Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Quan hệ Trung Quốc với Lào từ năm 2003 đến năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 114 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TRẦN THỊ HẢI YẾN





QUAN HỆ TRUNG QUỐC VỚI LÀO
TỪ NĂM 2003 ĐẾN 2012




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế






HÀ NỘI - 2014

2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TRẦN THỊ HẢI YẾN




QUAN HỆ TRUNG QUỐC VỚI LÀO
TỪ NĂM 2003 ĐẾN 2012




Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số: 60 31 02 06




Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Văn Huy




HÀ NỘI - 2014


3
MỤC LỤC

Trang
Mục lục
1
Danh mục các chữ viết tắt
3
Danh mục các bảng biểu
3
Mở đầu
4
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ TRUNG QUỐC
VỚI LÀO

1.1 Bối cảnh quốc tế và khu vực
11
1.2. Tình hình Trung Quốc và Lào
1.2.1. Tình hình Trung Quốc
1.2.1.1. Sự trỗi dậy của Trung Quốc
1.2.1.2. Chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc
1.2.2. Tình hình CHDCND Lào
25
25
25
32
35
1.3. Vị trí của Lào trong chiến lược phát triển của Trung Quốc
39

1.4. Tiểu kết
41
Chương 2
NHỮNG TIẾN TRIỂN TRONG QUAN HỆ TRUNG QUỐC VỚI LÀO
TRÊN CÁC LĨNH VỰC

2.1. Những tiến triển trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao
2.1.1. Quan hệ ngoại giao trước năm 2013
2.1.2. Thực trạng quan hệ chính trị ngoại giao giai đoạn 2003-2012
43
43
45
2.2. Những tiến triển trên lĩnh vực kinh tế
2.2.1. Quan hệ kinh tế trước 2003
2.2.2. Thực trạng quan hệ kinh tế hai nước giai đoạn 2003-2012
48
48
50
2.3. Những tiến triển trên lĩnh vực an ninh – quốc phòng
67
2.4. Những tiến triển trên lĩnh vực văn hóa – xã hội và giáo dục
2.4.1. Trung Quốc gia tăng các hoạt động giao lưu văn hóa, xã hội và giáo
68
68

4
dục với Lào
2.4.2. Vai trò cộng đồng người Hoa và di dân Trung Quốc mới trong mối
quan hệ Trung Quốc với Lào


70
2.5. Tiểu kết
74
Chương 3
TÁC ĐỘNG VÀ XU HƯỚNG QUAN HỆ TRUNG QUỐC VỚI LÀO

3.1. Tác động của quan hệ Trung Quốc với Lào đến bản thân hai nước, khu
vực và quốc tế
3.1.1. Tác động đến Trung Quốc
3.1.2. Tác động đến Lào
3.1.3. Tác động đến Việt Nam
3.1.4. Tác động đến khu vực
3.1.5. Tác động đến Mỹ
76

76
79
84
86
87
3.2. Xu hướng quan hệ Trung Quốc với Lào
3.2.1. Xu hướng về chính trị, ngoại giao
3.2.2. Xu hướng về kinh tế
3.2.3. Về quốc phòng, an ninh
3.2.4. Về văn hóa – xã hội
89
89
94
96
97

3.3. Tiểu kết
99
KẾT LUẬN
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
103









5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADB
Ngân hàng Phát triển Á châu
Asia Development Bank
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Association of Southeast Asian Nations
Châu Á - TBD
Châu Á – Thái Bình Dương
CHDCND Lào

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Lao People‟s Democratic Republic

CHND Trung Hoa
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc)
People‟s Republic of China
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Foreign Direct Investment
GMS
Tiểu vùng Sông Mekong Mở rộng
Greater Mekong Subregion
TTXVN
Thông tấn xã Việt Nam
WB
Ngân hàng Thế giới
World Bank
USD
Đô la Mỹ
US Dollar

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Trang
Bảng 2.1: Thống kê tình hình mậu dịch Trung – Lào, 1999-2002
48
Bảng 2.2: Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Lào, 1991-2002
48
Bảng 2.3: Thống kê tình hình mậu dịch Trung – Lào, 2003-2011
50
Bảng 2.4: Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Lào, 2003-2008
54

Bảng 2.5: Kim ngạch thương mại Vân Nam – Lào giai đoạn 2000-2011
64

6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực, trở
thành một cường quốc khu vực và đang trên con đường trở thành cường quốc toàn
cầu. Quốc gia này hiện đang nỗ lực gia tăng ảnh hưởng tại châu Á và đặc biệt là
Đông Nam Á, nhằm biến khu vực này thành “sân sau” an toàn cho mình. Là một
quốc gia láng giềng phía Nam của Trung Quốc, Lào đang đóng một vai trò quan
trọng trong chiến lược phát triển hướng xuống phía Nam của quốc gia này. Trong
quá trình gia tăng tầm ảnh hưởng của Trung Quốc, Lào được xem như một chiếc
cầu nối giữa quốc gia này với ASEAN lục địa. Không chỉ vậy, khi bước vào quá
trình toàn cầu hóa, Lào trở thành địa bàn cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn
trên bàn cờ địa chính trị, và Trung Quốc trở thành một trong các nhân tố có tác động
mạnh mẽ nhất trong cuộc đua tranh tại đây. Do đó, nghiên cứu mối quan hệ một
chiều này giúp chúng ta có được cái nhìn đầy đủ hơn về chiến lược gia tăng cũng
như cạnh tranh tầm ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực ASEAN.
Bên cạnh đó, Lào và Trung Quốc là hai nước láng giềng có những mối quan
hệ lịch sử hết sức chặt chẽ với Việt Nam. Việc nghiên cứu về hai quốc gia này nói
chung và quan hệ Trung Quốc đối với Lào nói riêng nhằm lý giải được nhiều vấn đề
học thuật quan trọng, cũng như hiểu được mối quan hệ này chúng ta có cơ sở khoa
học quan trọng để giúp ích cho Đảng và Chính phủ đưa ra những chính sách ngoại
giao phù hợp với diễn biến tình hình rất phức tạp hiện nay.
Mặc dù chúng ta cũng có một số nghiên cứu được công bố, nhưng thiếu vắng
những công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có tính hệ thống, làm rõ bản
chất và xu thế vận động của quan hệ Trung Quốc với Lào, cũng như những tác động
cụ thể đối với Việt Nam trên những phương diện cụ thể. Nhất là trong bối cảnh, nhu
cầu tìm hiểu về những vấn đề mang tính toàn cầu, quan hệ quốc tế khu vực, và nhất

là thực trạng và xu thế phát triển các quốc gia xung quanh chúng ta, ngày càng gia
tăng, khiến cho chúng ta càng cần phải có sự quan tâm nghiên cứu một cách bài bản
và có tính chiến lược dài hơi.

7
Chính vì nghiên cứu mối quan hệ Trung Quốc với Lào vừa có giá trị khoa
học và giá trị thực tiễn sâu sắc, cho nên tôi đã lựa chọn đề tài cho luận văn thạc sỹ
của mình là: Quan hệ Trung Quốc với Lào từ năm 2003 đến 2012.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích những tiến triển trong mối quan hệ Trung Quốc
với Lào từ khi Hồ Cẩm Đào lên nắm quyền (từ 2003) đến năm 2012 trên các
phương diện cụ thể. Luận văn phân tích từ góc độ Trung Quốc, tức là nhìn nhận
việc tiến trình Trung Quốc gia tăng quan hệ với Lào trong chiến lược gia tăng ảnh
hưởng chung của quốc gia này đối với khu vực.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích mối quan hệ
Trung Quốc với Lào trong khoảng thời gian từ năm 2003 đến 2012. Tuy nhiên, luận
văn cũng khái quát mối quan hệ này trước năm 2003.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích một số vấn đề
chính như sau: (i) tập trung phân tích những nhân tố tác động đến sự gia tăng trong
quan hệ của Trung Quốc đối với Lào; (ii) phân tích những chuyển biến cụ thể trong
mội quan hệ Trung Quốc – Lào trên các phương diện như: chính trị ngoại giao, kinh
tế, quốc phòng an ninh và văn hoá – xã hội; (iii) đánh giá một số tác động và triển
trọng của mối quan hệ giữa hai nước.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung vào những mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu như
sau:

Mục tiêu nghiên cứu:
- Nhận diện đánh giá lợi ích chiến lược của Trung Quốc trong việc gia tăng
quan hệ với Lào;

8
- Làm rõ những tiến triển trong quan hệ Trung Quốc với Lào trên các
phương diện như chính trị - ngoại giao, kinh tế thương mại và đầu tư, quốc phòng,
giao lưu văn hoá xã hội, v.v;
- Đánh giá tác động của mối quan hệ này đối với bản thân hai nước, Việt
Nam cũng như khu vực và quốc tế. Đồng thời, đánh giá triển vọng mối quan hệ
Trung Quốc với Lào trong thời gian tới;
- Cung cấp một số bằng chứng khoa học cho công tác hoạch định chính sách
đối ngoại của Việt Nam với các nước láng giềng và cung cấp tư liệu có tính hệ
thống cho công tác giảng dạy và nghiên cứu.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận văn đi vào phân tích làm rõ yếu tố quốc tế, khu vực, cũng như hai
nước Lào và Trung Quốc có tác động đến mối quan hệ một chiều này như thế nào,
nhất là tìm hiểu xem lợi ích chiến lược của Trung Quốc trên đất Lào như thế nào để
Trung Quốc quyết định ngày càng thắt chặt quan hệ với Lào;
- Tiếp đến, luận văn đi vào phân tích thực trạng trong quan hệ Trung Quốc
với Lào trên các lĩnh vực cụ thể như: chính trị, kinh tế, hợp tác quốc phòng – an
ninh và văn hóa giáo dục
- Bên cạnh đó, luận văn cũng đi vào phân tích quá trình Trung Quốc gia tăng
sức mạnh mềm khác đối với Lào;
- Cuối cùng, luận văn tiến hành đánh giá những triển vọng và tác động của
mối quan hệ này đến bản thân mỗi nước, đến Việt Nam, khu vực và quốc tế.

4. Tình hình nghiên cứu
- Những nghiên cứu trong nước: Trong những năm gần đây, sự gia tăng ảnh
hưởng của Trung Quốc tới Lào ngày một mạnh mẽ, tuy nhiên những nghiên cứu

trong nước đối với mối quan hệ này còn tương đối khiêm tốn, mặc dù vậy giới học
giả trong nước cũng công bố một số nghiên cứu nhất định. Chẳng hạn như, Trương
Duy Hòa đã công bố công trình với tiêu đề “Một số vấn đề về xu hướng chính trị -
kinh tế ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI” [4]
trong công trình này, ngoài việc tác giả trình bày về tình hình chính trị - kinh tế của

9
Lào trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, tác giả cũng đề cập đến sự gia tăng trong
quan hệ giữa Trung Quốc và Lào trên các phương diện từ kinh tế, chính trị, ngoại
giao, an ninh – quốc phòng, v.v. Nhất là tác giả đã khai thác được những tư liệu từ
tiếng Lào, và có thể coi đây là một trong những đóng góp quan trọng của công trình
nghiên cứu này. Đồng thời, tác giả Trương Duy Hòa trong bài viết “Vị thế của
CHDCND Lào trong cạnh tranh chiến lược hiện nay ở Đông Nam Á giữa các nước
lớn” [15] cũng đề cập đến vị trí của Lào trong cạnh tranh chiến lược của Trung
Quốc đối với khu vực. Bên cạnh đó, Dương Văn Huy cũng cho công bố hai công
trình là “Một số vấn đề về người Hoa trong đời sống văn hoá – xã hội Lào” [6] và
“Tác động của quan hệ Trung – Lào đến hoạt động kinh tế của cộng đồng người
Hoa ở Lào từ sau năm 1989” [7], trong hai công trình này, ngoài việc đi sâu phân
tích sự phát triển của cộng đồng người Hoa ở Lào thì tác giả cũng phân tích vai trò
của cộng đồng người Hoa ở Lào giống như một “kênh” để Trung Quốc gia tăng sự
hiện diện của mình tại Lào.
- Những nghiên cứu ngoài nước: Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đối
với mối quan hệ Trung Quốc với Lào không nhiều. Một số tác giả Trung Quốc đã
công bố những nghiên cứu của mình đối với mối quan hệ kinh tế thương mại như:
Trương Thụy Côn (2010), Quan hệ Trung Lào từ khi bình thường hóa quan hệ tới
nay; [27] hay Bảo Kiến Vân (2007), Đặc điểm phát triển mậu dịch song phương
Trung Quốc và Lào và phân tích những vấn đề tồn tại [18]; An Ni (2012), Tìm hiểu
những vấn đề mậu dịch song phương Trung Lào và đối sách [17], Trương Thụy
Côn (2001), Phát triển “mô hình Vân Nam” đối với thị trường Lào [26]; Magnus
Andersson, Anders Engvall, Ari Kokko (2009), In the shadow of China: Trade and

growth in Lao PDR[21] v.v.
Bên cạnh đó, cũng có một số tác giả cũng nghiên cứu về cộng đồng người
Hoa ở Lào như, Trang Quốc Thổ (2004), Lược bàn về sự thay đổ địa vị người Hoa
ở Lào từ sau thế chiến II [24], Lim Boon Hock (2009), China and the Chinese
Migrants in Laos: Recent Developments[20] v.v.

10
Rõ ràng là cho đến nay, nghiên cứu về quan hệ Trung Quốc vào Lào nói
chung còn khá khiêm tốn so với nhu cầu về nhận thức hiện nay. Nghiên cứu về sự
gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc tới Lào ngày càng cấp thiết hơn đối với chúng
ta trong giai đoạn hiện nay, trong khi đó lại thiếu vắng hẳn những nghiên cứu toàn
diện và hệ thống về mối quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng quan trọng của Việt
Nam này. Đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược các nước trên các phương
diện ngày càng gia tăng, nhìn nhận và nghiên cứu về mối quan hệ này và tác động
của chúng đối với nước ta như thế nào vẫn đang là vấn đề đáng quan tâm.

5. Hướng tiếp cận, phương pháp nghiên cứu
5.1. Hướng tiếp cận: Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi có cách
tiếp cận hệ thống chủ yếu dựa trên các lý thuyết về quan hệ quốc tế, nhất là địa –
chính trị học; đồng thời sử dụng một cách thích hợp các phương pháp nghiên cứu
liên ngành, đa ngành của khoa học xã hội như lịch sử, kinh tế - chính trị học, địa lý
học, xã hội học v.v… để xem xét vấn đề.
Ngoài ra, học thuyết Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc gia, dân
tộc và quan hệ quốc tế cũng được coi là cơ sở lý luận chung cho nghiên cứu này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Về phương pháp tư liệu, luận văn tiến hành thu thập, tổng hợp, phân tích,
hệ thống hóa các loại hình tư liệu;
- Luận văn cũng sử dụng các phương pháp điều tra, phỏng vấn trao đổi quan
điểm nghiên cứu với các chuyên gia nhằm tìm ra những yếu tố mấu chốt của vấn đề
nghiên cứu đang quan tâm;

- Bên cạnh đó, luận văn kết hợp nghiên cứu lý thuyết với khảo cứu các
nguồn tài liệu, đặc biệt là tài liệu gốc. Đưa ra khung phân tích hợp lý dựa trên cách
tiếp cận nêu trên.

6. Nguồn tài liệu sử dụng
6.1. Nguồn tài liệu cấp 1 (tài liệu gốc) chủ yếu bao gồm:

11
- Các tài liệu mang tính pháp quy như Luật pháp, các Quyết định của chính
phủ Trung Quốc và Lào liên quan đến các hoạt động ngoại giao, thương mai, đầu tư,
v.v.;
- Các báo cáo của chính phủ, chính quyền các cấp, các tổ chức chính tri-xã
hội, các doanh nghiệp, các tài liệu thống kê hàng năm của hai nước;
6.2. Nguồn tài liệu thứ cấp bao gồm chủ yếu là:
- Các công trình khoa học đã được công bố, bao gồm các bài viết đăng ở các
tạp chí chuyên ngành, các sách tham khảo, các công trình nghiên cứu khác nhau
băng các thứ tiếng.
- Các luận văn, luận án, các công trình nghiên cứu khoa học chưa được công
bố, các bài viết dành cho các cuộc Hội thảo liên quan đến đề tài.
- Các lời phát biểu, phỏng vấn báo chí của các nhân vật hoạt động chính trị,
các nhà doanh nghiệp và các tầng lớp khác v.v.
6.3. Các loại tư liệu khác: chủ yếu là các thông tin từ các báo chí chính thống,
các website của Trung Quốc, Lào, Việt Nam và các nước khác.

7. Ý nghĩa khoa học và những đóng góp của luận văn
7.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn:
- Đây là một đề tài nghiên cứu tương đối mới, có nhiều vấn đề khoa học cần
phải làm rõ nhất là trong bối cảnh nước ta đang gia tăng quan hệ toàn diện và sâu
sắc với các quốc gia láng giềng, chính vì vậy càng cần phải được nghiên cứu một
cách hệ thống và toàn diện. Luận văn làm rõ thực chất của mối quan hệ Trung Quốc

với Lào trên các phương diện, từ đó nhằm nhận diện chiến lược của Trung Quốc đối
với khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng thông qua Lào. Qua việc phân tích
các nội dung nêu trên, luận văn mong muốn làm rõ hệ luỵ mối quan hệ này đối với
bản thân mỗi nước Trung Quốc và Lào và những tác động đối với Việt Nam, khu
vực và quốc tế. Cho nên, việc đánh giá đúng được thực trạng cũng như xu hướng
trong quan hệ giữa các quốc gia láng giềng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
nghiên cứu đưa ra những luận điểm khoa học phục vụ cho công tác đối ngoại của
chúng ta hiện nay.

12
- Luận văn góp phần cụ thể hóa và làm rõ hơn nhiều vấn đề mang tính lý
luận về quan hệ quốc tế cũng như bổ sung những kiến thức chuyên ngành về quan
hệ quốc tế với khu vực.
7.2. Những đóng góp của luận văn:
- Góp phần hệ thống hóa và cập nhật tư liệu về mối quan hệ Trung Quốc với
Lào từ khi Hồ Cẩm Đào lên nắm quyền (2003) tới 2012.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng và những tiến triển trong quan hệ hai nước,
bước đầu đưa ra đánh giá những tác động, nhất là đối với Việt Nam, cũng như nhận
định về triển vọng của mối quan hệ này trong những năm tới;
- Cung cấp thêm luận cứ khoa học có tính tham khảo cho các nhà hoạch định
chính sách của Việt Nam trong việc đưa ra chính sách đối ngoại phù hợp với sự gia
tăng quan hệ Trung Quốc với Lào trong giai đoạn hiện nay;
- Công trình sẽ là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học và
những người nghiên cứu về Trung Quốc và Lào nói chung và quan hệ Trung Quốc
với Lào nói riêng.

8. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận ra thì luận văn được chia làm ba chương cụ thể
như sau:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến quan hệ Trung Quốc với Lào

Chương 2: Những tiến triển trong quan hệ Trung Quốc với Lào trên các lĩnh
vực
Chương 3: Tác động và xu hướng quan hệ Trung Quốc với Lào








13
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ TRUNG QUỐC VỚI LÀO

Thế kỷ XXI có thể coi là thế kỷ đánh dấu những thay đổi lớn trong cục diện
chính trị thế giới. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc đã khiến nước này ngày
một nỗ lực gia tăng ảnh hưởng không chỉ trong phạm vi khu vực mà trên toàn cầu.
Điều này đang làm thay đổi và hình thành nên một trật tự thế giới mới. Bên cạnh đó,
chính sách chuyển trục của Mỹ sang châu Á – TBD, mục tiêu nhất thể hóa ASEAN,
sự trỗi dậy của các quốc gia đang phát triển như Ấn Độ, cải cách chính trị ở
Myanmar và tranh chấp trên biển Đông đang đặt các nước lớn trong môi trường
cạnh tranh ảnh hưởng mạnh mẽ. Những nhân tố này ở các cấp độ khác nhau đã ảnh
hưởng tới mối quan hệ Trung Quốc với Lào.

1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực
Thứ nhất, sự can dự và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đối với khu
vực đã tác động tới sự điều chỉnh chính sách ngoại giao láng giềng của Trung
Quốc.
Trước hết, đó là sự điểu chỉnh chính sách của Mỹ đối với khu vực châu Á –

TBD. Mở đầu thế kỷ XXI phải kể đến sự kiện 11/9/2001 trên đất Mỹ, cuộc tấn công
vào nước Mỹ đã cho thấy mức độ cực kỳ nguy hiểm của chủ nghĩa khủng bố. Giờ
đây, nó không còn bị bó hẹp trong phạm vi cá nhân hay nhóm xã hội mà đã hướng
tới mục tiêu quốc gia mà trước hết là Mỹ. Đối với nước Mỹ, đây có thể coi là một
đòn giáng nặng nề vào niềm kiêu hãnh của một quốc gia bất khả xâm phạm được
nuôi dưỡng từ sức mạnh kinh tế và quân sự của họ. Chính vì vậy, những năm đầu
thế kỷ XXI, chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế được coi là ưu tiên hàng đầu trong
chính sách đối ngoại của Mỹ. Tháng 3 năm 2003, Mỹ đơn phương tiến hành chiến
tranh chống Iraq vì cho rằng đây là quốc gia đang dung dưỡng cho các lực lượng
khủng bố quốc tế, bất chấp sự phản đối của các nước khác và Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc. Trong suốt thời gian này, Mỹ sa lầy vào cuộc chiến tranh Iraq và tiêu
tốn rất nhiều tiền của cũng như nhân lực, bỏ ngỏ khu vực châu Á - TBD cùng với

14
những thay đổi lớn. Cùng giai đoạn này, công cuộc cải cách mở cửa của Trung
Quốc trong đầu thế kỷ XXI đã thu được những thành tựu và thắng lợi. Từ một nước
kiệt quệ và sai lầm trong đường lối phát triển đất nước, Trung Quốc giờ đây đã trở
thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai trên thế giới (từ năm 2010), chỉ đứng sau Mỹ.
“Cường quốc khu vực” này đang từng bước gia tăng ảnh hưởng của mình, đặc biệt
là khu vực “trung tâm của trung tâm” – châu Á - TBD, khu vực này bao bọc cả một
vùng rộng lớn phía Đông và phía Nam của Trung Quốc. Trung Quốc đang nỗ lực
tạo dựng môi trường chiến lược khu vực ổn định và có lợi cho sự phát triển hòa
bình của Trung Quốc, giúp Trung Quốc trở thành “người bảo vệ” của khu vực này.
Nằm trong khu vực, đồng thời lại là láng giềng của Trung Quốc, Lào là một trong
những điểm đến quan trọng trong chiến lược của nước này đối với châu Á - TBD
nói chung và các quốc gia Đông Nam Á nói riêng.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc đã khiến cho Mỹ và phương Tây lo ngại, đặc
biệt Mỹ có thể nhìn thấy sự thách thức vị trí siêu cường của mình đến từ quốc gia
trỗi dậy mạnh mẽ - Trung Quốc. Sau sự cố ngày 11-9, chính quyền Bush đã gia tăng
xây dựng lực lượng quân sự và tình báo. Chi phí quốc phòng của nước này đã gia

tăng đáng kể, các căn cứ mới được xây dựng từ Trung Á đến Tây Nam Á, thiết lập
chỉ huy quân sự mới ở châu Phi. Cuộc chiến chống khủng bố trở thành mối bận tâm
lớn nhất trong chính sách an ninh quốc gia cũng như chính sách đối ngoại của chính
quyền Bush. Điều này đã khiến cho ưu thế vượt trội của Mỹ bị tổn thất bởi những
chi phí không lường trước được đến từ các cuộc chiến kéo dài
1
. Dưới thời tổng
thống Bush, chính sách của nước này đối với Đông Nam Á chỉ đơn thuần tập trung
vào mục tiêu chống khủng bố và lĩnh vực an ninh – chính trị mà thiếu đi sự quan
tâm thích đáng, có phần “xao lãng” và “mờ nhạt”. Thêm vào đó, chính quyền Bush
đã thực thi những chính sách đối ngoại cứng rắn thiên về chủ nghĩa đơn phương.


1
Chi phí quốc phòng Mỹ tăng từ 304 tỷ USD năm 2001 lên đến 616 tỷ USD Mỹ năm 2008. Nợ liên bang
tăng 32,5% năm 2001 lên 53,5% năm 2009. Trong khi đó, nợ của Mỹ do các chính phủ nước ngoài nắm giữ
tăng đột biến, từ 13% vào thời điểm kết thúc Chiến tranh lạnh lên 30% vào thời điểm Bush hết nhiệm kỳ.
Xem thêm: html truy cập ngày
27/10/2013

15
Điều này làm cho hình ảnh nước Mỹ trở nên tồi tệ hơn trong mắt người châu Á, ảnh
hưởng đến vị thế của Mỹ ở khu vực này.
Chính vì vậy, khi lên nắm quyền, tổng thống Obama đã đề ra chiến lược với
mục tiêu duy trì vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ cũng như khôi phục lại sức mạnh,
vị thế và hình ảnh nước Mỹ. Năm 2011, khi Mỹ chính thức rút toàn bộ quân đội ra
khỏi Iraq và Afganistan, tổng thống Obama đã tuyên bố chiến lược chuyển trục với
tên gọi ban đầu “quay trở lại châu Á - TBD”, sau đó được đổi thành chiến lược “tái
cân bằng”. Trên cơ sở chiến lược toàn cầu, chính quyền Obama đã có những điều
chỉnh lớn trong chính sách đối ngoại ở khu vực châu Á – TBD: Một là, tập trung

vào khu vực châu Á – TBD với Đông Nam Á là trung tâm. Hai là, chú trọng đến
chủ nghĩa đa phương với việc sử dụng quyền lực mềm thay cho chủ nghĩa đơn
phương của tổng thống Bush. Ba là, thay đổi mục tiêu hàng đầu là chống khủng bố
sang chú trọng đến các vấn đề an ninh môi trường, đối phó với biến đổi khí hậu và
các vấn đề xã hội. Cũng từ đây, chính quyền Mỹ đã và đang đẩy mạnh một loạt các
biện pháp nhằm đảm bảo lợi ích, an ninh và vị thế số một thế giới. Bên cạnh việc
thúc đẩy hợp tác chính trị - ngoại giao với các nước trong khu vực, chính quyền Mỹ
cũng ráo riết triển khai sự hiện diện quân sự ngày càng tăng, cùng với đẩy mạnh
hợp tác kinh tế - thương mại – đầu tư với các nước trong khu vực. Việc Mỹ quay trở
lại này một phần nhằm thúc đẩy phục hồi nền kinh tế của họ, một phần nhằm kiềm
chế sự trỗi dậy của Trung Quốc, duy trì địa vị lãnh đạo của siêu cường Mỹ.
2
Có thể
thấy rõ hơn khi việc lưỡng cực hóa Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - TBD (APEC)
đã phản ánh sự tranh chấp địa vị lãnh đạo kinh tế khu vực này giữa Trung Quốc và
Mỹ. Việc đưa ra Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)
của Mỹ cũng là biện pháp làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực châu
Á - TBD.

3
Một động thái cụ thể hơn nữa để Mỹ có thể gây ảnh hưởng mạnh tại các


2
Cũng có ý kiến cho rằng, Mỹ chưa bao giờ rời khỏi châu Á – Thái Bình Dương, việc nhấn mạnh quay trở
lại lần này có tính chất tiến hành một cuộc chiến tranh lạnh về kinh tế với Trung Quốc, cũng như có tính toán
kinh tế nhằm tương cường sự phụ thuộc về an ninh của đồng minh đối với Mỹ và để xuất khẩu vũ khí. Thực
chất, việc Mỹ quay trở lại châu Á – Thái Bình Dương là dùng sức mạnh quân sự và mạng lưới đồng minh để
bù đắp sự yếu kém và lo ngại về sức mạnh kinh tế.
3

Theo học giả Alexie Fenenko thuộc Viện nghiên cứu anh ninh quốc tế - Học viện khoa học Nga cho rằng
xây dựng TPP là thử nghiệm của Mỹ nhằm 4 mục đích. Một là, làm cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương

16
quốc gia Đông Nam Á là sự can dự của quốc gia này trong vấn đề sông Mekong.
Sông Mekong là một trong những con sông lớn nhất thế giới bắt nguồn từ cao
nguyên Tây Tạng (Trung Quốc) và chảy qua địa phận của 5 quốc gia Đông Nam Á
lục địa. Từ những năm 80 của thế kỷ trước, Trung Quốc đã bắt đầu xây dựng hệ
thống đập thủy điện trên phần thượng nguồn chảy qua nước này.
4
Điều này làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái của các nước nằm dưới hạ nguồn con
sông. Trong bối cảnh này, Mỹ đã chủ động đưa ra sáng kiến Hạ lưu lòng chảo sông
Mekong (LMI) bao gồm Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam nhằm tăng cường
hợp tác với các quốc gia trong vùng đảm bảo sự phát triển bền vững và thịnh vượng
của khu vực.
5
Mỹ cũng quyết tâm định chế hóa cơ cấu hợp tác “Hoa Kỳ - Mekong”
với 4 nước hạ vùng sông Mekong. Động thái này của Mỹ có thể phần nào hạn chế
ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực.
Bên cạnh đó, Nga gia tăng can dự đối với khu vực châu Á – TBD với chính
sách “hướng Đông” theo “phiên bản Nga”. Sự phục hồi của nước Nga dưới thời
tổng thống Putin với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 7% năm cùng sự ổn định
kinh tế vĩ mô và độc lập tài chính khiến nước Nga có thể vạch ra chiến lược phát
triển dài hạn đến năm 2020, đó là chiến lược giải phóng tiềm năng con người.
6
Tổng
thống Nga Putin cũng nhấn mạnh về “chính sách hướng Đông”, nơi đang trở thành
trung tâm quyền lực kinh tế hàng đầu thế giới, có thể mang lại cứu cánh để phục hồi
nền kinh tế Nga. Khuynh hướng hướng Đông của Nga là tăng cường vị trí của mình

ở khu vực châu Á - TBD. Về kinh tế, phương Tây vẫn là đối tác thương mại quan


phát triển theo hướng có lợi cho họ, động cơ chủ yếu là xây dựng quan hệ kinh tế với các quốc gia hai bờ
Thái Bình Dương. Hai là, làm suy yếu và kiềm chế các tổ chức liên kết khu vực như ASEAN, ngăn chặn sự
liên kết của các quốc gia Đông Nam Á. Ba là, Mỹ và Nhật Bản muốn thông qua TPP để lôi kéo các nước
ASEAN đã ký hiệp định tự do thương mại với Trung Quốc, làm suy yếu ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc
đối với các nước ASEAN, ngăn chặn việc xây dựng Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN trong
tương lai. Bốn là, phá vỡ hệ thống hiệp thương chính trị trong khuôn khổ các tổ chức chính trị đã được thừa
nhận rộng rãi như ASEAN +3, ASEAN + 6.
4
Hiện nay, Trung Quốc đã xây dựng 4 đập thủy điện trên thượng nguồn sông Mekong ở khu vực tỉnh Vân
Nam và dự tính trong tương lai sẽ còn xây thêm 4 đập nữa.
5
Mỹ cam kết cung cấp 187 triệu USD trong năm 2010 cho các chương trình cải thiện y tế, giáo dục và môi
trường tại tiểu vùng sông Mekong. Mỹ cũng đề nghị Quốc hội thông qua khoản bổ sung 15 triệu USD trong
năm 2010 nhằm hỗ trợ cải thiện an ninh lương thực tại các nước khu vực sông Mekong. Dẫn theo: [8, tr42]
6
Chiến lược giải phóng tiềm năng con người là chiến lược sử dụng hiệu quả nhất kiến thức và kỹ năng của
con người để thường xuyên cải tiến công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh tế và cuộc sống xã hội nói chung.
Xem thêm: [1, tr415].

17
trọng, nhà đầu tư, nhà cung cấp công nghệ mới đối với Nga. Đối với một cường
quốc có lãnh thổ rộng lớn trải dài từ châu Âu sang Thái Bình Dương, Nga đã bắt
đầu tiến hành chính sách hướng Đông để tạo sự cân bằng thay vì triển khai chính
sách hướng về một phía là Tây Âu. Kinh tế khu vực châu Á - TBD tăng trưởng
mạnh, ổn định cũng như nhu cầu sử dụng năng lượng gia tăng đã đóng vai trò đặc
biệt trên thế giới; đồng thời đang trở thành giao điểm của các lợi ích quốc tế nhưng
lại tạo điều kiện hình thành mâu thuẫn tại đây. Chính vì vậy, Nga đang muốn tăng

cường hội nhập toàn diện vào khu vực rộng lớn này. Hợp tác kinh tế thương mại
được xác định là trọng tâm; Nga muốn tăng thị phần ở châu Á trong các lĩnh vực
năng lượng, cơ sở hạ tầng, đầu tư, khoa học công nghệ, ngân hàng và du lịch. Với
thế mạnh của mình, Nga có thể phát huy vai trò đặc biệt với tư cách là nước lớn ở
Âu – Á, cung cấp dịch vụ vận tải đường bộ, đường biển và đường không cho khu
vực châu Á – TBD và châu Âu. Trong lĩnh vực không gian vũ trụ, Nga cũng có thể
cung cấp dịch vụ thông tin vệ tinh cho các quốc gia ở khu vực này.
Đối với Nhật Bản, Tokyo cũng tích cực can dự nhằm gia tăng phạm vi ảnh
hưởng chiến lược đối với khu vực. Từ thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI,
nền kinh tế Nhật Bản vẫn còn trong tình trạng suy thoái kéo dài từ sau thời kỳ
kinh tế bong bóng và cuộc khủng hoảng tài chính khu vực 1997-1998. Những khó
khăn chủ yếu của Nhật Bản giai đoạn này là nợ khó đòi và khủng hoảng về mô hình
phát triển. Sau khi nắm quyền điều hành Nội các vào cuối năm 2001, Thủ tướng
Koizumi đã tiến hành giải quyết từng bước các khoản nợ khó đòi bằng các biện
pháp như: xoá nợ, sát nhập, mua lại các ngân hàng và các tổ chức tài chính làm ăn
thua lỗ; đồng thời thực hiện chủ trương cải cách cơ cấu một cách táo bạo với 7
chương trình cơ bản như đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa, thúc đẩy đầu tư tư nhân,
phát triển nguồn nhân lực, tăng bảo hiểm và phúc lợi xã hội Chính phủ Nhật Bản
đã ban hành và thực hiện hàng loạt các biện pháp nhằm tái cơ cấu nền kinh tế, đưa
đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ và bế tắc. Nhờ các chính sách cải cách cơ cấu
này, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng trở lại trong giai đoạn 2002-2007, chấm dứt 15
năm suy thoái và trì trệ.

18
Sau khi Thủ tướng Koizumi hết nhiệm kỳ, kinh tế Nhật Bản lại rơi vào trì
trệ kể từ cuối năm 2007. Bên cạnh đó, chính trường Nhật Bản đã trải qua nhiều thay
đổi, chỉ trong vòng chưa đầy 6 năm sau khi nhiệm kỳ của Thủ tướng Koizumi kết
thúc (2001 – 2006), nước Nhật đã phải đối mặt với hàng loạt biến đổi chính trị với
sự ra đi của 5 đời thủ tướng cùng nội các và liên tục thay đổi lãnh đạo của các chính
Đảng cầm quyền. Với những khủng hoảng nội bộ ngày càng nặng nề, chính sách

ngoại giao của Nhật với các nước đồng minh và khu vực cũng có phần bị buông
lỏng. Cuối năm 2012, sự thắng cử trở lại của thủ tướng Shinzo Abe đã đem đến cho
nước Nhật những kỳ vọng mới về cải cách nội bộ cũng như trang mới trong chính
sách ngoại giao của nước này. Ngay sau khi giành lại quyền điều hành đất nước, thủ
tướng Abe đã thực hiện các chuyến thăm tới các nước châu Á. Đây được đánh giá
không chỉ là một phần trong chính sách đối ngoại của Nhật mà còn là để gia tăng sự
cạnh tranh với các nước lớn trong khu vực. Xung quanh các chuyến thăm khu vực
Đông Nam Á của chính phủ Nhật Bản, thủ tướng Abe đã chứng tỏ rằng, bất chấp
những khó khăn, nước này vẫn là đối tác kinh tế quan trọng đối với các nước Đông
Nam Á và là đối trọng chính trị và kinh tế đáng kể trong khu vực đối với Trung
Quốc. Trên thực tế, Đông Nam Á đã và đang là một trong những khu vực cạnh
tranh truyền thống giữa Trung Quốc và Nhật Bản, thể hiện cả trong chính trị và kinh
tế. Nếu trước kia, ảnh hưởng về kinh tế và chính trị của Nhật đều rất mạnh mẽ tại
khu vực này, thì trong 10 năm qua, Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản. Để giành lại
ảnh hưởng, Nhật đang đẩy nhanh những bước đi tăng cường hợp tác chiến lược với
các nước Đông Nam Á.
Hiện nay, Nhật Bản đang sử dụng sự phục hồi kinh tế của mình cùng với
chiến lược toàn cầu mới của Mỹ để “đuổi kịp chính trị”, cạnh tranh với Trung Quốc,
trước hết là ở Đông Nam Á. Ngoài việc tăng cường các hoạt động thương mại, đầu
tư (trong đó các nước Đông Dương và Indonesia đang được quan tâm hơn), Nhật
Bản còn tăng cường viện trợ phát triển cho các dự án lớn như Tam giác phát triển
Việt Nam - Lào - Campuchia, Hợp tác Tiểu vùng Sông Mekong mở rộng v.v

19
Đồng thời, cùng với việc Mỹ thúc đẩy chiến lược “tái cân bằng” ở châu Á –
TBD, và gia tăng trong tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Tokyo và Bắc Kinh đối
với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ở biển Hoa Đông khiến cho Nhật Bản càng gia
tăng thúc đẩy quan hệ với một số quốc gia Đông Nam Á (nhất là Philippines và Việt
Nam), điều này làm thu hẹp phần nào không gian ảnh hưởng chiến lược của Trung
Quốc đối với khu vực nói chung và tác động đến môi trường an ninh láng giềng của

Trung Quốc.
Mặt khác, Ấn Độ thúc đẩy “chính sách Hướng Đông” nhằm tăng cường can
dự đối với khu vực châu Á – TBD, mà trọng tâm là Đông Nam Á. Ấn Độ cũng đang
trong quá trình thực hiện mục tiêu trở thành cường quốc khu vực, tiến tới vị trí
cường quốc thế giới. Để thực hiện mục tiêu này, một trong những chiến lược quan
trọng của Ấn Độ là “chính sách hướng Đông” đối với khu vực Đông Nam Á, cạnh
tranh trực tiếp với Trung Quốc. Chiến lược này giúp Ấn Độ ngày càng có vai trò, vị
trí quan trọng hơn trong các vấn đề khu vực và quốc tế, đủ khả năng làm đối trọng
với Trung Quốc. Thực chất, chính sách hướng Đông của Ấn Độ được bắt đầu từ
những năm 90 của thế kỷ trước, dưới thời của thủ tướng Narasimha Rao. Ấn Độ đã
thúc đẩy thỏa thuận thương mại tự do (FTA) với ASEAN thể hiện mong muốn vươn
tới thị trường tiêu dùng mạnh gồm 550 triệu dân. Khu vực này còn giàu có về
nguyên liệu thô và năng lượng mà Ấn Độ rất cần cho sự phát triển của mình.
Để thực hiện chính sách hướng Đông, Ấn Độ đã có những động thái nhằm
khẳng định sức ảnh hưởng của mình tại khu vực tiềm năng này. Ấn Độ đã là một
đối tác đối thoại đầy đủ tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 5 tại Bangkok,
năm 1995 và trở thành thành viên của Diễn đàn khu vực ASEAN năm 1996. Ấn Độ
và ASEAN đã tổ chức nhiều cuộc họp thượng đỉnh hàng năm kể từ năm 2002. Cũng
từ giai đoạn này, Ấn Độ đã gia tăng mạnh mẽ ảnh hưởng của mình thông qua các
cuộc viếng thăm và các nguồn đầu tư đến các nước Đông Nam Á.
7
Ngoài ra, Ấn Độ


7
Quan hệ Ấn Độ với Lào, Campuchia đã được mở rộng và phát triển qua kênh song phương cũng như qua
ASEAN kể từ chuyến thăm chính thức của lãnh đạo cấp cao Ấn Độ tới 2 nước này từ năm 2010. Tại Lào, Ấn
Độ đã nâng khoản tín dụng trị giá 72,55 triệu USD để hỗ trợ 2 dự án điện. Còn tại Campuchia, Ấn Độ đã ký
2 thỏa thuận quan trọng.


20
còn thúc đẩy hợp tác sông Mekong – sông Hằng (MGC) để củng cố vị thế của mình
tại các nước thuộc tiểu vùng Sông Mekong. Ấn Độ thành lập Quỹ triển khai các Dự
án nhỏ của Ấn Độ với các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam, với ngân
sách hàng năm là 1 triệu USD do Ấn Độ tài trợ. Hợp tác MGC tập trung vào các
lĩnh vực quan trọng như văn hóa, giáo dục, du lịch, cũng như kết nối giao thông,
công nghệ thông tin, đồng thời mở rộng thêm hợp tác về phát triển bền vững, trong
đó có bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, quản lý và sử dụng bền vững nguồn
nước Sông Mekong.
Hiện nay, Ấn Độ có chính trường ổn định, trật tự xã hội được giữ vững, kinh
tế tăng trưởng ở mức cao và trở thành một trong bốn thành viên của nhóm các nước
có nền kinh tế mới nổi - BRICS (bao gồm: Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, và
Nam Phi). Về quốc phòng – an ninh, Ấn Độ đã xây dựng được tiềm lực quân sự
mạnh ở tầm khu vực và đang phấn đấu trở thành cường quốc quân sự châu lục. Vị
thế quốc tế của Ấn Độ không ngừng củng cố, quan hệ với các cường quốc thế giới
dần được nâng tầm. Ấn Độ được Mỹ xem là một cường quốc có vai trò không thể
thiếu trong bàn cờ địa chiến lược Nam Á và châu Á - TBD. Với tốc độ không quá
nhanh nhưng chắc chắn, Ấn Độ đang mở rộng ảnh hưởng ở châu Á, củng cố các
mối quan hệ với các nước khác bên ngoại phạm vi truyền thống, góp phần thiết lập
lại bản đồ ảnh hưởng ở châu Á - TBD.
Những cạnh tranh gay gắt về ảnh hưởng cũng như quyền lợi giữa các nước
lớn ở khu vực châu Á - TBD nói chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng đã buộc
các cường quốc trong đó có Trung Quốc và Mỹ, phải tìm cho mình thêm những
đồng minh mới, những sân sau làm bước đệm cho quá trình gia tăng ảnh hưởng của
quốc gia mình. Hoặc không cũng sẽ cố gắng kiềm chế các nước ở vị trí trung lập để
không gây cản trở cho chiến lược của các siêu cường. Đây có thể được coi là một
trong những cơ sở quan trọng để Trung Quốc gia tăng quan hệ với nước láng giềng
Lào.
Ngoài ra, các quốc gia khu vực khác như Australia, EU, Canada, v.v. cũng
tích cực thúc đẩy can dự đối với khu vực châu Á – TBD, nhất là Đông Nam Á, điều


21
này cũng có những tác động nhất định đối với sự điều chỉnh chính sách láng giềng
của Trung Quốc, trong đó có quan hệ giữa Trung Quốc với Lào.
Thứ hai, ASEAN đang nỗ lực xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN (AC)
và thúc đẩy vai trò trung tâm của khối này trong các hợp tác đa phương ở khu vực.
ASEAN quyết tâm “chuyển sự đa dạng về văn hóa và sự khác biệt của ASEAN
thành sự thịnh vượng và cơ hội phát triển công bằng trong một môi trường đoàn kết,
tự cường khu vực và hòa hợp”. Mục tiêu mà ASEAN đang hướng tới là một gia
đình các dân tộc Đông Nam Á đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Khi Cộng
đồng ASEAN được hình thành, Đông Nam Á sẽ là một khu vực hòa bình, tự do và
trung lập, các tranh chấp về lãnh thổ cũng như các khác biệt khác sẽ được giải quyết
bằng biện pháp hòa bình. Trước hết, ASEAN muốn xây dựng một Khu mậu dịch
thương mại tự do ASEAN (FTA+). Trong đó, hàng hóa, dịch vụ, nhân lực và vốn
lưu thông tự do; tạo dựng khu vực kinh tế cạnh tranh; bảo đảm phát triển kinh tế cân
đối và hội nhập thành công với kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, quá trình xây dựng
AEC cũng phải đối mặt với ba trở ngại lớn. Một là, vấn đề khoảng cách phát triển
(GNP, GDP bình quân đầu người ) có thể khắc phục theo thời gian, nhưng những
khác biệt về chất (thể chế, chính sách ) thì không dễ dàng. Hai là, thị trường
ASEAN là một thị trường “cộng” chứ không hoàn toàn “hòa nhập” của tất cả thị
trường các nước thành viên, lại chủ yếu hướng ra bên ngoài chứ không phải vào thị
trường nội khối. Ba là, ASEAN không có một nền kinh tế đầu tàu và một đồng tiền
mạnh để dẫn dắt khu vực. Trong khi đó, viễn cảnh một Cộng đồng kinh tế Đông Á
lại tỏ ra hấp dẫn hơn AEC do khu vực này có hai nền kinh tế lớn là Nhật Bản và
Trung Quốc. Tiếp đó là xây dựng một Cộng đồng Chính trị - An ninh (APSC) hoạt
động dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ
và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia thành viên và được duy trì như là nền
tảng của hợp tác chính trị - an ninh. Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN sẽ
nhằm đưa hợp tác chính trị - an ninh ASEAN lên tầm cao mới, hướng tới bảo đảm
hòa bình lâu dài và vững chắc cho nhân dân các nước thành viên, qua đó góp phần

tạo dựng môi trường khu vực và thế giới hòa bình, công bằng và hòa hợp. Quá trình

22
xây dựng APSC đang gặp nhiều khó khăn: Thứ nhất, những vấn đề cơ bản như thay
đổi nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tiến hành đăng kiểm
vũ khí ASEAN, lập lực lượng gìn giữ hòa bình thường trực của ASEAN vẫn gây
nhiều tranh cãi và đe dọa tình đoàn kết, hợp tác trong ASEAN. Thứ hai, các nước
thành viên vẫn lo ngại tác động của APSC đến quan hệ với các nước đối thoại, đặc
biệt là các nước lớn. Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC) chiếm một vị trí
đặc biệt trong tiến trình xây dựng cộng đồng của ASEAN. Nó hướng tới xây dựng
một cộng đồng ASEAN lấy nhân dân làm trung tâm, xây dựng một ASEAN đùm
bọc, tương thân tương ái, vượt qua những khó khăn và thách thức của quá trình toàn
cầu hóa. Mục tiêu quan trọng nhất của ASCC là thúc đẩy tiến bộ xã hội và xây dựng
bản sắc chung ASEAN, trong khi đó, bản sắc chung của ASEAN vẫn chưa được
xây dựng thành khái niệm rõ ràng. Vì vậy, mục tiêu hòa nhập trong đa dạng của
ASCC thì mặt đa dạng vẫn rõ nét hơn mặt hòa nhập.
Việc xây dựng Cộng đồng đánh dấu giai đoạn phát triển mới của hợp tác
trong ASEAN. Xây dựng Cộng đồng sẽ giúp ASEAN có nội lực mạnh mẽ để mở
rộng hội nhập và liên kết với ngoài ASEAN, giúp ASEAN có tiếng nói và tự tin hơn
trong đối thoại và hợp tác với các nước đối tác, trở thành một nhân tố không chỉ hấp
dẫn mà còn quan trọng, không chỉ ở khu vực Đông Nam Á mà cả khu vực châu Á -
TBD. Để Cộng đồng ASEAN trở thành hiện thực, ASEAN cần sự đồng thuận và nỗ
lực của tất cả các nước thành viên. Nắm bắt được bối cảnh mới này, Trung Quốc
trong chính sách ngoại giao láng giềng đang tích cực triển khai hợp tác khu vực,
nhằm tạo ra môi trường hòa bình, ổn định. Trong những năm gần đây, Trung Quốc
không ngừng mở rộng ảnh hưởng, phát huy cả sức mạnh cứng lẫn sức mạnh mềm
nhằm ràng buộc các nước ASEAN về kinh tế và chính trị, tăng cường sức mạnh và
sự có mặt về quân sự ở khu vực, không để các nước ASEAN liên kết với nhau
chống lại Trung Quốc. Đặc biệt, khi hiện nay trở ngại lớn nhất trong quan hệ giữa
các nước ASEAN – Trung Quốc là tranh chấp chủ quyển lãnh hải, Trung Quốc sẽ

tranh thủ tiềm lực của mình để lôi kéo các bên không liên quan trở thành đồng minh

23
của mình hoặc ít nhất cũng ở thế trung lập không can thiệp vào tranh chấp giữa
Trung Quốc với các nước liên quan.
Thứ ba, các nước lớn gia tăng hợp tác GMS. GMS là một khu vực có sự tiếp
nối liền mạch giữa các khu vực Đông Nam Á, Đông Bắc Á và Nam Á. Đây là một
khu vực bao gồm 6 quốc gia có con sông Mekong chảy qua,
8
khu vực này có nguồn
tài nguyên thiên nhiên phong phú với tiềm năng lớn về thủy điện, thủy sản và khai
khoáng và một vị trí địa chiến lược vô cùng quan trọng – một sức hút lớn với các
nước lớn.
Đối với Trung Quốc, đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc với những bước chuyển
mình trở thành siêu cường khu vực đã sử dụng thế và lực của mình từng bước tham
gia vào GMS, qua đó tạo dựng được ảnh hưởng sâu rộng với các nước láng giềng
phía Nam nước này. Trước hết, Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng tại khu vực tiểu
vùng sông Mekong nhằm xây dựng một môi trường an ninh hòa bình, ổn định xung
quanh Trung Quốc. Với sức mạnh kinh tế của mình, Trung Quốc tiến hành đầu tư
các dự án phát triển, các khoản viện trợ cho các nước GMS, nhanh chóng phát triển
mối quan hệ mật thiết với các nước kém phát triển của tiểu vùng như Campuchia,
Lào, Myanmar. Đi kèm với những khoản viện trợ về kinh tế là những dự án giao
lưu văn hóa, giáo dục của Trung Quốc với khu vực, qua đó, quảng bá sức hấp dẫn
của văn hóa Trung Hoa tới các nước GMS. Bên cạnh đó, sự phát triển thần tốc của
Trung Quốc khiến cho quốc gia này trở thành cỗ máy tiêu hao nguyên nhiên liệu,
nhu cầu cung cấp nguyên nhiên liệu ngày càng trở nên cấp bách đối với Trung Quốc.
Chính vì vậy, khi gia tăng quan hệ với GMS, Trung Quốc dùng chính sức mạnh
ngoại giao kinh tế của mình xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải nối liền các
nước trong tiểu vùng với Trung Quốc nhằm mở đường cho các doanh nghiệp nước
mình thâm nhập thị trường GMS, khai thác khoáng sản, phục vụ nhu cầu sản xuất

trong nước. Song song với đó, GMS còn là một thị trường tiềm năng cho doanh
nghiệp và hàng hóa của Trung Quốc. Quốc gia này tích cực tham gia các sáng kiến


8
Sáu quốc gia bao gồm: Việt Nam. Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar và Trung Quốc. Trên địa phận
Trung Quốc, sông Mekong có tên là sông Lan Thương.

24
hợp tác với các nước ASEAN nhằm biến miền Tây nội địa thành đầu mối đưa hàng
hóa Trung Quốc thâm nhập thị trường Đông Nam Á và từ đó đi ra thế giới, thu hẹp
dần khoảng cách phát triển giữa miền Tây và miền Đông. Có thể thấy rằng, việc
tăng cường quan hệ với GMS trên các lĩnh vực mang lại cho Trung Quốc những
món lợi khổng lồ, tăng lợi ích kinh tế quốc gia. Đằng sau những nỗ lực giúp đỡ
tưởng như không điều kiện này, Trung Quốc đang cố tạo một môi trường an ninh ổn
định xung quanh mình, cạnh tranh ảnh hưởng với các nước lớn khác như Mỹ,
Nhật…, tiến tới mục tiêu dài hạn là thiết lập lại một trật tự thế giới mới.
Đối với Mỹ, nhằm thúc đẩy gia tăng hợp tác với các quốc gia thuộc tiểu vùng
sông Mekong, nước này cùng khu vực đã thành lập nên Cơ chế hợp tác Hạ nguồn
Mekong – Mỹ (LMI) được hình thành từ năm 2009 theo sáng kiến của Mỹ, đến nay
đã tổ chức được 5 Hội nghị Bộ trưởng và 4 cuộc họp Nhóm công tác, đã hoàn chỉnh
và thông qua Tài liệu khái niệm và Chương trình hành động LMI 2011 - 2015, mở
ra giai đoạn mới với các chương trình hoạt động và dự án cụ thể cho từng lĩnh vực
ưu tiên. Bên cạnh LMI, các nước cũng đã thành lập Cơ chế hợp tác giữa các nước
LMI và những người bạn (FLM), với Hội nghị Bộ trưởng FLM lần thứ nhất được tổ
chức tháng 7/2011, bao gồm các nước LMI và Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU,
New Zealand, ADB và WB.
Đối với Nhật Bản, quốc gia này tích cực chủ động gia tăng hợp tác với các
nước khu vực tiểu vùng sông Mekong. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-12
(Philippines, tháng 1/2007), Nhật Bản đưa ra Chương trình quan hệ đối tác Nhật

Bản – Mekong vì sự thịnh vượng chung. Sau đó, Hội nghị Cấp cao Mekong – Nhật
Bản (Mekong – Japan Summit) lần đầu tiên đã được tổ chức vào tháng 11/2009 tại
Tokyo, thông qua Tuyên bố Tokyo làm nền tảng cho hợp tác giai đoạn 2009-2012.
Đến nay, khuôn khổ hợp tác Mekong – Nhật Bản đã tổ chức được 5 Hội nghị Cấp
cao Mekong – Nhật Bản và 5 Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao. Hợp tác được triển
khai trên nhiều lĩnh vực như phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, thực
hiện mục tiêu Thiên niên kỷ, bảo vệ môi trường và an ninh nguồn nước sông
Mekong, v.v.

25
Tại Hội nghị Cấp cao Mekong – Nhật Bản lần thứ tư (tháng 4/2012), Lãnh
đạo các nước đã thông qua Chiến lược Tokyo làm nền tảng cho hợp tác giai đoạn
2013-2015, gồm 3 trụ cột hợp tác chính: (i) Tăng cường kết nối trong tiểu vùng
Mekong và giữa tiểu vùng Mekong với các khu vực và thế giới; (ii) Hợp tác cùng
phát triển giữa các nước Mekong và Nhật Bản; (iii) Bảo vệ môi trường và an ninh
con người. Bên cạnh đó, hợp tác Mekong– Nhật Bản cũng được triển khai trong
khuôn khổ Sáng kiến hợp tác kinh tế và công nghiệp Mekong – Nhật Bản, Sáng
kiến “Thập kỷ Mekong xanh” và các chương trình giao lưu văn hóa, giao lưu nhân
dân.
Đối với Ấn Độ, quốc gia này cùng với các nước tiểu vùng sông Mekong đã
thành lập cơ chế Hợp tác sông Mekong – sông Hằng (MGC). Hợp tác MGC thành
lập theo sáng kiến của Ấn Độ và Thái Lan, được thông qua tại cuộc gặp giữa Bộ
trưởng Ngoại giao 6 nước Campuchia, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt
Nam được tổ chức vào dịp Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) ở Bangkok ngày
28/7/2000. Mục tiêu của MGC là củng cố tình hữu nghị, đoàn kết giữa các nước
thuộc lưu vực sông Mekong và sông Hằng. Đến nay, MGC đã tổ chức 6 lần Hội
nghị bộ trưởng.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc, Australia, EU cũng tích cực gia tăng quan hệ hợp
tác với các quốc gia tiểu vùng sông Mekong, điều này càng làm gia tăng cạnh tranh
chiến lược khu vực, và nhất là tác động tới chiến lược của Trung Quốc đối với khu

vực này nói chung và từng quốc gia cụ thể nói riêng, trong đó có quan hệ Trung
Quốc – Lào.
Thứ tư, cải cách dân chủ ở Myanmar tác động rất mạnh mẽ tới quan hệ của
Trung Quốc với các quốc gia láng giềng, trong đó có quan hệ Trung Quốc – Lào.
Cải cách dân chủ ở Myanmar trở thành điểm sáng được cộng đồng quốc tế
quan tâm, đồng thời sự chuyển đổi của nước này cũng, tạo ra cạnh tranh ảnh hưởng
giữa các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ, và nhất là đã tác động mạnh mẽ
có tính “tổn thương” đối với chiến lược vươn ra Ấn Độ Dương qua chiến lược mở
cửa khu vực Tây Nam Trung Quốc qua Myanmar. Myanmar là địa bàn ảnh hưởng

×