Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 132 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




Nguyễn Sĩ Ánh






CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN TỪ 1995 ĐẾN NAY




Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 60.31.40




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS VŨ DƢƠNG NINH






HÀ NỘI: 2008








MỤC LỤC
Trang


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT……………
MỞ ĐẦU…………………………………………

1
2
CHƢƠNG 1:
TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM ĐẦU SAU CHIẾN TRANH LẠNH


9
1.1
TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC………………


9
1.2
TÌNH HÌNH TRONG NƢỚC VÀ NHỮNG THÀNH TỰU
SAU 10 NĂM ĐỔI MỚI…………………


15
CHƢƠNG 2:
CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP QUỐC TẾ TỪ NĂM 1995 ĐẾN
NAY: NỘI DUNG VÀ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC


36
2.1
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP
QUỐC TẾ ……


36
2.1.1
Chính sách hội nhập quốc tế giai đoạn 1996 – 2001

36
2.1.2
Chính sách hội nhập quốc tế giai đoạn 2001 – 2006

41
2.1.3
Chính sách hội nhập quốc tế qua văn kiện Đại hội toàn

quốc lần thứ X của Đảng (4/2006) …………


46
2.2
MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC TRONG VIỆC TRIỂN
KHAI CHÍNH SÁCH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1995 ĐẾN NAY



48
2.2.1
Mở rộng quan hệ đối ngoại

48
2.2.2
Hội nhập kinh tế quốc tế…………………………

62
2.2.3
Tăng cƣờng giao lƣu văn hóa, giáo dục và các hoạt động
khác


78
CHƢƠNG 3:
HỆ QUẢ, KINH NGHIỆM, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
TRÊN TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ



82
3.1
NHỮNG HỆ QUẢ CƠ BẢN……………………

82
3.2
MỘT SỐ KINH NGHIỆM………………………

84
3.3
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRÊN TIẾN TRÌNH HỘI
NHẬP QUỐC TẾ THỜI GIAN TỚI…………


86

KẾT LUẬN…………………………………………

91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………

93

PHỤ LỤC





DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

AFTA
ASEAN Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
AIPO
ASEAN Inter- Parliamentary Organization
Liên minh nghị viện ASEAN
AMM
ASEAN Ministeral Meeting
Hội nghị Bộ trƣởng (Ngoại giao) các nƣớc ASEAN
APEC
Asia - Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng
ARF
ASEAN Regional Forum
Diễn đàn (an ninh) khu vực ASEAN
ASEAN
The Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEM
Asia - Europe Meeting
Hội nghị Á - Âu
CH
Cộng hoà
CHDCND
Cộng hoà dân chủ nhân dân
CHLB
Cộng hoà liên bang
CHND

Cộng hoà nhân dân
CNTB
Chủ nghĩa tƣ bản
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
ĐHĐ
Đại hội đồng
EC
European Community
Cộng đồng châu Âu
EU
European Union
Liên minh châu Âu
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
GATT
General Agreement on Tariff and Trade
Hiệp đinh chung về thuế quan và mậu dịch
IMF
International Monetary Fund
Quỹ Tiền tệ quốc tế
LHQ
Liên hợp quốc
MIA
Missing In Action
Ngƣời mất tích trong khi làm nhiệm vụ
NATO
North Atlantic Treaty Organization
Tổ chức Hiệp ƣớc Bắc Đại tây dƣơng

POW
Prisoner of War
Tù nhân chiến tranh
SNG
Cộng đồng các quốc gia độc lập
TBCN
Tƣ bản chủ nghĩa
UNESCO
United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization
Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa LHQ
WTO
World Trade Organization - Tổ chức Thƣơng mại thế giới
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
ZOPFAN
ASEAN Zone of Peace, Freedom and Neutrality
Khu vực ASEAN hoà bình, tự do và trung lập










































MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xƣớng và lãnh đạo, chúng ta đã giành đƣợc nhiều thành tựu to lớn trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nƣớc. Trong những thành tựu chung đó có sự
đóng góp quan trọng của ngoại giao Việt Nam. Đƣờng lối đối ngoại đổi mới của
Việt Nam đã góp phần đƣa nƣớc ta thoát khỏi tình trạng bị bao vây cô lập và cấm
vận trên trƣờng quốc tế, giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong quan hệ giữa Việt
Nam với các nƣớc, từng bƣớc đƣa nƣớc ta hội nhập khu vực và quốc tế. Đến nay,
“Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 174 nƣớc ở cả năm châu” [36, tr.4]; đã có
quan hệ đầy đủ và bình thƣờng với tất cả các nƣớc lớn, đặc biệt là các nƣớc uỷ
viên thƣờng trực HĐBA Liên hợp quốc, các trung tâm kinh tế- chính trị, các tổ
chức tài chính tiền tệ lớn trên thế giới.
Trong quá trình đổi mới, chúng ta đề ra chính sách, chủ trƣơng sao cho phù
hợp với tình hình của từng giai đoạn cụ thể. Từ năm 1986 đến năm 1995, Đảng ta
đã chủ động điều chỉnh đƣờng lối đối ngoại nhằm đƣa Việt Nam ra khỏi thế bị
bao vây cấm vận, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội, bƣớc đầu thực
hiện chính sách hội nhập quốc tế, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa- hiện đại
hóa đất nƣớc.
Từ năm 1995 đến nay, trƣớc xu thế khu vực hóa và toàn cầu hoá phát triển
mạnh mẽ, các quốc gia ngày càng chủ động trong việc hội nhập quốc tế. Hoạt
động ngoại giao của Việt Nam đặt ra nhiệm vụ quan trọng là duy trì môi trƣờng
hòa bình, ổn định, đa dạng hóa, đa phƣơng hóa quan hệ đối ngoại, mở rộng thị
trƣờng, tranh thủ viện trợ, kêu gọi đầu tƣ, tăng cƣờng các quan hệ song phƣơng
và đa phƣơng, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới nhằm phục
vụ sự nghiêp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nƣớc.
Đối với Việt Nam, việc chủ động hội nhập quốc tế là một nhân tố quan
trọng trong việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên trƣờng quốc tế, đồng thời
phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển đất nƣớc. Do vậy, việc nghiên cứu chính
sách hội nhập quốc tế giai đoạn từ năm 1995 đến nay có một ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn, giúp cho ngƣời đọc thấy đƣợc những điều chỉnh trong chính

sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta. Từ đó, rút ra những bài học kinh
nghiệm, những mặt làm đƣợc và chƣa làm đƣợc trong vấn đề hội nhập quốc
tế, đề ra những giải pháp nhằm đƣa công cuộc hội nhập quốc tế có hiệu quả
hơn nữa.
Với ý nghĩa trên, tôi chọn vấn đề “Chính sách hội nhập quốc tế của Việt
Nam trong giai đoạn từ 1995 đến nay” làm đề tài luận văn cao học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam đƣợc Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng
và lãnh đạo trong suốt hơn 20 năm qua đã và đang giành đƣợc những thành tựu
quan trọng. Trong những năm qua, để phục vụ công tác hoạch định chính sách
đối ngoại, đẩy mạnh hội nhập quốc tế nhằm mục tiêu xây dựng đất nƣớc theo
hƣớng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đã có nhiều cuộc hội thảo về chính sách
hội nhập quốc tế và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta.
Về đƣờng lối, chính sách đối ngoại, trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập
ngành Ngoại giao Việt Nam, năm 1995, Bộ Ngoại giao đã xuất bản cuốn “Hội
nhập quốc tế và giữ vững bản sắc” tập hợp các bài nói và viết của các nhà hoạt
động ngoai giao về các vấn đề quốc tế có liên quan đến Việt Nam trong giai đoạn
này. Năm 2002, Học viện Quan hệ quốc tế đã xuất bản cuốn “Ngoại giao Việt
Nam hiện đại - Vì sự nghiệp đổi mới” do TS Vũ Dƣơng Huân chủ biên. Nội dung
cuốn sách đề cập tới nhiều vấn đề về ngoại giao, hội nhập… đƣợc dùng làm tài
liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học tập phần chính sách đối ngoại của Việt
Nam từ sau năm 1975. Cũng trong năm 2002, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đã
xuất bản cuốn sách “Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000” do Thứ trƣởng thƣờng
trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Đình Bin là Chủ biên. Cuốn sách giúp cho ngƣời đọc
tìm hiểu nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Đảng và Nhà nƣớc ta trong từng giai đoạn lịch sử cách mạng Việt
Nam, đồng thời cuốn sách cũng nêu lên những đặc điểm, tính chất của nền ngoại
giao Việt Nam hiện đại, những thành tựu chủ yếu trong hoạt động đối ngoại của
Đảng, Nhà nƣớc và ngoại giao nhân dân.

Về thành tựu trong quá trình hội nhập quốc tế, có thể nói đây là một đề tài
mà nhiều nhà nghiên cứu đã đề cập tới nhằm phục vụ tốt hơn nữa cho sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc. Tháng 12/2003, trên Tuần báo tạp chí
Nghiên cứu quốc tế số 6(55) có đăng bài viết của PGS.TS Nguyễn Thế Lực và TS
Nguyễn Hoàng Giáp: “Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Quá trình và một
số kết quả”.
Nhằm chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, cũng là dịp tổng kết
và nhìn lại 20 năm đổi mới ở Việt Nam, Phó Thủ tƣớng Vũ Khoan đã viết bài trên
báo Nhân dân số ra ngày 14 và 16 tháng 11/2005 với tiêu đề: “20 năm đổi mới
trong lĩnh vực đối ngoại”.
Năm 2007, trên Tạp chí Cộng sản số 780 (tháng 10/2007), Phó Thủ tƣớng
Phạm Gia Khiêm có bài viết: “Việt Nam tự tin vững bước trên con đường hội
nhập”.
Những bài viết đề cập tới thành tựu của hội nhập quốc tế đƣợc các tác giả
tổng kết qua quá trình thực hiện chính sách hội nhập quốc tế, đặc biệt là sau khi
Trung ƣơng Đảng (khóa IX) ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh
tế quốc tế. Từ đó rút ra những kinh nghiệm, những khó khăn, thách thức và đề ra
những giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
trong giai đoạn mới, nhất là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO).
Các tài liệu trên đây là khá phong phú, đa dạng. Ngoài các chuyên luận,
sách báo, các bài đăng trên các tạp chí khoa học còn có nhiều bài nghiên cứu khác
. Nhìn chung các công trình trên đây có đặc điểm là đều nghiên cứu về chính sách
đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời kì đổi mới nhƣ là một quá
trình vẫn đang tiếp tục diễn ra; và “Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam
trong giai đoạn từ 1995 đến nay” chƣa trở thành đối tƣợng nghiên cứu độc lập
của một công trình khoa học nào, đặc biệt trên phƣơng diện của một luận văn tốt
nghiệp cao học.
Bên cạnh đó cũng có nhiều sách, tài liệu tham khảo, các bài viết đƣợc đăng
trên các tạp chí là nguồn cung cấp tài liệu phong phú cho ngƣời viết khi nghiên

cứu đề tài “Chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ 1995
đến nay”. Đó là một thuận lợi cho ngƣời viết khi đi sâu nghiên cứu đề tài, nhƣng
đồng thời cũng là khó khăn khi yêu cầu đặt ra là phải gợi mở đƣợc những vấn đề
mới. Một khó khăn nữa là ngƣời viết chƣa có điều kiện để tiếp cận với các tài liệu
chƣa đƣợc công bố sẽ dẫn đến thiếu những luận chứng trong việc tìm hiểu vấn đề.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn
Trình bày một cách hệ thống chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc
ta trong tiến trình hội nhập quốc tế và những kết quả thực tiễn của chính sách đó
từ năm 1995 đến nay. Từ đó rút ra nhận xét về thuận lợi, khó khăn, triển vọng và
giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời
gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Phân tích những nhân tố tác động đến quá trình hoạch định chính sách hội
nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay.
- Phân tích chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam qua các kỳ Đại hội
Đảng và những kết quả cụ thể trong việc triển khai chính sách hội nhập quốc tế từ
năm 1995 đến nay.
- Nêu lên những thuận lợi, khó khăn, trên cơ sở đó đƣa ra triển vọng và đề
xuất một số giải pháp nhằm giúp cho việc thực thi chính sách hội nhập quốc tế
phát huy hiệu quả hơn nữa.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nƣớc ta nhằm từng bƣớc đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Những thành tựu trong
quan hệ đối ngoại, kinh tế và các mặt khác những minh chứng cho sự thành công
của chính sách hội nhập quốc tế.
Về thời gian: Trọng tâm nghiên cứu của luận văn bắt đầu từ năm 1995-
năm đánh dấu sự hội nhập khu vực của Việt Nam và mở ra thời kỳ hội nhập mạnh
mẽ với thế giới. Vì tính liên tục của hoạt động đối ngoại nên luận văn dành một
phần nhất định cho giai đoạn trƣớc năm 1995, nhất là trong 10 năm đầu tiến hành

đƣờng lối đổi mới. Thời điểm kết thúc là năm 2007- đánh dấu sự kiện Việt Nam
trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) và đƣợc
bầu làm Uỷ viên không thƣờng trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận biện
chứng. Trong quá trình nghiên cứu và xử lý tài liệu tham khảo, luận văn quán triệt
các luận điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ
giữa các quốc gia dân tộc trong thời đại mới, đặt cách mạng Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu. Luận văn bám sát các quan điểm đánh giá, nhận định tình hình
quốc tế, khu vực và chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện
trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X và các Nghị quyết
trung ƣơng trong thời kỳ này đặc biệt là Nghị quyết số 07/NQ-TW ngày 27 tháng
11 năm 2001 về hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là nguồn cung cấp những căn cứ lý
luận và định hƣớng tƣ tƣởng trong nghiên cứu.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nằm trong phạm vi chuyên ngành quan hệ quốc tế, là
một bộ phận của khoa học xã hội nên luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu
lịch sử và phƣơng pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế. Các phƣơng pháp khác nhƣ
tiếp cận hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp đƣợc sử dụng nhƣ là những
phƣơng pháp bổ trợ cần thiết cho hai phƣơng pháp chủ yếu nêu trên để nghiên
cứu và trình bày luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung làm rõ một cách hệ thống quá trình hoạch định và triển
khai chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam trong tình hình mới. Qua đó thấy
đƣợc tƣ duy đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc ta trong việc xây dựng và phát triển
đất nƣớc. Bên cạnh đó, luận văn góp phần cung cấp thêm cứ liệu khoa học xung
quanh việc tìm hiểu chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta nói chung và
chính sách hội nhập quốc tế nói riêng.
Luận văn này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm

tìm hiểu chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam giai đoạn từ năm 1995 đến
nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc chia làm 3 chƣơng.
Chƣơng 1: Tình hình thế giới và Việt Nam trong những năm đầu sau
chiến tranh lạnh
Trong chƣơng 1, tác giả đề cập đến tình hình thế giới, khu vực và trong
nƣớc trong những năm đầu sau chiến tranh lạnh, đặc biệt là những biến động của
tình hình thế giới, sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu và
những tác động trực tiếp của nó tới tình hình Việt Nam.


Chƣơng 2: Chính sách hội nhập quốc tế từ năm 1995 đến nay: Nội
dung và những kết quả đạt đƣợc.
Chƣơng này tác giả đề cập tới những nội dung cơ bản của chính sách hội
nhập quốc tế của Việt Nam đƣợc đề ra qua các kỳ Đại hội Đảng trong giai đoạn
từ năm 1995 đến nay. Những thành công trong việc triển khai chính sách hội nhập
quốc tế của Đảng và Nhà nƣớc ta đƣợc tác giả minh hoạ qua những kết quả đạt đƣợc
trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Chƣơng 3: Hệ quả, kinh nghiệm, cơ hội và thách thức trên tiến trình
hội nhập quốc tế.
Chƣơng này tác giả nêu lên những hệ quả của việc hội nhập quốc tế, rút ra
những kinh nghiệm, dự báo những cơ hội và thách thức trên tiến trình hội nhập
quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới.






















Chƣơng 1
TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU SAU CHIẾN TRANH LẠNH

1.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
Thập kỷ 90 của thế kỷ XX đƣợc mở đầu bằng những sự kiện làm đảo lộn
tình hình và tƣơng quan lực lƣợng trên thế giới. Những sự kiện đó cũng đã có tác
động mạnh mẽ tới việc hoạch định chính sách đối ngoại nói chung, chính sách hội
nhập quốc tế nói riêng của Đảng và Nhà nƣớc ta.
Đầu tiên đó là sự tan rã của Liên Xô và các nƣớc XHCN ở Đông Âu. Liên
Xô và các nƣớc XHCN ở Đông Âu đã chậm đổi mới tƣ duy, chậm ứng dụng
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ vào việc phát triển
nền kinh tế, thiếu sự quyết đoán và phƣơng sách hiệu quả nhằm khắc phục các
khuyết tật của mô hình phát triển kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao

cấp, khép kín dẫn đến việc những nƣớc này ngày càng tụt hậu về kinh tế, khoa
học và công nghệ so với các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa. Bên cạnh đó, những rối ren
về chính trị, mâu thuẫn và xung đột giữa các dân tộc dẫn đến hiện tƣợng ly khai
của một số nƣớc cộng hòa ra khỏi Liên bang Xô viết. Về đối ngoại, Liên Xô thực
hiện rút quân chiến lƣợc, rút quân đội khỏi các căn cứ quân sự ở nƣớc ngoài,
giảm hoặc cắt viện trợ quân sự, giải thể khối quân sự Vácxava, tăng cƣờng chính
sách hoà hoãn với Mỹ. Tình hình đó cũng thúc đẩy các nƣớc XHCN ở Đông Âu
đi vào cải cách. Tuy vậy, cũng nhƣ Liên Xô, tình hình ở các nƣớc XHCN ở Đông
Âu rơi vào những khủng hoảng về kinh tế, chính trị, xã hội và cùng trên bờ vực
của sự tan rã. Bên cạnh đó, các nƣớc đế quốc đã chớp lấy cơ hội này tăng cƣờng
hoạt động “diễn biến hoà bình”, khuyến khích các lực lƣợng chống đối gây bạo
loạn và lật đổ chế độ.
Sau khi Liên Xô và chế độ XHCN ở các nƣớc Đông Âu tan rã, chủ nghĩa
xã hội và phong trào cách mạng thế giới tạm thời lâm vào thoái trào. Tƣơng
quan lực lƣợng trên thế giới tạm thời có lợi cho Mỹ và các nƣớc tƣ bản
phƣơng Tây, chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới hai cực không còn nữa.
Thay vào đó là một trật tự thế giới mới đang hình thành.
Chiến tranh lạnh kết thúc, “hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày
càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới” [19,
tr.464]. Quan hệ giữa các quốc gia từ đối đầu chuyển sang đối thoại, các quốc gia
quan tâm tới việc cải thiện các mối quan hệ, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, “các
quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu
vực, liên kết quốc tế, thƣơng mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác” [19, tr.464].
Vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình là một nhu cầu khách
quan; tăng cƣờng hội nhập và hợp tác quốc tế, chạy đua vũ trang đƣợc thay thế
bằng chạy đua về kinh tế, khoa học – kỹ thuật tiếp tục đƣợc nghiên cứu và phát
triển, các nƣớc “coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng
cƣờng sức mạnh tổng hợp của quốc gia” [19, tr.464] và ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới vẫn xảy ra
những cuộc “xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc

và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố” [19, tr.463].
Phong trào ly khai đã diễn ra ở nhiều nơi, những cuộc “nồi da xáo thịt” giữa các
dân tộc mà trƣớc đây cùng chung sống trong một nƣớc. Những mâu thuẫn đó
đƣợc che lấp dƣới thời chiến tranh lạnh nay bộc lộ thành xung đột gay gắt. Phần
lớn những mâu thuẫn, tranh chấp này đều có căn nguyên lịch sử nên việc giải
quyết không thể nhanh chóng và dễ dàng. Điều đó đã cho thấy tình hình thế giới
vẫn còn nhiều bất ổn, “diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu
tố khó lƣờng” [19, tr. 462].
Bên cạnh những thay đổi về chính trị, kinh tế trên thế giới, cuộc “cách
mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng
nhanh lực lƣợng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội” [19, tr. 463]. Cuộc cách
mạng khoa học – công nghệ đã làm thay đổi một cách căn bản và tạo ra bƣớc phát
triển mạnh mẽ trình độ của lực lƣợng sản xuất. Nó là nhân tố cơ bản làm cho xã
hội phát triển, đồng thời nó tạo ra những thay đổi căn bản cả về lƣợng và chất đối
với mọi mặt của đời sống xã hội, nó cũng là tác nhân thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa
và khu vực hóa.
Bên cạnh cuộc cách mạng khoa học – công nghệ là cuộc cách mạng
công nghệ thông tin, nó đã đƣa nhân loại từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri
thức, chính nó đã thu hẹp khoảng cách thế giới và đặt ra cho các nƣớc còn khép kín nền
kinh tế phải có chính sách phù hợp với sự phát triển của thế giới.
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
đã thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa phát triển nhanh chóng. Xu
thế toàn cầu hóa đã mang lại cho thế giới một sắc thái mới đó là sự nhích lại
gần nhau của những nền kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi lƣu thông tiền
tệ và thƣơng mại phải tự do hơn, nó làm cho các nền kinh tế ngày càng thâm
nhập, đan xen lẫn nhau, tăng thêm sự phụ thuộc vào nhau. Nó đòi hỏi các
quốc gia phải có chính sách hội nhập quốc tế một cách hợp lý, đáp ứng đƣợc
những yêu cầu của thế giới và khu vực, đồng thời vẫn giữ đƣợc tính độc lập,
tự chủ của mỗi quốc gia. Toàn cầu hóa, khu vực hóa đem đến cho các quốc

gia những cơ hội để phát triển. Tuy nhiên, tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi quốc
gia cũng nhƣ tận dụng cơ hội khác nhau mà dẫn đến sự phát triển khác nhau.
Bên cạnh đó, các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa và các công ty đa quốc gia có ƣu thế về
vốn, công nghệ, thị trƣờng cho nên có lợi thế lớn hơn rất nhiều so với các nƣớc
chậm phát triển và đang phát triển, chênh lệch giầu nghèo giữa các nƣớc này cũng
sẽ ngày càng mở rộng.
Với nền kinh tế toàn cầu, việc tổ chức sản xuất và khai thác thị trƣờng
trong phạm vi một nƣớc đã nhanh chóng chuyển sang tổ chức sản xuất và khai
thác thị trƣờng trên phạm vi thế giới và theo đó, sự phát triển kinh tế của bất kỳ
quốc gia nào cũng có những ảnh hƣởng nhất định đến thị trƣờng chung trên
thế giới.
Cùng với quá trình toàn cầu hóa, là quá trình khu vực hóa. Sự xuất hiện
ngày càng nhiều các tổ chức khu vực, liên khu vực đã thu hút các quốc gia tham
gia, có thể kể đến một số tổ chức: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA),
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) …
Các liên kết khu vực này lúc đầu xuất phát từ các nhu cầu về phát triển kinh tế
nhƣng sau đó tiến dần tới những liên kết về chính trị. Sự liên kết khu vực thƣờng
thể hiện ở năm cấp độ khác nhau từ ƣu đãi thƣơng mại, thị trƣờng tự do, liên
minh quan thuế, thị trƣờng chung và cuối cùng là các “liên kết đa diện kiểu Liên
minh châu Âu - về cả thị trƣờng lẫn chính sách kinh tế, đồng tiền chung, quốc hội
chung Các tổ chức khu vực còn có một đặc điểm nữa đó là khả năng thu hút
đƣợc cả những quốc gia có chế độ chính trị khác nhau nhằm tận dụng khả năng
của nhau, đồng thời các quốc gia ngày nay cũng xác định cần phải dựa vào
nhau bởi khó có khả năng độc lập để giải quyết công việc.
Trong bối cảnh đó, các nƣớc vừa và nhỏ cũng điều chỉnh chính sách đối
ngoại để tạo vị thế có lợi hoặc ít bất lợi nhất trong môi trƣờng quốc tế đã thay đổi.
Chiều hƣớng chung là thi hành chính sách đối ngoại theo hƣớng đa dạng hóa, tập
hợp trên cơ sở lợi ích song trùng, coi trọng việc cải thiện và phát triển quan hệ với
các nƣớc láng giềng và khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với các nƣớc lớn và
các trung tâm chính trị - kinh tế trên thế giới

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thế giới đứng trƣớc nhiều vấn đề có
tính toàn cầu (bảo vệ môi trƣờng sống, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa
và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo…) không một quốc gia nào có thể tự giải
quyết mà cần phải có sự hợp tác đa phƣơng. Các vấn đề toàn cầu đòi hỏi phải có
sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, cùng bàn thảo và có quyết sách hợp lý thì
mới có thể giải quyết đƣợc. Từ nhu cầu khách quan đó, trên thế giới xuất hiện
ngày càng nhiều các diễn đàn song phƣơng và đa phƣơng cùng bàn bạc, hợp tác
giải quyết các vấn đề mà các bên cùng quan tâm (Hội nghị quốc tế bàn về việc
thực hiện Nghị định thƣ Kyoto – Cắt giảm lƣợng khí thải toàn cầu). Chính từ các
diễn đàn này mà vai trò của các nƣớc vừa và nhỏ đƣợc nâng lên, bởi những nƣớc
đó cũng có những tiếng nói nhất định đóng góp cho các diễn đàn nhằm giải quyết
các vấn đề toàn cầu.
Đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng, nơi tập trung những nền kinh
tế lớn trên thế giới, nơi có quốc gia đông dân nhất thế giới, có tài nguyên thiên
nhiên phong phú và đa dạng, nằm trên trục đƣờng giao thông quan trọng, thì
nhiều chuyên gia cho rằng Châu Á - Thái Bình Dƣơng sẽ ngày càng phát triển và
là một khu vực năng động. Ở khu vực này có những nền kinh tế hùng mạnh nhƣ
Mỹ, Nhật Bản, Canađa. Các cƣờng quốc này đang có vai trò quan trọng trong
việc chi phối các hoạt động quốc tế. Bên cạnh đó còn có các nền kinh tế mới công
nghiệp hoá nhƣ Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Xingapo; nhiều nƣớc đang
phát triển với tốc độ nhanh và có tiềm năng lớn nhƣ Trung Quốc, Ấn Độ,
Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trì trệ
thì nền kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng tiếp tục phát triển năng động. Khu vực
Châu Á - Thái Bình Dƣơng đang mở ra những cơ hội lớn cho các nƣớc trong và
ngoài khu vực để cùng nhau phát triển. Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức của APEC, điều đó giúp chúng ta có cơ hội hội nhập khu vực và thế giới.
Bƣớc vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, khu vực Đông Á trở
thành thành khu vực có tốc độ tăng trƣởng rất cao, một số quốc gia và vùng lãnh
thổ đã trở thành những hiện tƣợng trên thế giới trong việc phát triển kinh tế. Các
nƣớc trong khu vực đều có nguyện vọng cùng tồn tại trong hoà bình, hữu nghị và

hợp tác để phát triển. Sƣ hợp tác ngày càng tăng ở nhiều tầng nhiều nấc và dƣới
nhiều hình thức nhằm tăng cƣờng sự trao đổi thông tin, và cùng nhau xây dựng
một diễn đàn để đóng góp ý kiến và cùng nhau hợp tác có hiệu quả nhằm thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế mỗi nƣớc thành viên và trong khu vực nhƣ: Tổ chức
hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng; khu vực thƣơng mại tự do ASEAN
(AFTA), Hiệp hội các nƣớc khu vực Nam Á (SAARC)… cùng một loạt các tam
giác, tứ giác phát triển khác ra đời. Các quốc gia trong khu vực đều có lợi ích
muốn mở rộng thị trƣờng, phối hợp các nguồn nhân lực, tài lực, kết cấu hạ tầng
và các nguồn tài nguyên trong khả năng sẵn có và điều kiện của từng quốc gia,
từng vùng lãnh thổ cho phép. Các nƣớc đều điều chỉnh chiến lƣợc phát triển kinh
tế – xã hội và chiến lƣợc đối ngoại của mình cho phù hợp các xu thế chung đang
diễn ra mạnh mẽ trên thế giới. Quan hệ giữa các nƣớc lớn trong khu vực tuy còn
một số trục trặc song nhìn chung vẫn nằm trong khuôn khổ vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, kiềm chế lẫn nhau, nhƣng tránh đối đầu.
Sau sự chấm dứt của cuộc chiến tranh lạnh, tình hình Châu Á nói chung và
Đông Nam Á nói riêng đã có những thay đổi tích cực. Các quốc gia trong khu vực
đều thay đổi cái nhìn về nhau và cùng nhau hƣớng tới sự hợp tác và hội nhập hoà
bình, hữu nghị, quan hệ giữa các nƣớc chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đặc biệt
là sau khi chúng ta có những bƣớc đi thích hợp trong việc giải quyết vấn đề
Campuchia, nó đã giải toả những nghi kỵ của các nƣớc ASEAN đối với Việt
Nam. Các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á nỗ lực cải thiện từng bƣớc mối quan
hệ, tạo lập lòng tin và thúc đẩy hợp tác mọi mặt nhằm hiện thực hóa ý tƣởng
biến Đông Nam Á thành khu vực phi vũ khí hạt nhân, thống nhất trong đa
dạng, hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với tất các các nƣớc ngoài khu vực.
Cùng với đà biến chuyển tích cực của tình hình, các nƣớc Đông Nam Á đã
tranh thủ đƣợc lợi thế so sánh về vị trí địa lý, tài nguyên và con ngƣời, tăng cƣờng
đổi mới công nghệ, tranh thủ nguồn vốn và kĩ thuật bên ngoài để đẩy mạnh phát
triển kinh tế. Nền kinh tế của các nƣớc Đông Nam Á đang trong quá trình công
nghiệp hoá mạnh mẽ, đa dạng hoá và liên kết chặt chẽ với nhau, với các nền kinh

tế khác ở Châu Á - Thái Bình Dƣơng và thế giới.
Bên cạnh những mặt tích cực, những mặt tiêu cực vẫn luôn tồn tại và có
ảnh hƣởng không nhỏ tới các quốc gia trong khu vực. Cũng nhƣ các quốc gia
khác trên thế giới. Tại khu vực Đông Nam Á, sự phát triển kinh tế đƣợc đặt lên
hàng đầu, chính vì vậy, nhu cầu về vốn, thị trƣờng, lao động, công nghệ … cũng
đặt ra những thách thức không nhỏ đối với mỗi quốc gia. Điều đó đòi hỏi phải có
sự liên kết, hợp tác nhiều mặt giữa các nƣớc với nhau. Từ đó dẫn đến lợi thế của
các nƣớc phát triển. Những nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam đứng trƣớc một
thách thức lớn hơn nữa đó là những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa
học- công nghệ và sự phát triển mạnh mẽ của toàn cầu hóa vừa mang đến những
thuận lợi, cơ hội nhƣng cũng vừa mang đến những thách thức và nguy cơ bị tụt
hậu xa hơn nữa trong kinh tế. Ngoài ra, môi trƣờng hoà bình, ổn định và phát
triển của khu vực chƣa thật bền vững, tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn
định. Trong nội bộ một số nƣớc và giữa các nƣớc với nhau vẫn còn tồn tại mâu thuẫn:
xung đột về sắc tộc, tôn giáo, biên giới lãnh thổ…
Có thể nói, tình hình thế giới và khu vực những năm đầu sau chiến tranh
lạnh có nhiều biến động sâu sắc, phức tạp và khó lƣờng. Những biến động đó có
tác động trực tiếp tới các nƣớc trên thế giới trong đó có Việt Nam. ảnh hƣởng tới
việc hoạnh định chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta , đồng thời có
những tác động không nhỏ tới việc xác định tiến trình hội nhập quốc tế của Việt
Nam trong những năm tiếp theo.
1.2. TÌNH HÌNH TRONG NƢỚC VÀ NHỮNG THÀNH TỰU SAU 10 NĂM
ĐỔI MỚI
Vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trƣớc sức ép của cộng đồng quốc tế,
vấn đề đặt ra đối với chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta là phá thế bị
bao vây cấm vận, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển
đất nƣớc. Trƣớc sự phát triển của tình hình trong nƣớc và quốc tế, tháng 7/1986,
Bộ Chính trị khóa V đã ra Nghị quyết số 32 điều chỉnh bƣớc đầu chính sách đối
ngoại của Việt Nam. Nghị quyết 32 nhấn mạnh chủ trƣơng: “cần chủ động
chuyển sang thời kỳ cùng tồn tại hoà bình, góp phần xây dựng Đông Nam Á

thành một khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác” [3, tr.323].
Trong khi đó, giai đoạn những năm cuối thập kỷ 80 đầu 90 của thế kỷ XX,
thế giới đã có những thay đổi nhanh chóng làm đảo lộn mọi trật tự trong quan hệ
quốc tế. Việc hoạch định chính sách đối ngoại của Đảng ta trong giai đoạn này có
phần xa rời thực tế, chƣa đánh giá sát với những diễn biến bất lợi đối với phe
XHCN, trong khi những bất ổn trong lòng Liên Xô và các nƣớc XHCN ở Đông
Âu đang ngày càng sâu sắc.
Vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà nƣớc ta cũng đã nhận
thức về sự biến chuyển trong xu thế của thế giới, đặt ra vấn đề mở cửa, thiết lập
quan hệ với thế giới bên ngoài nhằm cải thiện tình trạng bị bao vây, cô lập. Xu
thế hoà hoãn trong quan hệ quốc tế, quá trình quốc tế hoá các lực lƣợng sản xuất
và hợp tác kinh tế giữa các quốc gia không phân biệt hệ tƣ tƣởng và chế độ chính
trị đang diễn ra mạnh mẽ đã dẫn đến sự đổi mới trong tƣ duy của Đảng ta về mối
quan hệ giữa lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế, giữa an ninh và phát triển, giữa
hợp tác và đấu tranh để tận dụng nội lực và tranh thủ tối đa sức mạnh của thời đại
vì mục tiêu phát triển của đất nƣớc. Đó chính là đổi mới tƣ duy đối ngoại rõ rệt
nhất của Đảng ta trong Đại hội VI nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc là xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa: “ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc”[19, tr. 104].
Trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của Đảng tại Đại hội lần
thứ VI, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định mối quan hệ đặc biệt giữa ba nƣớc Đông
Dƣơng, tăng cƣờng đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ủng hộ
phong trào giải phóng dân tộc và Phong trào Không liên kết, kiên trì thực hiện
chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị với các nƣớc không phân biệt chế độ
chính trị, góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á thành khu vực hoà bình và hợp
tác. Đảng ta mong muốn “đi tới một giải pháp chính trị đúng đắn về Campuchia”
[19, tr. 114]. Đại hội cũng khẳng định chủ trƣơng “sẵn sàng đàm phán với Trung
Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thƣờng hóa quan hệ

giữa hai nƣớc” [19, tr. 114].
Tháng 5 năm 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 13 về nhiệm vụ và chính
sách đối ngoại trong tình hình mới. “Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị đã đổi mới
chiến lƣợc đối ngoại: đổi mới tƣ duy, mục tiêu công tác đối ngoại, phƣơng thức
đấu tranh và chính sách tập hợp lực lƣợng, thay đổi hẳn về quan điểm bạn thù”[7,
tr. 3 - 11].
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị ra đời đã đánh dấu mốc quan trọng trong
việc đổi mới tƣ duy đối ngoại theo định hƣớng mới. Với chủ đề “giữ vững hoà
bình và phát triển kinh tế”, Nghị quyết nhấn mạnh nhiệm vụ ngoại giao phục vụ
ổn định chính trị, cũng cố và giữ vững hoà bình, ƣu tiên phát triển kinh tế tạo điều
kiện và môi trƣờng thuận lợi để đất nƣớc phát triển trong thế ổn định: “Lợi ích
cao nhất của Đảng và nhân dân là phải củng cố và giữ vững hoà bình để tập trung
xây dựng và phát triển kinh tế” [44, tr. 245]
Bên cạnh đó, Nghị quyết đã chuyển từ coi trọng an ninh sang coi trọng phát
triển và mở rộng quan hệ quốc tế: “với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc
phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ
càng có khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”
[Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị tháng 5 năm 1988. Dẫn theo 7, tr. 3 - 11].
Trong chính sách đối với các đối tƣợng cụ thể, với việc xác định rõ ràng
chính sách hội nhập quốc tế, nhằm mục tiêu từng bƣớc thoát khỏi thế bị bao vây,
cấm vận, Nghị quyết nêu rõ các chủ trƣơng góp phần giải quyết vấn đề
Campuchia, bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc, cải thiện quan hệ với các
nƣớc trong tổ chức ASEAN, mở rộng quan hệ với các nƣớc Tây - Bắc Âu, Nhật
Bản, từng bƣớc bình thƣờng hoá quan hệ với Mỹ.
Từ chủ trƣơng đó, vấn đề Campuchia đã dần đƣợc giải quyết. Những giải
pháp cụ thể đã đƣợc đặt ra và từng bƣớc thực hiện theo một lộ trình hợp lý. Việt
Nam đã từng bƣớc đàm phán, rút dần và tiến tới rút hết quân tình nguyện khỏi
Campuchia về nƣớc, tiến tới một giải pháp toàn diện cho vấn đề Campuchia.
Có thể nói, những đánh giá của Nghị quyết 13 về những tiến triển của tình
hình thế giới và trong khu vực, về chiều hƣớng đấu tranh trong quan hệ quốc tế,

về quan điểm bạn thù cơ bản sát với tình hình thực tế từ năm 1988 đến nay. Nghị
quyết 13 của Bộ Chính trị tháng 5 năm 1988 là điểm nhấn quan trọng trong việc
đổi mới tƣ duy nhận thức về các vấn đề quốc tế và đối ngoại của Đảng ta, đặt nền
móng cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến chính sách phá thế bị bao vây,
cô lập, từng bƣớc hội nhập quốc tế của Việt Nam. “Đây có thể coi là bƣớc chuyển
biến chiến lƣợc đối ngoại cơ bản của Việt Nam”[22, tr. 30 - 38] kể từ sau năm
1975. Nghị quyết đã giải đáp kịp thời một loạt quan điểm về chiến tranh và hoà
bình, an ninh và phát triển, về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng và mở
rộng hợp tác quốc tế, giữa yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế, về làm nghĩa vụ quốc
tế, đoàn kết quốc tế, quan hệ đồng minh trong tình hình mới.
Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991) diễn ra trong bối
cảnh tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp và nhanh chóng.
Tháng 12/1989, lãnh đạo cấp cao Xô - Mỹ đã gặp nhau tại Manta và cùng đƣa ra
tuyên bố chấm dứt tình trạng chiến tranh lạnh kéo dài hơn bốn thập kỷ, trật tự thế
giới hai cực không còn nữa. Cũng trong thời gian này, chế độ chủ nghĩa xã hội ở
một loạt các nƣớc Đông Âu lần lƣợt sụp đổ. Tình hình ở Liên Xô thì cũng không
khá hơn, cuộc khủng hoảng trong nƣớc ngày càng trầm trọng, vai trò của Đảng
Cộng sản Liên Xô ngày càng bị suy giảm, khó kiểm soát đƣợc tình hình trong
nƣớc. Cách mạng thế giới lâm vào thoái trào.
Trƣớc những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, Đại hội VII của
Đảng đề ra yêu cầu “cần nhạy bén nhận thức và dự báo đƣợc những diễn biến
phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế…” [19, tr. 294]. Trong quan
hệ quốc tế, đánh giá đúng tình hình và dự đoán đƣợc diễn biến của tình hình thế
giới là một yếu tố quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại.
Đại hội đề ra chủ trƣơng “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các
nƣớc, không phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên
tắc cùng tồn tại hoà bình” [19, tr. 294].
Việc triển khai chính sách đối ngoại đổi mới đƣợc đề ra từ năm 1986 và
đƣợc điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình thế giới và từng đối tƣợng cụ
thể. Nhờ đó mà chúng ta đã dần phá thế bị bao vây, cấm vận, bƣớc đầu khắc phục

đƣợc tình trạng khủng hoảng trong nƣớc, từng bƣớc hội nhập quốc tế.
Giải quyết vấn đề Campuchia
Đây là một vấn đề nhạy cảm trong quan hệ quốc tế, cụ thể là quan hệ giữa
Việt Nam với Trung Quốc, giữa Việt Nam với các nƣớc ASEAN. Bên cạnh đó
vấn đề Campuchia cũng đƣợc nhiều nƣớc khác quan tâm, “ngoại trƣởng Hoa Kỳ
Schullz cũng đi vào thảo luận vấn đề Campuchia để cải thiện quan hệ với Trung
Quốc” [33, tr. 174], “Liên Xô và Hoa Kỳ gặp nhau cũng đề cập vấn đề rút quân
Việt Nam khỏi Campuchia” [33, tr. 174].
Việc chúng ta đƣa quân vào Campuchia đánh đuổi bọn diện chủng Khơme
Đỏ mà không tạo ra hành lang pháp lý quốc tế và dƣ luận đầy đủ đã dẫn đến
những phản ứng quốc tế không thuận cho ta. Cùng với nó là sự áp đặt lệnh bao
vây, cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Đến năm 1985, tình hình có những biến
đổi mới. Các nƣớc lớn liên quan đều không muốn kéo dài tình trạng căng thẳng ở
Campuchia. Họ tiến hành nhiều cuộc đàm phán song phƣơng và đa phƣơng với
nhau về vấn đề Campuchia, đặc biệt là giữa 5 nƣớc thƣờng trực Hội đồng bảo an
Liên hợp quốc.
Ngày 12/8/1985, Hội nghị Bộ trƣởng Ngoại giao ba nƣớc Việt Nam, Lào
và Campuchia hợp tại Phnôm Pênh đã có sáng kiến ngoại giao quan trọng, bày tỏ
thiện chí mong muốn có một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia và đƣa ra
lập trƣờng 5 điểm làm khung cho một giải pháp: “Việt Nam sẽ rút hết quân vào
năm 1990; nếu có giải pháp sẽ rút sớm hơn; Cộng hoà Nhân dân Campuchia sẽ
nói chuyện với các cá nhân và nhóm đối lập để bàn việc thực hiện một nƣớc
Campuchia độc lập, trung lập, không liên kết, hữu nghị với các nƣớc láng giềng;
cùng với giải pháp cho vấn đề Campuchia, các nƣớc trong khu vực cần thoả thuận
về khu vực hòa bình và hợp tác Đông Nam Á, thực hiện các nguyên tắc cùng tồn
tại hòa bình” [3, tr.330].
Cùng với cộng đồng quốc tế, Việc Nam tích cực tham gia quá trình đàm
phán nhằm tạo lập một nền hòa bình lâu dài, ổn định trên đất nƣớc Campuchia
cũng nhƣ giữ vững nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia,
đồng thời phù hợp với lợi ích an ninh lâu dài của Việt Nam. Tháng 9/1989, toàn

bộ quân tình nguyện Việt Nam đã rút khỏi Campuchia về nƣớc. Điều đó đã tạo
đƣợc sự tin tƣởng đối với cộng đồng quốc tế, góp phần thúc đẩy hoà bình trên bán
đảo Đông Dƣơng, phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch đối với Việt
Nam.
Bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc
Sau khi giải quyết tốt vấn đề Campuchia, việc bình thƣờng hóa quan hệ
giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có thể khai thông và có những tiến triển tích
cực. Vấn đề Campuchia luôn đƣợc Trung Quốc coi là trở ngại lớn trong việc đàm
phán bình thƣờng hoá quan hệ giữa hai nƣớc.Trong quá trình đàm phán bình
thƣờng hóa quan hệ, phía Trung Quốc đã đƣa ra lập trƣờng 8 điểm, trong đó có
nêu: “…Bất cứ bên nào đều không đóng quân ở nƣớc ngoài, quân đội đã đóng ở
nƣớc ngoài phải rút về nƣớc mình…” [33, tr. 197].
Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam kiên trì chủ trƣơng sẵn sàng đàm phán với
Trung Quốc nhằm từng bƣớc tiến tới bình thƣờng hoá giữa hai nƣớc trên tinh thần
bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Quá trình tiến tới bình thƣờng hóa của hai nƣớc đƣợc thể hiện qua những
hành động cụ thể. Năm 1988, Việt Nam đã sửa Lời nói đầu trong Hiến pháp, đề
nghị hai bên chấm dứt hoạt động vũ trang tại biên giới đất liền và hải đảo…,bố trí
lại quân đội dọc theo biên giới giữa hai nƣớc nhằm không đe doạ tới an ninh
quốc gia; tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dan hai bên biên giới thăm viếng
lẫn nhau.
Đáp ứng thiện chí của phía Việt Nam, ngày 12/8/1990, Thủ tƣớng Quốc vụ
viện Trung Quốc Lý Bằng tuyên bố: “Trung Quốc hy vọng cuối cùng sẽ bình
thƣờng hóa với Việt Nam và thảo luận các vấn đề nhƣ cuộc tranh chấp quần đảo
Trƣờng Sa” [33, tr.208]. Một ngày sau, Chủ tịch Hội đồng Bộ trƣởng Đỗ Mƣời
hoan nghênh tuyên bố trên của Thủ tƣớng Lý Bằng và khẳng định Việt Nam “sẵn
sàng bình thƣờng hóa quan hệ với Trung Quốc và giải quyết các vấn đề giữa hai
nƣớc bằng thƣơng lƣợng hòa bình” [3, tr.344]. Đồng thời, phía Việt Nam đề nghị
tổ chức cuộc gặp cấp cao giữa hai nƣớc nhằm thảo luận việc bình thƣờng hóa
quan hệ và các vấn đề liên quan.

Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Thúc đẩy quá trình bình thƣờng hóa quan hệ với Trung Quốc, từng
bƣớc mở rộng sự hợp tác Việt – Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai
nƣớc thông qua thƣơng lƣợng” [19, tr. 295]. Hai bên đã tích cực trao đổi các cuộc
viếng thăm cấp cao nhằm bàn bạc những vấn đề để tiến tới bình thƣờng hóa quan
hệ. Tháng 3/1991, Thủ tƣớng Lý Bằng tuyên bố “quan hệ Việt – Trung đã tan
băng” [3, tr. 344].
Cụ thể hoá đƣờng lối đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta, đồng thời phù
hợp với nguyện vọng của hai Đảng, hai Nhà nƣớc và nhân dân hai nƣớc, tháng
11/1991, Việt Nam và Trung Quốc chính thức bình thƣờng hóa quan hệ ngoại
giao. Từ khi bình thƣờng hóa, quan hệ hai nƣớc đã đƣợc khôi phục và phát triển,
cả hai bên tiếp tục cùng nhau giải quyết các vấn đề tồn tại nhƣ vấn đề biên giới
trên đất liền và trên biển. Bình thƣờng hóa quan hệ với Trung Quốc là một thắng lợi
quan trọng trong chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam. Trung Quốc vừa là láng
giềng, vừa là một nƣớc lớn có tiếng nói quan trọng trên trƣờng quốc tế. Bình thƣờng
hóa quan hệ với Trung Quốc đã nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế
giới.
Gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
Thực hiện chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng đƣợc xác định từ năm
1986 tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã giải quyết tốt các
vấn đề liên quan tới mối quan hệ với các nƣớc láng giềng và các nƣớc trong
khu vực.
Nhƣ đã phân tích ở trên, sau khi chúng ta giải quyết xong vấn đề
Campuchia và nêu rõ quan điểm trong chính sách đối với các nƣớc ASEAN, quan
hệ giữa Việt Nam với các nƣớc ASEAN đã đƣợc cải thiện đáng kể.
Việc hội nhập khu vực Đông Nam Á là cả một quá trình giải quyết các vấn
đề đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta. Đảng ta đã chủ trƣơng xây dựng quan hệ
hữu nghị, hợp tác với các nƣớc láng giềng, tạo môi trƣờng hòa bình, ổn định.
Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đề ra chủ trƣơng phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nƣớc Đông Nam

Á, đồng thời bày tỏ mong muốn sẵn sàng cùng các nƣớc trong khu vực thƣơng
lƣợng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, trong đó chủ yếu là vấn đề
Campuchia. Chính vì vậy, sau khi vấn đề Campuchia đƣợc giải quyết, quan hệ
giữa Việt Nam với từng nƣớc Đông Nam Á cũng nhƣ với tổ chức ASEAN từng
bƣớc đƣợc cải thiện và phát triển theo chiều hƣớng đối thoại, hợp tác và cùng giải
quyết các trở ngại để Việt Nam sớm gia nhập ASEAN. Đại hội lần thứ VII của
Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố chính sách mới về Đông Nam Á: “với các
nƣớc Đông Nam Á, chúng ta chủ trƣơng mở rộng quan hệ nhiều mặt theo nguyên
tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào nội bộ của nhau, hai bên
cùng có lợi”[14, tr. 40].

×