Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Chính sách Bảo hiểm y tế đối với người nghèo tại xã Đồng Lạc – Chí Linh – Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 152 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



HOÀNG THỊ HẢI YẾN


CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ
ĐỐI VỚI NGƢỜI NGHÈO TẠI ĐỒNG LẠC
CHÍ LINH - HẢI DƢƠNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngành: Công tác xã hội




Hà Nội - 2014

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




HOÀNG THỊ HẢI YẾN


CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ
ĐỐI VỚI NGƢỜI NGHÈO TẠI ĐỒNG LẠC
CHÍ LINH – HẢI DƢƠNG

Luận văn Thạc sĩ ngành: Công tác xã hội
Mã số : 60.90.01.01


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thu Hương



Hà Nội - 2014

3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn Thạc sỹ của mình, trước hết tôi xin được gửi lời
cảm ơn đến Ban Chủ nhiệm Khoa Xã hội học - Trƣờng Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội. Ban chủ nhiệm Khoa đã luôn giúp đỡ
và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận
văn của mình.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sâu sắc đến PGS. TS. Trần Thu
Hƣơng đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn
thành Luận văn. Nhờ sự chỉ dạy của Cô, tôi đã tích lũy thêm được nhiều kiến thức, kỹ
năng và kinh nghiệm quý báu trong nghiên cứu.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến PGS. TS.
Trịnh Văn Tùng. Thầy đã trực tiếp giảng dạy và đã định hướng cho tôi hướng nghiên

cứu ban đầu để tôi có thể tiếp tục nghiên cứu và hoàn thành Luận văn Thạc sỹ. Và trong
quá trình nghiên cứu, với sự tâm huyết của mình về vấn đề chính sách Bảo hiểm y tế với
đối tượng người nghèo, Thầy đã cung cấp cho tôi những tài liệu tham khảo có giá trị, qua
đó giúp tôi hoàn thành Luận văn nghiên cứu của mình.
Xin chân thành cảm ơn Hội đồng nhân nhân, Ủy ban nhân dân thị xã Chí Linh -
Hải Dương và Hội dồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã Đồng Lạc đã động viên,
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình nghiên cứu.
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng Luận văn không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Kính mong nhận được sự chỉ bảo của Quý thầy cô và ý kiến đóng góp từ
các bạn đồng nghiệp.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội ngày 22 tháng 4 năm 2014
Tác giả
Hoàng Thị Hải Yến



1
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 3
DANH MỤC BẢNG 4
DANH MỤC BIỂU ĐỒ 4
PHẦN MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 15
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 6
3. Ý nghĩa của nghiên cứu 23
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 23
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 24
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu 24

7. Phương pháp nghiên cứu 25
8. Cấu trúc luận văn 27
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 28
1.1. Các khái niệm công cụ 28
1.1.1. Chính sách Bảo hiểm y tế 28
1.1.2. Nghèo và chuẩn nghèo 28
1.1.3. Công bằng trong chăm sóc sức khỏe 29
1.1.4. Mô hình Bảo hiểm y tế chăm lo sức khỏe đối với người nghèo ở Việt Nam 33
1.1.5. Công tác xã hội trong việc trợ giúp người nghèo 36
1.2. Lý thuyết vận dụng 41
1.2.1. Thuyết nhu cầu của Abraham Maslow 41
1.2.2. Thuyết hệ thống sinh thái 44
1.3 Tổng quan về địa bàn nghiên cứu 47
1.3.1. Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội 47
1.3.2. Tình hình hộ nghèo trên địa bàn nghiên cứu 48
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM Y TẾ
ĐỐI VỚI NGƢỜI NGHÈO TẠI ĐỒNG LẠC, CHÍ LINH, HẢI DƢƠNG 52
2.1. Tình hình cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho đối tƣợng ngƣời nghèo tại Đồng Lạc,
Chí Linh, Hải Dƣơng năm 2013 52
2.1.1 Đối tượng người nghèo được cấp thẻ BHYT 52

2
2.1.2. Tình hình cấp thẻ BHYT cho đối tượng người nghèo 60
2.2. Tình hình sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế trong khám chữa bệnh của ngƣời
nghèo tại Đồng Lạc, Chí Linh, Hải Dƣơng năm 2013 59
2.2.1. Những thuận lợi khi sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế trong khám chữa bệnh của
người nghèo 59
2.2.2. Những yếu tố rào cản ảnh hưởng đến việc sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế trong
khám chữa bệnh của người nghèo 62
2.3. Chất lƣợng khám chữa bệnh và việc cấp phát thuốc đối với ngƣời nghèo sử

dụng thẻ Bảo hiểm y tế trong khám chữa bệnh 70
2.3.1. Chất lượng khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế đối với người nghèo 70
2.3.2. Tình hình cấp phát thuốc đối với người nghèo sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế
trong khám chữa bệnh 75
2.4. Thái độ của cán bộ trạm y tế xã trong khám chữa bệnh và cấp phát thuốc
cho ngƣời nghèo sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế trong khám chữa bệnh 79
Chƣơng 3. VAI TRÕ CỦA CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG VIỆC HỖ TRỢ TỔ
CHỨC THỰC HIỆN BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI NGƢỜI NGHÈO TẠI
ĐỒNG LẠC, CHÍ LINH, HẢI DƢƠNG 83
3.1. Vai trò của Công tác xã hội trong việc tham mƣu vận động chính sách 84
3.2. Vai trò của Công tác xã hội trong việc huy động, liên kết, điều phối nguồn
lực 91
3.3. Xây dựng mô hình Công tác xã hội nhóm "Ngƣời nghèo am hiểu về chính
sách Bảo hiểm y tế" tại Đồng Lạc, Chí Linh, Hải Dƣơng 101
KẾT LUẬN 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
PHỤ LỤC 118

3

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ASXH An sinh xã hội
BHXH Bảo hiểm xã hội :
BHYT Bảo hiểm y tế
BTXH Bảo trợ xã hội
CSSK Chăm sóc sức khỏe
CSSKBĐ Chăm sóc sức khỏe ban đầu
CSXH Chính sách xã hội
CTXH Công tác xã hội
KCB Khám chữa bệnh

NVXH Nhân viên xã hội
PLĐTBXH Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội
PLXH Phúc lợi xã hội
SLĐTBXH Sở Lao động – Thương binh và Xã hội
UBND Ủy ban nhân dân
XĐGN Xóa đói giảm nghèo













4
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
2.1
Đánh giá của người nghèo về thủ tục cấp thẻ BHYT
55
2.2
Sự phù hợp của thời gian chờ cấp thẻ BHYT cho người nghèo so
với qui định

57
2.3
Lý do sử dụng thẻ BHYT trong KCB của người nghèo
59
2.4
Mong muốn của người nghèo về mức chi trả của chính sách
BHYT
62
2.5
Các kênh thông tin để người nghèo nhận biết về chính sách BHYT
63
2.6
Ảnh hưởng tiêu cực của thời gian KCB BHYT đến công việc và
sinh hoạt của người nghèo
65
2.7
Nhận xét của người nghèo về thái độ của cán bộ trạm y tế trong
khám chữa bệnh BHYT
67
2.8
Nhận xét của người nghèo về chất lượng khám chữa bệnh BHYT
72
2.9
Mức độ đảm bảo của chất lượng KCB cho người nghèo có thẻ
BHYT
74
2.10
Mức độ đầy đủ của thuốc cấp phát cho người nghèo có thẻ BHYT
76
2.11

Nhận xét của người nghèo về hiệu quả thuốc khám chữa bệnh
BHYT
77
2.12
Nhận xét của người nghèo về sự phân biệt đối xử giữa bệnh nhân
khám dịch vụ và bệnh nhân là người nghèo khám BHYT của cán
bộ trạm y tế trong quá trình KCB
80

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT
Tên biểu đồ
Trang
2.1
Đối tượng người nghèo được cấp thẻ BHYT năm 2013
52
2.2
Mong muốn của người nghèo về đối tượng hỗ trợ để mở rộng chế độ
bao phủ của chính sách BHYT
61


5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề Chăm sóc sức khỏe (CSSK) cho người nghèo nhằm đảm bảo công
bằng trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế luôn được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm chú trọng. Xác định được tầm quan trọng của vấn đề trên, nhiều chính
sách y tế đã được ban hành và có hiệu lực triển khai trong thực tiễn, qua đó góp
phần đảm bảo quyền lợi cho người dân trong CSSK, Khám chữa bệnh (KCB), trong

đó có chính sách Bảo hiểm y tế (BHYT) với đối tượng người nghèo.
Chính sách BHYT là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực CSSK
do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy
định của Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 [19]. Kể từ khi Luật BHYT có hiệu
lực thi hành đã đánh dấu bước phát triển mới trong công tác CSSK và KCB cho
người dân, đặc biệt là với đối tượng người nghèo. Mục tiêu chính của chính sách
BHYT là hướng đến bao phủ toàn dân, đảm bảo việc CSSK và tiếp cận các dịch vụ
y tế công bằng, bình đẳng đối với các nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội.
Thực hiện đúng những chủ trương, đường lối của Đảng trong công tác
CSSK, KCB cho người nghèo nhằm đảm bảo: “Thực hiện công bằng xã hội trong
CSSK, có chính sách trợ cấp và BHYT cho người nghèo tiến tới BHYT toàn dân…”
[14] xã Đồng Lạc, Chí Linh, Hải Dương đã góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ và
tăng cường sức khỏe của người nghèo tại địa phương. Nhiều hộ nghèo tại Đồng Lạc
đã được cấp thẻ BHYT miễn phí, được hỗ trợ trong vấn đề ăn ở, đi lại, chuyển tuyến
KCB, được hỗ trợ một phần chi phí KCB… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã
đạt được như kể trên, vẫn còn những khó khăn, vướng mắc nhất định trong triển khai
KCB BHYT đối với người nghèo tại địa phương như: Trên thực tế, chính sách BHYT
chưa bao phủ 100% đối tượng người nghèo tại địa phương; Việc cấp thẻ cho người
nghèo còn chậm và vẫn xảy ra tình trạng cấp thiếu thẻ hoặc cấp thẻ sai thông tin;
Chất lượng KCB cho người nghèo còn hạn chế; Việc sử dụng thẻ BHYT của người
nghèo bị chi phối bởi một số những rào cản cần khắc phục về cơ sở hạ tầng, máy móc
trang thiết bị, thủ tục, thời gian, thái độ và trách nhiệm của cán bộ y tế…

6
Trong bối cảnh đó, việc phát triển Công tác xã hội (CTXH) trong lĩnh vực
CSSK nhân dân sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống y tế từ cấp độ vĩ mô đến cấp độ vi
mô. Ngày 15/7/2011, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 2514/QĐ – BYT
về việc phê duyệt đề án: “Phát triển nghề CTXH trong ngành y tế giai đoạn 2011
– 2020”. Đây là quyết định rất quan trọng nhằm cụ thể hóa Quyết định số
32/2010/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ về: “Phát triển nghề CTXH giai

đoạn 2010 – 2020” vào thực tiễn hoạt động của ngành y tế góp phần giải quyết
những nhu cầu bức thiết trong CSSK, hỗ trợ nâng cao chất lượng phục vụ, cũng như
làm gia tăng sự hài lòng của người dân khi sử dụng dịch vụ y tế. Vì lẽ đó, việc vận
dụng và phát huy vai trò của CTXH trong CSSK nhân dân nói chung, trong việc
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHYT đối với người nghèo tại xã Đồng Lạc
nói riêng là rất cần thiết. Điều này một mặt sẽ giảm gánh nặng tài chính y tế cho
người nghèo, mặt khác giúp tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế của họ,
qua đó góp phần đảm bảo công bằng và bình đẳng cho người nghèo trong KCB.
Chính vì vậy, nhằm: đánh giá thực trạng triển khai chính sách BHYT đối với
người nghèo tại Đồng Lạc – Chí Linh – Hải Dương, trên cơ sở đó sẽ tiến hành
nghiên cứu, đề xuất vai trò của CTXH để giúp người nghèo tiếp cận và sử dụng tốt
hơn chính sách BHYT trong KCB, CSSK, chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài:
“Chính sách Bảo hiểm y tế đối với người nghèo tại Đồng Lạc, Chí Linh, Hải Dương”.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu về mô hình Bảo hiểm y tế chăm lo sức khỏe cho người
nghèo ở một số quốc gia trên thế giới
BHYT là cơ chế tài chính y tế đáp ứng được mục tiêu công bằng trong
CSSK. Trong tổng số 30 nước có nền kinh tế phát triển thuộc tổ chức OECD (Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế), có 15 nước lựa chọn cơ chế tài chính y tế dựa
trên BHYT xã hội, trong đó có 4 quốc gia đã có bề dày nổi bật về công cuộc triển
khai và thực hiện chính sách BHYT, bao gồm: Nước Đức và Pháp ở Châu Âu;
Nước Nhật Bản và Hàn Quốc ở Châu Á [29].


7
2.1.1. Mô hình BHYT tại Đức
Diện bao phủ của BHYT: Trước hết, người lao động có thu nhập dưới một mức
nhất định (năm 2006 là 47.250 euro/năm cho khu vực Tây Đức và 42.740 euro/năm
cho khu vực Đông Đức) [28] là đối tượng tham gia BHYT bắt buộc. Nếu người dân có
thu nhập cao hơn quy định nói trên, họ có thể tiếp tục tham gia BHYT nhưng không

bắt buộc hoặc lựa chọn tham gia tự nguyện các chương trình BHYT thương mại. Từ
ngày 01/01/2009, Luật BHYT tại Đức thực hiện chế độ bao phủ toàn dân.
Nguồn tài chính BHYT: Qũy BHYT tại Đức có hai nguồn thu chính: tiền
đóng BHYT của người lao động và chủ sử dụng lao động tính theo thu nhập và tiền
hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Từ ngày 01/01/2009, khi Luật BHYT thực hiện chế
độ bao phủ toàn dân, chính phủ Đức quy định một mức phí chung cho tất cả các quỹ
BHYT, nguồn thu được tập trung vào nguồn quỹ quốc gia và phân bổ về cho các
quỹ BHYT tính theo đầu thẻ bằng một công thức (có tính tới tuổi, giới tính và 80
bệnh mãn tính hoặc bệnh chi phí lớn).
Quyền lợi khi tham gia BHYT: Gói quyền lợi của người có chế độ BHYT bắt
buộc theo luật định tại Đức rất toàn diện, bao gồm các quyền lợi về y tế (dịch vụ y
tế dự phòng, điều trị nội trú và điều trị ngoại trú), một phần phụ cấp nghỉ ốm, nghỉ
sinh và phụ cấp nuôi con.
Mức chi trả: Để đảm bảo số tiền cùng chi trả của người bệnh không tạo ra gánh
nặng tài chính cho họ, Luật BHYT tại Đức quy định tổng số tiền cùng chi trả không
vượt quá ngưỡng tối đa (theo quy định hiện hành, ngưỡng cùng chi trả chi phí KCB
của người có BHYT tối đa bằng 2% thu nhập cá nhân trước thuế), đồng thời miễn cùng
chi trả cho một số nhóm đối tượng, cụ thể: Những người cần chăm sóc ở cấp độ II và
III; Người mất sức lao động từ 60% trở lên; Người mắc một số bệnh mãn tính cần điều
trị lâu dài và thân nhân của người có bệnh mãn tính; Bệnh nhân dưới 18 tuổi được
miễn cùng chi trả, trừ trường hợp chi phí chữa răng và chi phí vận chuyển [28].
Phương thức thanh toán: Khu vực ngoại trú, các bác sỹ được chi trả bằng
phương pháp kết hợp giữa phí dịch vụ và chu kì thời gian. Còn khối các bệnh viện
thanh toán chi phí điều trị với cơ quan BHYT dựa trên nhóm chẩn đoán.

8
Như vậy, sau lộ trình 126 năm thực hiện luật BHYT, đến ngày 01/01/2009,
BHYT ở Đức đã thực hiện chế độ bao phủ toàn dân, theo đó đã đảm bảo quyền lợi
về CSSK, KCB cho nhiều nhóm người yếu thế trong xã hội mà trước đó họ đã
không thể tham gia BHYT do nhiều rào cản khác nhau. Đây cũng là một trong số

những vai trò nổi bật của CTXH trong việc hỗ trợ nhóm yếu thế giải quyết vấn đề
khó khăn của mình mà trước hết là khó khăn trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của
bản thân, đặc biệt là nhóm đối tượng người nghèo khi họ gặp nhiều những cản trở
về tài chính y tế.
Mặt khác, với diện bao phủ toàn dân, BHYT ở Đức đã có những chế bộ bao phủ
toàn diện và ưu việt bao gồm: trực tiếp hỗ trợ điều trị KCB và cả y tế dự phòng trong
CSSK. Qua đây, chúng ta cũng có thể thấy được vai trò của CTXH trong việc hỗ trợ
nhóm yếu thế vừa trực tiếp giải quyết khó khăn gặp phải, vừa nghiên cứu, dự báo,
phòng ngừa những vấn đề khác có thể nảy sinh mà cụ thể là trong lĩnh vực CSSK.
2.1.2. Mô hình BHYT tại Cộng hòa Pháp
Diện bao phủ: Đến năm 2000, khi Luật bao phủ toàn dân được ban hành,
Pháp mới chính thức đạt được mục tiêu bao phủ BHYT cho toàn dân. Cho tới nay,
100% dân số Pháp có BHYT bắt buộc và 92% dân số tham gia chương trình BHYT
tự nguyện bổ sung [28]. Theo Luật bao phủ toàn dân, người dân có quyền lựa chọn
bất cứ quỹ BHYT nào phù hợp để tham gia và nguồn thu BHYT không chỉ từ tiền
lương, mà còn từ thuế thu nhập cá nhân và các nguồn bổ sung khác, trong đó có
thuế rượu bia và thuế thuốc lá.
Nguồn tài chính: Qũy BHYT có những nguồn tài chính sau: Từ quỹ lương;
Nguồn từ thuế thu nhập cá nhân; Thuế rượu bia; Tiền hỗ trợ của Chính phủ và
nguồn từ các quỹ BHXH khác. Riêng nguồn thu cho đối tượng người nghèo được
chuyển từ thuế thu nhập doanh nghiệp kinh doanh thuốc lá và từ 2,5% thuế thu nhập
doanh nghiệp của các quỹ BHYT thương mại [28].
Quyền lợi khi tham gia BHYT: Người dân Pháp được đảm bảo quyền lợi
trong KCB nội – ngoại trú, một phần chi phí điều trị răng và mắt. Tuy vậy, người
bệnh phải cùng chi trả ở với những mức độ khác nhau cho điều trị nội trú, ngoại trú,

9
xét nghiệm, khám răng, khám mắt, sử dụng các vật tư y tế như: máy trợ thính, xe
lăn, nạng…Theo quy định của Luật BHYT tại Pháp, những trường hợp sau được
miễn cùng chi trả: Điều trị các bệnh mãn tính; Tai nạn lao động; Trẻ em, người già,

người tàn tật và người nghèo.
Phương thức thanh toán: Từ năm 2008, tất cả các bệnh viện đều thực hiện
phương thức thanh toán theo nhóm chẩn đoán[28].
Có thể thấy, tại Pháp vấn đề CSSK và KCB cho người dân được chính phủ
đặc biệt quan tâm. Qua các năm triển khai thực hiện, BHYT ở Pháp đã dần mở rộng
các chế độ bao phủ, hướng đến các nhóm đối tượng có nguy cơ rủi ro cao để bảo vệ
sức khỏe cho họ, để tạo điều kiện để họ được hưởng các dịch vụ chăm sóc y tế. Qua
đây chúng ta có thể thấy được phần nào sự hiện diện của CTXH trong việc hỗ trợ
các nhóm đối tượng yếu thế trong vấn đề CSSK, KCB.
Khi Luật BHYT bao phủ toàn dân có hiệu lực tại Pháp, theo đó đối tượng
người nghèo được quỹ BHYT chi trả miễn phí các chế độ KCB. Và để hỗ trợ cho
người nghèo, Chính phủ đã huy động từ thuế thu nhập doanh nghiệp kinh doanh
thuốc lá và thuế thu nhập doanh nghiệp của các quỹ BHYT thương mại. Điều này
đã góp phần quan trọng trong việc giảm gánh nặng tài chính y tế cho người nghèo
để họ có thể được tiếp cận các dịch vụ y tế tốt hơn, đầy đủ và công bằng hơn. Mặt
khác, với các nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp để bổ sung cho quỹ người
nghèo, đây chính là hình thức liên kết, huy động nguồn lực quan trọng trong CTXH
để giúp cho đối tượng người nghèo giải quyết vấn đề tài chính của mình.
2.1.3. Mô hình BHYT tại Nhật Bản
Diện bao phủ: Với mục đích BHYT toàn dân, tất cả công dân Nhật đều là
đối tượng tham gia BHYT bắt buộc. Người lao động hưởng lương tham gia BHYT
bắt buộc tại các quỹ BHYT được tổ chức tại các doanh nghiệp (BHYT doanh
nghiệp). Những người không phải là người lao động hưởng lương trong các doanh
nghiệp bắt buộc phải tham gia BHYT tại các quỹ BHYT trên địa bàn cư trú (BHYT
quốc gia). Tới năm 2000, một chương trình BHYT chăm sóc dài hạn được triển

10
khai, nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà cho những người trên 65
tuổi hoặc những người từ 40 đến dưới 65 tuổi nhưng mắc bệnh mãn tính.
Nguồn tài chính của Qũy BHYT: Quỹ BHYT tại Nhật có nguồn thu tài chính

chủ yếu từ đóng góp theo tiền lương của người lao động và chủ sử dụng lao động.
Ngân sách Nhà nước là nguồn tài chính quan trọng cho các quỹ BHYT bao gồm:
quỹ BHYT doanh nghiệp, quỹ BHYT quốc gia, quỹ BHYT cho người cao tuổi.
Quyền lợi: Quyền lợi giữa các quỹ BHYT có khác nhau ở mức cùng chi trả.
Tham gia quỹ BHYT doanh nghiệp, người đóng phí BHYT phải cùng chi trả 10%
chi phí. Thân nhân phụ thuộc cùng chi trả mức cao hơn: 20% chi phí điều trị nội trú
và 30% chi phí điều trị ngoại trú. Đối với người cao tuổi mức cùng chi trả là 500
yên/ngày, không quá 2.000yên/tháng đối với KCB ngoại trú và 1.100 yên/ngày đối
với chi phí điều trị nội trú. Thành viên quỹ BHYT quốc gia cùng chi trả ở mức cao
hơn là 30% chi phí KCB. Tuy nhiên đối với mọi đối tượng, quỹ BHYT chi trả
100% chi phí y tế nếu số tiền cùng chi trả vượt ngưỡng 64.000 yên/tháng (năm
2004). Ngưỡng này có mức thấp hơn đối với người có thu nhập thấp và người đã
phải chi trả vượt ngưỡng 3 tháng liên tục [29].
Phương thức thanh toán: Các quỹ BHYT thanh toán chi phí KCB cho các cơ
sở y tế theo phương pháp trả phí dịch vụ do chính phủ quyết định. Bên cạnh đó,
phương thức thanh toán theo nhóm chẩn đoán cũng bắt đầu được áp dụng.
Rõ ràng, BHYT tại Nhật Bản đã thực hiện chế độ bao phủ toàn dân từ rất
sớm (năm 1961), qua đó cho thấy sự quan tâm của chính phủ đến mọi tầng lớp dân
cư trong việc CSSK, KCB. Bên cạnh nhóm đối tượng người lao động tham gia
BHYT doanh nghiệp, các nhóm đối tượng yếu thế khác trong xã hội cũng được bao
phủ bởi các chế độ BHYT khác nhau như: người lao động tự do, nông dân, người
nghỉ hưu theo chế độ BHYT quốc gia; người cao tuổi…Như vậy, BHYT tại Nhật
Bản cũng đã thể hiện khá rõ nét vai trò của CTXH trong việc hỗ trợ các nhóm yếu
thế trong xã hội.
Mặt khác, với các chế độ đóng góp và chi trả khác nhau của BHYT tại Nhật
Bản cho thấy chính phủ đã có sự cân nhắc hài hòa giữa lợi tích và quyền lợi của các

11
nhóm đối tượng khi tham gia BHYT. Điều này không những tạo ra sự cân đối của quỹ
BHYT tại Nhật mà còn tạo ra những điều kiện thuận lợi để quỹ BHYT doanh nghiệp,

BHYT quốc gia và BHYT dành cho người cao tuổi có thể bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để
thực hiện các chế độ bao phủ tốt hơn. Đây cũng là vai trò quan trọng của CTXH trong
việc liên kết, huy động và điều phối nguồn lực. Và vai trò này đã được Nhật Bản vận
dụng thành công khi phát huy tối đa nguồn lực từ ngân sách Nhà nước trong việc hỗ trợ
các nhóm đối tượng tham gia BHYT: quỹ BHYT tại Nhật sẽ thực hiện chi trả 100% chi
phí y tế nếu số tiền cùng chi trả vượt ngưỡng 64.000 yên/tháng (năm 2004) đối với mọi
đối tượng. Qua đây, chúng ta có thể thấy được sự phát huy vai trò của CTXH trong mô
hình BHYT tại Nhật Bản ở chỗ: BHYT không những hỗ trợ trực tiếp các chế độ để trợ
giúp người tham gia mà còn có sự hỗ trợ phòng ngừa 100% chi phí KCB nếu người
bệnh phải chi trả vượt ngưỡng. Điều này là rất cần thiết bởi nó sẽ giảm gánh nặng tài
chính y tế cho người dân, mặt khác nó còn tạo điều kiện để người dân được tiếp tục
tiếp cận các dịch vụ KCB, CSSK một các công bằng, bình đẳng, đặc biệt là với các
nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội.
2.1.4. Mô hình BHYT tại Hàn Quốc
Diện bao phủ: Toàn bộ người dân Hàn Quốc là đối tượng tham gia BHYT
bắt buộc. Từ năm 2004, người mắc bệnh mãn tính, bệnh hiểm nghèo, trẻ em và
thanh niên dưới 18 tuổi cũng được hưởng chế độ KCB miễn phí theo qui định của
Luật hỗ trợ y tế… Mặt khác, để giải quyết khó khăn về tài chính cho CSSK người
cao tuổi, từ năm 2008, chính phủ Hàn Quốc cho triển khai chương trình chăm sóc
dài hạn [29].
Nguồn tài chính BHYT: Nguồn tài chính cho quỹ BHYT Hàn Quốc bao gồm
tiền đóng phí BHYT, nguồn hỗ trợ của ngân sách nhà nước và thuế thuốc lá. Theo
quy định hiện hành, ngân sách nhà nước cấp cho quỹ BHYT hàng năm một khoản
tiền bằng 14% kế hoạch thu BHYT. Nguồn từ thuế thuốc lá bổ sung cho quỹ BHYT
hàng năm khoảng 6% tổng thu [29].
Quyền lợi: Người tham gia BHYT tại Hàn Quốc được hưởng quyền lợi khi
KCB nội trú, ngoại trú, CSSK định kỳ, được bồi hoàn chi phí khi số tiền cùng trả

12
cho các dịch vụ y tế vượt ngưỡng tối đa, được chi trả cho các dụng cụ hỗ trợ khi bị

tàn tật và gia đình được trả tiền mai táng phí. Theo qui định hiện hành, người bệnh
BHYT cùng chi trả một tỷ lệ chi phí tùy thuộc vào tuyến kỹ thuật. Nếu số tiền chi
trả vượt quá 3 triệu won trong vòng 6 tháng liên tục thì mọi chi phí y tế tiếp theo sẽ
do quỹ BHYT thanh toán 100% [29]. Sau đó, luật BHYT tại Hàn Quốc đã tiến hành
sửa đổi, mở rộng quyền lợi và giảm bớt tỷ lệ cùng chi trả. Qui định mới cũng cho
phép quỹ BHYT bồi hoàn cho người bệnh 50% chi phí cùng chi trả, nếu trong thời
gian một tháng số tiền cùng chi trả vượt quá 1,2 triệu won.
Phương thức thanh toán: BHYT Hàn Quốc đã thực hiện phương thức chi trả
theo phí dịch vụ trong một thời gian dài. Tuy nhiên với hình thức thanh toán này đã
đẩy chi phí y tế tăng nhanh, mặt khác làm gia tăng tình trạng lạm dụng y tế. Chính
vì vậy, chính phủ Hàn Quốc đang cố gắng triển khai các phương thức thanh toán
khác thay thế phương pháp thanh toán theo dịch vụ.
Như vậy, việc mở rộng nhóm đối tượng thuộc diện bao phủ của BHYT từ
chỗ chỉ có người lao động trong các doanh nghiệp tham gia, sau đó là lao động tự
do ở nông thôn, nông dân và lao động tự do ở thành thị - nhóm đối tượng dễ có
nguy cơ lần lượt nằm trong diện bao phủ của BHYT toàn dân tại Hàn Quốc đã cho
thấy sự quan tâm của chính phủ trong việc CSSK nhân dân, đặc biệt là nhóm đối
tượng dễ bị tổn thương.
Mặt khác, ngay từ năm 1977, khi Luật hỗ trợ y tế tại Hàn Quốc ra đời, nhóm
đối tượng người nghèo đã được hưởng chế độ KCB miễn phí. Bên cạnh đó, từ năm
2004, người mắc bệnh mãn tính, bệnh hiểm nghèo, trẻ em và thanh niên dưới 18
tuổi cũng được hưởng chế độ KCB miễn phí theo quy định của Luật hỗ trợ y tế. Rõ
ràng, mô hình BHYT tại Hàn Quốc đã phát huy tốt vai trò của CTXH trong việc hỗ
trọ các nhóm yếu thế trong xã hội trong việc CSSK, KCB.
Theo quy định của Luật BHYT tại Hàn Quốc: Nguồn tài chính cho quỹ
BHYT Hàn Quốc bao gồm tiền đóng phí BHYT, hỗ trợ của ngân sách nhà nước và
thuế thuốc lá. Như vậy với sự huy động, liên kết và điều phối các nguồn thu nhập,

13
quỹ BHYT tại Hàn Quốc đã được đảm bảo một cách tương đối, từ đó góp phần thực

hiện các chế độ bao phủ hiệu quả và bền vững hơn.
Bên cạnh đó, người tham gia BHYT tại Hàn Quốc được hưởng quyền lợi khi
KCB nội trú, ngoại trú, CSSK định kỳ, được bồi hoàn chi phí khi số tiền cùng trả
cho các dịch vụ y tế vượt ngưỡng tối đa. Rõ ràng, BHYT tại Hàn Quốc không
những hỗ trợ trực tiếp các chế độ để trợ giúp người tham gia mà còn có sự hỗ trợ
phòng ngừa bồi hoàn chi phí KCB nếu người bệnh phải chi trả vượt ngưỡng. Qua
đó, thể hiện vai trò của CTXH trong việc trực tiếp hỗ trợ và dự phòng ngăn ngừa
những rủi ro có thể xảy ra với các nhóm đối tượng yếu thế.
Mô tả mô hình BHYT tại bốn quốc gia ở Châu Âu là: Đức và Pháp, ở Châu
Á là Nhật Bản và Hàn Quốc đã cho thấy những điểm chung cơ bản sau đây:
Về diện bao phủ: Các mô hình BHYT thực hiện bao phủ toàn dân theo
nguyên tắc bắt buộc cho tất cả những ai có khả năng đóng góp; người có thu nhập
thấp, người nghèo hoặc một số nhóm đối tượng yếu thế khác trong xã hội được hỗ
trợ phần lớn hoặc toàn bộ mức phí tham gia BHYT.
Về lộ trình bao phủ: Thực hiện bao phủ nhóm đối tượng là lao động hưởng
lương trong các doanh nghiệp cùng thân nhân của họ trong những gia đoạn đầu, sau
đó từng bước mở rộng diện bao phủ tới các nhóm dân cư còn lại, trong đó có nhóm
đối tượng dễ có nguy cơ.
Về nguồn tài chính quỹ: Các mô hình BHYT tại các quốc gia đều có ba
nguồn tài chính cơ bản, bao gồm: đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao
động và ngân sách nhà nước. Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các mặt hàng như rượu
bia, thuốc lá…là nguồn đóng góp quan trọng cho quỹ BHYT (không kể mô hình
BHYT tại Nhật Bản). Rõ ràng, các mô hình BHYT này có sự huy động tài chính lớn
từ các nguồn thu khác để có thể đảm bảo tính bền vững của quỹ BHYT toàn dân.
Về chính sách cùng chi trả: Cả bốn quốc gia đều thực hiện chính sách người
bệnh BHYT đóng góp một phần chi phí có giới hạn và miễn trừ cùng chi trả một số
nhóm đối tượng (người nghèo, trẻ em, ngời mắc bệnh mãn tính…). Bên cạnh đó, số
tiền cùng chi trả không vượt quá một ngưỡng nhất định nhằm giúp đỡ những người

14

bệnh giảm gánh nặng về tài chính y tế, ngoài ra còn giúp họ được tiếp cận các dịch
vụ y tế khi việc KCB đòi hỏi chi phí cao. Điều này cho thấy các mô hình BHYT
không chỉ dừng lại hỗ trợ trực tiếp các chế độ bao phủ khi người dân thực hiện
KCB, CSSK mà còn hỗ trợ phòng ngừa để người bệnh được tiếp tục khám BHYT
trong trường hợp chi phí điều trị cao hoặc đã phía chi trả tài chính y tế liên tiếp và
vượt ngưỡng.
Về phương thức chi trả: Phương thức chi trả theo phí dịch vụ dần được thay
thế bằng các phương thức thanh toán khác, trong đó có phương thức thanh toán theo
nhóm chẩn đoán.
2.2. Các nghiên cứu về việc thực hiện Bảo hiểm y tế đối với người nghèo ở Việt Nam
Vấn đề CSSK cho người nghèo nhằm đảm bảo công bằng trong việc tiếp cận
và sử dụng dịch vụ y tế luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chú trọng. Với
việc ban hành và triển khai những văn bản chính sách có liên quan đến việc CSSK
cho người nghèo, một mặt đã tạo ra một cơ chế bảo vệ hữu hiệu cho người nghèo
trước những nguy cơ rủi ro khác nhau, mặt khác cũng góp phần tăng cường khả
năng tiếp cận dịch vụ y tế của người nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
đáng ghi nhận trong công tác CSSK người nghèo, vẫn còn tồn tại những hạn chế
nhất định, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người nghèo trong KCB,
CSSK. Chính vì thế, nhằm đánh giá thực trạng CSSK cho người nghèo, nhiều công
trình, nhiều đề tài của các tác giả đã đi sâu nghiên cứu, phân tích để làm rõ vấn đề
trên. Cụ thể như:
Nghiên cứu “Viện phí và người nghèo ở Việt Nam” của nhóm tác giả Phạm
Huy Dũng và cộng sự công bố năm 1999 [12]. Đây là một nghiên cứu mô tả cắt
ngang được tiến hành tại bốn tỉnh: Bắc Kạn, Thái Nguyên, Ninh Bình và Hải
Phòng. Mục tiêu của nghiên cứu là đi sâu phân tích các tác động của việc thực hiện
chính thu viện phí nói chung và đánh giá ảnh hưởng của nó đối với người nghèo.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Chất lượng chăm sóc y tế cho người nghèo kém hơn so
với chất lượng của các bệnh nhân trả tiền. Phân tích số liệu từ bệnh án của bác sĩ
cho thấy số ngày nằm viện của những bệnh nhân được miễn phí dài hơn số ngày


15
nằm viện của những bệnh nhân trả tiền. Ngược lại, chi phí KCB cho những bệnh
nhân này thấp nhất ở tất cả các địa phương trừ tỉnh Bắc Kạn. Trong khi đó, chi phí
cho thuốc chiếm chủ yếu trong chi phí KCB. Do đó, những bệnh nhân này có thể đã
được chữa bệnh với số lượng thuốc ít hơn và rẻ hơn so với những bệnh nhân trả
tiền. Tuy nhiên, bằng chứng này chưa đủ sức thuyết phục để đưa ra kết luận. Việc
xác định ai là người nghèo vẫn còn rất khó trong việc thực hiện chính sách miễn
giảm viện phí; Các tỉnh giàu và trung bình đề nghị tăng viện phí để bù đắp chi phí
cho các chi tiêu bệnh viện cũng như hỗ trợ việc miễn giảm một số dịch vụ CSSK
cho người nghèo.
Sau quá trình khảo sát, nghiên cứu, nhóm tác giả cũng đưa ra một số kiến
nghị: Chính sách thu viện phí nên tiếp tục thực hiện, tuy nhiên việc tăng viện phí
cần phải được cân nhắc thêm; Chính sách miễn giảm viện phí cần phải được chú ý
quan tâm hơn; Chính sách bao cấp và thu phí nên cân đối giữa các tỉnh có mức thu
nhập khác nhau; Việc cấp phát thẻ BHYT cho người nghèo ở Hà Nội cần được
khuyến khích hơn nữa.
Cũng bàn về chính sách thu viện phí, tác giả Nguyễn Khánh Phương cũng đã
tiến hành nghiên cứu và công bố công trình: “Tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ
CSSK cho người nghèo: Đánh giá chính sách thu viện phí” vào năm 2002, tại Viện
Chiến lược và Chính sách Y tế [21]. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm: Đánh giá các
chính sách và chiến lược về viện phí nhìn từ góc độ công bằng để từ đó đưa ra các
khuyến nghị nhằm xây dựng các chính sách công bằng và hiệu quả hơn.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Viện phí là rào cản đối với người nghèo trong
việc tìm kiếm các dịch vụ CSSK. Do đó, các chính sách miễn giảm cho các đối
tượng không có khả năng chi trả đã được áp dụng thông qua Quỹ Bảo trợ xã hội ở
mỗi tỉnh. Các hình thức miễn giảm chủ yếu gồm: Cung cấp thẻ BHYT, cung cấp
giấy chứng nhận được KCB miễn phí hoặc sổ hộ nghèo; Miễn hoặc giảm trực tiếp
do giám đốc bệnh viện quyết định. Việc áp dụng miễn giảm còn rất hạn chế do ngân
sách cho KCB miễn phí rất thấp. Quyết định 139/QĐ-TTg là cơ sở quan trọng trong
việc hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ CSSK.


16
Nhóm tác giả đã đi đến kết luận: Chính sách thu viện phí vừa có mặt tích cực
vừa có mặt tiêu cực ở chỗ vừa huy động được nguồn lực cho nâng cao hoạt động
của bệnh viện, vừa là rào cản trong việc tiếp cận các dịch vụ KCB của người nghèo.
Các chính sách miễn giảm đã được áp dụng nhưng hiệu quả không cao. Do đó, cần
thiết phải tăng cường những nguồn lực hỗ trợ để giúp đảm bảo tính bền vững của
quỹ viện phí bằng cách điều chỉnh quỹ đóng viện phí cân bằng, hợp lý giữa các đối
tượng, vùng miền khác nhau. Mặt khác, các chính sách miễn giảm viện phí đối với
người nghèo cần được đưa vào sử dụng một cách tập trung và có hiệu quả hơn nữa,
đặc biệt là chính sách cấp thẻ BHYT cho đối tượng người nghèo.
Như vậy với cả hai công trình nghiên cứu, các tác giả chủ yếu tập trung vào
nghiên cứu vấn đề: Làm thế nào để tăng cường nguồn lực để bù đắp chi phí trong
việc hỗ trợ miễn giảm một số dịch vụ CSSK cho người nghèo. Nguồn lực đó có thể
thực hiện được bằng cách cân đối lại chính sách thu phí và miễn giảm phí giữa các
đối tượng, các khu vực, các vùng miễn khác nhau. Đây chính là một trong số những
vai trò quan trọng của CTXH trong việc huy động, liên kết, điều phối nguồn lực
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BHYT đối với người nghèo.
Mặt khác, việc cấp phát thẻ BHYT cho người nghèo trong KCB, CSSK
chính là một trong số những hình thức nhằm đảm bảo quyền lợi của người nghèo
trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế, CSSK trong điều kiện kinh tế của họ còn gặp
nhiều khó khăn. Vì vậy việc tăng cường, khuyến khích hình thức cấp phát thẻ
BHYT này chính là nhằm biện hộ và bảo vệ cho nhu cầu CSSK, KCB của người
nghèo, để họ được đảm bảo công bằng và bình đẳng trong CSSK.
“Chăm sóc sức khỏe cho người nghèo trong giai đoạn hiện nay” là công
trình nghiên cứu của nhóm tác giả: Lê Quang Hoành, Trần Thị Mai Oanh, Phan
Hồng Vân và Nguyễn Thị Thắng, công bố năm 2000 [15]. Bằng việc sử dụng các
phương pháp nghiên cứu như: tổng quan tài liệu, điều tra cơ sở y tế và phỏng vấn
trực tiếp bệnh nhân thuộc diện miễn giảm phí tại cơ sở y tế, nhóm tác giả muốn đi
sâu tìm hiểu thực trạng công tác KCB cho người nghèo tại các tuyến ở một số địa

phương kể trên.

17
Nghiên cứu đã khẳng định: Có nhiều hình thức KCB miễn giảm phí cho
người nghèo được áp dụng ở các địa phương, tuy nhiên hình thức cấp thẻ BHYT
cho người nghèo là hình thức có nhiều ưu điểm nhất. Với hình thức này, cơ quan
BHYT cấp thẻ BHYT cho người nghèo bằng nguồn ngân sách của nhà nước gọi
chung là Quỹ XĐGN.
Một hình thức KCB miễn giảm phí nữa tương đối phổ biến ở hầu hết các
bệnh viện là đơn xin miễn giảm phí do địa phương chứng nhận. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu cho thấy do kinh phí hạn hẹp nên thực tế số người nghèo được cấp thẻ
KCB miễn phí vẫn còn ít và khác nhau giữa các tỉnh. Trạm y tế xã là nơi người
nghèo thường sử dụng nhất khi cần phải KCB nhưng hầu hết lại không được miễn
giảm phí khi KCB ở tuyến xã. Đây cũng là một yếu tố làm hạn chế việc sử dụng
dịch vụ y tế của người nghèo ở tuyến y tế cơ sở. Đối với cơ sở y tế tuyến trên, mặc
dù được miễn giảm phí nhưng trên thực tế người nghèo vẫn gặp nhiều khó khăn do
vẫn phải chi phí cho các chi phí KCB gián tiếp như ăn uống, đi lại. Do vậy, nhiều
người nghèo được hưởng chế độ miễn giảm phí KCB nhưng vẫn không đến được cơ
sở y tế.
Nghiên cứu đi đến kết luận:
Có nhiều hình thức KCB miễn giảm phí cho người nghèo. Tuy nhiên, cấp thẻ
BHYT cho người nghèo là hình thức có tính ưu việt nhất.
Mặc dù người nghèo được KCB miễn giảm phí dưới nhiều hình thức khác
nhau nhưng vẫn còn nhiều khó khăn trong KCB do vẫn phải chi phí cho các chi phí
KCB gián tiếp.
Chính vì vậy, giải pháp đặt ra là cần phải hạn chế tối đa các chi phí KCB
gián tiếp của người nghèo, tức là cấn thiết phải phát huy tốt hơn nữa vai trò của
CTXH trong việc biện hộ để giảm thiểu chi phí KCB cho người nghèo vì họ không
có đủ khả năng chi trả. Mặt khác, cần tăng cường hơn nữa nguồn lực hỗ trợ từ các
cá nhân, tổ chức và cộng đồng để đảm bảo tốt hơn nguồn ngân sách KCB cho người

nghèo. Do vậy vai trò của CTXH trong việc tìm kiếm, liên kết, điều phối nguồn lực
ở đây là rất cần thiết.

18
Sang năm 2002, công trình nghiên cứu về “Sự mất công bằng trong chăm
sóc sức khỏe và trong việc sử dụng các dịch vụ y tế ở Ba Vì, Hà Tây” của nhóm tác
giả Phạm Huy Dũng và cộng sự được công bố [11]. Mục tiêu của nghiên cứu là đi
sâu phân tích sự bất công bằng trong y tế và trong việc sử dụng các dịchvụ CSSK ở
Ba Vì - Hà Tây, trên cơ sở đó đưa ra các khuyến nghị cho việc tiến hành các can
thiệp cần thiết nhằm đem lại lợi ích cho nhóm người nghèo và cận nghèo. Sau quá
trình nghiên cứu, công trình đã chỉ ra rằng: Nhóm người nghèo và cận nghèo có tỷ
lệ tử vong, tỷ lệ mắc bệnh cao hơn nhưng khả năng tiếp cận các dịch vụ CSSK lại
thấp hơn so với nhóm khá và giàu trong xã hội. Do đó, các tác giả đã đưa ra những
giải pháp cụ thể:
Tăng cường thực hiện chương trình XĐGN
Áp dụng hệ thống tài chính y tế hiệu quả hơn để hỗ trợ các nhóm người
nghèo và cận nghèo có khả năng tiếp cận các dịch vụ CSSK tốt hơn và đảm bảo
công bằng, bình đẳng trong CSSK, KCB.
Với nhóm giải pháp tăng cường thực hiện chương trình XĐGN đối với nhóm
đối tượng người nghèo, bên cạnh những giải pháp Chính phủ đã áp dụng thực hiện,
cần thiết phải đẩy mạnh hơn nữa vai trò của CTXH trong việc tổ chức triển khai
công tác giảm nghèo hướng tới an sinh xã hội bền vững cho người nghèo. Có như
vậy, người nghèo mới có thể thoát nghèo một cách bền vững và sẽ chủ động hơn
trong việc nâng cao sức khỏe của bản thân và gia đình.
Tiến hành nghiên cứu trên hai địa bàn là Hải Dương và Bắc Giang, năm
2005, tác giả Đàm Viết Cương, Nguyễn Khánh Phương, Trần Thị Mai Oanh và
cộng sự đã công bố công trình “Tác động của quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo
đối với hộ gia đình nghèo tại hai tỉnh Hải Dương và Bắc Giang” [8]. Nghiên cứu
nhằm: đánh giá hiệu quả của quỹ KCB cho người nghèo thông qua các chỉ số như
việc sử dụng dịch vụ y tế, các rào cản trong việc sử dụng và tác động của Quỹ đối

với việc giảm gánh nặng tài chính cho người nghèo. Kết quả nghiên cứu đã cho
thấy: Một số ảnh hưởng tích cực của việc triển khai Quỹ KCB cho người nghèo
như: Gánh nặng chi tiêu y tế đối với hộ nghèo giảm rõ rệt khi so sánh với trước khi

19
triển khai Quỹ KCB cho người nghèo, tỉ lệ chi tiêu hàng năm cho y tế so với tổng
chi tiêu hàng năm của hộ gia đình giảm từ 6,9% xuống còn 5,5%; Có dấu hiệu tăng
việc sử dụng các dịch vụ y tế sau khi triển khai Quỹ KCB cho người nghèo, đặc biệt
KCB nội trú. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đã phát hiện ra những điểm còn hạn
chế khi triển khai Quỹ KCB cho người nghèo như: năng lực của tuyến tỉnh và các
tuyến dưới trong việc quản lý Quỹ KCB cho người nghèo còn yếu; Nhận thức của
người nghèo về Quỹ KCB cho người nghèo còn rất hạn chế; Sự hài lòng của người
nghèo đối với các dịch vụ y tế được cung cấp bao gồm cả nội trú và ngoại trú nhìn
chung còn thấp; có một tỉ lệ đáng kể người hưởng lợi từ Quỹ KCB cho người nghèo
đã không sử dụng thẻ BHYT/ thẻ KCB cho người nghèo khi đi khám ở các cơ sở y
tế nhà nước.
Nghiên cứu đã đi đến kết luận: Nhìn chung, Quỹ KCB cho người nghèo đã
hoạt động tốt. Mức độ sử dụng dịch vụ y tế của người nghèo tăng lên và gánh nặng
tài chính y tế đối với người nghèo có giảm đi. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
đã đạt được, vẫn còn một số điểm còn hạn chế trong việc triển khai Quỹ KCB cho
người nghèo, nhất là vấn đề truyền thông nâng cao nhận thức và năng lực hành
động. Chính vì vậy, cần phát huy hơn nữa vai trò của CTXH trong việc truyền
thông thay đổi nhận thức và hành vi của những đối tượng có liên quan đến việc thực
hiện chính sách BHYT đối với người nghèo, trong đó đối tượng trực tiếp là người
nghèo để họ có nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chính sách BHYT và thụ
hưởng chính sách một cách hợp lý và hiệu quả hơn.
Cũng trên hai địa bàn này, tác giả Đàm Viết Cương và Trần Văn Tiến đã tiến
hành nghiên cứu “Tình hình BHYT, sử dụng dịch vụ y tế và chi tiêu y tế tại hai tỉnh
Hải Dương và Bắc Giang - kết quả điều tra cơ bản” [7]. Nghiên cứu cho thấy: Độ
bao phủ của BHYT tại các huyện nghiên cứu dao động từ 40-50%, trong đó học

sinh, sinh viên là thành phần chủ yếu tham gia BHYT tự nguyện. Có khoảng 70%
nông dân chưa có BHYT. Người nghèo chiếm tỷ trọng cao trong tổng số người
tham gia BHYT, tuy nhiên vẫn còn khoảng 20-30% hộ gia đình báo cáo thuộc diện
hộ nghèo nhưng vẫn chưa được cấp thẻ BHYT. So với năm 2005, người nghèo đi

20
KCB tại các cơ sở y tế khám BHYT nhiều hơn nhưng mức độ hài lòng với các dịch
vụ y tế của các bệnh nhân khám BHYT thấp hơn bệnh nhân tự trả phí. Hai nguyên do
chủ yếu của vấn đề trên là: điều kiện cơ sở vật chất và thái độ của nhân viên y tế. Bên
cạnh đó, nghiên cứu cũng làm rõ nguồn chi phí của quỹ BHYT cho điều trị nội trú,
ngoại trú, tuy nhiên bệnh nhân BHYT vẫn phải chi trả một khoản đáng kể khi đi KCB.
Chính vì vậy nghiên cứu đã chỉ ra rằng: để đảm bảo tính bền vững và công
bằng, cần có những điều chỉnh hợp lý chính sách BHYT đối với người nghèo.
Nghiên cứu can thiệp cần tập trung vào các vấn đề trọng tâm sau: nâng cao nhận
thức và hiểu biết về BHYT cho người dân; tăng cường năng lực quản lý BHYT;
nâng cao chất lượng dịch vụ y tế; kiểm soát chi phí và thực hiện tốt các chính sách
hỗ trợ người nghèo và cận nghèo. Do vậy, việc nâng cao vai trò của CTXH trong
việc tham mưu, hoạch định chính sách BHYT đối với người nghèo và truyền thông
nâng cao nhận thức của người nghèo, của cán bộ quản lý về chính sách BHYT là rất
quan trọng. Có như vậy mới có thể khắc phục được những vấn đề hiện đang còn tồn
tại ở hai địa bàn nghiên cứu là Hải Dương và Bắc Giang.
Sang năm 2007, nghiên cứu đánh giá “Tình hình chăm sóc sức khỏe cho
người nghèo tại năm tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên” do Đàm Viết Cương
và cộng sự công bố tại Phái đoàn Ủy ban Châu Âu tại Việt Nam [9]. Đây là một
cuộc điều tra mang tính toàn diện, không chỉ đánh giá từ góc độ người cung ứng và
góc độ các nhà quản lý mà còn đánh giá việc CSSK người nghèo từ góc độ người
hưởng lợi. Một số phát hiện chính được công bố:
Thứ nhất: Hành vi tìm kiếm dịch vụ y tế của người nghèo
Người nghèo khi ốm đau chủ yếu đến cơ sở y tế nhà nước KCB. Hầu hết
người dân mắc bệnh nhẹ đến KCB tại trạm y tế xã chiếm 97%. Đối với các bệnh

nặng, người dân có xu hướng sử dụng dịch vụ ở các cơ sở y tế tuyến trên như bệnh
viện huyện và bệnh viện tỉnh. Có khoảng 86,3% hộ gia đình nghèo có sử dụng thẻ
KCB và thẻ BHYT cho người nghèo khi đi KCB. Tỷ lệ sử dụng thẻ KCB người
nghèo/thẻ BHYT cao đối với cả dịch vụ nội trú và ngoại trú. Trong số 40% người
nghèo đã từng sử dụng thẻ BHYT khi đi KCB cho biết sử dụng dịch vụ CSSK nhiều

21
hơn kể từ khi có thẻ bảo hiểm. Lý do chính không sử dụng thẻ KCB người
nghèo/thẻ BHYT là do bị ốm nhưng bệnh chưa nặng đến mức phải điều trị hoặc
không bị ốm. Một lý do quan trọng khác là không biết cách sử dụng thẻ do không
được hướng dẫn cách sử dụng.
Thứ hai: Chi tiêu cho KCB của các đối tượng hưởng lợi sau khi thực hiện
quyết định 139 (QĐ-TTg): Việc sử dụng thẻ KCB người nghèo/thẻ BHYT đã góp
phần làm giảm chi phí y tế của dịch vụ KCB ngoại trú và nội trú. Tuy nhiên, người
nghèo vẫn phải trả thêm một khoản chi phí đáng kể cho các loại thuốc không được
BHYT thanh toán cũng như cho các chi phí gián tiếp khác. Nhìn chung, những
người có thẻ phải chi trả cho các dịch vụ KCB với số tiền ít hơn so với những người
không có thẻ (cả chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp).
Thứ ba: Một số vướng mắc trong quá trình xác định đối tượng người nghèo
và cấp phát thẻ BHYT cho nghèo tại địa bàn nghiên cứu: Việc lập danh sách người
nghèo được thực hiện thông qua việc ghi chép bằng tay; Chưa xây dựng được cơ
chế để kiểm tra và kiểm tra chéo danh sách hộ nghèo; Quy trình lập danh sách hộ
nghèo rất phức tạp; Nguồn tài chính cho công tác quản lí hành chính hạn chế và
không có chế độ khuyến khích cho nhân lực thực hiện công tác này ở địa phương;
Chậm trễ trong in ấn và cấp phát thẻ KCB người nghèo; Năng lực quản lí của cơ
quan BHXH; Năng lực của cơ quan BHXH trong công nghệ thông tin nhìn chung
còn hạn chế về nhiều mặt: nhân lực, xây dựng phần mềm quản lí và ứng dụng.
Thứ tư: Tác động của Quỹ KCB cho người nghèo đối với đối tượng hưởng
lợi: Quỹ KCB cho người nghèo có tác động tích cực tới việc CSSK cho người
nghèo trong việc nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế cũng như giảm

gánh nặng tài chính cho nhóm đối tượng hưởng lợi. Tuy nhiên một số đối tượng
người nghèo chưa thực sự được hưởng lợi từ quỹ KCB cho người nghèo. Nguyên
nhân chính là do: Chất lượng dịch vụ y tế, đặc biệt tại tuyến xã còn hạn chế; Thủ tục
hành chính rườm rà; Thiếu kiến thức về các vấn đề sức khoẻ, CSSK và thực hiện
BHYT trong CSSK; Các hoạt động truyền thông chưa nhiều và chưa hiệu quả; Khó
khăn về giao thông và một số đối tượng gặp khó khăn về tài chính trong KCB do

×