Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Hợp tác quốc tế tiểu vùng Mekong mở rộng và sự tham gia của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 111 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



LÊ DIỆU LINH




HỢP TÁC QUỐC TẾ TIỂU VÙNG
MEKONG MỞ RỘNG
VÀ SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM


LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế









Hà Nội - 2012



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



LÊ DIỆU LINH



HỢP TÁC QUỐC TẾ TIỂU VÙNG
MEKONG MỞ RỘNG VÀ
SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 603140

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS Nguyễn Duy Dũng







Hà Nội - 2012
2

MỤC LỤC


MỤC LỤC 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 5
DANH MỤC BẢNG BIỂU 7
DANH MỤC HÌNH 7
MỞ ĐẦU 8
CHƯƠNG 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỢP TÁC QUỐC
TẾ TIỂU VÙNG MEKONG MỞ RỘNG 13
1.1 Một số đặc điểm chính của Tiểu vùng 13
1.1.1 Đặc điểm tự nhiên 13
1.1.2 Đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội 15
1.2 Sự hình thành và phát triển của hợp tác quốc tế GMS 17
1.2.1 Nhu cầu và lợi ích hợp tác của các bên 17
1.2.2 Xu thế toàn cầu hóa và hợp tác hội nhập khu vực 19
1.2.3 Quá trình hình thành và phát triển của hợp tác quốc tế GMS 24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỢP TÁC QUỐC TẾ TIỂU VÙNG
MEKONG MỞ RỘNG VÀ SỰ THAM GIA CỦA VIỆT NAM 38
2.1 Thực trạng hợp tác quốc tế Tiểu vùng Mekong mở rộng 38
2.1.1 Thực trạng hợp tác quốc tế Tiểu vùng 38
2.1.2 Quan điểm, chính sách và sự hợp tác của các nước lớn đối với
Tiểu vùng 51
2.1.3 Thành tựu và hạn chế trong hợp tác quốc tế Tiểu vùng 61
2.2 Sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác quốc tế GMS 71
3

2.2.1 Tầm quan trọng của hợp tác Tiểu vùng đối với Việt Nam 71
2.2.2 Khả năng hợp tác Tiểu vùng của Việt Nam 72
2.2.3 Sự tham gia của Việt Nam trong hợp tác Tiểu vùng 74
2.2.4 Hạn chế của Việt Nam trong hợp tác Tiểu vùng 82
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM

THÚC ĐẨY HỢP TÁC QUỐC TẾ TIỂU VÙNG MEKONG MỞ RỘNG, GỢI
Ý GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM 85
3.1 Các yếu tố mới tác động đến hợp tác quốc tế GMS 85
3.1.1 Các yếu tố quốc tế 85
3.1.2 Các yếu tố nội vùng 87
3.2 Dự báo triển vọng hợp tác GMS. 90
3.3 Định hướng hợp tác GMS. 91
3.4 Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hợp tác GMS 95
3.4.1 Nâng cao tính liên kết, phối hợp, đồng bộ trong định hướng và
triển khai giữa các nước GMS 95
3.4.2 Hình thành cơ chế huy động vốn chủ động, khuyến khích thu
hút đầu tư tư nhân và nước ngoài. 96
3.4.3 Tăng tính hiệu quả trong sử dụng các nguồn tài chính 97
3.4.4 Xây dựng và triển khai thực hiện quy chế điều phối và quản lý
các hành lang kinh tế trong GMS. 98
3.4.5 Tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế với các nước lớn, tổ
chức quốc tế. 98
3.4.6 Nâng cao vai trò của chính quyền địa phương các cấp trong việc
thực hiện các cam kết quốc gia về hợp tác GMS. 99
4

3.4.7 Phối hợp hiệu quả giữa Chương trình GMS với các liên minh,
các đối tác chiến lược và các cơ chế hợp tác khác. 99
3.5 Gợi ý về giải pháp cho Việt Nam 100
KẾT LUẬN 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO 106



















5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB : Asian Development Bank
Ngân hàng Phát triển Châu Á
AMBDC : Mekong Basin Development Cooperation
Diễn đàn hợp tác phát triển châu thổ sông Mekong
BCI : Biodiversity Conservation Corridors Initiative
Sáng kiến hành lang bảo tồn đa dạng sinh học
CBTA : The Cross-Border Transport Agreement
Hiệp định Giao thông xuyên biên giới
CEP : Core Environment Program
Chương trình Môi trường nòng cốt
EU : European Union
Liên minh Châu Âu
EWEC : East West Economic Corridor

Hành lang kinh tế Đông Tây
GMS : Greater Mekong Subregion
Tiểu vùng Mekong mở rộng
IMF : International Monetary Fund
Quỹ Tiền tệ quốc tế
LMI : Lower Mekong Initiative
Sáng kiến Hạ lưu Mekong
MGC : Mekong-Ganga Cooperation
Hợp tác sông Mekong-sông Hằng
6

MRC : Mekong River Commission
Ủy ban sông Mekong
NSEC : North-South Economic Corridor
Hành lang kinh tế Bắc-Nam
PPP : Phnom Penh Plan
Kế hoạch Phnom Penh
SEC : Southern Economic Corridor
Hành lang kinh tế phía Nam
SFA-TFI : The Strategic Framework for Action for Trade Facilitation and
Investment
Khung chiến lược tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư.
WB : World Bank
Ngân hàng Thế giới
WTO : World Trade Organization
Tổ chức Thương mại thế giới









7

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Các sáng kiến hợp tác khu vực các nước GMS tham gia 69



DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1 Bản đồ dòng chảy sông Mekong 14
Hình 1.2 Bản đồ Tiểu vùng Mekong mở rộng 32
Hình 2.1 Các Hành lang kinh tế GMS 39
Hình 2.2 Tổng thương mại xuất nhập khẩu các nước GMS giai đoạn 2000-200961











8


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Với một vùng lãnh thổ khá rộng lớn 2,6 triệu km
2
, dân số khoảng 300 triệu
người gồm 5 nước (Thái Lan, Mianma, Campuchia, Lào, Việt Nam) và 2 tỉnh của
Trung Quốc (Vân Nam và Quảng Tây), Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) thực sự
là khu vực khá đặc biệt ở nhiều phương diện. Đây là vùng đất ẩn chứa nhiều tài
nguyên thiên nhiên, đa dạng về văn hoá, có khá nhiều điều kiện thuận lợi, song
cũng đang tồn tại không ít khó khăn trong quá trình phát triển hiện nay cũng như
tương lai. Việc hợp tác cùng phát triển không chỉ trở thành nhu cầu tất yếu của các
nước, các địa phương trong Tiểu vùng mà GMS còn là khu vực thu hút sự quan tâm
của các nước lớn, các tổ chức quốc tế. Trong đó, sáng kiến hợp tác quốc tế Tiểu
vùng do Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) khởi xướng từ năm 1992 đã được thực
hiện và thu được những kết quả nhất định. Cho đến tận bây giờ ADB thực sự là một
đối tác chủ yếu khởi động, đồng hành, hỗ trợ phát triển GMS. Với vị trí chiến lược
và vai trò to lớn trong hợp tác và phát triển khu vực, GMS nhận được rất nhiều sự
quan tâm của các tổ chức quốc tế như WB, IMF, … và nhiều nước trên toàn thế giới
như Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, các nước Bắc Âu….
Trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa và hợp tác kinh tế khu vực ngày
càng tăng cao, GMS cũng đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Vấn đề đặt
ra là cần phải đánh giá đầy đủ tiềm năng và trở ngại trong việc hợp tác Tiểu vùng,
xác định nội dung và các hình thức hợp tác hiệu quả; Xây dựng các định hướng và
giải pháp hữu hiệu để phát triển Tiểu vùng hiện nay và trong thời gian tới. Đặc biệt,
việc Việt Nam - một thành viên của GMS đã, đang và sẽ tham gia các hoạt động của
Tiểu vùng như thế nào? Đó là những vấn đề lớn cần nghiên cứu đầy đủ từ các khía
cạnh, các cấp độ khác nhau và đây cũng chính là những nhiệm vụ đang đặt ra đối
với nhiều ngành khoa học. Với cách tiếp cận đó, rõ ràng, việc làm rõ thực trạng hợp
tác quốc tế trong GMS, sự tham gia của các nước trong khu vực và các nước khác là

hết sức cần thiết. Với tư cách là một thành viên của GMS, Việt Nam ngày càng có
vai trò quan trọng và đang tích cực thực hiện các thỏa thuận hợp tác quốc tế trong
9

Tiểu vùng. Vậy, sự tham gia của Việt Nam vào hợp tác quốc tế GMS như thế nào?
Lựa chọn các giải pháp nào để hợp tác mang lại hiệu quả cao nhất? Đây là những
vấn đề rất cấp thiết đòi hỏi phải có sự nghiên cứu đầy đủ. Xuất phát từ thực tế và sự
cần thiết phải làm rõ một số nội dung đang đặt ra nói trên, từ cách tiếp cận của khoa
học quan hệ quốc tế, tác giả đã lựa chọn chủ đề nghiên cứu của luận văn: “Hợp tác
quốc tế Tiểu vùng Mekong mở rộng và sự tham gia của Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Sáng kiến Hợp tác GMS được đánh giá là một trong những dự án hợp tác
khu vực đạt được nhiều thành công nhất so với những dự án cùng thời kỳ. Sự ra đời
và phát triển của GMS đã nhận được sự quan tâm không chỉ từ lãnh đạo các nước
trong vùng, các đối tác lớn của khu vực và thế giới mà còn của các nhà nghiên cứu,
các học giả trong và ngoài GMS.
Nhiều công trình nghiên cứu chung về GMS như: Hành lang kinh tế Đông-
Tây, nghiên cứu về Kế hoạch tổng thể phát triển du lịch Tiểu vùng, nghiên cứu các
chiến lược cho các lĩnh vực hợp tác Tiểu vùng như giao thông, điện, môi trường, du
lịch… đã làm rõ những tiềm năng, cơ hội và nội dung hợp tác trong khu vực. Ngoài
ra, các nhà nghiên cứu trong khu vực và quốc tế đã đóng góp nhiều sáng kiến có giá
trị thông qua các cuộc hội thảo quốc tế về GMS như: Hội thảo quốc tế do ADB tổ
chức tại Nhật Bản, Mianma, Thái Lan, Trung Quốc…
Đặc biệt nội dung hợp tác quốc tế là một chủ đề luôn thu hút sự quan tâm của
các học giả trong và ngoài nước. Điều này thể hiện qua các công trình đã được công
bố ở nước ngoài và ở Việt Nam.
Ở nước ngoài:
Các hướng nghiên cứu chính tập trung vào việc phân tích tình hình chính trị,
kinh tế của từng nước trong bối cảnh riêng và các tác động đến kế hoạch phát triển
kinh tế khu vực thông qua Tiểu vùng Mekong mở rộng.


10

Một số công trình tiêu biểu sau:
- Basic framework of ASEAN – Mekong Basin Development Cooperation
(ASEAN Economic Bulletin, 1996).
- Revolution, Reform and Regionalism in Southeast Asia: Cambodia, Laos
and Vietnam (Tác giả Ronald Bruce St.John, Nhà xuất bản Routledge, 2008).
- The strategic significance of the Mekong (Contemporary Southeast Asia,
2000).
Ở Việt Nam:
Thời gian qua, nghiên cứu GMS nói chung, hợp tác quốc tế trong khu vực
nói riêng cũng là một chủ đề được bàn luận khá sôi nổi. Các hướng nghiên cứu
chính cụ thể là: (1) Tập trung làm rõ thực trạng hợp tác Tiểu vùng trước đây, hiện
nay và triển vọng trong thời gian tới. (2) Làm rõ sự tham gia của Việt Nam thông
qua việc phân tích thực trạng hợp tác và đưa ra các giải pháp kiến nghị. (3) Phân
tích vai trò của các nước lớn, các tổ chức quốc tế trong việc đẩy mạnh sự hợp tác
Tiểu vùng.
Nội dung của các hướng nghiên cứu trên đã thể hiện khá rõ trong một số
công trình tiêu biểu sau:
- Nghiên cứu chung về GMS có Luận án Tiến sĩ của Hoàng Viết Khang
“Hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mekong mở rộng: Hiện trạng, định hướng và giải pháp”
năm 2009; Tác giả Nguyễn Trần Quế với cuốn sách “Hợp tác phát triển Tiểu vùng
Mekong mở rộng – Hiện tại và tương lai” xuất bản năm 2007; Đề tài nghiên cứu
của Viện nghiên cứu thương mại, Bộ Thương mại năm 2005 “Một số giải pháp
nhằm phát triển thương mại của Việt Nam với các nước Tiểu vùng Mekong”.
- Phân tích các nội dung hợp tác ở các lĩnh vực cụ thể nhiều công trình có giá
trị đã được công bố như: “Hợp tác GMS trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng các
hành lang kinh tế: Trường hợp hành lang kinh tế Đông-Tây và Côn Minh-Lào Cai-
Hà Nội-Hải Phòng” của TS. Nguyễn Hồng Nhung năm 2006; Công trình của

11

PGS.TS. Đỗ Tiến Sâm “Trung Quốc với việc tham gia Hợp tác Tiểu vùng Mekong
mở rộng” năm 2005.
Mặc dù hợp tác GMS đã được quan tâm và nghiên cứu khá sâu sắc ở một số
lĩnh vực, song xem xét đánh giá một cách toàn diện hợp tác quốc tế và nhất là sự
tham gia của Việt Nam, đặc biệt là thời gian gần đây, vẫn còn thiếu vắng các công
trình nghiên cứu sâu sắc và toàn diện. Trong bối cảnh mới của quốc tế và khu vực
đã và đang có nhiều biến đổi khá bất ngờ, rất cần có các nghiên cứu cập nhật về
GMS nói chung, hợp tác quốc tế nói riêng. Vì thế, việc đi sâu tìm hiểu phân tích nội
dung này là hết sức cần thiết không chỉ về lý luận mà còn có ý nghĩa thực tế, nhất là
đối với Việt Nam .
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1 Mục đích
Trên cơ sở phân tích sự phát triển của Tiểu vùng Mekong mở rộng, luận văn
cố gắng làm rõ thực trạng hợp tác quốc tế của khu vực này và sự tham gia của Việt
Nam trong GMS hiện nay và trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ
- Làm rõ sự phát triển của hợp tác quốc tế Tiểu vùng Mekong mở rộng trong
thời gian qua.
- Đánh giá kết quả và hạn chế của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết
hợp tác Tiểu vùng.
- Đề xuất các định hướng và giải pháp về phát triển hợp tác Tiểu vùng nói
chung, của Việt Nam nói riêng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phân tích thực trạng hợp tác quốc tế trong Tiểu vùng Mekong mở rộng trên
các lĩnh vực, hình thức cụ thể và sự tham gia của Việt Nam.
12


4.2 Phạm vi nghiên cứu
Hợp tác quốc tế của Tiểu vùng là một vấn đề rất rộng lớn. Trong khuôn khổ
của một luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ lựa chọn những nội dung chủ yếu nhất và sẽ
xem xét phân tích ở hai góc độ: Hợp tác quốc tế của chính các nước trong vùng và
của Tiểu vùng với các nước, các tổ chức quốc tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh. Các tư liệu và dữ liệu sử dụng cho luận văn chủ yếu là
những ấn phẩm đã được công bố, các văn bản hợp tác và các báo cáo tham luận
trong các cuộc hội thảo về GMS trong và ngoài nước. Ngoài ra, tác giả đã tiếp xúc
và trao đổi với một số chuyên gia Việt Nam và Nhật Bản về vấn đề này (phương
pháp phỏng vấn).
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
- Góp phần đánh giá đầy đủ hơn thực trạng hợp tác quốc tế Tiểu vùng và sự
tham gia của Việt Nam.
- Phân tích và cố gắng làm rõ các định hướng và giải pháp phát triển hợp tác
quốc tế Tiểu vùng nói chung và của Việt Nam nói riêng trong thời gian tới.
- Những giải pháp đặt ra cho Việt Nam để việc hợp tác có hiệu quả cao nhất.
7. Bố cục của luận văn
Chương 1. Sự hình thành và phát triển của Hợp tác quốc tế Tiểu vùng
Mekong mở rộng.
Chương 2. Thực trạng hợp tác quốc tế Tiểu vùng Mekong mở rộng và sự
tham gia của Việt Nam.
Chương 3. Định hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy Hợp tác
quốc tế Tiểu vùng Mekong mở rộng, gợi ý giải pháp cho Việt Nam.
13

CHƯƠNG 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỢP TÁC QUỐC
TẾ TIỂU VÙNG MEKONG MỞ RỘNG


1.1 Một số đặc điểm chính của Tiểu vùng
Tiểu vùng Mekong mở rộng là một vùng đất có nguồn tài nguyên thiên nhiên
dồi dào, nhiều điều kiện thuận lợi, nền văn hóa đặc sắc và đa dạng. Điều đó thể hiện
ở một số đặc điểm nổi bật sau:
1.1.1 Đặc điểm tự nhiên
Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm 5
nước Mianma, Lào, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và hai tỉnh Vân Nam, Quảng
Tây (Trung Quốc) với tổng diện tích khoảng 2,6 triệu km
2
, dân số trên 300 triệu
người [18]; có hai đại dương lớn là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương bao bọc ba
mặt. Với vị trí địa lý này, GMS có vị trí tiếp nối cả ba khu vực Đông Nam Á-Đông
Bắc Á-Nam Á, có vai trò kết nối ba khu vực này trong không gian hội nhập liên kết
kinh tế và quan hệ hợp tác khu vực nhiều quy mô cấp độ. GMS nằm giữa những
vùng năng động, phát triển và mới nổi lên hiện nay.
Các quốc gia và lãnh thổ trong GMS có chung dòng sông Mekong tiếp giáp
hoặc chảy qua. Sông Mekong có chiều dài khoảng 4.880 km
2
, tổng diện tích lưu vực
795.000 km
2
, là một trong những dòng sông lớn nhất Châu Á và thế giới [18]; Khởi
nguồn từ cao nguyên Tây Tạng (Trung Quốc), chảy theo hướng Bắc-Nam, đổ ra
biển Đông qua các đồng bằng châu thổ Nam Bộ của Việt Nam. Hệ thống sông suối
dày đặc và nhiều dòng sông lớn chảy liên quốc gia, độ dốc lớn. Dòng sông với trữ
lượng tài nguyên nước lớn nhất trong khu vực mang đến cho GMS tài nguyên nước
và đa dạng sinh học phục vụ cho việc phát triển kinh tế như nông-lâm nghiệp, thủy
điện, giao thông vận tải và du lịch. Đây là nguồn lực tài nguyên xuyên biên giới tác
động trực tiếp đến môi trường và sự phát triển của các quốc gia khu vực Tiểu vùng
Mekong mở rộng.


14

Hình 1.1 Bản đồ dòng chảy sông Mekong

Nguồn: Ban Thư ký Ủy ban sông Mekong (2000)
Sông Mekong với độ cao chênh lệch so với mặt nước biển tại thượng nguồn
là 5000m, lưu lượng dòng chảy bình quân hàng năm lên đến 475 tỷ m
3
đã đem lại
nguồn tài nguyên nước và tiềm năng thủy điện dồi dào [18]. Trong lưu vực Mekong
có nhiều khoáng sản như thiếc, đồng, quặng sắt, khí ga tự nhiên, kali cacbonat và đá
quý. Hệ thống dòng chảy của sông Mekong nuôi dưỡng vùng đất ngập nước và rừng
rộng lớn, là môi trường sống cho hàng nghìn loài động thực vật.
15

1.1.2 Đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
GMS là một khu vực đa dạng về thể chế chính trị. Có những nước xây dựng
thể chế chính trị cộng hòa dân chủ và nhân dân như Việt Nam và Lào, định hướng
đi lên Chủ nghĩa xã hội, có những nước theo thể chế quân chủ nghị viện như
Campuchia, Thái Lan; hoặc có nước theo thể chế quân sự trong một thời gian dài
như Mianma. Các nền kinh tế thuộc GMS có biên giới quốc gia liền kề tiếp giáp
giữa nhiều nước không cùng thể chế chính trị xã hội. Biên giới quốc gia các nước
GMS còn nhiều tồn tại của lịch sử trong mối quan hệ đan xen về địa tộc người, địa
chính trị-an ninh-kinh tế, đang có nhiều chuyển biến tích cực trong hợp tác xây
dựng mối quan hệ hữu nghị ổn định lâu dài và giao lưu rộng ở Tiểu vùng Mekong.
Về dân số, GMS có nguồn nhân lực khá đông và trẻ. Là một khu vực đông
dân nhưng có đặc điểm mật độ dân cư thưa, phân bố không đều. Lực lượng lao
động của Tiểu vùng chiếm hơn 50% tổng số dân, hiện chưa được khai thác và sử
dụng có hiệu quả. Dân số đông, cơ cấu dân số trẻ là một yếu tố quan trọng thu hút

đầu tư trực tiếp của nước ngoài và xuất khẩu lao động. Đây là một nhân tố quan
trọng tạo tăng trưởng kinh tế cao liên tục của nhiều nền kinh tế trong thời kỳ cải
cách kinh tế phát triển thị trường tự do cạnh tranh và hội nhập. Đây cũng là một lực
lượng lao động dự bị hùng hậu dành cho các doanh nghiệp mới và đang mở rộng.
Đây là khu vực có nhiều cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử-văn hóa được
công nhận là di sản thế giới. Về văn hóa, mặc dù cùng chịu ảnh hưởng của hai nền
văn hóa lớn liền kề là văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ nhưng trong quá trình phát
triển, mỗi nước đều có một bản sắc dân tộc riêng. Chính điều này đã tạo cho tiểu
khu vực sự đa dạng về văn hóa nhưng vẫn có những điểm tương đồng nhất định.
Về kinh tế, các nền kinh tế và chính sách phát triển kinh tế của các quốc gia
thuộc Tiểu vùng Mekong đã và đang chuyển đổi theo cơ chế kinh tế thị trường tự
do, hướng ngoại hội nhập với những mức độ khác nhau. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
phát triển kinh tế hàng hóa và dịch vụ, tăng tỷ trọng kinh tế công nghiệp và dịch vụ,
giảm tỷ trọng kinh tế nông nghiệp trong GDP, thu hút đầu tư nước ngoài là kết quả
16

nổi bật ở các nước này trong quá trình cải cách mở cửa. Tuy vậy, sản xuất nông
nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP ở Tiểu vùng Mekong. Kinh tế đối
ngoại phát triển theo hướng gắn kết thị trường ngoài nước, từng bước hạn chế tình
trạng nhập siêu. Các nước GMS có giá trị trao đổi thương mại tiểu ngạch tăng
nhanh, mậu dịch biên giới có xu hướng chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị ngoại
thương song phương giữa các nước ở Tiểu vùng.
Về chủng tộc, lưu vực Mekong là một vùng đa sắc tộc. Từ thượng nguồn
xuống tới bờ biển có hàng trăm tộc người sinh sống với sự đa dạng về văn hóa như
ngôn ngữ, kiến thức, tôn giáo, phong tục tập quán khác nhau hết sức phong phú.
Về tôn giáo, Mekong là một miền đất đa dạng tín ngưỡng bao gồm các tôn
giáo lớn như đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Hồi và hàng trăm tín ngưỡng dân gian
khác nhau. Tuy nhiên, tôn giáo phổ biến nhất trên phương diện cư dân và lãnh thổ
chính là đạo Phật.
Về kiến trúc, có sự đa dạng kiến trúc, có một số công trình kiến trúc được

UNESCO xếp vào loại di sản văn hóa của nhân loại như Lâu đài Pootala ở Lhasa
(Tây Tạng), thành cổ Lệ Giang (Vân Nam), Hội An, Mỹ Sơn (Việt Nam), chùa
Vàng Rangun (Mianma), chùa Phật Ngọc (Thái Lan), đền Vạt Phu, chùa Visun
(Lào), đền AngKor (Campuchia)…
Một số nét khái quát trên cho thấy đây là một khu vực địa lý có tiềm năng
nội lực phát triển mạnh, có vị trí chiến lược hội nhập kinh tế ba khu vực Đông Nam
Á, Đông Bắc Á và Nam Á. Hợp tác phát triển Tiểu vùng Mekong góp phần ổn định
thúc đẩy liên kết và thu hẹp các khoảng cách, đặc biệt là khoảng cách phát triển
trong ASEAN, đẩy mạnh và mở rộng hợp tác Đông Á.
Các nước GMS gắn kết với nhau bằng các đường biên giới đất liền, do vậy
rất thuận tiện cho việc phát triển cơ sở hạ tầng quy mô lớn, tạo điều kiện để phát
triển kinh tế, xã hội và giao lưu văn hóa giữa các dân tộc. Các nước GMS tiếp giáp
với biển, nằm giữa các tuyến giao thông huyết mạch của thế giới, có điều kiện khí
hậu thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú, dân cư đông đúc và văn hóa đa
17

dạng. Các quốc gia trong Tiểu vùng ngày càng nhận thức sâu sắc rằng phải phối
hợp và tăng cường liên kết, hợp tác với nhau thì mới có thể khai thác, sử dụng có lợi
nhất, có hiệu quả các tiềm năng to lớn của Tiểu vùng về nhân lực, thủy điện, trữ
lượng khoáng sản, tài nguyên nước, thủy sản, du lịch,…bảo vệ tốt môi trường và
phát triển bền vững. Chung nhau khai thác dòng sông và các tài nguyên đa dạng gắn
kết với nhau thành một khối, các nền kinh tế trong Tiểu vùng nếu không hợp tác thì
không những không sử dụng có hiệu quả và lâu bền các nguồn lực của mình mà còn
có nguy cơ động chạm đến lợi ích của nhau. Hợp tác Tiểu vùng mở ra một thời kỳ
mới cho xây dựng cuộc sống phồn vinh giàu có cho tất cả các quốc gia trong Tiểu
vùng.
Vị trí địa kinh tế-chính trị-an ninh khu vực của Tiểu vùng Mekong có tầm
quan trọng, thu hút nhiều đối tác ở nhiều châu lục trong hỗ trợ và đầu tư thực hiện
dự án phát triển thuộc Tiểu vùng, trong định vị của các đối tác cạnh tranh vị thế, mở
rộng ảnh hưởng, phát triển hợp tác, đẩy mạnh quan hệ tương tác gắn kết và tùy

thuộc lẫn nhau.
1.2 Sự hình thành và phát triển của hợp tác quốc tế GMS
Hợp tác quốc tế là sự phối hợp hòa bình giữa các chủ thể quan hệ quốc tế
(QHQT) nhằm thực hiện các mục đích chung. Hợp tác đang là một trong những xu
hướng quan trọng nhất trong QHQT thế giới hiện nay. Xu hướng này tác động lên
mọi quốc gia và thế giới. Hợp tác giữa các quốc gia trong lưu vực sông Mekong
cũng không đi lệch xu hướng này.
1.2.1 Nhu cầu và lợi ích hợp tác của các bên
Hội nhập toàn cầu và khu vực là xu thế khách quan, là quá trình mà hầu hết
tất cả các khu vực, tiểu khu vực, các quốc gia trên toàn thế giới đều tham gia. Các
quốc gia GMS đều nhận thức được việc tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác với
các nước trong Tiểu vùng sẽ đem lại các lợi ích chung về nhiều mặt như an ninh,
chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Việc tăng cường hợp tác với các nước trong
18

khu vực sẽ góp phần đảm bảo môi trường ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển về mặt kinh tế.
Tăng cường hợp tác với các nước láng giềng góp phần đảm bảo môi trường
ổn định trong khu vực. Quá trình tham gia hợp tác cũng chính là cách để mỗi nước
từng bước tiếp cận và nâng cao vị thế đất nước trong khu vực và trên trường quốc
tế. Các quốc gia sẽ có thể cùng nhau giải quyết các vấn đề chung của khu vực, liên
quan đến nhiều nước trong Tiểu vùng, như vấn đề tội phạm xuyên quốc gia, khủng
bố quốc tế, các hình thức buôn bán bất hợp pháp qua biên giới, Để có thể giải
quyết các vấn đề này bắt buộc toàn bộ quốc gia trong Tiểu vùng cần bắt tay liên kết
hợp tác.
Hội nhập Tiểu vùng GMS là hết sức cần thiết để phát triển nền kinh tế của
từng quốc gia. Ngày nay, một quốc gia không thể chỉ dựa vào nội lực để phát triển
kinh tế do nguồn lực của từng nước chỉ có hạn và không toàn diện. Các nước GMS
tuy có nhiều đặc điểm tương đồng song cũng có nhiều nét đặc thù riêng về địa hình,
đất đai, tài nguyên, điều kiện khí hậu, văn hóa, xã hội và lịch sử Do vậy, mỗi nước

GMS đều có những lợi thế so sánh riêng. Hợp tác với các quốc gia khác sẽ góp
phần phát huy lợi thế so sánh của từng nước cũng như tận dụng các ưu thế của bên
ngoài. Hợp tác kinh tế sẽ tạo ra thị trường rộng lớn hơn, ít rào cản hơn, điều kiện ưu
đãi tốt hơn cho các nước trong Tiểu vùng. Đây sẽ là một trong những giải pháp để
thu hút đầu tư, vốn vay và viện trợ từ bên ngoài. Ngoài ra, sự thống nhất trong các
chương trình hành động chung của Tiểu vùng cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong
việc đầu tư các dự án liên quốc gia. Có những dự án phát triển kinh tế mà bản thân
một quốc gia không thể tiến hành được do các điều kiện về kinh tế hoặc thẩm quyền
không cho phép. Ví dụ như các dự án về xây dựng, nâng cấp các tuyến đường
xuyên quốc gia, các đường dây truyền tải điện năng xuyên biên giới. Với những dự
án lớn như vậy, nhất thiết cần phải có sự hợp tác giữa các nước trong Tiểu vùng.
Đặc biệt, các quốc gia tại đây đều có quyền lợi và nghĩa vụ trong việc khai
thác tài nguyên mà sông Mekong mang lại. Dòng sông mang trong mình một trữ
lượng tài nguyên nước lớn nhất trong khu vực phục vụ phát triển kinh tế trong các
19

lĩnh vực như tưới tiêu, thủy điện, giao thông đường thủy và tài nguyên sinh học
phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, sông Mekong là một thể thống nhất không thể chia
cắt. Do đó, muốn đánh giá tài nguyên, dự báo biến động nguồn tài nguyên và môi
trường sinh thái thì một quốc gia riêng lẻ không thể nào thực hiện được, cần phải có
sự phối hợp hoạt động của tất cả các quốc gia dưới sự điều hành, quản lý của một
cơ quan đủ thẩm quyền và uy tín do chính các nước này lập ra. Các quốc gia này
nếu không hợp tác thì không những không sử dụng hiệu quả và lâu dài các nguồn
lực của mình mà còn có nguy cơ xâm phạm đến lợi ích của nhau, gây căng thẳng và
nguy cơ bùng nổ xung đột.
GMS có dân số đông, là nơi cung cấp tài nguyên thiên nhiên, sức lao động
cho nhiều thị trường trên thế giới, cũng là nơi cung cấp, tiêu thụ hàng hóa và dịch
vụ lớn trên thị trường quốc tế. Do vậy, GMS có khả năng tham gia cùng các nền
kinh tế lớn điều tiết quá trình hội nhập, toàn cầu hóa, khu vực hóa trên thế giới.
GMS được hình thành, củng cố và phát triển mạnh mẽ như ngày nay là do ý

chí và vai trò quyết định của Chính phủ các nước GMS. Các nước GMS nhận định
rằng thúc đẩy tăng trưởng, xóa đói giảm nghèo và phát triển GMS thành một khu
vực phồn thịnh và thịnh vượng là yêu cầu thực tế của Chính phủ và nhân dân các
nước GMS.
1.2.2 Xu thế toàn cầu hóa và hợp tác hội nhập khu vực
1.2.2.1 Sự thay đổi cục diện chính trị và xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế thế
giới
Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, thế giới bước sang thời kỳ mới với diện mạo
mới. Đây là kết quả của sự thay đổi cục diện chính trị toàn cầu và xu thế toàn cầu
hóa kinh tế mạnh mẽ. Chiến tranh lạnh kết thúc, từ thế giới “hai cực” trở thành thế
giới “nhất siêu đa cường”. Mỹ nổi lên là một siêu cường mạnh nhất so với các
cường quốc khác. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Mỹ bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi sự
vươn lên của các cường quốc khác như Nhật Bản, Tây Âu, Nga, Trung Quốc, Xu
20

thế phát triển của trật tự thế giới tiến tới một hệ thống đa cực, trong đó các quốc gia
phụ thuộc lẫn nhau để cùng phát triển.
Trong bối cảnh đó, kinh tế trở thành nhân tố quyết định cho sức mạnh tổng
hợp của các quốc gia. Làn sóng tập hợp các quốc gia trong các tổ chức khu vực địa
lý, từ tiểu khu vực đến đại khu vực thành những khu vực mậu dịch tự do đang diễn
ra dồn dập ở khắp các châu lục. Việc liên kết các quốc gia có cùng vị trí địa lý, trình
độ phát triển kinh tế và sự tương đồng về văn hóa, hình thành một “siêu nhà nước”
như EU, hay tạo dựng các khu vực mậu dịch tự do như NAFTA, AFTA, hay ở
phạm vi nhỏ hơn là hợp tác kinh tế tiểu khu vực mà điển hình là các tam giác tăng
trưởng ở ASEAN đang thành một hướng đi chủ đạo của các nước. Khu vực Đông
Nam Á cũng không nằm ngoài xu thế này.
Các nước trong khu vực Đông Nam Á đều nỗ lực kiến tạo môi trường chính
trị thuận lợi, coi trọng mở cửa hợp tác và xác định cơ sở hợp tác là duy trì hòa bình
và ổn định khu vực. Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch-tập trung sang nền kinh
tế thị trường ở một số nước như Việt Nam và Lào đã đạt được những kết quả tích

cực. Thái Lan, Việt Nam, Lào, Mianma và Campuchia đều là thành viên chính thức
của ASEAN, đều có lợi ích chung trong hợp tác phát triển Tiểu vùng. Trung Quốc
cũng là nước đối thoại của ASEAN, là thành viên của Diễn đàn an ninh khu vực
(ARF). Chính môi trường khu vực trong xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác và phát
triển đã mở ra nhiều cơ hội và triển vọng to lớn thúc đẩy hợp tác Tiểu vùng.
1.2.2.2 Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày càng gia tăng mạnh mẽ
Với sự phát triển của cách mạng khoa học-công nghệ hiện đại, công nghệ
thông tin và viễn thông xuất hiện là cơ sở cho sự hình thành những nguyên lý vận
động mới của xu thế toàn cầu hóa và liên kết kinh tế. Các nền kinh tế quốc gia
dường như trở thành những bộ phận hữu cơ của nền kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó,
các công ty xuyên quốc gia (TNCs) ngày càng ảnh hưởng đến luật chơi cũng như
các chính sách kinh tế của nhiều quốc gia, trở thành một tế bào kết nối nền kinh tế
thế giới thành một hệ thống toàn cầu. Đồng thời, các tổ chức kinh tế, tài chính,
21

thương mại quốc tế như IMF, WB, WTO đóng vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy tiến trình toàn cầu hóa. Các nhân tố này tác động trực tiếp đến sự phát triển
mạnh mẽ của toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa luôn gắn liền với quá trình khu vực hóa kinh tế thế giới, khu
vực hóa là một bộ phận tổ thành của toàn cầu hóa. Xu hướng của khu vực hóa là
từng bước phá vỡ tính hạn hẹp để vươn rộng hơn trong không gian toàn cầu. Trong
nền kinh tế toàn cầu hóa, xu hướng liên kết kinh tế khu vực và quốc tế hóa được đẩy
mạnh hơn bao giờ hết. Kể từ đầu thập kỷ 90, hàng loạt các tổ chức kinh tế khu vực
và quốc tế dưới nhiều cấp độ và mang tính thể chế ngày càng cao đã ra đời. Chính
tính đa dạng về cấp độ phát triển, sự khác biệt về các đặc điểm địa-chính trị và địa-
kinh tế cùng những đặc tính văn hóa làm cho các hình thức kinh tế trở nên nhiều vẻ
và phong phú về nội dung. Tuy vậy, về bản chất, chúng là hiện thân của xu hướng
tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế. Đó là sự liên kết kinh tế mang tính thể chế
cao với phạm vi hoạt động rộng lớn trên quy mô toàn cầu như WTO. Đó là khuynh
hướng hình thành một liên minh kinh tế thống nhất cho toàn khu vực như EU hay

chỉ là một thỏa thuận khu vực xuyên qua nhiều lục địa không mang tính pháp lý
nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hóa như APEC. Đó là dàn xếp khu vực ở quy mô nhỏ
hơn với nhiều yếu tố đồng nhất nhằm xây dựng khu vực mậu dịch tự do như
NAFTA, AFTA,
Toàn cầu hóa kinh tế trong những năm gần đây không những không thay thế,
mà còn thúc đẩy mạnh mẽ quá trình khu vực hóa. Hơn thế nữa, một số quốc gia
đang phát triển đã tìm cách vượt qua những thách thức của toàn cầu hóa kinh tế
bằng cách đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương với các nước láng giềng,
khu vực. Các liên kết thương mại khu vực là cơ chế hợp tác phổ biến giữa các quốc
gia, tồn tại một cách khách quan bên cạnh hệ thống thương mại đa phương của
WTO. Ngay cả khi WTO được thiết lập vào năm 1995, cùng với sự chuyển biến căn
bản về quy định và các mức độ cam kết thì xu hướng liên kết khu vực không những
không suy giảm mà lại được phát triển với mức độ cao hơn cả về mức độ cam kết,
phạm vi, lĩnh vực và thời gian hoàn thành. Nhiều quốc gia trên thế giới đã chuyển
22

trọng tâm vào xây dựng các liên kết thương mại tự do song phương và khu vực
(RTA/BFTA). Tính đến tháng 1/2005, có 312 hiệp định thương mại khu vực RTA
được các nước thành viên thông báo tới GATT/WTO, trong đó 170 RTA còn hiệu
lực. Đến tháng 12/2006, đã có thêm 55 RTA được thông báo, nâng tổng số STA
được thông báo và còn hiệu lực lên 214. Tính trung bình mỗi năm trong hệ thống
WTO có 11 RTA hình thành, so với con số trung bình dưới 3 RTA trong hơn bốn
thập kỷ hiệu lực của GATT (1947-1994) là gấp hơn 3 lần. Tính đến tháng 8/2009,
toàn cầu có 171 RTA có hiệu lực và hiện nay giá trị trao đổi thương mại giữa các
thành viên đã chiếm trên 40% tổng giá trị thương mại toàn cầu [8].
1.2.2.3 Tác động của một số nhân tố khác
Liên minh Châu Âu EU
Cộng đồng Châu Âu (EC) mà sau này là Liên minh Châu Âu (EU) - là một ví
dụ thực tiễn điển hình, đầy thuyết phục về hội nhập kinh tế khu vực trong nền kinh
tế thế giới – đã thành công trong liên kết khu vực thông qua hình thành các hiệp

định thương mại tự do khu vực và phát triển thành liên minh thuế quan, rồi liên
minh kinh tế và chính trị. Sau quá trình hội nhập mở rộng, đến tháng 1/2007, Liên
minh Châu Âu có tất cả 27 thành viên.
Hơn 50 năm qua, EU đã không ngừng phát triển, đóng vai trò quan trọng
trong hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị và an ninh đối với thế giới nói chung và
cho từng nước thành viên nói riêng. Đồng Euro của EU ngày càng có sức mạnh
trong nền kinh tế, được sử dụng phổ biến hơn trong giao dịch quốc tế và là đồng
tiền dự trữ ngoại hối của nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia Đông Âu. Trong
những năm qua, cùng với quá trình nhất thể hóa và những bước tiến tới một liên
minh chính trị đã và đang đem lại cho EU một sức mạnh kinh tế và chính trị rất lớn
trên thế giới. EU ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển kinh tế toàn cầu.


23

Hợp tác APEC
Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) được hình thành năm
1989, hiện nay có 21 nền kinh tế thành viên bao gồm các nền kinh tế lớn nhất của
thế giới như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga. APEC ra đời nhằm xúc tiến tự do hóa
thương mại với 3 mục tiêu nòng cốt là: tự do hóa thương mại và đầu tư, tạo điều
kiện thuận lợi cho kinh doanh, hợp tác kinh tế và kỹ thuật.
Tuy nhiên, APEC vẫn không giải quyết được nhiều vấn đề mang tính đặc thù
của khu vực ASEAN như vấn đề an ninh khu vực ASEAN cần phải được bảo đảm
trong triển vọng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong khi các nước này không có vũ
khí răn đe chiến lược như vũ khí hạt nhân. Tình hình an ninh và ổn định xã hội của
một số nước như Indonexia, Thái Lan, Philippin và một số nước khác vẫn còn bất
ổn, vấn đề giàu nghèo vẫn chênh lệch lớn giữa các nước thành viên ASEAN. Mức
thu nhập của các nước cũng khá chênh nhau làm cản trở sự hợp tác, sự hội nhập và
tự do hóa thương mại và đầu tư giữa các nước. Do vậy, sự tồn tại của ASEAN là

cần thiết và khách quan, góp phần giải quyết nhiều vấn đề đặc thù của khối
ASEAN. Hơn nữa, trên thực tế, trong nhiều năm qua, APEC chỉ có thể tạo ra khung
hợp tác chung cho các nước thành viên mà không có chương trình hợp tác riêng
dành cho các tiểu khu vực. Nên cần phải có tổ chức riêng của các nước Tiểu vùng
sông Mekong để có thể giải quyết các vấn đề đặc thù của Tiểu vùng GMS.
Hợp tác ASEAN
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8/8/1967,
đến nay gồm có 11 nước thành viên. ASEAN cam kết hợp tác bình đẳng giữa các
nước thành viên và đem lại lợi ích chung cho mọi quốc gia, góp phần xây dựng nền
tảng vững chắc cho hòa bình, ổn định và phồn vinh trên thế giới nói chung và ở khu
vực ASEAN nói riêng. Tuy nhiên, các nước thành viên GMS có những nét đặc thù
riêng mà nhiều nước thành viên khác của ASEAN không có điểm tương đồng, đó là
những cơ hội, thách thức và những khó khăn khách quan do quá trình toàn cầu hóa,
khu vực hóa và từ môi trường bên ngoài mang lại (vị trí địa lý, kinh tế-xã hội, mối
24

liên kết cơ sở hạ tầng như các hành lang giao thông, bưu chính viễn thông,…) Dựa
vào những đặc thù của mình, các nước GMS có khả năng xây dựng các hiệp định
chung mà chỉ mang lại lợi ích cho riêng các nước GMS chứ không có nhiều lợi ích
cho các nước khác.
Do vậy, việc hình thành GMS là khách quan, cần thiết, là nghĩa vụ và quyền
lợi của các nước GMS.
1.2.3 Quá trình hình thành và phát triển của hợp tác quốc tế GMS
Vào đầu những năm 90, tình hình kinh tế của các nước GMS chưa phát triển,
đứng trước hàng loạt thách thức như nghèo đói, cơ sở hạ tầng quốc gia hạn chế cả
về giao thông, năng lượng, viễn thông, sức khỏe và giáo dục, chính phủ các nước
GMS đã nhận thức được rằng chỉ có thông qua tăng cường hợp tác mới có thể cùng
nhau phát triển được. Bên cạnh đó, những lợi thế về nguồn nhân lực và tài nguyên
thiên nhiên đã tạo điều kiện cho GMS trở thành một trọng tâm phát triển mới của
Châu Á và nhận được sự quan tâm hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế, trước hết là

Ngân hàng ADB. Hợp tác GMS được hình thành và phát triển thông qua một số cấp
độ, cơ chế và lĩnh vực hợp tác như Chương trình Hợp tác Tiểu vùng Mekong mở
rộng (Chương trình GMS), Ủy ban sông Mekong (MRC), Diễn đàn hợp tác phát
triển châu thổ sông Mekong (AMBDC), Trong khuôn khổ phần này sẽ giới thiệu
qua về hai hình thức hợp tác MRC và AMBDC, tập trung nhấn mạnh và phân tích
kỹ về sự hình thành và phát triển của Chương trình GMS – được đánh giá là chương
trình hợp tác hoàn chỉnh nhất trong hợp tác Tiểu vùng sông Mekong.
1.2.3.1 Ủy ban sông Mekong (MRC – Mekong River Commission)
Hợp tác quốc tế phát triển Tiểu vùng sông Mekong được bắt đầu vào năm
1957 khi Ủy ban kinh tế của Liên hợp quốc về Châu Á và vùng Viễn Đông
(ECAFE) thành lập Ủy ban sông Mekong với tiền thân là Ủy ban phối hợp khảo sát
hạ lưu vực sông Mekong gồm bốn thành viên là Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt
Nam, bắt đầu quá trình hợp tác khai thác và phát triển dòng sông Mekong. Ủy ban
có nhiệm vụ khuyến khích, phối hợp, kiểm tra và giám sát việc quy hoạch và nghiên

×