Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Quá trình điều chỉnh chính sách đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1986 - 1996

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.2 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Hoàng Thắng


Quá trình điều chỉnh chính sách đối ngoại Việt Nam giai
đoạn 1986 – 1996





Luận văn ThS. Quan hệ quốc tế: 60.31.40
Nghd. : PGS.TS. Nguyễn Hoàng Giáp






1
MỤC LỤC

Trang



MỞ ĐẦU

2


Chương1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ
TRÌNH ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI
NGOẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 1996



10
1.1. TÌNH HÌNH QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC

10
1.2. TÌNH HÌNH TRONG NƯỚC

24
Chương 2: SỰ ĐIỀU CHỈNH TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI
NGOẠI VÀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 1996



32
2.1. TỪ 1986 ĐẾN 1991

32
2.1.1. Quá trình điều chỉnh chính sách

32
2.1.2 Những hoạt động ngoại giao chủ yếu

39
2.2. TỪ 1991 ĐẾN 1996


52
2.2.1. Quá trình điều chỉnh chính sách

52
2.2.2. Những hoạt động ngoại giao chủ yếu

66
Chương3: MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG
HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1986 - 1996



85
KẾT LUẬN

96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

100
PHỤ LỤC







2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đường lối đối ngoại và hoạt động ngoại giao được đánh giá là một
trong những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước trong hơn
20 năm qua.Trong những thành tựu chung của sự nghiệp đổi mới, ngoại giao
Việt Nam đã góp phần to lớn đưa nước ta từ chỗ bị bao vây cô lập trên
trường quốc tế đến nay đã hội nhập mạnh mẽ vào khu vực và thế giới. Cho
đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với 172 quốc
gia trên thế giới; lần đầu tiên sau 50 năm kể từ ngày thành lập nước, từ năm
1995, nước ta có quan hệ đầy đủ và bình thường với tất cả các nước lớn, các
trung tâm kinh tế - chính trị, các tổ chức tài chính tiền tệ lớn trên thế giới.
Cùng với sự hình thành đường lối đổi mới toàn diện đất nước từ Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, chính sách đối ngoại và hoạt động
ngoại giao phục vụ công cuộc đổi mới cũng được Đảng và Nhà nước ta đề ra
và từng bước điều chỉnh qua các Đại hội Đảng, các Hội nghị trung ương sau
đó và các hoạt động đối ngoại lớn của ta trong hơn 20 năm qua.
Quá trình điều chỉnh chính sách đối ngoại là quá trình xác định các
mục tiêu phát triển của đất nước phù hợp với sự vận động liên tục trong quan
hệ quốc tế, từ đó xây dựng môi trường bên ngoài ổn định phục vụ cho sự phát
triển. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta từ năm 1986 đến nay, từ chỗ coi
yếu tố ý thức hệ là cơ sở đầu tiên của chính sách đối ngoại đến việc xác định
lấy lợi ích dân tộc làm xuất phát điểm để đề ra đường lối quốc tế và hoạt
động ngoại giao là quá trình điều chỉnh uyển chuyển về chính sách của Đảng
và Nhà nước ta trong môi trường quốc tế vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các
quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau.
Nhìn lại thời gian hơn 20 năm đổi mới vừa qua, có thể thấy 10 năm
đầu thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1996) đất nước ta đã đạt được những

3
thành tựu quan trọng. Đó là thời điểm nước ta bước ra khỏi cuộc khủng

hoảng kinh tế - xã hội, mở ra thời kì đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước. Về đối ngoại là lúc ta phá được thế bao vây cô lập trên
trường quốc tế và bắt đầu mở rộng quan hệ với khu vực và thế giới.
Trong 10 năm đầu đổi mới của Việt Nam, trên thế giới đã xảy ra
những biến động chính trị dữ dội không ngừng tác động đến nước ta. Liên Xô
và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã, chiến tranh
lạnh kết thúc đã làm cho trật tự thế giới bị đảo lộn. Quan hệ quốc tế rơi vào
cuộc khủng hoảng nghiêm trọng cả về lí luận lẫn thực tiễn, các quốc gia lớn
nhỏ trên thế giới đều phải điều chỉnh chính sách và các mục tiêu ưu tiên trong
phát triển đất nước để thích nghi với môi trường quốc tế mới. Lúc này, mục
tiêu phát triển kinh tế trở thành ưu tiên hàng đầu của các quốc gia trên thế
giới và tiềm lực kinh tế trở thành yếu tố quyết định cho sức mạnh tổng hợp
của các quốc gia, điều đó dẫn đến cuộc chạy đua kinh tế quyết liệt trên phạm
vi toàn cầu.
Đối với nước ta, song song với việc triển khai đường lối đổi mới,
chúng ta đã thực hiện những bước điều chỉnh quan trọng trong chính sách đối
ngoại nhằm tìm cho Việt Nam một vị trí tối ưu trong môi trường quốc tế đầy
biến động. Việc nghiên cứu quá trình điều chỉnh chính sách đối ngoại của
Việt Nam trong giai đoạn 1986 - 1996 có ý nghĩa lí luận và thực tiễn to lớn,
nó cho thấy những thay đổi quan trọng trong tư duy chiến lược đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta trước những biến động của tình hình thế giới và thực
tiễn phát triển của đất nước trong giai đoạn này; đồng thời nó cũng góp phần
đưa lại cái nhìn sâu hơn và có cơ sở khoa học khi đánh giá những yếu tố dẫn
đến thành tựu của 10 năm đầu đổi mới.

4
Trên cơ sở đó, tác giả chọn đề tài “Quá trình điều chỉnh chính sách
đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1986 - 1996” làm luận văn tốt nghiệp cao học
của mình.


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam được tiến hành trong hơn 20 năm và
đến nay nó vẫn là một quá trình đang diễn ra. Trên bình diện lí luận đã có
những cuộc hội thảo, những công trình tổng kết các vấn đề đặt ra trong quá
trình đổi mới nhằm tạo cơ sở cho những bước đi tiếp theo. Trong lĩnh vực đối
ngoại, các nhà nghiên cứu trong nước đã có những công trình nghiên cứu về
chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao của nước ta trong thời kì đổi
mới công bố dưới dạng sách tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy và
nghiên cứu ở những đơn vị chuyên nghiên cứu và đào tạo về quan hệ quốc tế;
và rất nhiều bài nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà ngoại giao công bố
trên các báo, tạp chí khoa học chuyên ngành và Tạp chí Cộng sản như:
Nguyễn Cơ Thạch (1990), Những chuyển biến mới trên thế giới và tư duy
mới của chúng ta, Tạp chí Quan hệ quốc tế, số 1 (tháng 1 năm 1990); Hồng
Hà (1992), Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của ta, Tạp chí Cộng
sản, số tháng 12 năm 1992; Nguyễn Mạnh Cầm (1993), “Trên đường triển
khai chính sách đối ngoại theo định hướng mới”, Tạp chí Cộng sản (4); Võ Văn
Kiệt (1994), “Đường lối ngoại giao thời kỳ đổi mới”, Thủ tướng trả lời phỏng
vấn Tuần báo Quốc tế xuân 1994; Chu Văn Chúc (2004), Quá trình đổi mới tư
duy đối ngoại và hình thành đường lối đối ngoại đổi mới, Tạp chí Nghiên
cứu Quốc tế, số 3 (58), tháng 9 năm 2004; Vũ Dương Ninh (2006), Vấn đề
thời cơ trong tiến trình hội nhập quốc tế, Tạp chí Cộng sản, số 3 năm 2006
(in lại trong cuốn Việt Nam - Thế giới và Hội nhập. Một số công trình tuyển
chọn của cùng tác giả, Nxb Giáo dục); Nguyễn Hoàng Giáp, Phát triển quan

5
hệ với các nước lớn trong chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng và Nhà
nước ta, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 2 (61), tháng 6 năm 2005 Đối với
các nhà nghiên cứu nước ngoài, đáng chú ý có cuốn Những thách thức trên
con đường cải cách ở Đông Dương của tập thể tác giả do Borje Ljunggren
chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 1994 tập trung đề

cập công cuộc đổi mới các chính sách và cơ chế kinh tế ở Việt Nam từ cuối
những năm 1970 đến đầu những năm 1990 trong đó nhấn mạnh đến những
thay đổi to lớn trên thế giới đã có tác động quan trọng đến công cuộc đổi mới
ở Việt Nam. Bên cạnh đó, năm 1999, hai học giả Carlyle Thayer và Amer
Ramses công bố cuốn Chính sách đối ngoại Việt Nam trong thời kì chuyển
đổi (Vietnamese Foreign Policy in Transition)
Về việc nghiên cứu, tổng kết các hoạt động ngoại giao của nước ta,
năm 2002 Bộ Ngoại giao đã xuất bản cuốn sách “Ngoại giao Việt Nam 1945
- 2000” tập trung đề cập các đặc điểm, tính chất, những thành tựu của nền
ngoại giao Việt Nam hiện đại. Trong các dịp kỉ niệm 55 năm và 60 năm
thành lập ngành ngoại giao Việt Nam vào các năm 2000, 2005, Bộ ngoại giao
đã tổ chức các cuộc hội thảo khoa học lớn để đánh giá các đóng góp của
ngoại giao trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc trong suốt 60
năm qua. Các tài liệu trong cuộc hội thảo năm 2000 đã được công bố trong
cuốn “Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh” do nhà xuất bản
Chính trị quốc gia ấn hành. Các bài nghiên cứu trong cuốn sách này tập trung
vào các chủ đề: thành tựu của ngoại giao Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh
về ngoại giao, bản sắc ngoại giao Việt Nam hiện đại và mấy vấn đề của ngoại
giao Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Cuốn sách này mang đến một cái
nhìn toàn diện về quan hệ quốc tế của nước ta trong hơn 50 năm cả về nền
tảng tư tưởng, cơ sở lý luận lẫn thực tiễn hoạt động cũng như bản sắc riêng
của ngoại giao Việt Nam.

6
Về đường lối đối ngoại và hoạt động ngoại giao trong thời kì đổi mới,
các công trình trên đề cập như là một thời kỳ trong lịch sử hơn 50 năm của
ngành ngoại giao. Trong dịp kỉ niệm 50 năm thành lập ngành ngoại giao,
năm 1995 Bộ Ngoại giao đã xuất bản cuốn “Hội nhập quốc tế và giữ vững
bản sắc” tập hợp các bài nói và viết của các vị lãnh đạo ngành ngoại giao
đầu những năm 1990 tập trung vào các vấn đề quốc tế của Việt Nam trong

thời kì này.
Trong thực tiễn giảng dạy tại các trường đại học có đào tạo chuyên
ngành quan hệ quốc tế, học phần Chính sách đối ngoại Việt Nam thời kì đổi
mới chưa có giáo trình chính thức mà chỉ mới triển khai dưới dạng các
chuyên đề, bài giảng. Các sách tập trung viết về chính sách đối ngoại đổi mới
chủ yếu dưới dạng tài liệu lưu hành nội bộ hoặc sách tham khảo như cuốn
“Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam”, tập 2 của tác giả Lưu Văn Lợi do
nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 1998; cuốn “Ngoại giao Việt
Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975 - 2002)” do Học viện Quan hệ
quốc tế xuất bản năm 2002 như là tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và
học tập phần Chính sách đối ngoại Việt Nam từ sau năm 1975. Ngoài ra,
năm 2001 nhà xuất bản Thanh Niên cũng xuất bản cuốn sách tham khảo
“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại (1986 - 2000)”
của tác giả Vũ Quang Vinh. Đây là những công trình tập trung nghiên cứu
sâu về ngoại giao Việt Nam thời kì đổi mới từ quá trình hình thành, các
bước triển khai và những kết quả đạt được trong hoạt động ngoại giao từ
1986 cho đến năm 2002.
Gần đây, đáng chú ý là trước thềm Đại hội lần thứ X của Đảng, vào
năm 2004, Bộ Ngoại giao và các đơn vị chức năng thuộc Bộ đã hoàn thành
một loạt công trình tổng kết hoạt động đối ngoại 20 năm đổi mới trong đó
có chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao thời kỳ 1986 - 1996. Các

7
công trình tổng kết này đã đề cập chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế
của Đảng và Nhà nước ta qua 20 năm đổi mới nói chung cho đến các lĩnh
vực cụ thể như ngoại giao nhân dân, hoạt động đối ngoại của Quốc hội,
công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, công tác thông tin đối ngoại
cũng như chính sách của ta đối với các khu vực trên thế giới
Các tài liệu trên đây là rất phong phú, đa dạng. Ngoài các chuyên luận,
sách báo, các bài đăng trên các tạp chí khoa học còn có văn kiện của các Đại

hội Đảng, Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương trong thời kì này. Tuy
nhiên, “Quá trình điều chỉnh chính sách đối ngoại Việt Nam giai đoạn
1986 - 1996” chưa trở thành đối tượng nghiên cứu độc lập của một công trình
khoa học nào, đặc biệt trên quy mô của một luận văn tốt nghiệp cao học.
Đó là cơ sở để tác giả tập trung tìm hiểu về chính sách đối ngoại Việt
Nam 10 năm đầu đổi mới. Mặt khác khi nghiên cứu chính sách đối ngoại
Việt Nam thời kì này cũng có những khó khăn chung khác như một số tư liệu
gốc cho đến nay chưa được công bố hoặc các nhà nghiên cứu chưa được tiếp
cận sẽ dẫn đến thiếu một số luận cứ cụ thể trong việc tìm hiểu vấn đề.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn
Thông qua những biến cố lớn trong quan hệ quốc tế trong 10 năm
1986 - 1996 và những đòi hỏi của thực tiễn đổi mới của đất nước, đề tài tập
trung tìm hiểu những bước điều chỉnh quan trọng có ý nghĩa chiến lược
trong việc hoạch định và triển khai đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta trong giai đoạn 1986 - 1996 qua đó có thể rút ra những kết luận cho
thời kỳ này.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ:

8
- Phân tích những nhân tố tác động đến quá trình điều chỉnh chính sách
đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1986 - 1996.
- Phân tích các bước điều chỉnh trong chính sách đối ngoại trong 10
năm đầu đổi mới và những hoạt động lớn của ngoại giao Việt Nam trong 10
năm này như là hệ quả của quá trình điều chỉnh đó.
- Rút ra các bài học kinh nghiệm của các hoạt động ngoại giao giai
đoạn 1986 - 1996.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình điều chỉnh chính sách đối

ngoại và hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong 10 năm từ 1986 đến 1996.
Đây là một thời kì đặc biệt đối với cả Việt Nam và thế giới. Trên thế giới,
thời kì này có những đảo lộn lớn trong so sánh lực lượng giữa các nước, là
lúc giao thời giữa thời kì chiến tranh lạnh và thời kì sau chiến tranh lạnh, là
thời kì diễn ra những điều chỉnh quan trọng trong chính sách của các quốc
gia. Đối với Việt Nam, đó là khoảng thời gian 10 năm đầu tiên thực hiện
đường lối đổi mới. Chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao trong 10
năm này cũng có những điều chỉnh quan trọng từ chủ trương chính sách cho
đến các hoạt động cụ thể.
Trọng tâm nghiên cứu của luận văn là từ khi Việt Nam bắt đầu tiến
hành công cuộc đổi mới được đưa ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(năm 1986), trong tình trạng đất nước đang gặp khủng hoảng kinh tế - xã hội
nghiêm trọng; cho đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996), khi
chúng ta tuyên bố bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và bắt đầu thời
kì đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận

9
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận duy
vật biện chứng. Trong quá trình nghiên cứu và xử lý tài liệu tham khảo, luận
văn quán triệt các luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về mối quan hệ giữa các quốc gia dân tộc trong thời đại mới, về đặt cách
mạng Việt Nam trong mối quan hệ toàn cầu, về lợi ích dân tộc và chủ nghĩa
quốc tế, về phân biệt giữa chiến lược và sách lược Luận văn bám sát các
quan điểm đánh giá tình hình quốc tế, khu vực và chính sách đối ngoại của
Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong các văn kiện của Đại hội VI, Đại hội
VII và các Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương thời kì này; coi đây là
nguồn cung cấp những căn cứ lý luận và định hướng tư tưởng trong nghiên
cứu.

Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản của ngành
khoa học xã hội nói chung, ngành quan hệ quốc tế nói riêng. Đề tài nghiên
cứu nằm trong phạm vi chuyên ngành quan hệ quốc tế, là một bộ phận của
khoa học xã hội nên phương pháp lịch sử và phương pháp logíc là hai
phương pháp chủ yếu của luận văn. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương
pháp khác như so sánh, đối chiếu, thống kê, phân tích và tổng hợp để nghiên
cứu và trình bày nội dung luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung làm rõ về sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn 1986 - 1996 qua đó có thể thấy sự
chuyển biến quan trọng trong tư duy chiến lược đối ngoại và nhận thức của
Đảng và Nhà nước ta về các vấn đề quốc tế để phục vụ kịp thời công cuộc
đổi mới. Bên cạnh đó, luận văn góp phần cung cấp thêm cứ liệu khoa học
xung quanh việc tìm hiểu về chính sách đối ngoại của ta hiện nay.

10
Ngoài ra, luận văn có thể sử dụng tham khảo trong việc học tập của
sinh viên chuyên ngành quan hệ quốc tế, là tài liệu chuyên khảo cho những
người quan tâm đến các vấn đề trong quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta trong khoảng thời gian cuối những năm 1980 đến
nửa đầu những năm 1990.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được chia làm 3 chương.





















11
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH ĐIỀU CHỈNH
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 1996

1.1. TÌNH HÌNH QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC
Sau đại thắng mùa xuân 1975, nước ta bước vào công cuộc khôi phục
và phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi.
Trước hết, do tác động của thắng lợi cách mạng Việt Nam, phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới được thúc đẩy mạnh, nhiều dân tộc thuộc địa
hoặc lệ thuộc giành được độc lập. Thêm vào đó, chủ nghĩa tư bản đang trong
giai đoạn suy thoái kinh tế không đủ sức lũng đoạn thế giới. Đây là cơ hội để
các dân tộc bị áp bức đứng lên giành quyền làm chủ đất nước mình. Trong
bối cảnh đó, Việt Nam là một dân tộc đã đánh thắng Mỹ nên nhiều nước có
cảm tình và sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam tái thiết đất nước.

Tuy nhiên, từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX trở đi, hệ thống xã hội
chủ nghĩa bắt đầu lâm vào tình trạng khủng hoảng, nội bộ các nước nảy sinh
nhiều mâu thuẫn bất đồng. Lúc này, các nước tư bản chủ nghĩa nhờ áp dụng
được các thành tựu khoa học - công nghệ nên đã phục hồi và phát triển nhanh
chóng. Hai sự kiện này diễn ra đồng thời làm khoảng cách phát triển giữa hai
hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa càng ngày càng xa. Mỹ tiếp
tục phát động chạy đua vũ trang gây căng thẳng với Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa; thực hiện "diễn biến hoà bình" chống phá các nước xã hội chủ
nghĩa và phong trào cách mạng thế giới. Đối với Việt Nam, Mỹ thực hiện
chính sách bao vây, cấm vận, cô lập ta trên trường quốc tế. Đồng thời, Mỹ
tăng cường kích động lôi kéo người Việt Nam di tản nhằm làm mất an ninh
chính trị, trật tự xã hội dẫn đến làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

12
Trong khi đó, ở nước láng giềng Campuchia, Khơme Đỏ sau khi
giành được chính quyền đã thi hành chính sách diệt chủng ở trong nước và
thực hiện một chính sách đối ngoại thù địch với Việt Nam. Việc Việt Nam
đưa quân sang Campuchia làm nghĩa vụ quốc tế là lý do để Mỹ và các thế
lực thù địch lợi dụng xuyên tạc nhằm cô lập, bao vây cấm vận nước ta.
Trung Quốc tiến hành chiến tranh chống Việt Nam trên toàn tuyến biên
giới 6 tỉnh phía Bắc, sau đó là cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt, cùng
các nước ASEAN cô lập, công kích ta về chính trị, bao vây cấm vận về
kinh tế, đẩy Việt Nam vào tình thế vô cùng khó khăn.
Bước vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX, trên thế giới có những
thay đổi to lớn tác động sâu sắc đến các mối quan hệ quốc tế nói chung và
quan hệ giữa các quốc gia nói riêng. Đó là:
Cuộc chiến tranh lạnh kéo dài gần 40 năm kể từ năm 1947[29, tr. 72]
giữa Liên Xô và Mỹ đã đi vào giai đoạn kết thúc. Quan hệ quốc tế từ chỗ là
sự đối đầu quyết liệt giữa hai hệ thống kinh tế - chính trị - xã hội đối lập đã

chuyển sang thời kì đối thoại nhằm giảm chạy đua vũ trang, giải trừ quân bị,
đi vào giải quyết thực chất các vấn đề nóng bỏng trong quan hệ quốc tế và
tập trung tiềm lực cho việc phát triển kinh tế. Quá trình chuyển dịch từ đối
đầu sang đối thoại trong quan hệ quốc tế và giữa các quốc gia có chế độ
chính trị - xã hội khác nhau thực tế được bắt đầu từ cuối những năm 1960,
đầu những năm 1970[39, tr. 45] lại càng trở thành yêu cầu cấp bách trong
chiến lược của các nước, đặc biệt là các nước lớn vào giữa những năm 1980;
và “điều không ngạc nhiên là những thay đổi mạnh mẽ trong chính sách đối
ngoại của Liên Xô đối với bạn bè, sự hoà dịu ngày càng tăng giữa Oasingtơn
và Bắc Kinh đã tạo ra một môi trường hoàn toàn mới”[44, tr. 67].
Từ chỗ là những quốc gia có sức mạnh vượt trội trong hai hệ thống xã
hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, nhưng do hậu quả của cuộc chạy đua vũ

13
trang lâu dài và tốn kém, cả Mỹ và Liên Xô ở mức độ khác nhau, đều lâm
vào cuộc khủng hoảng trầm trọng cả về kinh tế lẫn chính trị, đánh mất dần
hoặc suy giảm vai trò chi phối trong từng hệ thống và trong quan hệ quốc tế.
Nước Mỹ từ chỗ chiếm hơn 50% nền kinh tế thế giới vào năm 1945, đến năm
1993 chỉ còn chiếm 21% của nền kinh tế thế giới. Riêng ngân sách quân sự
của Mỹ từ năm 1980 đến 1986 đã tăng đến 50%[19, tr. 654]. Trong khi đó
hai nền kinh tế Đức và Nhật Bản cộng lại cùng thời điểm năm 1993 đã chiếm
đến 26% nền kinh tế thế giới[39, tr. 57]. Đối với Liên Xô, với một ngân sách
quốc phòng chiếm tới 18% tổng thu nhập quốc dân[45, tr. 358] đã khiến cho
nền kinh tế Liên Xô hoạt động không thể bình thường được, nó làm cho các
chương trình xã hội quy mô lớn không thể tiến hành và là một trong những
nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng toàn diện trong xã hội Liên Xô. Cho
đến năm 1985, trong sự so sánh với Mỹ, tổng giá trị sản phẩm của Liên Xô
chỉ bằng 40%, thu nhập quốc dân bằng 50%, năng suất lao động công nghiệp
bằng 55%, năng suất lao động nông nghiệp chỉ bằng 20 - 25%[42, tr. 290].
Những số liệu kinh tế đó cho thấy sau một thời kì dài chạy đua vũ

trang giữa Mỹ và Liên Xô đã làm cho sức cạnh tranh của hai nước này trong
nền kinh tế thế giới giảm sút nghiêm trọng. Điều đó làm cho hai nước phải
đi vào tìm kiếm các giải pháp nhằm giảm chạy đua vũ trang, giảm chi phí
quốc phòng, tập trung cho phát triển và cải cách nền kinh tế. Việc các nước
điều chỉnh chính sách tập trung cho phát triển kinh tế, giảm chạy đua vũ
trang đã làm xuất hiện xu thế chuyển dịch từ đối đầu sang đối thoại trong
quan hệ quốc tế.
Quá trình chuyển dịch từ đối đầu sang đối thoại thời kì này thể hiện
trước hết ở việc hai nước lớn Liên Xô và Mỹ giảm chạy đua vũ trang, đi vào
đàm phán tiến tới kí kết các hiệp ước cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược
của hai bên. Sau khi đưa cuộc chạy đua vũ trang giữa Mỹ và Liên Xô lên

14
đến đỉnh cao trong nhiệm kì cầm quyền đầu tiên, bước vào nhiệm kì thứ hai,
Tổng thống Mỹ R. Rigân bắt đầu tìm kiếm các kênh đối thoại khác nhau với
Liên Xô để tiến tới các thoả thuận nhằm kiểm soát vũ khí chiến lược. Đồng
thời trong giai đoạn này, ở Liên Xô cũng diễn ra những thay đổi quan trọng
trong bộ máy lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước Xôviết. Cuộc khủng
hoảng về người lãnh đạo ở Liên Xô chấm dứt với sự lên nắm quyền của
Tổng bí thư Goócbachốp tháng 3 năm 1985, sau khi Tổng bí thư Chécnencô
qua đời. Tuy nhiên lúc này, Liên Xô “tuy đã tiến những bước dài đáng kể
trong sản xuất quân sự và vũ trụ và trong các ngành công nghiệp thép, bê
tông, than và dầu lửa nhưng nó thực sự không có khả năng mang lại những
hứa hẹn vật chất của cuộc cách mạng cho người dân Liên Xô”[41, tr. 491].
Thất bại trong sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và các sản phẩm công
nghệ cao đã đẩy nền kinh tế Liên Xô tụt hậu xa so với các nước phương Tây
chủ chốt. Thậm chí trong nhiều lĩnh vực, Liên Xô còn tụt hậu so với các
nước và vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Đài Loan trong việc ứng dụng
khoa học công nghệ, sử dụng các nguồn tài nguyên có hiệu qủa vào sản xuất
kinh tế. Cuộc khủng hoảng trầm trọng trong xã hội Liên Xô là tiền đề quyết

định cho công cuộc cải tổ ở Liên Xô. Trong lĩnh vực đối ngoại, mục tiêu
của Liên Xô là tìm cách chấm dứt sự đối đầu với Mỹ trong cuộc chạy đua
vũ trang. Ngay sau khi Goócbachốp lên làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Liên Xô và Rigân trúng cử Tổng thống nhiệm kì hai ở Mỹ, hai nước này đã
tiến hành những bước đi tạo cơ sở cho các cuộc gặp cấp cao Xô - Mỹ nhằm
chấm dứt sự đối đầu giữa hai nước. Sự kiện chính yếu trong quan hệ Xô -
Mỹ năm 1985 là cuộc gặp cấp cao giữa nguyên thủ hai nước tại Giơnevơ
tháng 11 năm 1985. Cuộc gặp cấp cao này đã tạo tiền đề để chuyển từ trạng
thái căng thẳng nguy hiểm sang tìm kiếm xây dựng các con đường bình
thường hoá quan hệ giữa hai nước và lành mạnh hoá tình hình quốc tế nói

15
chung. “Xét theo nghĩa rộng thì cuộc gặp Goócbachốp - Rigân đã kẻ một
đường vạch ngang chấm dứt một khoảng thời gian nhất định, khi mà
Oasingtơn trên thực tế đã bác bỏ sự đối thoại nghiêm túc với chúng ta, coi
trọng sử dụng các mưu đồ gây sức ép thô bạo đối với Liên Xô hơn là đối
thoại”[1, tr. 1093]. Tiếp theo đó là cuộc gặp cấp cao Xô - Mỹ ở Râygiavích
(Aixơlen) tháng 11 năm 1986 đưa đến kết quả là Liên Xô và Mỹ đạt được
thoả thuận cắt giảm 50% vũ khí chiến lược trong vòng 5 năm, huỷ bỏ toàn
bộ tên lửa tầm trung ở châu Âu, Hoa Kì đồng ý hoãn triển khai chương trình
Sáng kiến phòng thủ chiến lược (SDI) cho đến năm 1991. Và đến tháng 12
năm 1989, “sự xích lại gần nhau (giữa Liên Xô và Mỹ - TG)) đã được đánh
dấu bằng cuộc gặp gỡ ở Malta giữa Tổng thống George Bush và Mikhail
Gorbachev”[19, tr. 662] đưa đến “Gorbachev tuyên bố “chiến tranh lạnh” đã
kết thúc, còn Bush nói đến “thời đại mới”[19, tr. 662] trong quan hệ quốc
tế. Tính từ năm 1985 đến 1990, giữa Liên Xô và Mỹ đã có tới bảy cuộc gặp
cấp cao đánh dấu việc hai nước này đi đến chấm dứt đối đầu và cùng nhau
giải quyết thực chất những vấn đề gay cấn hàng đầu trong quan hệ quốc tế.
Xu thế chuyển dịch từ đối đầu sang đối thoại trong quan hệ quốc tế còn
thể hiện qua việc các nước lớn điều chỉnh chiến lược, phối hợp với nhau

trong việc giải quyết các vấn đề nóng bỏng trên thế giới. Như đã đề cập,
ngoài việc Mỹ và Liên Xô có những bước điều chỉnh chiến lược lớn nhằm
làm cho bầu không khí trong quan hệ quốc tế trở nên hoà dịu thì ở châu Á lúc
này, Trung Quốc cũng tiến hành cải cách mở cửa với mục tiêu thực hiện “bốn
hiện đại hoá” được đề ra từ Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khoá XI) cuối
năm 1978 sau những sai lầm nghiêm trọng trong Cách mạng văn hoá. Công
cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc đặt ra yêu cầu Trung Quốc phải thực
hiện chiến lược tranh thủ vốn và khoa học kĩ thuật hiện đại của phương Tây
nhằm thực hiện “bốn hiện đại hoá”; tiến hành đàm phán bình thường hoá

16
quan hệ với Liên Xô nhằm thu hút viện trợ để cải tạo các công trình do Liên
Xô giúp xây dựng trước đây đồng thời góp phần kiềm chế Mỹ, tìm được cho
Trung Quốc tiếng nói thích đáng trong thời điểm mà Mỹ và Liên Xô đang có
những thoả thuận quan trọng trong việc làm giảm căng thẳng trong quan hệ
quốc tế và giải quyết dứt điểm các vấn đề lớn trên thế giới lúc bấy giờ. Mặt
khác, nhu cầu về một môi trường quốc tế và khu vực có hoà bình ổn định
nhằm phục vụ cải cách mở cửa cũng đòi hỏi Trung Quốc phải điều chỉnh
chiến lược với các nước trong khu vực. Trên cơ sở đó, Trung Quốc từng
bước đi tới bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và cân bằng các mối quan
hệ với các quốc gia khác ở Đông Nam Á, duy trì ảnh hưởng ở khu vực này,
cùng với các nước khác đi vào tìm kiếm giải pháp thực tế để giải quyết vấn
đề Campuchia
Việc các nước lớn thi hành chính sách hoà hoãn, chuyển từ đối đầu
sang đối thoại đã tạo ra thời cơ hiện thực cho việc giải quyết các vấn đề căng
thẳng trong quan hệ quốc tế. Ở châu Âu, song song với các cuộc đàm phán về
cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược giữa Liên Xô và Mỹ thì quá trình này
cũng đồng thời thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề an ninh chung của toàn
châu Âu trong đó có vấn đề thống nhất nước Đức và vấn đề hoà nhập hai
khối quân sự chính trị đối lập ở châu Âu vào một tổ chức chung về an ninh

tại khu vực trọng điểm này. Ở một khía cạnh khác, xu thế hoà hoãn trên thế
giới đã góp phần làm cho quá trình chuyển đổi về mặt hệ thống chính trị ở
các quốc gia Đông Âu diễn ra một cách hoà bình, điều không thể có được
trong suốt hơn 40 năm đối đầu căng thẳng giữa hai hệ thống. Việc nước Đức
thống nhất và các quốc gia có hệ thống chính trị xã hội khác nhau ở châu Âu
cùng tham gia vào xây dựng một hệ thống an ninh chung cho toàn châu Âu
đã làm cho một trong những khu vực chứa đựng nhiều mâu thuẫn đối kháng
nhất trong thời kì chiến tranh lạnh đi đến Tuyên ngôn “kết thúc chiến tranh

17
lạnh” tại Hội nghị cấp cao về An ninh và Hợp tác châu Âu (CSCE) ở Pari
tháng 1 năm 1990. Điều đó đã có tác động lớn đến cục diện quan hệ quốc tế
toàn cầu vào cuối những năm 1980.
Ở khu vực Đông Nam Á, quá trình bình thường hoá quan hệ Xô -
Trung và xu thế đối thoại Xô - Mỹ đã tác động trực tiếp đến việc các bên
cùng nhau tìm kiếm giải pháp cho vấn đề Campuchia. Ở thời điểm mà vấn đề
Campuchia được quốc tế hoá cao độ thì việc các nước lớn điều chỉnh chiến
lược đã sớm đưa đến đến giải quyết vấn đề này. Ngoài ra, xu thế hoà hoãn
cũng làm cho các nước lớn giảm bớt các cam kết an ninh với các nhóm nước
ở Đông Nam Á, tạo điều kiện cho khu vực này xây dựng những kênh đối
thoại khác nhau để tiến tới tự giải quyết những vấn đề của khu vực.
Rõ ràng quá trình chuyển dịch từ đối đầu sang đối thoại trên thế giới,
việc “Liên Xô và Hoa Kì ngồi vào đàm phán ở cấp cao làm cho hình thái đấu
tranh trong cùng tồn tại hoà bình giữa hai hệ thống xã hội đối lập được củng
cố và phát triển”[10, tr. 36]. Đó là một trong những căn cứ để Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định chính sách đối ngoại của mình khi đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước.
Sự kiện quan trọng làm đảo lộn quan hệ quốc tế toàn cầu cũng như khu
vực và tác động mạnh mẽ đến các quốc gia trên thế giới những năm cuối thập
kỉ 80, đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX là sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội

chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô tan rã. Sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô
đã để lại những hệ quả quốc tế to lớn. Nó làm cho trật tự thế giới cũ mất đi và
“tương quan lực lượng trên thế giới từ chỗ cân bằng sang có lợi cho Mỹ và
các nước tư bản phát triển”[40, tr. 93].
Cuộc khủng hoảng kinh tế ngày càng trầm trọng do bệnh chủ quan duy
ý chí, xem thường các quy luật kinh tế khách quan, duy trì quá lâu cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, không thừa nhận sản xuất hàng hoá và quy luật giá

18
trị cùng với sai lầm về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức; cộng với sự
tấn công từ nhiều phía của các thế lực thù địch bên trong và bên ngoài đã đặt
Liên Xô trước những thách thức sống còn. Để cứu vãn tình thế, từ năm 1987
đến 1991, Liên Xô bước vào công cuộc cải tổ rộng lớn cả về chính trị và kinh
tế. Thất bại trong việc chuyển nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường có điều tiết của nhà nước đã đẩy Liên Xô lún sâu vào
tình trạng khủng hoảng, rối ren và mất phương hướng.
Tháng 1 năm 1991, “Hội nghị dân chủ” ở Kháccốp với sự tham dự
của 47 đảng phái và 12 nước cộng hoà đã thông qua lời kêu gọi giải thể
Liên Xô và thành lập Cộng đồng các nước cộng hoà độc lập. Sau cuộc đảo
chính lật đổ Tổng thống Goócbachốp thất bại (từ ngày 19 đến 21 tháng 8
năm 1991), chính quyền Xôviết bị giải tán, Đảng Cộng sản Liên Xô bị đình
chỉ hoạt động, lần lượt các nước cộng hoà thuộc Liên Xô tuyên bố độc lập.
Ngày 6 tháng 9 năm 1991, Xôviết tối cao Liên Xô tuyên bố bãi bỏ Hiệp ước
Liên bang năm 1922 và trao quyền hành cho các cơ quan lâm thời. Ngày 8
tháng 12 năm 1991, Tổng thống 3 nước cộng hoà Nga, Ucraina, Belarút ra
tuyên bố chung khẳng định Liên Xô không tồn tại nữa và quyết định thành
lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Ngày 21 tháng 12 năm 1991, tại
thủ đô Anma Ata (Cadắcxtan), 11 nước cộng hoà kí hiệp định về giải tán
Liên Xô và chính thức thành lập SNG. Ngày 25 tháng 12 năm đó, M.
Goócbachốp tuyên bố từ chức Tổng thống Liên Xô, lá cờ đỏ trên nóc điện

Kremli được hạ xuống, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Liên bang Xôviết tan rã.
Sự tan rã của Liên Xô là một sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị
thế giới. “Sự tan rã của một trong hai siêu cường của trật tự thế giới hai cực đã
tạo ra một khoảng trống lớn trong không gian chính trị quốc tế, làm tan vỡ sự
cân bằng toàn cầu đã tồn tại trong gần 50 năm qua từ Hội nghị Yalta 1945”[4,

19
tr. 96]. Quan hệ quốc tế toàn cầu lúc này rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng
cả về lý luận lẫn thực tiễn. Đối với Việt Nam, “những sự kiện năm 1989 ở
Đông Âu và sự sụp đổ của Liên Xô hai năm sau đó đã đưa đến sự sắp xếp lại
một cách cơ bản cán cân đối ngoại Lần đầu tiên kể từ khi Đảng Cộng sản
Đông Dương ra đời năm 1930, các lãnh tụ Đông Dương hầu như phải tự lái
con thuyền quốc gia qua những vùng nước chưa có trên bản đồ”[44, tr. 65 -
66].
Sau khi Liên Xô tan rã và chiến tranh lạnh kết thúc, cục diện thế giới
bước vào thời kì chuyển tiếp sang một hệ thống mới, nhiều vấn đề mới xuất
hiện tác động đến việc hoạch định chính sách của các quốc gia. Hình thái vừa
hợp tác vừa đấu tranh giữa các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau trở
thành đặc trưng của quan hệ quốc tế và của cuộc đấu tranh nhằm thiết lập
một trật tự quốc tế mới[42, tr. 332 - 338].
Cuộc đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự quốc tế mới diễn ra quyết liệt
với những quan điểm khác nhau. Các nước tư bản phát triển đứng đầu là Mỹ
do có ưu thế về sức mạnh đã ráo riết xúc tiến việc thiết lập hệ thống quốc tế
tư bản chủ nghĩa nhằm thực hiện mưu đồ bá quyền của mình sau khi đối thủ
hàng đầu của nó là Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn nữa. Để
thực hiện mục tiêu khống chế hệ thống quốc tế có lợi cho mình, Mỹ đã sử
dụng các tổ chức quốc tế để hợp pháp hoá các hành động của mình, mở rộng
vai trò của Mỹ ra ngoài khuôn khổ Hiến chương Liên hợp quốc.
Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu làm cho phong trào cách mạng thế

giới lâm vào thoái trào nhưng các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại
và phát triển dưới nhiều hình thức, quy mô và sự thể hiện khác nhau. Nguy
cơ chiến tranh thế giới huỷ diệt bị đẩy lùi nhưng loài người phải đối mặt với
những cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo,

20
tranh chấp biên giới lãnh thổ, hoạt động khủng bố diễn ra ngày càng tăng ở
nhiều khu vực trên thế giới.
Bên cạnh đó, sau chiến tranh lạnh, nhiều vấn đề toàn cầu nảy sinh ảnh
hưởng đến môi trường sinh sống của các quốc gia đòi hỏi phải có sự hợp tác
của tất cả các nước để giải quyết. Ngoài các hoạt động ngoại giao song phương
và ở cấp nhà nước truyền thống như trước đây thì lúc này, các diễn đàn đa
phương ngày càng xuất hiện và giữ vai trò quan trọng trong việc tập hợp lực
lượng trên toàn thế giới để cùng nhau giải quyết các vấn đề toàn cầu. Điều đó
dẫn đến việc các nước vừa và nhỏ khẳng định được vai trò quan trọng của
mình trong việc giải quyết những vấn đề chung của thế giới.
Trong bối cảnh xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển ngày một tăng,
các quốc gia đặt ưu tiên hàng đầu trong chính sách là phát triển kinh tế. Tất
cả các nước đều điều chỉnh đường lối, tập trung sức phát triển kinh tế. Cuộc
chạy đua phát triển kinh tế trên phạm vi toàn thế giới làm cho nhân tố kinh tế
có vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế và nó trở thành một trong những
yếu tố quyết định cho sức mạnh tổng hợp của các quốc gia.
Nhìn chung, cục diện thế giới sau khi Liên Xô sụp đổ tác động mạnh
đến Việt Nam, tạo ra những cơ hội và thách thức mới buộc Việt Nam phải
tìm cách giải quyết, đặc biệt là phải có chính sách đối ngoại thích hợp để tiếp
tục công cuộc đổi mới.
Một tác nhân quan trọng làm thay đổi bộ mặt thế giới từ những năm 80
của thế kỉ XX trở đi và có tác động trực tiếp đến quá trình hoạch định chính
sách của các quốc gia đó là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển
như vũ bão đã tạo ra những thay đổi lớn cả về lượng và chất đối với mọi mặt

đời sống xã hội loài người, nó làm gia tăng xu thế toàn cầu hóa, khu vực hoá
cả chiều rộng lẫn chiều sâu.

21
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ mới bắt đầu từ những năm
1970 trong đó khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Việc ứng
dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất đã làm tăng năng suất
lao động xã hội, phát triển mạnh mẽ sức sản xuất, tạo ra những ngành sản
xuất mới, làm ra những sản phẩm với hàm lượng khoa học ngày càng cao,
tiêu tốn ít năng lượng, nguyên vật liệu, sản sinh ra ít chất thải
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ mới đã thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển mạnh mẽ, từng bước làm thay đổi tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất vượt ra khỏi phạm vi biên giới
quốc gia và tham gia vào quá trình phân công lao động trên toàn thế giới. Điều
đó góp phần thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá diễn ra mạnh mẽ.
Quá trình toàn cầu hoá được thúc đẩy với việc áp dụng những tiến bộ
vượt bậc của khoa học công nghệ, từng bước hình thành một cơ sở hạ tầng
mới mang tính chất toàn cầu cho nền kinh tế thế giới - đó là hệ thống thông
tin viễn thông và công nghệ tin học. Từ đó hình thành hệ thống sản xuất toàn
cầu, vượt qua sự phân chia theo thế mạnh về các nguồn lực truyền thống của
mỗi quốc gia.
Tiến bộ của khoa học công nghệ cũng đã trở thành động lực của sự
biến đổi hệ thống phân công lao động quốc tế từ chiều rộng sang chiều sâu
với đặc trưng là từ chuyên môn hoá theo đối tượng, chi tiết sang chuyên môn
hoá theo ngành. Quá trình sản xuất một sản phẩm được chia ra nhiều công
đoạn và phân tán ở nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển có thể tham
gia ngay từ đầu vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Đồng thời quá
trình hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia có sức mạnh
chi phối nền sản xuất thế giới làm cho quá trình quốc tế hoá ngày càng mạnh
mẽ. Quá trình quốc tế hoá nền sản xuất còn được thực hiện thông qua sự phát

triển mạnh mẽ và vai trò ngày càng lớn của thương mại quốc tế đối với sự

22
phát triển của mỗi quốc gia. Đặc trưng của sự phát triển thương mại quốc tế
là sự thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu: tỷ trọng hàng sơ chế giảm từ 38,3%
năm 1984 xuống còn 25% năm 1992, tỷ trọng hàng tinh chế tăng từ 49,5%
năm 1950 lên 75% năm 1992[2, tr. 17]; thương mại dịch vụ phát triển mạnh
như vận tải, du lịch, dịch vụ ngân hàng vv Các nhân tố đó đã thúc đẩy mạnh
mẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các nước công nghiệp phát triển
xúc tiến việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng thu hẹp các ngành công
nghiệp truyền thống tốn nhiều nguyên liệu, lao động, năng lượng, gây ô
nhiễm, chuyển dần các ngành này sang các nước đang phát triển để tập trung
phát triển trong nước các ngành sản xuất tiến tiến.
Ở cấp độ thấp hơn toàn cầu hoá là quá trình khu vực hoá cũng phát
triển mạnh ở những quy mô khác nhau. Một loạt các tổ chức khu vực ra đời
như Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) ; bên cạnh đó là các mô hình hợp tác dưới hình thức các tam giác,
tứ giác phát triển Các liên kết khu vực này lúc đầu xuất phát từ các nhu cầu
về phát triển kinh tế nhưng sau đó tiến dần tới những liên kết về chính trị. Sự
liên kết khu vực thường thể hiện ở năm cấp độ khác nhau từ ưu đãi thương
mại, thị trường tự do, liên minh quan thuế, thị trường chung và cuối cùng là
các “liên kết đa diện kiểu Liên minh châu Âu - về cả thị trường lẫn chính
sách kinh tế, đồng tiền chung, quốc hội chung ”[47, tr. 20]. Một đặc điểm
của các tổ chức khu vực là trong đó có sự tham gia của các nước có chế độ
chính trị xã hội khác nhau, nó phản ánh chiều hướng của các nước muốn liên
kết với nhau để tận dụng tiềm năng khu vực của mình nhằm ứng phó với quá
trình toàn cầu hoá đang tiến triển nhanh chóng.
Bước vào những năm 1980, ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương
diễn ra những biến đổi quan trọng, đặc biệt Đông Á nổi lên là khu vực có sự


23
phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao và có vị trí ngày càng tăng trong
so sánh lực lượng trên thế giới. Châu Á trong lịch sử đã từng là một trong
những cái nôi của nền văn minh nhân loại; tuy nhiên trong thời kì cận đại,
trung tâm kinh tế và chính trị của thế giới lại tập trung ở châu Âu. Trong
những thập kỉ cuối của thế kỉ XX thì trong chính sách đối ngoại của các
nước, đặc biệt các nước lớn - vốn đặt trọng tâm chính sách vào khu vực
châu Âu - Đại Tây Dương - đã có những bước điều chỉnh quan trọng, đặt
chính sách châu Á - Thái Bình Dương cân bằng với chính sách châu Âu -
Đại Tây Dương, thậm chí có không ít dự báo rằng thế kỉ XXI sẽ là thế kỉ
của châu Á - Thái Bình Dương. Đầu những năm 1990, người ta dự báo “tới
năm 2000, chỉ riêng kinh tế của các nước Đông Á, từ Nhật Bản tới
Inđônêxia thôi, đã hầu như bằng của Mỹ và bằng 4/5 của Cộng đồng châu
Âu”[4, tr. 184]. Quả thật, châu Á - Thái Bình Dương là nơi tập trung những
tiềm năng khổng lồ. Ở đây tập trung những nước đông dân nhất thế giới, có
tài nguyên phong phú và đa dạng, nằm trên trục đường giao thông quan
trọng bậc nhất của thế giới. Ở khu vực này có những nền kinh tế hùng mạnh
như Nhật Bản và các nền kinh tế mới công nghiệp hoá như Hàn Quốc, Đài
Loan, Hồng Công, Xingapo; nhiều nước đang phát triển với tốc độ nhanh và
có tiềm năng lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trì trệ thì nền kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương tiếp tục phát triển năng động. “Riêng năm 1992 tổng sản phẩm
xã hội tăng 6,9% (so với mức tăng 0,4% tổng sản phẩm của cả thế giới)”[4,
tr. 184 - 185]. Châu Á - Thái Bình Dương đồng thời cũng chiếm vị trí quan
trọng trong nền kinh tế thương mại và đầu tư quốc tế. “Trong và ngoài khu
vực, các nhà chính trị cũng như giới doanh nhân đang khẩn trương thích
nghi với Kỷ nguyên Thái Bình Dương trong thế kỉ XXI”
1
.


1
Võ Văn Kiệt (1994), Đường lối ngoại giao thời kì đổi mới. Bài trả lời phỏng vấn trên Tuần báo Quốc tế, số
Xuân năm 1994.

24
Bên cạnh đó, so với các khu vực khác trên thế giới, vì nhu cầu phát triển
kinh tế của các nước trong khu vực, thì ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương,
xu thế hoà bình, ổn định xuất hiện sớm hơn. Đó là chính sách “quay trở lại châu
Á” của Nhật Bản từ cuối những năm 1970, các cuộc đối thoại Xô - Trung, Mỹ -
Trung, quá trình giải quyết thực chất vấn đề Campuchia, sự hoà dịu trên bán đảo
Triều Tiên vv. Cùng với xu thế hoà hoãn đó thì quá trình hợp tác giữa các nước
trong khu vực ngày càng tăng và diễn ra ở nhiều tầng, nhiều nấc - từ sự hợp tác
trong toàn khu vực như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) đến sự hợp tác tiểu khu vực như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), Khu vực hợp tác kinh tế Nam Á (SAARC) hay như các tam giác, tứ
giác phát triển trong khu vực như hợp tác Tiểu vùng sông Mêkông
Đối với khu vực Đông Nam Á, sự chuyển biến to lớn của cục diện thế
giới từ giữa những năm 1980 đã tác động mạnh mẽ đến tình hình khu vực
này. Từ chỗ là một khu vực bị phân hoá sâu sắc, các nhóm nước nghi kị lẫn
nhau trong thời kì chiến tranh lạnh, vào giữa những năm 1980, xuất phát từ
lợi ích chung là hoà bình và phát triển, các nước ASEAN bắt đầu thay đổi
chính sách theo hướng đẩy mạnh hợp tác trong nội bộ, lấy hợp tác kinh tế để
thúc đẩy hợp tác an ninh chính trị nhằm tạo thế cân bằng chiến lược mới giữa
khu vực với các cường quốc và tạo được vị thế có lợi nhất cho mình. Xu thế
đối thoại giữa hai nhóm nước ASEAN và Đông Dương được mở ra từ tháng
2 năm 1985
1
tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ để tiến tới xây dựng một Đông
Nam Á hoà bình và ổn định. Việc Việt Nam tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn

diện đất nước trong đó có đổi mới về đối ngoại và thực hiện việc rút hết quân
tình nguyện khỏi Campuchia đã góp phần quan trọng cho xu thế hợp tác và
phát triển của khu vực. Tình trạng đối đầu giữa hai nhóm nước ASEAN và
Đông Dương giảm dần và thay vào đó là các cuộc hội đàm song phương và

1
Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN cử Inđônêxia thay mặt nhóm này đối thoại với các nước Đông
Dương.

×