
nhiệm vụ sau:
Nhiệm vụ 1: Khảo cứu những khái niệm cơ sở và những vấn đề về TVĐT như:
Các yếu tố cấu thành của TVĐT, các điều kiện cần có để xây dựng TVĐT.
Nhiệm vụ 2: Xem xét vai trò của TVĐT đối với phát triển giáo dục ĐH ở Hà
Nội hiện nay, từ đó xác định được sự cần thiết của việc xây dựng TVĐT nói chung,
phát triển TVĐT trong các trường ĐH nói riêng.
Nhiệm vụ 3: Phân tích thực trạng phát triển TVĐT trong một số trường ĐH ở
Hà Nội trên cơ sở bốn yếu tố cấu thành, tác giả hướng đến việc nhận biết có căn cứ
những thuận lợi, khó khăn, cài gì đạt được, cái gì chưa đạt được của các TV trường

ĐH trên địa bàn Hà Nội. Nhận xét, đánh giá hiệu quả của việc phát triển TVĐT ở
Hà Nội nói riêng và phát triển giáo dục trong các trường ĐH ở Việt Nam nói chung.
Nhiệm vụ 4: Đề xuất giải pháp phát triển TVĐT
4. Giả thuyết nghiên cứu
Phát triển TVĐT ở các trường ĐH còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu
cầu đổi mới đào tạo bởi sự phát triển đó thiếu căn cứ, chưa khoa học và hệ thống.
Khả năng thực hiện trong thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn. Vậy các giải pháp đưa
ra xuất phát từ thực trạng phát triển TVĐT trong các trường ĐH sẽ hỗ trợ cho sự


7

phát triển TVĐT trong các trường ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội tốt hơn, góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đổi mới
của đất nước.
5 . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý thuyết về TVĐT và phát
triển TVĐT trong các trường ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội. Thực tiễn phát
triển giáo dục nói chung và phát triển giáo dục ĐH nói riêng đòi hỏi phải có hệ
thống TV hiện đại, đặc biệt là TVĐT trong các trường ĐH.
Mâu thuẫn chính hiện nay đó là sự phát triển mạnh mẽ của CNTT, nhu cầu
cấp thiết của phát triển giáo dục với hiện trạng phát triển TVĐT trong các trường
ĐH ở Việt Nam nói chung và ở Hà Nội nói riêng. Xuất phát từ thực tiễn đó đòi hỏi
phải nghiên cứu hiện trạng phát triển TVĐT trong các trường ĐH một cách đồng bộ
từ đó tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển.
Trong phạm vi một luận văn thạc sỹ chuyên ngành khoa học TV, tác giả giới
hạn nghiên cứu gồm các hướng sau:
+ Phân tích các khái niệm cơ sở liên quan đến TVĐT, các yếu tố cấu thành
TVĐT. Vai trò của TVĐT với việc phát triển giáo dục ĐH ở Việt Nam. Khái quát
về giáo dục ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội. Vai trò của TVĐT đối với hệ thống

các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội.
+ Khảo sát, phân tích, đánh giá sự phát triển TVĐT trong các trường ĐH trên
địa bàn thành phố Hà Nội theo bốn yếu tố cấu thành. Trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp.
+ Thời gian: nghiên cứu xây dựng phát triển TVĐT ở mười trường ĐH trên
địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
+ Không gian: là mười trường ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên
chỉ tập trung vào các TTTT - TV tại các trường này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử) mà cụ thể là


8

quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử cụ thể nhằm làm sáng
tỏ bản chất của của các khái niệm liên quan đến phát triển TVĐT trong mối quan hệ
với giáo dục ĐH nói riêng, giáo dục của Việt Nam nói chung.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Tác giả sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: phân tích, tổng hợp, so sánh các vấn đề lý thuyết
trên cơ sở các tài liệu mà tác giả thu thập được.
Phương pháp thực nghiệm: phỏng vấn điều tra, khảo sát một số TTTT - TV
trong các trường ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội.
7. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài.
Về mặt khoa học
Qua quá trình nghiên cứu luận văn hướng đến:
* Phân tích một cách có hệ thống những khái niệm cơ bản liên quan đến
TVĐT. Luận chứng phân tích vai trò của TVĐT đối với việc phát triển sự nghiệp
giáo dục ĐH ở Việt Nam nói chung, giáo dục ĐH ở Hà Nội nói riêng.
* Điều tra, nghiên cứu, phân tích có hệ thống hiện trạng phát triển TVĐT tại

một số trường ĐH ở Việt Nam.
* Trên cơ sở đó, đánh giá, đề xuất giải pháp phát triển TVĐT trong các
trường ĐH trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm khắc phục vướng mắc.
Về mặt ứng dụng
Đề tài có ý nghĩa thực tiễn bởi những vấn đề được giải quyết trong luận văn
có thể được vận dụng để phát triển TVĐT trong các trường ĐH trên địa bàn Hà Nội
nói riêng cũng như các trường ĐH ở Việt Nam nói chung. Trong bối cảnh hiện nay,
không phải bất kỳ một cơ quan TT - TV nào cũng đủ nguồn lực để đáp ứng mọi nhu
cầu của người dùng tin. Đề tài góp phần vào việc tạo sự đồng bộ, thống nhất trong
việc trao đổi TT, chia sẻ nguồn lực giữa các trường ĐH.
Như vậy, với việc nghiên cứu một cách toàn diện để hiểu bản chất các khái
niệm có liên quan, chứng minh vai trò của TVĐT đối với phát triển giáo dục, đề
xuất giải pháp trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng phát triển TVĐT tại một số trường


9

ĐH ở Hà Nội sẽ mang lại cách tiếp cận khoa học để phát triển TVĐT trong các
trường ĐH ở Hà Nội.
8. Dự kiến kết quả nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài kết quả sẽ đạt được cụ thể như sau:
Hiểu rõ bản chất một số khái niệm có liên quan đến TVĐT.
Đánh giá và nhận thức đúng vai trò của TVĐT đối với phát triển giáo dục
ĐH ở Hà Nội cũng như ở Việt Nam.
Nhìn nhận toàn diện hiện trạng phát triển TVĐT trong các trường ĐH ở Hà Nội.
Hình thành giải pháp phát triển toàn diện TVĐT trong các trường ĐH ở Hà
Nội trên cơ sở lý luận cũng như thực tiễn.
9. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3
chương:

Chương 1: Thư viện điện tử với việc phát triển giáo dục đại học trên địa
bàn thành phố Hà Nội
Chương 2: Thực trạng phát triển Thư viện điện tử trong các trường đại
học trên địa bàn Hà Nội hiện nay
Chương 3: Các giải pháp phát triển Thư viện điện tử trong các trường
đại học trên địa bàn Hà Nội









10

NỘI DUNG
Chương 1: THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI
HỌC Ở VIỆT NAM
1.1. Thư viện điện tử
1.1.1. Khái niệm thư viện điện tử
Thư viện điện tử (TVĐT) là một khái niệm còn khá mới mẻ trong những
năm 1990 không chỉ ở Việt Nam mà còn trên cả thế giới. Cho đến nay, khái niệm
này đã khá quen thuộc với nhiều người trong giới chuyên môn. Tuy nhiên, ngay cả
trong từ điển thuật ngữ chuyên ngành chưa có một khái niệm chính thức nào được
công nhận, do đó tồn tại nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau, đôi khi còn dùng
lẫn lộn với các khái niệm: Thư viện (TV) không biên giới, TV được nối mạng, TV
ảo (TVA). Sự xuất hiện những khái niệm khác nhau này liên quan đến sự bùng nổ
thông tin (TT) theo cấp số nhân, xuất hiện công nghệ giấy điện tử, mô hình xuất bản

điện tử mới, nhà sách trực tuyến, thương mại điện tử (E – commerce), truyền hình
kỹ thuật số (Digital television), môi trường học tập tích hợp (intergrated learning
environment), trường đại học (ĐH) điện tử (E – Universities), truyền thông di động
(mobile Communication), in ấn theo nhu cầu (Printed in Demand). Nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng có hai lý do để có nhiều cách hiểu khác nhau về các khái niệm:
Thứ nhất: chưa có định nghĩa rõ ràng, nhiều thuật ngữ khác nhau đã được
cộng đồng TV dùng trong một thời gian dài để đề cập đến khái niệm TVĐT, TVA,
TV không tường mà không xác định rõ ràng nội hàm các thuật ngữ ấy khác nhau
như thế nào.
Thứ hai: nhiều lĩnh vực không phải TV dùng thuật ngữ TVĐT, TVS để chỉ
những khái niệm không phải là TV theo quan niệm của người làm công tác TV.[16]
Theo Hiệp hội nghiên cứu TV (Association of Research Library) thì các
thuật ngữ như TVĐT, TVS, TVA được sử dụng với cùng một nội dung [31, tr.8]
Theo quan điểm của Collier (1995) thì TVĐT được định nghĩa như là một
môi trường gồm các tài liệu dưới dạng điện tử, được cấu trúc nhằm cung cấp một
lượng TT lớn thông qua các máy tính hoặc các mạng viễn thông quốc tế [47, tr.6].


11

Theo đó Collier đã chú trọng đến loại hình tài liệu được lưu giữ và sử dụng
trong TVĐT chủ yếu là tài liệu điện tử.
Gary Gorman thì cho rằng TVĐT chính là TVS [47, tr.6].
Phillip Barker (1997) cho rằng: Trong TVĐT có sử dụng rộng rãi máy tính
và các phương tiện hỗ trợ khác (bảng tra trực tiếp, tìm văn bản đầy đủ, lưu các biểu
ghi tự động hoá, ra các quyết định bằng máy tính,…) Tác giả nhấn mạnh đặc trưng
của TVĐT là sử dụng phổ biến các phương tiện điện tử trong lưu trữ, tìm kiếm và
cung cấp TT. Theo ông trong TVĐT, ngoài ấn phẩm điện tử vẫn còn tồn tại cả sách
truyền thống [47, tr.6].
Tác giả Sylvie Tellier (1997) người Canada đưa ra định nghĩa như sau:

TVĐT là TV có sử dụng hệ thống máy vi tính và các hệ thống phụ kiện của nó để
lưu trữ, xử lý, cung cấp dịch vụ TT cho người sử dụng. Theo cách hiểu như vậy thì
TVĐT ở đây có sử dụng máy tính trong việc quản lý, lưu trữ và phục vụ tìm kiếm
TT [47, tr.7].
Như vậy, quan điểm của Sylvie Tellier và Phillip Barker là giống nhau đều
cho rằng trong TVĐT có sử dụng phương tiện điện tử trong việc lưu trữ, xử lý và
cung cấp TT.
Ở Việt Nam, khái niệm TVĐT còn tương đối mới mẻ, xuất phát từ thực tiễn
phát triển TVĐT còn chậm, việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào công
tác TV có phần muộn hơn so với các nước trong khu vực. Các công trình nghiên
cứu về TVĐT cũng chưa nhiều. Cho đến nay có một số công trình nghiên cứu về
vấn đề này:
Năm 1998 trong bài tham luận: “Tính khả thi trong việc xây dựng TVĐT ở
Việt Nam” trong đó tác giả Vũ Văn Sơn đưa ra quan điểm của ba nhóm như sau:
Nhóm thứ nhất cho rằng: TVĐT là TVS hoá, tức là TV không có sách, TT
dưới dạng số và được lưu giữ trên các phương tiện khác nhau: bộ nhớ điện tử, đĩa
quang, đĩa từ,…


12

Nhóm thứ hai cho rằng: TVĐT là TV tự động hoá, trong đó có sử dụng, lưu
trữ cả các phương tiện truyền thống lẫn hiện đại. Quan điểm này cũng giống quan
điểm của Phillip Barker.
Nhóm thứ ba cho rằng: TVĐT là TV sử dụng mạng trong việc lưu trữ, bảo
quản và phổ biến TT.
Trong bài viết “Giải pháp xây dựng các bộ sưu tập tài liệu số” của tác giả
Hoàng Đức Liên và Nguyễn Hữu Ty có đưa ra định nghĩa TVĐT như sau: “Một hệ
thống TT trong đó các nguồn TT đều có sẵn dưới dạng có thể xử lý được bằng máy
tính và trong đó tất cả các chức năng, bổ sung, lưu trữ, bảo quản, tím kiếm, truy

cập và hiển thị đều sử dụng kỹ thuật số” [18]. Quan điểm của tác giả cũng cho rằng
nguồn lực TT của TVĐT bao gồm cả tài liệu in giấy và tài liệu đã số hoá.
Như vậy, với những quan điểm khác nhau, đến nay vẫn chưa có sự phân biệt
rõ ràng giữa các khái niệm này. Tuy có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng tựu chung lại
TVĐT có một số đặc điểm sau:
- TV phải có vốn tư liệu điện tử (là những tư liệu được lưu trữ dưới dạng
điện tử sao cho có thể truy nhập được bằng các thiết bị tin học).
- Phải được tin học hoá, phải có một hệ quản trị TV tích hợp (bổ sung, biên
mục, quản trị xuất bản phẩm định kỳ, kiểm soát lưu thông tư liệu, tổ chức mục lục
truy nhập công cộng trực tuyến,…) phải nối mạng (ít nhất là mạng cục bộ).
- Phải cung cấp và tạo điều kiện cho người sử dụng các dịch vụ điện tử (yêu
cầu và gia hạn mượn qua mạng, tìm tin trong các cơ sở dữ liệu (CSDL), truy nhập
và khai thác các nguồn tin tại chỗ và với tới các nguồn tin ở nơi khác).
Tóm lại: TVĐT là TV trong đó có môi trường gồm các tài liệu điện tử, được
cấu trúc nhằm cung cấp thông tin thông qua các máy tính và các mạng viễn thông.
Thư viện số:
Như trên đã nói theo Hiệp hội nghiên cứu TV (Association of Research
Library) các thuật ngữ như TVĐT, TVS, TVA được sử dụng với cùng một nội
dung. Tuy nhiên, còn có các quan điểm khác nhau không chỉ ở Việt Nam mà cả thế


13

giới, để hiểu rõ bản chất của các khái niệm TVS, TVA, TV đa phương tiện, cần có
sự phân tích cụ thể như sau:
TVS theo quan điểm của liên đoàn TVS (1993): “Các TVS là các tổ chức
cung cấp các nguồn lực – tài nguyên, bao gồm cả các chuyên gia để lựa chọn, cấu
trúc, cung cấp khả năng truy cập tới các nguồn tri thức, phiên dịch, phân phối, bảo
đảm tính vẹn toàn và tính lâu dài của các bộ sưu tập số để cho một cộng đồng hoặc
một tập hợp cộng đồng người dùng tin xác định luôn có thể sử dụng một cách

nhanh chóng, kịp thời và kinh tế” [31, tr.8].
Theo Michael Lesk (1997): “Các TVS là các bộ sưu tập TT số hoá được tổ
chức. Chúng bao gồm việc cấu trúc và thu thập TT là các công việc mà các TV
truyền thống vẫn luôn phải làm và các máy tính có nhiệm vụ trình bày các TT số
đó,…Một TVS thực sự cũng tạo ra các nguyên tắc quản lý những yếu tố cấu thành
TV và các phương thức tổ chức TV” [31, tr8].
Theo Borgman (1999): “Các TVS là một tập hợp các nguồn TT số và các
công cụ kỹ thuật tương ứng để tạo lập, tìm kiếm và sử dụng TT” [31, tr.8].
TS. Ian Written định nghĩa: TVS là một tập hợp những bộ sưu tập TT của các
đối tượng số hoặc đã được số hoá có tổ chức và tập trung. Tập trung theo đề tài
hay chủ đề và có tổ chức để TT dễ truy cập và lưu trữ theo những tiêu chuẩn chuyên
biệt cung cấp hai chức năng chính:
- Phương thức truy cập, chọn lọc, hiển thị tài nguyên số (dành cho người sử
dụng);
- Phương thức xây dựng, tổ chức và lưu hành (dành cho cán bộ TV)[9].
Theo Fox (1993): TVS là tập hợp của các máy tính số, các thiết bị máy móc
lưu trữ và trao đổi TT cùng với bối cảnh số và phần mềm cần thiết để sản xuất và
cung cấp các dịch vụ TT - TV tương tự như các TV truyền thống vẫn làm đối với tài
liệu giấy và các loại hình tài liệu truyền thống khác trong quá trình thu thập, biên
mục, tìm kiếm và phổ biến TT,…Một TVS đúng nghĩa và hoàn chỉnh phải bao gồm
tất cả các dịch vụ cơ bản của TV truyền thống, đồng thời tận dụng được các lợi thế
của việc lưu trữ, tìm kiếm và cung cấp TT số hoá. [24]


14

TVS theo G. Cleveland có một số đặc điểm sau: [49].
- Là phương diện (bộ mặt) số của TV truyền thống mà ở đó lưu trữ các sưu
tập tài liệu số và tài liệu truyền thống (trên giấy và trên vật mang khác);
- Bao gồm cả tư liệu tồn tại bên ngoài biên giới vật lý và hành chính của TV;

- Bao gồm các quá trình và dịch vụ nòng cốt và trung tâm của hệ thống TV.
Tuy nhiên, các quá trình và dịch vụ truyền thống sẽ phải được thay đổi cho phù hợp
với TVS;
- Cung cấp TT có trong TV mà không phụ thuộc vào loại hình và khổ mẫu
của chúng;
- Phục vụ một hoặc một số cộng đồng bạn đọc/người dùng tin, nhưng khác
với TV truyền thống, những cộng đồng này có thể phân tán, đến khai thác TV thông
qua mạng máy tính;
- Cần có các cán bộ với kỹ năng của người cán bộ TV cũng như kỹ năng của
người cán bộ tin học.
Quan điểm của tác giả Vũ Văn Sơn cho rằng: TVS là tập hợp các thiết bị tính
toán, lưu trữ và truyền thông số với nội dung và phần mềm để tái tạo, thúc đẩy và
mở rộng các dịch vụ của TV truyền thống (thu thập, biên mục, tìm kiếm và phổ biến
TT). Một TVS hoàn chỉnh phải thực hiện tất cả các dịch vụ cơ bản của TV truyền
thống kết hợp với việc khai thác các lợi thế của công nghệ lưu trữ, tìm kiếm và
truyền thông số [32]. Ông cũng cho rằng TVS là bước tiến xa hơn của TVĐT, cho
phép đọc được TT toàn văn sau khi số hoá hầu hết tư liệu, đặc biệt là các tư liệu
dưới dạng đồ họa (như tranh ảnh, bản đồ,…) và đa phương tiện (multimedia) nói
chung. Quan điểm của tác giả Vũ Văn Sơn cũng đồng nhất với quan điểm của
Philip Baker là phân biệt giữa TVĐT và TVS: TVĐT lưu trữ và phục vụ cả ấn
phẩm lẫn tư liệu điện tử (tư liệu số hoá) trong khi đó TVS chỉ lưu trữ các tư liệu
điện tử mà thôi.
Trong bài viết “TVS - định nghĩa và vấn đề” của tác giả Cao Minh Kiểm đưa
ra quan điểm: “sẽ là không thực tế khi cho rằng TVS sẽ là một hệ thống hoàn toàn
số hoá, cho phép truy cập tức thì mọi TT từ mọi lĩnh vực của xã hội từ bất kỳ nơi


15

nào trên thế giới. TVS sẽ là một tập hợp của các nội dung đa dạng và những hệ

thống khác nhau, chắc chắn TVS sẽ có những sưu tập tài liệu trên giấy và trên các
vật mang tin khác không phải điện tử” [16].
Như vậy, khi phân biệt hai khái niệm này cũng có các quan điểm khác nhau
rõ rệt, có quan điểm cho rằng TVS không tồn tại tài liệu trên giấy, quan điểm khác
lại cho rằng vẫn tồn tại tài liệu trên giấy.
Theo quan điểm của chúng tôi thì TVS, TVĐT được hiểu đồng nhất với
quan điểm của Liên đoàn TVS: TVĐT, TVS được sử dụng với cùng một nội
dung.
Thư viện ảo (TVA) là TV nhấn mạnh đến tính phi không gian, phi thực thể.
Hay nói cách khác TVA là TV không tường, tức là không có giới hạn về không
gian, nó cung cấp, trao đổi TT trên mạng viễn thông. Bạn đọc có thể truy cập TT từ
xa qua mạng máy tính mà không phụ thuộc vào địa điểm cụ thể. Còn TVĐT, TVS
có địa điểm cụ thể.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành thư viện điện tử
1.1.2.1. Người dùng tin điện tử
Người dùng tin là người sử dụng TT để thảo mãn nhu cầu của mình.
Khác với môi trường TT truyền thống, người dùng tin trong môi trường TT
điện tử không bị giới hạn bởi thời gian và không gian, họ có thể truy cập tới nguồn
tin thông qua mạng máy tính. Tuy nhiên, yêu cầu đối với người dùng tin điện tử
phải cao hơn, họ cần có các kỹ năng cần thiết về TT, mạng máy tính, tìm kiếm TT
cũng như kiến thức chuyên môn.
Nếu như đối với TV truyền thống, việc xác định mối quan hệ giữa các yếu tố
cấu thành của TV rất dễ dàng thì với TVĐT lại khó xác định người dùng tin. Thế
giới điện tử cung cấp cho người dùng tin khối lượng TT khổng lồ. Tuy nhiên, chất
lượng TT lại phụ thuộc rất nhiều vào khả năng của người sử dụng như: khả năng sử
dụng máy tính, khả năng xác định nguồn tin, khả năng tìm và định vị nguồn tài
nguyên TT điện tử. Người dùng tin và nguồn TT không bị giới hạn bởi thời gian và


16


không gian, thông qua môi trường điện tử người dùng tin có thể truy cập trực tuyến
đến các nguồn tin bất cứ khi nào họ cần, ở bất cứ đâu.
Người dùng tin trong môi trường TT điện tử rất đa dạng, khó xác định bởi
tính phi không gian của nó. Với tính chất là kho TT điện tử thì ở bất cứ đâu cũng có
thể truy cập được TT mình cần. Chính vì vậy, có thể nói người dùng tin điện tử
phong phú hơn, đa dạng hơn, “mềm hơn” người dùng tin truyền thống.
Nếu như với thế giới người dùng tin là khó xác định thì cộng đồng người
dùng lại rất dễ xác định bởi nó được hình thành tại một địa điểm cụ thể.
Người dùng tin có thể tương tác với nguồn tin để tìm được TT cần thiết cho
nhu cầu của mình. Trong môi trường TVĐT, giao diện ở đây là số như trang web,
cho phép người dùng tin sử dụng TT thông qua chiến lược tìm kiếm phù hợp, bên
cạnh đó còn cung cấp dịch vụ tư vấn và những TT phản hồi từ phía người dùng tin.
Trong môi trường TVĐT cần có giao diện chuyển đổi, một mặt đảm bảo thực
hiện chức năng phiên dịch yêu cầu tin của người dùng tin thông qua các toán tử,
mặt khác thảo thuận các điều khoản và trình bày TT cho người sử dụng. Với giao
diện này, người dùng tin có thể lựa chọn bất cứ TT nào cần. Đồng thời có thể đưa ra
ý kiến phản hồi về TT đó.
Để có được giao diện với nguồn tin cần có tập hợp TT xác định và đó chính
là tập hợp các đối tượng số có trong kho TT của TVĐT.
Ngoài ra, để có thể tìm kiếm được TT trong môi trường TVĐT còn cần có
các SDL nguồn, tức là những dữ liệu về các đối tượng số. SDL có tác dụng giúp cán
bộ TV quản lý, tổ chức kho TT, giúp người dùng tin trong quá trình thực hiện chiến
lược tìm tin của họ.
Khác với thế giới người dùng tin, thế giới TT là bất kỳ TT nào trên thế giới,
dưới bất kỳ hình thức và khổ mẫu nào.
1.1.2.2. Vốn tài liệu điện tử
1.1.2.2.1. Nguồn tài nguyên điện tử
Trong lịch sử phát triển, vốn tài liệu đã từng xuất hiện là sách trên đất sét,
giấy papirut, giấy da, đến thế kỷ XV xuất hiện sách dưới dạng in. Từ thế kỷ XV,



17

ngoài sách còn có vật mang tin khác như băng từ, đĩa từ. Ngày nay vốn tài liệu còn
bao gồm cả các dữ liệu điện tử trên máy tính và mạng các máy tính.
Tài nguyên điện tử: Bao gồm các đối tượng số (digital objects) và các SDL
để hỗ trợ cho việc tra cứu và định vị tài nguyên.
Tài nguyên điện tử là bất kỳ tài liệu nào được mã hoá, được lưu trữ trên các
vật mang tin và người dùng tin có thể truy cập được thông qua thiết bị lưu trữ điện
tử. Nguồn tin điện tử bao gồm dữ liệu trực tuyến (On-line) và dữ liệu điện tử ở trên
vật mang tin vật lý như CD-ROM, DVD, VCD,…
Nguồn tài nguyên điện tử là một trong bốn yếu tố cấu thành TVĐT, có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong sự phát triển của TV thể hiện ở vai trò bao quát làm
phong phú vốn tài liệu của TV, từ đó hỗ trợ nghiên cứu giảng dạy, học tập và giải
trí.
Tài liệu điện tử bao gồm tất cả các dạng tài liệu như sách, báo, tạp chí, phim
ảnh, bản nhạc, các CSDL,…được bao gói hay được lưu giữ trên các vật mang tin
điện tử, có nghĩa là tất cả những gì có thể đọc được, truy cập được thông qua máy
tính hay mạng máy tính.
* Đặc trưng của nguồn tài nguyên điện tử:
Ưu điểm:
- Có mật độ TT rất cao, do vậy dung lượng TT được lưu trữ trên chúng cũng
rất lớn.
- Có khả năng đa truy cập, cho phép người dùng có thể tìm tài liệu đồng thời
theo nhiều dấu hiệu, nhiều điểm truy cập khác nhau và truy cập linh hoạt, nhanh
chóng.
- Khả năng liên hệ, tiếp cận với các tác giả, tạo ra kênh phản hồi TT giữa
người dùng tin và người sáng tạo ra TT.
- Tài liệu điện tử cho phép lưu giữ TT từ nhiều dạng nguồn tin khác nhau

như văn bản, âm thanh, hình ảnh tĩnh và hình ảnh động trong cùng một tài liệu.
- Khả năng cho phép nhiều người sử dụng cùng một tài liệu một lúc.
- Khả năng cập nhật dữ liệu nhanh chóng và thường xuyên.


18

Nhược điểm:
- Tính an toàn TT dễ bị vi phạm, do việc sao chép TT từ các tài liệu điện tử
rất dễ dàng, nhanh chóng.
- Tính ổn định của TT thường không đồng nhất, có tài liệu thì rất ổn định,
tồn tại lâu dài như các tài liệu ghi trên CD-ROM, DVD-ROM nhưng lại có những
tài liệu có đời sống rất ngắn.
1.1.2.2.2. Siêu dữ liệu (SDL - metadata)
SDL được cấu trúc, mã hoá dữ liệu để miêu tả những đặc tính của những
thực thể mang TT nhằm trợ giúp cho việc mô tả, khám phá, quản trị và truy cập các
thực thể được miêu tả.
Trước tiên chúng ta hãy định nghĩa SDL là gì? Một định nghĩa chung nhất
cho SDL đó là “dữ liệu về dữ liệu”. Định nghĩa này thoạt nghe sẽ cảm thấy cuốn
hút, nhưng nó không giúp chúng ta hiểu toàn bộ SDL là gì nhưng thực chất SDL là
thông tin được cấu trúc, điều này có nghĩa là nó thuộc phạm trù sáng tạo của con
người, và chúng ta không tìm thấy trong tự nhiên.
Ngoài ra còn có định nghĩa khác của Dempsey và Heery, 1997 như sau:
“SDL là dữ liệu đi kèm cùng với đối tượng TT và nó cho phép những người sử dụng
tiềm năng có thể biết trước sự tồn tại cũng như đặc điểm của đối tượng TT
này”[31, tr.17].
Mục đích đầu tiên và cốt yếu nhất của siêu SDL là góp phần mô tả và tìm lại
các tài liệu điện tử trên mạng Internet. Sự phát triển mạnh mẽ của Internet đã tạo ra
sự bùng nổ của các loại dữ liệu đa dạng ở dạng số, văn bản, hình ảnh, âm thanh,
hình ảnh động, tài liệu đa phương tiện. Những tài liệu số này có thể truy cập được

trên Internet song việc tìm kiếm chúng một cách hiệu quả và khoa học như với các
hệ thống thông tin trực tuyến là hết sức khó khăn. Để góp phần tăng cường chất
lượng tìm kiếm các tài liệu số trên mạng Internet, người ta đã đưa ra giải pháp sử
dụng siêu dữ. SDL hỗ trợ phát triển nguồn tin; kiểm tra sự tồn tại của đối tượng
TT; mô tả ngôn ngữ, vị trí; hỗ trợ người dùng tin đánh giá TT mà không phải truy
cập trực tiếp đến TT.


19

Ví dụ: SDL DUBLIN CORE (xem phụ lục 1)
SDL trong TVĐT bao gồm các loại sau:
- SDL hành chính (Administrative): Dược dùng để quản lý và quản trị các tài
nguyên TT.
- SDL mô tả (Discriptive): Dùng để mô tả hay nhận dạng các tài nguyên TT.
- SDL bảo quản (Preservation): Đưa ra các TT liên quan đến quản lý việc
bảo quản tài nguyên TT.
- SDL sử dụng (Use): Các TT liên quan đến mức độ và loại hình sử dụng tài
nguyên TT.
- SDL kỹ thuật (Technical): Các TT liên quan đến cách thức hoạt động của
hệ thống cũng như SDL.
Thuộc tính và đặc điểm của SDL [31]
- Xét về nguồn gốc SDL được chia thành: SDL nội sinh (Internal) và SDL
ngoại sinh (External). SDL nội sinh là SDL được cơ quan, tổ chức tạo ra tạo ra ngay
sau khi đối tượng TT lần đầu tiên được tạo ra hay được số hoá. SDL ngoại sinh liên
quan đến đối tượng TT được tạo ra sau này, do một người khác sau khi được người
sáng tạo đầu tiên sáng tạo ra.
- Xét về phương pháp tạo SDL: có thể do máy tính tự động tạo ra hay do
chính con người tạo ra.
- Bản chất của SDL: Có thể do người không phải là chuyên gia TT, mà đó là

người đầu tiên tạo ra đối tượng TT tạo nên.
- Tình trạng: Có thể là SDL ổn định không bao giờ biến đổi từ khi được tạo
ra, hoặc SDL biến đổi do thường thay đổi trong quá trình vận hành đối tượng TT.
Hoặc SDL dài hạn cần thiết cho việc truy cập và sử dụng đối tượng TT, hoặc SDL
ngắn hạn TT về bản chất của quá trình hoạt động TT.
1.1.2.3. Cán bộ thư viện điện tử:
Tổ chức, xây dựng và phát triển của một TV có đúng hướng và phát huy hiệu
quả tích cực hay không đều tùy thuộc vào người cán bộ TV. Hay nói cách khác
người cán bộ TV là linh hồn của TV. Ở TV truyền thống, yêu cầu đối với cán bộ

×