ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN HƯƠNG GIANG
CƠ QUAN HỢP TÁC QUỐC TẾ HÀN QUỐC –
KOICA VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CHO QUAN HỆ
VIỆT NAM - HÀN QUỐC THÔNG QUA CÁC HOẠT
ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 60 31 02 06
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN ANH PHƯƠNG
HÀ NỘI – 2011
2
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU 7
CHƯƠNG I: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHỦ YẾU TRONG CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC VÀ QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀN
QUỐC 13
1.1. Những định hướng chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Hàn quốc 13
1.1.1 Quan hệ đối ngoại của Hàn quốc 13
1.1.2. Quan hệ kinh tế đối ngoại của Hàn quốc 14
1.1.3. Các hoạt động ngoại giao vì Hoà bình và Hợp tác Quốc tế 15
1.1.4. Chính sách vì Hòa bình và Thịnh vượng ở Đông Bắc Á của Hàn quốc. 16
1.2. Khái quát quan hệ hợp tác Hàn Quốc - Việt Nam 17
1.2.1. Lịch sử mối quan hệ Việt Nam- Hàn quốc 17
1.2.2 Những biểu hiện chính trong quan hệ hợp tác Việt Nam-Hàn Quốc 18
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ CƠ QUAN HỢP TÁC QUỐC TẾ CỦA HÀN
QUỐC- KOICA 33
2.1. Sự ra đời của KOICA 33
2.2.
Mục tiêu và định hướng chính sách chủ yếu của KOICA
35
2.3. Cơ cấu tổ chức 39
2.4. Lĩnh vực, hình thức và khu vực hoạt động 40
2.4.1 Lĩnh vực hoạt động 40
2.4.2. Hình thức hoạt động 52
2.4.3. Khu vực hoạt động 57
CHƯƠNG 3: HOẠT ĐỘNG VÀ ĐÓNG GÓP CỦA KOICA TẠI VIỆT NAM 70
3.1. Hoạt động của KOICA tại Việt Nam 70
3.1.1. Giới thiệu về văn phòng KOICA tại Việt nam 70
3.1.2. Tình hình hoạt động của KOICA tại Việt Nam 71
3.1.3 Các dự án tiêu biểu và ý nghĩa của dự án 73
3
3.2. Đánh giá hoạt động của KOICA và những đóng góp của tổ chức này cho
quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc 84
3.2.1. Đánh giá hoạt động của KOICA 84
3.2.2. Những đóng góp của KOICA cho mối quan hệ hợp tác Việt Nam- Hàn
quốc 89
3.2.3. Một số kiến nghị cho hoạt động của KOICA Việt Nam 94
PHẦN KẾT LUẬN 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
PHỤ LỤC
4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UN
United Nations
Liên Hiệp quốc
IMF
International monetary fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
IBRD
International Bank for Reconstruction and Development Ngân
hàng quốc tế Tái thiết và phát triển
ADB
Asia Development Bank
Ngân hàng phát triển Châu Á
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
NIC
Newly Industrialized Country
Các nước công nghiệp mới
ODA
Official Development Assistant
Nguồn viện trợ phát triển chính thức
UNDP
United Nations Development Programme
Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc
USAID
United States Agency for International Development
Cơ quan phát triển hợp tác quốc tế Hoa Kỳ
OECF
Overseas Economic Cooperation Fund
Quỹ hợp tác kinh tế nước ngoài của Nhật Bản
OECD
Organization for Economic Cooperation and Development
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
OECD/DAC
Organization for Economic Cooperation and Development/
Development assistant committee
Ủy ban hỗ trợ phát triển/ Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
5
EDCF
Economic Development Cooperation Fund
Quỹ Hợp tác Phát triển Kinh tế
UNESCO
United Nations Educational Scientific and Cultural
Organization
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc
KOV
Korean Oversea Volunteers
Chương trình tình nguyện viên Hàn Quốc ở nước ngoài
CNTT CNTT
UNFCCC
United Nations Framework Convention on Climate Change
Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu
GEF
Global environment Fund
Quỹ môi trường toàn cầu
JICA
Japanese International Cooperation Agency
Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
GTZ Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức
6
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1.Các hình thức cứu trợ thiên tai và tái thiết 50
Bảng 2.2. Ngân sách cho Quan hệ đối tác với các tổ chức phi chính phủ năm 2010 56
Bảng 2.3. Hỗ trợ theo lĩnh vực ưu tiên tại khu vực Châu Á 59
Bảng 2.4. Hỗ trợ theo lĩnh vực ưu tiên tại khu vực Châu Phi 61
Bảng 2.5. Hỗ trợ theo lĩnh vực ưu tiên tại khu vực Châu Mỹ 63
Bảng 2.6. Hỗ trợ theo lĩnh vực ưu tiên tại khu vực Trung Đông 64
Bảng 2.7. Hỗ trợ theo lĩnh vực ưu tiên tại Đông Âu 66
Bảng 3.1: Kết quả hỗ trợ cho Việt nam của KOICA từ năm 1991-2000 71
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ hợp tác để phát triển là xu thế hiện nay của thế giới, cũng là nhu
cầu cơ bản của mỗi quốc gia. Ngày nay, không một quốc gia nào muốn phát
triển mà lại “đóng kín cửa”. Các nền kinh tế dù ở bất kỳ trình độ phát triển
nào cũng đều phải hợp tác với nhau để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và hỗ trợ
lẫn nhau. Phát triển mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, các tổ chức quốc
tế đã trở thành mối quan tâm của nhân loại. Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn
quốc- KOICA và những hoạt động hợp tác quốc tế toàn cầu, đặc biệt với Việt
Nam, nằm trong khuôn khổ mối quan hệ hợp tác của hai quốc gia: Việt Nam-
Hàn quốc.
Hàn quốc với hai thập niên (70-80) phát triển nhanh, mạnh và bước sang
thập niên 90 của thế kỷ XX, đã trở thành một nước công nghiệp hóa mới
(NIC) - “ Một con rồng châu Á”. Hàn quốc có vị thế chính trị, tiềm lực kinh
tế, khoa học kỹ thuật ngày càng tăng. Trong bối cảnh của sự tăng trưởng và
phát triển mạnh mẽ đó, Hàn quốc không quên quá khứ khốn khó, nghèo đói
của mình và hiệu quả của viện trợ quốc tế cho quá trình vươn mình đứng dậy
sau chiến tranh. Chính phủ Hàn quốc nhanh chóng nhận thức được vai trò cần
chia sẻ kinh nghiệm, nguồn vốn hỗ trợ của mình cho các quốc gia đang phát
triển khác.Sự ra đời của các tổ chức hợp tác quốc tế- trong đó có KOICA là
một minh chứng rõ nét cho chính sách mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế của
chính phủ Hàn quốc.
Bên cạnh đó, Việt Nam và Hàn quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao gần 2
thập kỷ, trong suốt quá trình hình thành và phát triển mối quan hệ ngoại giao
này, hoạt động của các tổ chức hợp tác quốc tế như KOICA đã góp phần
không nhỏ cho việc thúc đẩy mối quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi, đồng
thời cho sự phát triển của Việt Nam ở một số lĩnh vực thế mạnh của Hàn quốc
như: Giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, giao lưu hợp tác văn hóa…
8
KOICA là một tổ chức hợp tác quốc tế với mạng lưới hoạt động rộng rãi
trên toàn cầu: Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh, Cộng đồng các quốc gia
độc lập và Trung Đông. Hiện tại có 28 nước có văn phòng đại diện trong số
167 nước được KOICA hỗ trợ [28]. Tại Việt Nam, KOICA mở văn phòng đại
diện từ năm 1994. Một số dự án tiêu biểu mà KOICA đã thực hiện trong suốt
hơn 15 năm hoạt động tại Việt Nam: Bệnh viện Đức Phổ Quảng Ngãi, Bệnh
viện nhi Quảng Nam, Bệnh viện Hoà Hiệp Phú Yên, Trường Cao đẳng CNTT
Việt – Hàn Đà Nẵng, Công trình đường sắt cao tốc Nha Trang – TP Hồ Chí
Minh giai đoạn I …
Với những nỗ lực không ngừng nghỉ trong suốt quá trình hoạt động tại
Việt Nam, KOICA đã tạo một dấu ấn quan trọng, một điểm sáng xuyên suốt
thể hiện nỗ lực gắn kết chặt chẽ trong mối quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia.
Bởi vậy, việc nghiên cứu về Cơ quan hợp tác quốc tế KOICA và những
hoạt động của nó tại Việt nam, cùng với những đóng góp của các hoạt động
này cho sự phát triển quan hệ hợp tác của hai quốc gia là cần thiết. Qua đó, để
có cái nhìn xuyên suốt, toàn diện về tổ chức này, đánh giá thực chất những
hoạt động và hiệu quả đem lại, từ đó tạo tiền đề, cơ sở lý luận và thực tiễn
đóng góp cho quá trình hình thành và xây dựng các cơ quan hợp tác quốc tế
của Việt Nam.
Xuất phát từ nhận thức trên đây, tác giả chọn đề tài “Cơ quan hợp tác
quốc tế Hàn quốc- KOICA và những đóng góp cho quan hệ Việt Nam-
Hàn quốc thông qua các hoạt động tại Việt Nam” để viết luận văn thạc sỹ
ngành Quan hệ quốc tế.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Hiện nay, chưa có một công trình quy mô nào tập trung nghiên cứu đầy
đủ, hoàn chỉnh về Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn quốc (KOICA) cũng như tổng
hợp về những đóng góp, tác động của hoạt động của tổ chức này tại Việt Nam
cho quan hệ ngoại giao hai nước Hàn Việt. Viết về tổ chức này phần lớn tập
9
trung ở các bài viết đăng tải trên các tạp chí, website về hoạt động hỗ trợ của
tổ chức này tại Việt Nam. Vì vậy, khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi phần
lớn dựa trên nguồn tài liệu của chính Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn quốc
(KOICA), kết hợp với các bài báo, tạp chí, thông tin website, từ đó đi sâu vào
việc tìm hiểu nghiên cứu và phân tích vấn đề để trình bày và đưa ra những
đánh giá ban đầu, tạo một nguồn thông tin tập trung hơn phục vụ cho quá
trình tìm hiểu về hoạt động của tổ chức này cũng như những tác động, ảnh
hưởng của các hoạt động đó đối với quan hệ hợp tác Việt Nam- Hàn quốc.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Thế giới đang bước vào một giai đoạn cực kỳ sôi động, đầy cơ hội song
cũng đầy thử thách. Các quá trình liên kết và hợp tác đa phương, song phương
của các nước, các tổ chức trong khu vực cũng đang mở ra, đa dạng về hình
thức, mạnh mẽ về tốc độ. Đây chính là một trong những cơ hội phát triển
đang đặt ra cho mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế.
Việt Nam đang bước vào một nhịp chuyển động mới với những động lực
mới, vô cùng mạnh mẽ, vì vậy quan hệ hợp tác song phương là một trong
những vấn đề quan trọng nhất trong phát triển kinh tế. Ngày 22/12/1992, Việt
Nam và Hàn quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Trong gần 20 năm
vừa qua, hai nước đã từng bước nâng quan hệ lên thành “Quan hệ hợp tác
toàn diện” vào năm 2001 và nâng lên tầm cao mới “Quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược” vào năm 2009. Mối quan hệ hợp tác hữu nghị bền chặt của hai
quốc gia được thể hiện qua những chuyến thăm viếng chính thức của những
người đứng đầu hai nhà nước, những cuộc hội đàm khởi nguồn cho nhiều
hình thức hợp tác trên nhiều phương diện: Kinh tế, văn hóa, xã hội…, các
doanh nghiệp Việt Nam, Hàn quốc hoạt động tại hai quốc gia, các dự án hỗ
trợ phát triển thông qua các tổ chức kinh tế, hiệp hội khoa học của Hàn quốc
tại Việt nam, các chương trình giao lưu văn hóa, nghệ thuật của nghệ sỹ hai
quốc gia
10
Đóng góp không nhỏ cho sự phát triển mối quan hệ hợp tác Việt Nam,
Hàn quốc, không thể không kể đến Cơ quan hợp tác quốc tế của Hàn quốc
(KOICA). Thành lập vào năm 1991, đây là một cơ quan chuyên thực hiện các
chương trình viện trợ không hoàn lại cho các nước đang phát triển trong đó có
Việt Nam. KOICA là một tổ chức thuộc Chính phủ, chịu sự quản lý trực tiếp
của Bộ Ngoại giao Hàn Quốc. KOICA tập trung hoạt động trong các lĩnh vực
như: Giáo dục đào tạo, Y tế, Quản trị công, Phát triển nông thôn, CNTT,
Công nghiệp và năng lượng, môi trường, cứu trợ thiên tai và tái xây dựng,
Biến đổi khí hậu và Các mục tiêu thiên niên kỷ. Hoạt động của KOICA được
đa dạng hóa dưới các hình thức: Hỗ trợ các dự án; Chương trình cử cán bộ đi
đào tạo; Chương trình cử tình nguyện viện; Hợp tác với các tổ chức phi chính
phủ; Hợp tác đa phương.
Mục đích nghiên cứu về KOICA trên phạm vi toàn cầu nói chung và tại
Việt nam nói riêng nhằm có được một cái nhìn tổng quan nhất về cơ cấu tổ
chức, hoạt động của tổ chức hợp tác quốc tế này, đánh giá những đóng góp
của các hoạt động này cho sự phát triển quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt
Nam- Hàn quốc, đồng thời tạo ra một nguồn tư liệu tham khảo mới, đầy đủ
hơn, toàn diện hơn về mô hình tổ chức hợp tác quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu,
trong đó chủ yếu là phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích
tổng hợp và phương pháp thực địa để tìm hiểu về lịch sử hình thành, cơ cấu tổ
chức và hoạt động chính của KOICA, bên cạnh đó là những hoạt động hỗ trợ
được thực hiện tại Việt Nam, qua đó đánh giá những tác động, ảnh hưởng,
phân tích những khó khăn, thách thức mà KOICA nói riêng cũng như các tổ
chức hợp tác quốc tế nói chung đang gặp phải.
11
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Hợp tác quốc tế là một phạm vi nghiên cứu rộng lớn. Tuy nhiên, trong
luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử ra đời,
hoạt động và những tác động, ảnh hưởng của một tổ chức hợp tác quốc tế
trong bối cảnh hợp tác quốc tế nói chung và những hoạt động chuyên biệt của
tổ chức này tại Việt nam để làm nổi bật vai trò của các hoạt động hợp tác
quốc tế đóng góp cho sự phát triển mối quan hệ ngoại giao của Việt Nam-
Hàn quốc.
6. Cấu trúc của luận văn
+ Mở đầu
- Chương 1: Những định hướng chủ yếu trong chính sách đối ngoại của
Hàn quốc và quan hệ hợp tác Việt Nam- Hàn quốc
- Chương 2: Tổ chức hợp tác quốc tế KOICA
- Chương 3: Hoạt động của KOICA tại Việt Nam, đánh giá về hoạt động
của KOICA và những đóng góp của tổ chức này cho quan hệ Hàn Quốc
- Việt Nam
+ Kết luận:
Ngoài ra luận văn còn có phần phụ lục, phần danh mục các tài liệu tham
khảo giới thiệu tên sách, báo, tạp chí sắp xếp theo thứ tự chữ cái A, B, C.
Nhân dịp này, tôi xin chân thành cảm ơn các quý cơ quan, văn phòng, thư
viện Quốc gia Việt Nam, thư viện Viện nghiên cứu Đông Bắc Á đã giúp đỡ,
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thu thập tài liệu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới các thầy cô giáo trong khoa Quốc
tế học, khoa Đông Phương học, cùng bạn bè trong và ngoài nước đã giúp đỡ
tôi trong thời gian qua. Và lời cảm ơn đặc biệt tới Tiến sỹ Trần Anh Phương,
người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình bản luận văn được thực hiện
và hoàn thiện.
12
Tuy nhiên do trình độ học viên còn hạn chế cùng với những khó khăn về
nguồn tư liệu và thời gian nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót.
Kính mong quý thầy cô, bạn bè góp ý kiến xây dựng để bản luận văn hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
13
CHƯƠNG I: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHỦ YẾU TRONG CHÍNH
SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HÀN QUỐC VÀ QUAN HỆ HỢP TÁC
VIỆT NAM – HÀN QUỐC
1.1. Những định hướng chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Hàn quốc
1.1.1 Quan hệ đối ngoại của Hàn quốc
Ngay từ khi thành lập vào năm 1948, Đại Hàn Dân Quốc đã kiên trì theo
đuổi chế độ dân chủ và một nền kinh tế thị trường tự do, tuy nhiên chính sách
đối ngoại đã có những thay đổi đáng kể từ khi Nhà nước ra đời. Sự đối đầu
Đông - Tây mà trung tâm là Mỹ và Nga dẫn đến tình trạng chiến tranh lạnh
sau Chiến tranh thế giới thứ II đã khiến Đại Hàn Dân Quốc theo đuổi quan hệ
đối ngoại của mình phù hợp với các quốc gia phương Tây.
Năm 1962, Đại Hàn Dân Quốc áp dụng chính sách phát triển kinh tế theo
định hướng xuất khẩu và bắt đầu tích cực tham gia vào thương mại quốc tế
trên toàn thế giới. Trước năm 1973, Hàn quốc không thiết lập quan hệ ngoại
giao với bất kỳ nước nào có quan hệ với Bắc Hàn. Nhưng trong bầu không
khí hòa dịu của quan hệ Trung-Mỹ, năm 1973, Hàn quốc lần đầu tiên đề ra
đướng lối ngoại giao hướng tới các nước XHCN. Theo tuyên bố 26/03/1973,
Hàn quốc chủ trương “Thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước
không đối đầu với mình bất chấp thể chế chính trị”.
Kể từ đó, Hàn quốc bắt đầu mở rộng quan hệ đối ngoại thông qua tăng
cường các mối quan hệ với các đồng minh truyền thống và xây dựng quan hệ
hợp tác với các nước trong Thế giới thứ ba và tham gia tích cực vào các tổ
chức quốc tế. Dựa trên nền tảng ngoại giao vững chắc, Hàn Quốc tiếp tục theo
đuổi quan hệ đối tác hợp tác với tất cả các nước trên mọi lĩnh vực trong suốt
những năm 1980.
Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, tình hình quốc tế có nhiều biến đổi sâu
sắc, rộng khắp từ Đông sang Tây, Bắc xuống Nam trên mọi phương diện. Mọi
14
quốc gia trên thế giới đều đặt mục tiêu phát triển kinh tế làm mục tiêu chiến
lược hàng đầu. Trong bối cảnh đó, Hàn quốc đã thực hiện dân chủ hóa nền
chính trị, tạo điều kiện để xây dựng những chính sách mới phù hợp với tình
hình của khu vực và quốc tế. Về đối ngoại, Hàn quốc đưa ra chính sách phát
triển mới, mềm dẻo hơn, linh hoạt hơn nhằm giải quyết vấn đề an ninh và
kinh tế của quốc gia, đồng thời tạo nền tảng để vươn tới tiến trình thống nhất
hai miền Triều Tiên. Nổi bật nhất trong sự chuyển hướng về chính sách đối
ngoại của Hàn quốc phải kể đến chiến lược “ Đa dạng hóa quan hệ ” . Hàn
quốc lần lượt thiết lập quan hệ với các nước Liên Xô (30/09/1990), Trung
quốc (24/08/1992) và một số nước xã hội chủ nghĩa khác, từng bước tiền gần
hơn đến con đường hòa bình với Bắc Hàn. Cũng bởi những thay đổi đó, quan
hệ đối ngoại của Hàn quốc đã thực sự mang tính toàn cầu. Nhờ có sự thay đổi
kịp thời, đúng đắn về đường lối chính sách đối ngoại, Hàn quốc đã thu được
những thành công không nhỏ, từ chỗ phụ thuộc kinh tế vào Mỹ và Nhật Bản,
Hàn quốc chuyển sang quan hệ đa phương với các quốc gia có thể chế chính
trị khác nhau, tạo tiền đề cho Hàn quốc gia nhập Liên hiệp quốc (UN), tăng
cường vị thế trên trường quốc tế. Cũng chính trong bối cảnh này, Hàn quốc đã
thúc đẩy quá trình thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
1.1.2. Quan hệ kinh tế đối ngoại của Hàn quốc
Ngay sau Chiến tranh lạnh, các nước như Đại Hàn Dân Quốc - quốc gia
theo đuổi tăng trưởng lấy xuất khẩu làm động lực, thấy rằng mình đang phải
đối mặt với một môi trường kinh tế quốc tế khác hẳn với trước đây. Trước
đây, Hàn quốc có quan hệ thương mại chủ yếu với các nước tiên tiến như Mỹ,
Nhật Bản và Liên minh Châu Âu. Điều này thường gây mất cân đối trong cán
cân thương mại. Vì vậy Hàn quốc đã thực thi chính sách “ Toàn cầu hóa và
cải cách cơ cấu kinh tế”. Khi đã hoàn thành cải cách cơ cấu kinh tế, Hàn quốc
góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh tế quốc tế bằng cách nâng cao hợp
15
tác với các nước đang phát triển dựa trên cơ sở những lợi thế vốn có và sự bổ
sung tương đối. Mặc dù vậy, các nước tiên tiến vẫn giữ vị trí then chốt về
thương mại và là đối tác chủ yếu về khoa học công nghệ.
1.1.3. Các hoạt động ngoại giao vì hoà bình và hợp tác Quốc tế
Hàn quốc khi trở thành thành viên của UN đã tham gia tích cực và đóng
góp vào các hoạt động ngoại giao đa phương tương xứng với vị thế được nâng
cao trong cộng đồng quốc tế. Hàn Quốc đã tích cực tham gia vào các vấn đề
lớn do tổ chức thế giới đảm nhận, chẳng hạn như các sứ mệnh ngăn chặn
xung đột và gìn giữ hoà bình, các cuộc hội đàm về giải trừ quân bị, bảo vệ
môi trường, các dự án phát triển và bảo vệ nhân quyền. Là một nước thành
viên yêu chuộng hoà bình của UN, Hàn Quốc đã cam kết với công tác duy trì
hoà bình và an ninh quốc tế, và do đó đã tích cực tham gia vào các hoạt động
gìn giữ hoà bình của UN .
“Hàn Quốc bắt đầu hỗ trợ cho các nước đang phát triển từ những năm 1960
khi tiến hành mời một số ít thực tập sinh tới Hàn Quốc và cử một số chuyên gia
ra nước ngoài. Sau năm 1975, khi nền kinh tế đến một trình độ cao hơn, Hàn
Quốc bắt đầu tăng viện trợ dưới một loạt các hình thức: trao tặng máy móc và
nguyên vật liệu, giúp đỡ xây dựng công nghệ, cho Quỹ Hợp tác Phát triển Kinh
tế (EDCF) vay vốn và giúp đỡ về nhân sự trực tiếp, đặc biệt thông qua Chương
trình thanh niên tình nguyện. Hàn Quốc cung cấp viện trợ cho các nước đang
phát triển thông qua các tổ chức đa phương ví dụ như IMF, IBRD, ADB và gần
một chục các tổ chức tài chính quốc tế khác”
[30:
13/05/2011]
Tháng 4-1991, Hàn Quốc thành lập Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc
(KOICA) trực thuộc Bộ Ngoại giao nhằm củng cố sự trợ giúp tới các nước
đang phát triển. Hàn Quốc còn cung cấp viện trợ kỹ thuật, tài chính cho các
16
nước đang phát triển, chia sẻ kinh nghiệm và kỹ năng phát triển của mình.
KOICA triển khai các chương trình hợp tác khai thác như cử các bác sỹ y
khoa, chuyên gia kỹ thuật, huấn luyện viên Taekwondo và các tình nguyện
viên khác, mời các thực tập sinh tới Hàn Quốc và hỗ trợ nâng cao hình ảnh
Hàn Quốc thông qua việc thiết lập các mối quan hệ hợp tác với các nước đang
phát triển.
Đồng thời, Hàn Quốc cam kết thực hiện việc trao đổi văn hoá với nước
ngoài nhằm nâng cao tình hữu nghị song phương, sự hiểu biết lẫn nhau và góp
phần vào hoà giải và hợp tác toàn cầu. Hàn Quốc cũng nỗ lực giới thiệu nền
văn hoá và nghệ thuật truyền thống của mình ra nước ngoài, hỗ trợ các
chương trình nghiên cứu Hàn Quốc tại hải ngoại cũng như rất nhiều hội nghị
khoa học và trao đổi vận động viên. Quỹ giao lưu Quốc tế Hàn Quốc (Korea
Foundation) được thành lập năm 1991, đã phối hợp và hỗ trợ các chương trình
trao đổi văn hoá quốc tế v.v…
1.1.4. Chính sách vì Hòa bình và Thịnh vượng ở Đông Bắc Á của Hàn
quốc.
Ngày nay, Đông Bắc Á (ĐBA) đang đóng vai trò đầu tàu cho nền kinh tế
thế giới vì vốn, công nghệ, sản xuất và tiếp vận đều tập trung ở khu vực này.
Chính phủ Hàn quốc đang tìm cách giữ thế chủ động trong việc đưa ĐBA vào
kỷ nguyên của hòa bình và thịnh vượng. Điều thiết yếu đối với Hàn Quốc là
tạo lập nền tảng cho hoà bình trên bán đảo Triều Tiên và xây dựng Hàn Quốc
thành trung tâm ĐBA. Chính phủ Hàn Quốc cũng tìm cách phát triển Hàn
Quốc thành trung tâm kinh tế ĐBA thông qua các bước: 1) theo đuổi việc
giao lưu và hợp tác kinh tế liên Triều; 2) thiết lập hệ thống hợp tác kinh tế
ĐBA và 3) xây dựng cở sở hạ tầng cho một trung tâm giao vận và kinh tế.
Ngày 25/02/2008, trong diễn văn nhậm chức, tổng thống Lee Myeong
Park nhấn mạnh: “Sẽ thực hiện chính sách ngoại giao thực dụng, tăng cường
17
quan hệ đồng minh với Mỹ, phát triển quan hệ ngoại giao với Nhật Bản,
Trung quốc, Nga và giữ vững lập trường cứng rắn hơn trong vấn đề Triều
Tiên [1; tr4]. Qua đó có thể thấy, với tư cách một nước NIC, có lợi ích chiến
lược ở hầu hết các nước trong khu vực, Hàn quốc đã và đang cố gắng khôi
phục vai trò, vị thế, ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế, xác lập định
hướng chiến lược trong quan hệ với tất cả các quốc gia đối tác chủ chốt.
1.2. Khái quát quan hệ hợp tác Hàn Quốc - Việt Nam
1.2.1. Lịch sử mối quan hệ Việt Nam- Hàn quốc
Năm 1226 khi nhà Lý sụp đổ, Hoàng tử Lý Long Tường của nước Việt đã
lên đường lưu vong và định cư tại Vương quốc Cao Ly tức Hàn quốc hiện nay.
Khi quân giặc Mông Cổ xâm lược Cao Ly, ông Lý Long Tường đã có đóng
góp to lớn nên được vua Cao Ly phong là Quân Hoa Sơn sau đó trở thành ông
tổ của họ Lý Hoa Sơn ở Hàn quốc hiện nay. Để ghi nhận mối nhân duyên lịch
sử này chính phủ Việt Nam đã đối xử với con cháu dòng họ Lý Hoa Sơn như
người Việt Nam, khi họ trở về đầu tư vào Việt Nam.
Thời kỳ trước năm 1975, Hàn quốc có quan hệ ngoại giao, kinh tế, quân
sự với chính quyền Sài gòn, đưa quân sang Việt Nam tham gia chiến tranh
xâm lược của Mỹ, gây nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Từ 1975-
1982, Việt Nam và Hàn quốc bắt đầu có quan hệ buôn bán tư nhân qua trung
gian, từ 1983 bắt đầu có quan hệ buôn bán trực tiếp và một số quan hệ phi
chính phủ. Ngày 20/4/1992, hai bên đã ký thoả thuận trao đổi văn phòng liên
lạc giữa hai nước.
Ngày 22/12/1992, Bộ trưởng ngoại giao Hàn quốc thay mặt chính phủ
chính thức ký kết các hiệp ước hợp tác và đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ
với Việt Nam. Đây là một sự kiện chính trị quan trọng của hai quốc gia vốn
có những điểm gần gũi tương đồng về điều kiện tự nhiên địa lý, lịch sử và văn
hoá truyền thống, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước và phù hợp
18
với xu thế chung của thời đại. Sau hơn một thập niên kể từ thời điểm lịch sử
nói trên, quan hệ giữa hai nước Việt- Hàn không ngừng được duy trì, củng cố
và phát triển trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về kinh tế- cơ sở vững chắc cho
quan hệ hữu nghị và hợp tác lâu dài giữa hai nước.
1.2.2 Những biểu hiện chính trong quan hệ hợp tác Việt Nam-Hàn Quốc
Việt Nam – Hàn quốc là hai quốc gia có nhiều điểm tương đồng về lịch sử,
văn hóa, truyền thống. Mốc son đáng ghi nhớ trong quan hệ hai nước là vào
ngày 22/12/1992, Việt Nam và Hàn quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại
giao cấp đại sứ, mở ra một thời kỳ mới, tạo tiền đề thúc đẩy mối quan hệ hợp
tác lâu dài, bền vững, vì lợi ích của dân tộc hai nước cũng như góp phần vì
hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực cũng như trên thế giới. Từ sau khi
thiết lập quan hệ ngoại giao, với những chuyến viếng thăm của các nhà lãnh
đạo của hai quốc gia, đường lối hợp tác ngày càng được mở rộng hơn, có
chiều sâu hơn, tạo điều kiện đem lại những thành quả hợp tác to lớn trong
nhiều lĩnh vực: từ chính trị- đối ngoại, đến thương mại-kinh tế, văn hóa-giáo
dục và khoa học công nghệ.
1.2.2.1. Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực chính trị- đối ngoại
Có thể nói hợp tác chính trị- đối ngoại cho đến nay vẫn là lĩnh vực gặt hái
được nhiều thành công nổi bật trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn
Quốc. Các chuyến thăm cấp cao của nhà lãnh đạo hai nước đã xây dựng, củng
cố và phát triển đường lối hợp tác giữa hai quốc gia, tạo nền tảng vững chắc
cho mối quan hệ này đồng thời là tiền đề, là định hướng để phát triển mối
quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực khác.
+ Đối thoại và hợp tác chính trị song phương
Từ năm 1992 đến nay, giữa lãnh đạo cấp cao của hai quốc gia thường
xuyên có cuộc thăm viếng chính thức, tiếp xúc và gặp gỡ. Thông qua các
chuyến viếng thăm này, hai nước đã từng bước nâng quan hệ lên thành
19
“Quan hệ hợp tác toàn diện” vào năm 2001 và nâng lên tầm cao mới “Quan
hệ đối tác hợp tác chiến lược” vào năm 2009.
Về phía Việt Nam, chuyến viếng thăm chính thức đầu tiên của Thủ tướng
Võ Văn Kiệt vào tháng 5/1993, đã khởi đầu cho các cuộc thăm viếng ngoại
giao sau này của nhà lãnh đạo hai nước. Tiếp đó là chuyến thăm Hàn quốc
của Chủ tịch Trần Đức Lương tháng 8/2001, Thủ tướng Phan Văn Khải tháng
9/2003 và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 5/2009. Về phía Hàn quốc,
có các chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Lee Young Dok (tháng 8/1994),
Tổng thống Kim Yong San (tháng 11/1996), Tổng thống Kim Dae Jung
(tháng 12/1998), Tổng thống Roh Moo Huyn (tháng 10/2004) và gần đây nhất
là chuyến thăm của tổng thống Lee Muyng Park (10/2009)
Bằng các cuộc viếng thăm chính thức của nhà lãnh đạo hai nước, niềm tin
vào mối quan hệ tốt đẹp giữa hai quốc gia ngày càng được củng cố. Cũng
thông qua các chuyến thăm này, các bên đã nhất trí cùng nhau tăng cường,
thúc đẩy hợp tác hơn nữa trên nhiều lĩnh vực đầu tư thương mại, lao động,
KHCN, CNTT, xây dựng, giao thông vận tải, giáo dục, y tế, văn hóa khuyến
khích các doanh nghiệp Hàn quốc tiếp tục mở rộng đầu tư tại Việt Nam, tăng
cường hơn nữa cho vay và viện trợ không hoàn lại để thực hiện các dự án xây
dựng hạ tầng cơ sở tại Việt Nam đồng thời đưa ra những biện pháp nhằm
thúc đẩy hợp tác góp phần phát triển “ Quan hệ đối tác toàn diện trong thế
kỷ XXI” giữa hai nước.
Ngoài các chuyến viếng thăm chính thức của nhà lãnh đạo đứng đầu hai
quốc gia, hợp tác trong lĩnh vực đối thoại- chính trị còn được thể hiện trong
các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc ở cấp liên nghị viện, giữa Chủ tịch quốc hội và Đại
biểu quốc hội của hai nước, các chính Đảng và các cơ quan cấp Bộ, Ngành….
Các cuộc gặp này là một phần quan trọng trong quan hệ song phương, góp
phần trao đổi kinh nghiệm trong quá trình lập pháp, đảm bảo pháp luật trong
20
các hoạt động cải cách kinh tế, thể chế hành chính, nâng cao vai trò của nhà
nước pháp quyền trong đời sống xã hội.
Tháng 8/1996, đoàn đại biểu quốc hội do Chủ tịch quốc hội Kim Woo San
thăm Việt Nam; tháng 9/1998, Chủ tịch quốc hội Park Kwan Yong, tháng
1/2006, Chủ tịch quốc hội Kim Un Gi và gần đây nhất tháng 4/2008, Chủ tịch
quốc hội Lim Chae Jung đã dẫn đầu đoàn sang thăm hữu nghị chính thức
nước ta. Về phía Việt Nam, có chuyến thăm của Chủ tịch quốc hội Nông Đức
Mạnh (tháng 3/1998), Chủ tịch quốc hội Nguyễn Văn An (tháng 7/2004) và
Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng (tháng 3/2008) v.v…
Trong các cuộc hội đàm và hội kiến, hai bên đều khẳng định sự coi trọng
và mong muốn tiếp tục thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt Việt
Hàn trên phương diện song phương, đa phương nhất là trong khuôn khổ
ASEAN+3. Hai bên cùng chung nhiều quan điểm trên một loạt các vấn đề
quốc tế quan trọng như xây dựng một trật tự thế giới công bằng, bình đẳng;
chống lại mọi hình thức áp đặt hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của các
quốc gia có chủ quyền; nâng cao hiệu quả hoạt động của UN trong giải quyết
các vấn đề toàn cầu và phát triển hợp tác; vấn đề chống chủ nghĩa khủng bố
quốc tế, chủ nghĩa ly khai và tôn giáo cực đoan…
Như vậy có thể thấy, mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc kể từ khi
hai nước chính thức thiết lập quan hệ tới nay đã tiến triển rất tốt đẹp, có
những dấu ấn quan trọng, nó hoàn toàn phù hợp với tinh thần hợp tác giữa hai
nhà nước, ý nguyện của nhân dân hai nước Việt – Hàn, tạo dựng cơ sở, niềm
tin vững chắc để hai nước có được sự phối hợp chặt chẽ trên các diễn đàn hợp
tác đa phương.
+ Đối thoại và hợp tác chính trị đa phương
Bên cạnh việc thúc đẩy quan hệ hợp tac song phương, chính phủ Việt
Nam và Hàn Quốc cũng tích cực đẩy mạnh các hoạt động hợp tác đa phương
21
trong các tổ chức quốc tế và khu vự mà hai nước đóng vai trò là thành viên
tích cực.
Thông qua các hoạt động hợp tác đa phương trên mọi diễn đàn quốc tế,
Việt Nam và Hàn Quốc trở thành cầu nối quan trọng cùng tham gia hội nhập
với quốc tế, từ đó nâng cao vị thế của mỗi nước trên trường quốc tế. Hai bên
có sự phối hợp chặt chẽ ở mọi hoạt động song phương và đa phương, luôn tôn
trọng nhau, có nhiều quan điểm tương đồng đối với những vấn đề toàn cầu và
đặc biệt là luôn ủng hộ nhau trên các diễn đàn.
Trước những nguy cơ hiểm họa mang tính đe dọa tới an ninh toàn cầu, hai
nước cùng chung quan điểm đối với vấn đề gìn giữ hòa bình trên toàn thế giới,
vấn đề cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện, vấn đề phổ biến vũ khí giết người
hàng loạt, khủng bố quốc tế, buôn lậu ma túy, tội phạm có tổ chức buôn bán
người. Hàn Quốc hoan nghênh và đánh giá cao việc Việt Nam phê chuẩn
Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện, cùng cam kết nỗ lực thực hiện
Chiến lược chống khủng bố toàn cầu do UN phát động và tổ chức thực hiện.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc và Việt Nam cũng ghi nhận vai trò quan trọng trong
hệ thống quan hệ quốc tế hiện đại của phong trào không liên kết, coi đây là
một trong những cơ chế đa phương được công nhận, nhằm tìm kiếm cách thức
ứng phó tập thể đối với những thách thức của thời đại mới.
Hàn Quốc chú trọng, cải thiện phát triển quan hệ song phương, đa phương
với các quốc gia khu vực Châu Á – Thái Bình Dương bởi lẽ khu vực này sớm
đã và đang hình thành lên một cơ chế hợp tác đa phương mang tính toàn diện,
biểu hiện ở các tầng cấp khác nhau như: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á –
Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và
các cơ chế hợp tác tiểu vùng khác nhau. Ở mỗi diễn đàn này, vai trò của Việt
Nam hay Hàn Quốc rất quan trọng. Thông qua các diễn đàn hợp tác đã kết nối,
mở đường cho những quan hệ đa phương khác trên toàn cầu. Trên cơ sở lợi
ích chung đó, Việt Nam tích cực ủng hộ, đánh giá cao Hàn Quốc tham gia vào
22
các diễn đàn ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương như Hội nghị cấp cao
(ASEM), cấp cao Đông Á hay thúc đẩy cơ chế đối thoại Hàn Quốc –
ASEAN…Với vai trò là điều phối viên năng động, Việt Nam đã có nhiều
động thái quan trọng, tạo điều kiện tốt nhất để Hàn Quốc có được tiếng nói
trong các cuộc đối thoại Hàn Quốc – ASEAN, Việt Nam cũng nhận được sự
ủng hộ lớn từ Hàn Quốc trong tiến trình gia nhập vào Tổ chức thương mại thế
giới (WTO).
Mặc dù thể chế chính trị hai nước Việt Nam và Hàn Quốc hoàn toàn khác
nhau, nhưng Việt Nam và Hàn Quốc lại không coi đó là rào cản trong quan hệ
hợp tác mà hai nước luôn có ý thức tăng cường cải thiện các mối quan hệ,
thường xuyên tổ chức đối thoại chính trị nhằm đạt được sự hiểu biết và tin cậy
lẫn nhau, từ đó tạo dựng lòng tin, xây dựng các chính sách hợp tác phát triển
mang tính bền vững và toàn diện cùng có lợi, mang lại sự thịnh vượng chung
của khu vực.
+ Đối ngoại nhân dân
Song song với đối thoại hợp tác chính trị song phương, đa phương, thì đối
ngoại nhân dân cũng đóng một vai trò quan trọng trong hợp tác Việt Nam,
Hàn Quốc, trong đó không thể không nói tới các mối quan hệ như kết nghĩa
giữa các địa phương, quan hệ cư trú, giao lưu thanh niên…Có thể thấy rằng,
thông qua các mối quan hệ này, không chỉ thúc đẩy sự hợp tác đầu tư giữa hai
nước theo tinh thần hợp tác toàn diện, thân thiện, mà còn tăng cường giao lưu
đoàn thể để nhân dân hai nước có cơ hội chia sẻ, nắm bắt thông tin, thực sự
hiểu nhau hơn và xây đắp gắn kết tình hữu nghị Việt – Hàn.
Như vậy, thông qua đối thoại chính trị, chúng tôi nhận thấy quan hệ hợp
tác giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã có những diễn biến tích cực, sâu sắc, minh
bạch và hiệu quả. Nó thể hiện sự quyết tâm của chính phủ hai nước, thực thi
quan điểm chỉ đạo trong hợp tác chiến lược toàn diện mà lãnh đạo hai nhà
nước đã đề ra. Điều đó cho thấy một sự đảm bảo trong chính sách ngoại giao
23
của chính phủ hai nước từ quan điểm, tầm nhìn tới hành động. Vì vậy, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác ở tầm cao mới, mà ở đó thỏa mãn được
lợi ích chung của hai dân tộc Việt – Hàn.
1.2.2.2. Quan hệ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế
Những năm năm gần đây, xu hướng toàn cầu hóa đang trở thành bài toán
đầy ẩn số đốivới mỗi quốc gia dù lớn hay nhỏ. Đứng trước thời cơ và thách
thức của quá trình toàn cầu hóa, Việt Nam luôn tích cực và chủ động hội nhập
với quốc tế, mở ra một hướng đi mới phù hợp với sự phát triển chung của
toàn cầu. Việt Nam coi trọng mối quan hệ hợp tác kinh tế thương mại với các
nền kinh tế khác nhau trên toàn thế giới, đặc biệt các nền kinh tế khu vực,
trong đó Hàn Quốc luôn là ưu tiên số một của Việt Nam. Hai nước đã nỗ lực
thúc đẩy trong quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư, tạo dựng khung pháp lý
quan trọng trong vấn đề đầu tư. Với mục tiêu ưu tiên đặc biệt, Việt Nam luôn
dành cho Hàn Quốc nhiều cơ hội để hợp tác đầu tư, đảm bảo Hàn Quốc luôn
nằm trong nhóm 5 nước có quan hệ kinh tế lớn nhất với Việt Nam trong 19
năm qua (1992-2011). Để cụ thể hóa quyết tâm trên, lãnh đạo cấp cao hai
nước đã có nhiều cuộc viếng thăm quan trọng để bàn luận, giải quyết các vấn
đề hợp tác thương mại – kinh tế song phương, trong đó tập trung hướng giải
quyết đẩy mạnh hợp tác kinh tế - thương mại, khoa học kỹ thuật. Năm 1993,
Ủy ban liên chính phủ về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật Việt Nam –
Hàn Quốc chính thức đi vào hoạt động nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế song
phương. Hàng năm đã diễn ra các phiên họp của Ủy ban để xem xét, đánh giá
việc thực thi các quyết định đã được thông qua. Những kết quả đạt được trong
hợp tác kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc được thể hiện ở một số lĩnh vực cụ thể
sau:
Thứ nhất,về thương mại: Trước khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao,
quan hệ thương mại giữa hai nước rất khiêm tốn, năm 1983 kim ngạch buôn
24
bán hai chiều chỉ đạt 23,5 triệu USD và tăng lên 86 triệu USD vào năm 1989.
‘‘Đến năm 1991 đạt 250 triệu USD, năm 1992 đạt 490 triệu USD, năm 1993
đạt 818 triệu USD, năm 1995 đạt 1,5 tỷ USD, năm 1996 đạt 1,8 tỷ USD, năm
1997 đạt 1,9 tỷ USD, năm 1999 đạt 1,5 tỷ USD, năm 2000 đạt 1,7 tỷ USD,
năm 2001 đạt 2,1 tỷ USD, năm 2002 đạt 2,75 tỷ USD, năm 2003 kim ngạch
thương mại đạt đến 3,116 USD (tăng gấp 6 lần so với năm 1992), năm
2004 đạt 4 tỷ USD, năm 2005 đạt 4,125 tỷ USD (Tăng gấp 8 lần so với năm
1992), năm 2006 đạt hơn 5 tỷ USD (gấp 10 lần so với năm 1992) và kim
ngạch xuất nhập khẩu hai nước năm qua (năm 2007) đạt hơn 7 tỷ đô la, trong
đó giá trị hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc đạt 700 triệu
USD, nhập khẩu từ Hàn Quốc hơn 6 tỉ USD. Việt Nam là đối tác thương mại
lớn thứ 25, thị trường xuất khẩu lớn thứ 15 và thị trường nhập khẩu lớn thứ 35
của Hàn Quốc. Cả Việt Nam và Hàn Quốc đều hy vọng đến năm 2010,
kim ngạch thương mại giữa hai bên phải đạt con số 8 tỷ USD’’ [34]
Hàn Quốc đứng thứ 10 trong số các thị trường xuất khẩu của Việt Nam và
là bạn hàng lớn thứ 3 của Việt Nam. Như vậy hàng hóa của Việt Nam đã khẳng
định được chỗ đứng trên thị trường Hàn Quốc. ‘‘Từ năm 1995, xuất khẩu của
Hàn Quốc sang Việt Nam luôn tăng, đặc biệt giai đoạn 2000-2008 tăng bình
quân hàng năm là 19,12%. Cụ thể, từ năm 2002 xuất khẩu của Hàn Quốc sang
Việt Nam tăng vọt lên hơn 2 tỷ USD (tăng 29,4% so với con số 1 tỷ 732 triệu
USD của năm 2001) và năm 2004 là hơn 3 tỷ USD (tăng 27,1% so với năm
2003). Năm 2005 thì con số này là 3 tỷ 431,7 triệu USD. Năm 2006, kim ngạch
xuất khẩu của Hàn Quốc sang Việt Nam đạt khoảng 4,7 tỷ USD và năm 2007
đạt 6,3 tỷ USD’’ [22, tr 25]
Về cơ cấu xuất nhập khẩu, những mặt hàng chủ yếu làm Hàn Quốc
xuất khẩu sang Việt Nam là vải, xe hơi, máy múc, sản phẩm hóa chất,
sản phẩm sắt thép…Còn những mặt hàng chủ yếu mà Hàn Quốc nhập
khẩu từ Việt Nam là dầu thô, nông sản, thuỷ sản, hải sản…Đặc biệt, từ
25
năm 2004 dầu thô trở thành mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam xuất khẩu
sang Hàn Quốc. Đổi lại, những sản phẩm xăng dầu cũng trở thành mặt
hàng xuất khẩu hàng đầu của Hàn Quốc vào Việt Nam.
Như vậy: Cơ cấu hàng hóa trao đổi giữa hai nước nhìn chung là khá ổn
định và đều theo hướng phát huy được các lợi thế so sánh của từng nước.
Điều đó chứng minh rằng, tính bổ sung cho nhau giữa hai thị trường đã được
tận dụng triệt để, bất chấp sự cạnh tranh khốc liệt tại hai thị trường những mặt
hàng thế mạnh của 2 bên vẫn giành được vị trí nhất định trên thị trường của
hai nước. Việc tăng trưởng kim ngạch thương mại còn do những mối giao
lưu, hợp tác sôi động giữa các giới doanh nghiệp và công nghiệp hai nước
trong khuôn khổ các cuộc triển lãm quốc tế, hội chợ, diễn đàn doanh nghiệp
diễn ra thường xuyên hàng năm ở hai nước không chỉ góp phần thúc đẩy quan
hệ kinh tế mà cũng góp phần tạo dựng hình ảnh tốt đẹp của Việt Nam trong
lòng nước Hàn
Thứ hai, về đầu tư: Hàn Quốc luôn là nhóm nước dẫn đầu trong đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, góp phần không nhỏ vào công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam. Trước năm 2000, do những biến động
về thị trường tiền tệ ở Châu Á, đầu tư trực tiếp của Hàn Quốc vào Việt Nam
chưa thực sự nổi bật. Tuy nhiên, những năm sau đó, Hàn Quốc luôn gây ấn
tượng với những con số đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. ‘‘Tính đến năm 2002
Hàn Quốc đã đầu tư vào Việt Nam với 3,29 tỷ USD cho 332 dự án, năm 2003
là 4,1 tỷ USD cho 642 dự án đang còn giấy phép hoạt động, đến năm 2004
tổng vốn đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam lên tới 4,37 tỷ USD với 729 dự
án và đã tạo ra khoảng 30 vạn việc làm cho lực lượng lao động ở Việt nam;
riêng năm 2005, Hàn Quốc đứng thứ 3 trong số các quốc gia đầu tư tại Việt
Nam với 190 dự án và tổng số vốn 551 triệu USD, ghi kỷ lục về tổng số dự án
thực hiện tại Việt Nam. Như vậy từ năm 1988 đến 2005 gồm 1615 dự án với
tổng số vốn đầu tư 6145,4 triệu USD’’ [34]. Và ‘Tính đến hết năm 2007, Hàn