ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Phạm Thị Hậu
ĐỊNH HƢỚNG GIÁ TRỊ NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
CỦA ĐỘI NGŨ NHÂN VIÊN XÃ HỘI
TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Phạm Thị Hậu
ĐỊNH HƢỚNG GIÁ TRỊ NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
CỦA ĐỘI NGŨ NHÂN VIÊN XÃ HỘI
TỈNH THÁI BÌNH HIỆN NAY
Chuyên ngành Tâm lý học
Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Bùi Thị Xuân Mai
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Bùi Thị Xuân Mai. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn
là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Hậu
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan 1
Mục lục 2
Danh mục các chữ viết tắt 4
Danh mục các bảng số liệu 5
MỞ ĐẦU 6
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH HƢỚNG GIÁ TRỊ NGHỀ CTXH
CỦA NHÂN VIÊN XÃ HỘI…… 10
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 10
1.1.1. Sơ lược những nghiên cứu liên quan đến giá trị và định hướng giá trị…10
1.1.2. Sơ lược những nghiên cứu định hướng giá trị nghề nghiệp………… 12
1.2. Các khái niệm cơ bản 15
1.2.1. Giá trị 15
1.2.2. Định hướng giá trị 19
1.2.3. Định hướng giá trị nghề 23
1.2.4. Nghề CTXH và định hướng giá trị nghề CTXH của nhân viên xã hội 27
1.2.5. Những yếu tố tác động đến định hướng giá trị nghề CTXH của NVXH 36
Chƣơng 2. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 40
2.1. Tổ chức nghiên cứu lý luận 40
2.1.1. Mục đích nghiên cứu lý luận 40
2.1.2. Nội dung nghiên cứu lý luận 40
2.1.3. Phương pháp nghiên cứu lý luận 40
2.2. Tổ chức nghiên cứu thực tiễn 40
2.2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu 40
2.2.2. Khách thể nghiên cứu 41
2.2.3. Mô tả công cụ nghiên cứu 43
2.2.4. Cách thức thu và xử lý số liệu 44
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ ĐỊNH HƢỚNG GIÁ
TRỊ NGHỀ CTXH CỦA ĐỘI NGŨ NVXH TỈNH THÁI BÌNH 48
3.1. Thực trạng định hƣớng giá trị nghề CTXH của đội ngũ NVXH tỉnh Thái
Bình 48
3.1.1. Định hướng giá trị nghề CTXH của đội ngũ NVXH tỉnh Thái Bình thể
hiện ở mặt quan điểm, niềm tin 48
3.1.1.1. Quan điểm về mức độ cần thiết của nghề CTXH trong xã hôị ngày nay
của đội ngũ NVXH tỉnh Thái Bình 48
3.1.1.2. Quan điểm về vai trò, mục đích nghề CTXH của đội ngũ NVXH tỉnh
Thái Bình 50
3.1.1.3. Quan điểm về tầm quan trọng của các yêu cầu chuyên môn đối với
nghề CTXH của đội ngũ NVXH tỉnh Thái Bình 57
3.1.1.4. Quan điểm về ý nghĩa xã hội của nghề CTXH của đội ngũ NVXH tỉnh
Thái Bình 71
3.1.2. Định hướng giá trị nghề CTXH của đội ngũ NVXH tỉnh Thái Bình thể
hiện ở mặt cảm xúc 74
3.1.2.1. Hứng thú đối với nghề CTXH của đội ngũ NVXH tỉnh Thái Bình… 74
3.1.2.2. Tình cảm đối với nghề CTXH của đội ngũ NVXH tỉnh Thái Bình… 76
3.1.2.3. Mức độ hài lòng đối với nghề CTXH của đội ngũ NVXH tỉnh Thái
Bình…………………………………………………………………………….78
3.1.2.4. Sự gắn bó đối với nghề CTXH của đội ngũ NVXH tỉnh Thái Bình… 79
3.1.3. Định hướng giá trị nghề CTXH của đội ngũ nhân viên xã hội tỉnh Thái
Bình thể hiện ở mặt hành vi 82
3.2. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến định hƣớng giá trị nghề CTXH của đội ngũ
nhân viên xã hội tỉnh Thái Bình 87
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
PHỤ LỤC 99
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
Viết tắt
Công tác xã hội
CTXH
Định hướng giá trị
ĐHGT
Điểm trung bình
ĐTB
Giá trị
GT
Nhà xuất bản
NXB
Nhân viên xã hội
NVXH
Phần trăm
%
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Số
trang
Bảng 2.1
Đặc điểm nhóm khách thể nghiên cứu
42
Bảng 3.1
Quan điểm về mức độ cần thiết của nghề CTXH trong với xã
hội ngày nay của đội ngũ NVXH tỉnh Thái Bình
49
Bảng 3.2
Quan điểm về vai trò, mục đích của nghề CTXH của đội ngũ
nhân viên xã hội tỉnh Thái Bình
50
Bảng 3.3
Quan điểm về tầm quan trọng của các khối kiến thức trong
nghề CTXH của đội ngũ nhân viên xã hội tỉnh Thái Bình
58
Bảng 3.4
Quan điểm về tầm quan trọng của các yêu cầu về kỹ năng
trong nghề CTXH của đội ngũ nhân viên tỉnh Thái Bình
63
Bảng 3.5
Quan điểm về tầm quan trọng của các phẩm chất đạo đức
trong nghề CTXH của đội ngũ nhân viên tỉnh Thái Bình
65
Bảng 3.6
Kết quả so sánh thứ bậc giữa 3 nhóm yếu tố chuyên môn
69
Bảng 3.7
So sánh quan điểm về các yếu tố chuyên môn của NVXH của
đội ngũ nhân viên xã hội tỉnh Thái Bình theo giới tính
70
Bảng 3.8
Quan điểm về ý nghĩa xã hội của nghề CTXH của nhân viên
xã hội tỉnh Thái Bình
71
Bảng 3.9
Mức độ yêu thích nghề CTXH của đội ngũ NVXH tỉnh Thái
Bình
74
Bảng 3.10
Tình cảm đối với nghề CTXH của đội ngũ nhân viên xã hội
tỉnh Thái Bình
76
Bảng 3.11
Mức độ hài lòng đối với nghề CTXH của đội ngũ nhân viên
xã hội tỉnh Thái Bình
78
Bảng 3.12
Sự gắn bó với nghề CTXH của đội ngũ NVXH tỉnh Thái Bình
80
Bảng 3.13
Biểu hiện định hướng giá trị nghề CTXH của NVXH tỉnh
Thái Bình ở mặt hành vi
82
Bảng 3.14
Một số yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị nghề CTXH
của đội ngũ nhân viên xã hội tỉnh Thái Bình
88
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình sống, con người luôn phải trải qua những biến cố nhất định.
Những thay đổi dù mang tính quy luật hay bất thường đều có thể gây nên những xáo
trộn trong đời sống tâm lý và khó khăn trong thích ứng xã hội cho mỗi cá nhân hay
gia đình. Việc giúp đỡ con người duy trì được sự thăng bằng về tâm lý, tăng cường
khả năng đối phó với các vấn đề trong cuộc sống hành ngày trở nên thực sự cần
thiết.
Ở Việt Nam nghề công tác xã hội là nghề rất cần thiết do những biến đổi
nhanh chóng về kinh tế xã hội và những tác động của quá trình đổi mới. Điều đó,
dẫn đến những thay đổi trong mối quan hệ gia đình và cộng đồng, tác động của quá
trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, lao động di cư từ nông thôn ra đô thị. Thêm vào
đó là sự gia tăng của số lượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, số lượng người già và
người khuyết tật, vấn đề HIV/AIDS, tệ nạn xã hội Tất cả những vấn đề đó đòi
hỏi cần phải có một đội ngũ cán bộ công tác xã hội chuyên nghiệp để giải quyết hài
hòa mối quan hệ giữa con người và con người, góp phần tích cực vào sự phát triển
phúc lợi của một xã hội hiện đại. Trong bối cảnh xã hội đó, rất cần sự tham gia giải
quyết của một đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội có nghề, có trình độ. Tuy nhiên,
hiện nay, nhận thức về nghề của đội ngũ nhân viên xã hội còn hạn chế, nhiều người
còn chưa thực hiểu nghề này làm những công việc gì. Thiết nghĩ, điều quan trọng để
xây dựng được đội ngũ cán bộ hoạt động công tác xã hội có chất lượng đáp ứng
được yêu cầu của xã hội thì nhân viên xã hội ngay từ khi bước chân vào môi trường
công việc cần có định hướng giá trị nghề một cách đúng đắn.
Thái Bình là tỉnh thuần nông, điều kiện kinh tế của người dân còn nhiều
khó khăn, đối tượng xã hội cần sự quan tâm trợ giúp nhiều. Đội ngũ nhân viên xã
hội còn hạn chế về số lượng và chất lượng. Để nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ
nhân viên xã hội, điều quan trọng tỉnh Thái Bình cũng cần phải định hướng giá trị
nghề cho cán bộ. Thật vậy, trong quá trình được tuyển vào làm việc, được nâng cao
trình độ chuyên môn thì cán bộ đó đã có những hiểu biết gì về nghề CTXH chưa,
những giá trị nghề nghiệp mà họ hướng tới là những giá trị nào? Những giá trị đó có
ảnh hưởng như thế nào đến việc học tập, tu dưỡng và làm việc? Việc tìm hiểu đúng
vấn đề định hướng giá trị nghề CTXH sẽ giúp tỉnh Thái Bình có biện pháp tác động
hợp lý tới đội ngũ cán bộ làm CTXH của tỉnh nhà để họ rèn luyện phấn đấu trở
2
thành những cán bộ có đạo đức, tâm huyết với nghề, có chuyên môn, nghiệp vụ đáp
ứng tốt yêu cầu của nghề nghiệp, đóng góp vào sự phát triển chung của tỉnh Thái
Bình trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nghiên cứu về định hướng giá trị và định hướng giá trị nghề nghiệp đã được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên đối với định hướng giá trị về nghề
công tác xã hội của nhân vên xã hội nói chung và đặc biệt của nhân viên xã hội ở
Thái Bình nói riêng chưa thấy có công trình nào nghiên cứu. Trong bối cảnh CTXH
mới được xem như một nghề ở Việt Nam và ngày 25/3/2010, Thủ tướng Chính phủ
đã có Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển nghề CTXH giai
đoạn 2010 – 2020 thì việc nghiên cứu định hướng giá trị nghề CTXH của đội ngũ
NVXH càng trở nên cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài:
“Định hướng giá trị nghề Công tác xã hội của đội ngũ Nhân viên xã hội tại tỉnh
Thái Bình hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị nghề CTXH của đội ngũ NVXH ở
Thái Bình hiện nay để từ đó đề xuất một số kiến nghị giúp đội ngũ nhân viên xã hội
tỉnh Thái Bình có định hướng giá trị nghề CTXH đầy đủ, đúng đắn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Định hướng giá trị nghề Công tác xã hội của đội ngũ Nhân viên xã hội tại
tỉnh Thái Bình hiện nay.
4. Khách thể nghiên cứu: Tổng số khách thể tham gia vào quá trình
nghiên cứu là 250 người là những cán bộ đang làm công tác trợ giúp các đối tượng
tại các Trung tâm hay tại cộng đồng trong ngành Lao động – Thương binh và Xã
hội tại tỉnh Thái Bình.
5. Gỉa thuyết nghiên cứu
Định hướng giá trị của NVXH tỉnh Thái Bình đối với nghề CTXH chưa đáp
ứng yêu cầu nghề nghiệp về kiến thức, kỹ năng, cần có những tác động như giáo
dục, noi gương… để NVXH nói chung và nhân viên xã hội ở Thái Bình nói riêng có
định hướng giá trị nghề CTXH đầy đủ, đúng đắn.
3
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát lý luận liên quan đến đề tài: giá trị, định hướng giá trị, định
hướng giá trị nghề, định hướng giá trị nghề CTXH của NVXH….
- Khảo sát thực trạng định hướng giá trị nghề CTXH của đội ngũ NVXH tại
tỉnh Thái Bình hiện nay và tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng định
hướng giá trị nghề CTXH của NVXH.
- Đề xuất một số giải pháp giáo dục định hướng giá trị nghề CTXH cho đội
ngũ NVXH tại tỉnh Thái Bình.
7. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu ĐHGT nghề CTXH trong hệ thống giá trị
nghề nghiệp của cán bộ hoạt động trong lĩnh vực CTXH của tỉnh Thái Bình.
- Luận văn tập trung nghiên cứu trên khách thể là cán bộ xã hội làm công tác
trợ giúp các đối tượng tại các Trung tâm hay tại cộng đồng trong ngành Lao động –
Thương binh và Xã hội, bởi đây là lĩnh vực có đông đảo đội ngũ cán bộ đang thực
hiện chức năng trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh khó khăn.
- Luận văn nghiên cứu chủ yếu trên các khách thể ở tỉnh Thái Bình.
8. Phuơng pháp nghiên cứu
8.1. Nguyên tắc phương pháp luận
Nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của tâm lý học như sau:
- Nguyên tắc hoạt động: hành vi của con người chịu sự chi phối của suy nghĩ,
thái độ, quan điểm giá trị của chính bản thân họ. Vì vậy, để tìm hiểu ĐHGT nghề
CTXH của đội ngũ NVXH, chúng tôi quan tâm nghiên cứu đến các mặt nhận thức,
thái độ và hành vi của họ trong hoạt động lao động nghề nghiệp của mình.
- Nguyên tắc hệ thống: định hướng giá trị của con người chịu sự chi phối của
các yếu tố khách quan và chủ quan, do vậy trong luận văn chúng tôi tìm hiểu các
yếu tố tác động đến định hướng giá trị nghề CTXH của nhân viên xã hội.
8.2 Hệ thống các phương pháp
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
4
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học
9. Cấu trúc của Luận văn: Luận văn bao gồm các phần:
- Mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lý luận
- Chương 2: Tổ chức thực hiện và phạm vi nghiên cứu
- Chương 3: Kết quả nghiên cứu
- Kết luận và kiến nghị
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục
5
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH HƢỚNG GIÁ TRỊ
NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI CỦA NHÂN VIÊN XÃ HỘI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề giá trị, định hướng giá trị và vấn đề định hướng giá trị nghề ngiệp
đang là vấn đề mang tính thời sự cấp bách và được nhiều tác giả trong và ngoài
nước quan tâm nghiên cứu.
1.1.1. Sơ lược những nghiên cứu liên quan đến giá trị và định hướng giá
trị
Vấn đề về giá trị, định hướng giá trị đã có từ rất lâu và được nhiều nước
trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu sau:
* Trên thế giới:
Từ năm 1968 - 1974, Viện nghiên cứu thanh niên ở Đức đã tiến hành
nghiên cứu ở 1000 học sinh phổ thông và 2000 sinh viên đại học để tìm hiểu
định hướng giá trị.
Trong những năm 1977 - 1978, Trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh
niên ở Bungari nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên, trong đó
có đề cập đến vấn đề giá trị, đặc biệt là sự khác biệt trong thang giá trị của thanh
niên so với thế hệ cha ông [23, tr.34].
Năm 1983, Viện nghiên cứu thế giới của Nhật Bản đã chú trọng nghiên
cứu thanh niên của 11 quốc gia lứa tuổi từ 18 – 24 tuổi. Tiếp theo đó, Viện khảo
sát xã hội Châu Âu nghiên cứu trên thanh niên ở 10 nước Châu Âu. Cả hai cuộc
điều tra này đều đề cập đến về vấn đề định hướng giá trị của thanh niên nhằm
giúp họ chuẩn bị bước vào cuộc sống [21, tr.23]
Năm 1986 - 1987, UNESCO đã đề nghị Câu lạc bộ Rome tiến hành điều
tra quốc tế về giá trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỷ XXI trong
tình hình có nhiều biến đổi đang ảnh hưởng đến xã hội vào những năm cuối thế
kỷ XX [21,tr.25]
6
Hơn 10 năm trở lại đây, các nước Châu Á và Đông Nam Á đã có nhiều
cuộc hội thảo về vấn đề nghiên cứu giá trị và giáo dục giá trị. Các chương trình
giáo dục giá trị đã được đưa vào trong trường phổ thông và cộng đồng ở một số
nước như: Indonesia, Phillippin, Singapore, Malaysia và Thái Lan.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị ở đây
đã chỉ ra được những khác biệt trong thang giá trị của thanh niên, xây dựng bộ
dụng cụ để đo đạc và kiểm chứng cho nghiên cứu thực tế. Ngoài ra các công
trình nghiên cứu còn được ứng dụng vào trong các trường học và cộng đồng dân
cư.
* Ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị ở Việt Nam
tương đối mới mẻ hơn so với các nước trên thế giới. Tuy nhiên, kể từ thập niên
90 trở lại đây đã có rất nhiều tác giả tập trung nghiên cứu về vấn đề này. Điển
hình: Năm 1987 - 1988, ban Lý luận giáo dục và giáo dục chuyên nghiệp thực
hiện đề tài: “Nghiên cứu và điều tra về xu hướng nhân cách của sinh viên” [6].
Đề tài đã chỉ ra những xu hướng nhân cách của sinh viên và đề cập đến vấn đề
giá trị sống của sinh viên với những đặc trưng nhất định.
Năm 1991 - 1995, chương trình Khoa học công nghệ cấp Nhà nước mã số
KX - 07: “Con người Việt nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế
xã hội” [2] đã được thực hiện, nhiều nhánh đề tài xuất phát từ đây đã nghiên cứu
lý luận và thực tiễn về định hướng giá trị của con người Việt Nam
Đề tài mã số KX - 07 - 04 do tác giả Nguyễn Quang Uẩn làm chủ nhiệm,
nghiên cứu: “Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” [33].
Dựa trên những giá trị được người Việt Nam quan tâm, đề tài chỉ ra xu hướng
phát triển nhân cách người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và mở cửa.
Năm 1996, nghiên cứu: “Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên trong
sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” của tác giả Dương Tự Đam [5] đã nêu ra một số
biểu hiện đặc trưng, xu hướng phát triển và sự chuyển đổi định hướng giá trị
trong sinh viên. Trên cơ sở đó đề tài đưa ra những giải pháp nhằm giáo dục định
hướng giá trị cho thanh niên sinh viên theo yêu cầu của công cuộc đổi mới.
7
Cùng năm 1996, Nguyễn Thị Khoa với đề tài “Định hướng giá trị chất
lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức hiện nay” [15] đã làm sáng tỏ cơ sở lý
luận về giá trị, định hướng giá trị và nêu ra những đặc trưng và xu thế định
hướng giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức, từ đó xây dựng
những chuẩn giá trị gia đình Việt Nam hiện đại.
Đầu năm 2002, Đỗ Ngọc Hà với nghiên cứu “Định hướng giá trị của thanh
niên, sinh viên hiện nay trước sự chuyển đổi về kinh tế, xã hội của đất nước” [6]
đã cho thấy những giá trị nào điều tiết được cuộc sống hàng ngày và hành vi xã
hội của sinh viên, trên cơ sở đó xây dựng biểu định hướng giá trị của sinh viên
Việt Nam.
Gần đây nhất một số đề tài về định hướng giá trị đạo đức, lối sống được
quan tâm, như: “Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh” ,“Định hướng giá trị lối sống sinh viên ở một số trường
đại học tại thành phố Hồ Chí Minh” [23]. Cả 2 đề tài trên cơ sở nghiên cứu lý
luận và hệ thống câu hỏi mở để lấy ý kiến các nhà giáo dục, các chuyên gia, sinh
viên… nêu ra hệ thống giá trị đạo đức, lối sống. Trên cơ sở nghiên cứu cả hai tác
giả đều nhận định đa số sinh viên đều có định hướng giá trị đạo đức tích cực, lối
sống đúng đắn.
Ngoài những đề tài nghiên cứu, còn có một số bài viết và báo cáo về giá
trị và định hướng giá trị được đăng trên các tạp chí khoa học.
Nhìn chung các đề tài tập trung nghiên cứu và làm sáng tỏ nhiều vấn đề
cả tích cực lẫn tiêu cực của những thay đổi về định hướng giá trị của người Việt
Nam.
1.1.2. Sơ lược những nghiên cứu định hướng giá trị nghề nghiệp
1.1.2.1. Nghiên cứu về định hướng giá trị nghề nghiệp ở nước ngoài
Ở Pháp năm 1849 đã xuất bản cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề”. Đầu thứ
kỷ XX, ở Đức, Mỹ, Anh đã có những tổ chức đầu tiên là phòng tư vấn chỉ dẫn cho
thanh niên tìm việc làm. Đến các phòng này, thanh niên học sinh được tư vấn về
việc lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai của họ [2, tr.23].
8
Năm 1977 – 1978, trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên Bungari,
trong công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên cũng đã đề
cập đến nhiều vấn đề định hướng giá trị cho thanh niên cũng như so sánh sự khác
biệt giữa thang giá trị của thanh niên hiện nay với thế hệ cha ông trước đó [12,
tr.27].
Năm 1983, Việc nghiên cứu thế giới của Nhật Bản đã chỉ đạo phòng nghiên
cứu thanh niên, lấy mẫu chung thanh niên ở lứa tuổi 18 – 24 của 11 nước như: Nhât,
Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Thụy Sỹ, Thụy Điển, Nam Tư, Philippin, Hàn Quốc,
Braxin…, còn viện khảo sát xã hội châu Âu điều tra thanh niên ở lứa tuổi 15 – 25 ở
10 nước Châu Âu: Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italia, Đức, Lucxambua, Đan Mạch, Ailen,
Anh và Hy Lạp. Mục đích chung của cả hai cuộc điều tra trên là đều đề cập đến vấn
đề giá trị và định hướng giá trị nghề nghiệp của thanh niên, nhằm chuẩn bị cho họ
sẵn sàng bước vào cuộc sống [12, tr.28].
Từ các công trình nghiên cứu về định hướng giá trị nghề nghiệp trên, có thể
thấy ở các nước công nghiệp phát triển, vai trò và tầm quan trọng của định hướng
giá trị nghề nghiệp luôn được đánh giá cao và có sự quan tâm nghiên cứu đúng
mức.
1.1.2.2. Nghiên cứu định hướng giá trị nghề nghiệp ở Việt Nam
Ở Việt Nam, chúng ta có thể kể tới một số đề tài, công trình nghiên cứu về
những vấn đề có liên quan đến định hướng giá trị nghề nghiệp sau:
Năm 2009, tác giả Lã Thị Thanh Thủy với đề tài “Hứng thú nghề nghiệp của
tri thức hiện nay” đã chỉ ra vai trò hết sức quan trọng của hứng thú nghề nghiệp
trong việc thúc đẩy tri thức tích cực trong hoạt động nghề nghiệp đồng thời chỉ ra
mối tương quan giữa hứng thú nghề nghiệp và mức độ ổn định trong công việc[27].
Cũng đi sâu về vấn đề hứng thú nghề nghiệp, năm 2009 tác giả Nguyễn Thị
Hoa với công trình nghiên cứu “Một số biểu hiện của hứng thú nghề nghiệp ở học
sinh nông thôn Việt Nam hiện nay” đã cho rằng, khi học sinh có hứng thú nghề
nghiệp là khi các em có mối quan hệ đặc biệt với một nghề nào đó, thể hiện tình
cảm yêu thích của các em với một nghề, qua thái độ tích cực của chúng đối với việc
lựa chọn nghề đó [12].
9
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hà với công trình nghiên cứu “Định hướng giá trị
việc làm và tính năng động trong công việc của lao động nữ” đã tập trung phân tích
định hướng giá trị việc làm, tính năng động và mối liên hệ giữa hai nhân tố này của
lao động, trong đó, các giá trị việc làm ổn định, ít rủi ro, đúng nghề được đào tạo,
làm việc gần nhà được đa số phụ nữ lựa chọn. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng
cho thấy, không có sự khác biệt quá lớn trong định hướng giá trị việc làm và tính
năng động trong công việc giữa lao động nam và lao động nữ.
Đề tài “Nhận thức về nghề nghiệp của sinh viên ngành công tác xã hội”
(2013) của tác giả Nguyễn Thị Hiền đã cho thấy hầu hết các em sinh viên nhận
thức về giá trị nghề, các lĩnh vực hoạt động của nghề và đối tượng phục vụ của nghề
công tác xã hội còn mơ hồ [10].
Theo nghiên cứu “Định hướng giá trị của người lao động trong một số doanh
nghiệp trên địa bàn Hà Nội” của tác giả Nguyễn Hữu Thụ thì định hướng giá trị đối
với công việc, nghề nghiệp là một trong những biểu hiện trong định hướng giá trị
của người lao động. Nó được thể hiện trong việc lựa chọn các giá trị, lợi ích việc
làm, nhận thức về vai trò của người lao động, thái độ với trả lương và sự yên tâm
của người lao động đối với công việc đang làm [25].
Như vậy, từ trước đến nay, vấn đề định hướng giá trị và định hướng giá trị
nghề nghiệp đã được một số tác giả quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên, đội ngũ nhân
viên xã hội có định hướng giá trị nghề CTXH như thế nào? Vấn đề này còn chưa
được đề cập một cách thỏa đáng trong các công trình nghiên cứu. Do vậy, trên cơ sở
tiếp thu những thành tựu của những người đi trước đồng thời bằng lý luận và thực
tiễn quá trình nghiên cứu trên khách thể nghiên cứu mới và địa bàn nghiên cứu mới,
chúng tôi lựa chọn đề tài: “Định hướng giá trị nghề công tác xã hội của đội ngũ
nhân viên xã hội tỉnh Thái Bình hiện nay” với hy vọng đề tài này sẽ đóng góp một
phần nhỏ bé làm cơ sở trong việc giáo dục nghề nghiệp của cán bộ làm công tác trợ
giúp đối tượng xã hội, giúp cho đội ngũ cán bộ đó có nhận thức và thái độ đúng đắn
về giá trị của nghề CTXH, trên cơ sở đó có hành vi đúng đắn, phù hợp trong quá
trình thực hành nghề nghiệp của mình.
10
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Giá trị
1.21.1. Khái niệm giá trị
Khái niệm giá trị được đề cập và nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học
khác nhau như triết học, kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học ….
+ Trong triết học, có nhiều quan điểm khác nhau về giá trị. Tuy nhiên, ở đây
chủ yếu được xét theo quan điểm Macxit nên giá trị được coi là hiện tượng xã hội
đặc thù, mọi giá trị điều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của con người. Giá trị là
sự thống nhất giữa cái chủ quan và cái khách quan [33, tr.51].
+ Theo quan điểm kinh tế, giá trị kinh tế là sức mạnh của vật này so với vật
khác khi trao đổi. Để bộc lộ giá trị, vật phẩm phải có lợi ích, tức là có khả năng thoả
mãn nhu cầu, lòng ham muốn của con người. Do đó, trong phân tích kinh tế, giá trị
là vị trí tương đối của hàng hoá trong trật tự ưu tiên, vị trí của nó càng cao thì giá trị
của nó càng lớn [21, tr.32].
+ Trong xã hội học, giá trị được quan tâm ở nội dung, nguyên nhân, điều
kiện kinh tế - xã hội cụ thể trong quá trình hình thành hệ thống định hướng giá trị
nhất định của một xã hội [16, tr.74].
+ Trong đạo đức học, giá trị luôn gắn liền với các khái niệm trung tâm như:
cái thiện, cái ác, công bằng, bình đẳng, bác ái bởi vì khái niệm giá trị thuộc phạm vi
đời sống đạo đức của con người, các quan hệ xã hội và các quá trình hình thành các
chuẩn mực, quy tắc đạo đức của xã hội [24, tr.19].
+ Trong tâm lý học, các nhà khoa học giải thích khái niệm giá trị với tư cách
là một hiện tượng có ý nghĩa về mặt nhân cách, các quan hệ giá trị có nguồn gốc xã
hội, các tiêu chuẩn của giá trị có tính lịch sử cụ thể.
Các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang cho rằng:
cần phải hiểu khái niệm giá trị trong mối quan hệ với các thuật ngữ liên quan như
nhu cầu, sở thích, động cơ Song , “giá trị không đồng nhất với nhu cầu các giá
trị không phải là những động cơ giá trị là những cái cần và có ích cho chủ thể”
[33, tr.56-57].
11
Tác giả Lê Đức Phúc cho rằng: “Giá trị là cái có ý nghĩa đối với xã hội, tập
thể và cá nhân, phản ánh mối quan hệ chủ thể, khách thể, được đánh giá xuất phát từ
điều kiện lịch sử xã hội thực tế và phụ thuộc vào trình độ phát triển nhân cách. Khi
đã được nhận thức, đánh giá, lựa chọn, giá trị trở thành một trong những động lực
thúc đẩy con người theo một xu hướng nhất định” [20, tr.12].
Tác giả Vũ Dũng trong Từ điển Tâm lý học quan niệm giá trị là “phạm trù
triết học, xã hội học, tâm lý học, giá trị thể hiện những gì có ích, có ý nghĩa của sự
vật hện tượng tự nhiên hay xã hội có khả năng thỏa mãn nhu cầu và phục vụ lợi ích
của con người” [3].
Tóm lại, qua xem xét các quan niệm về giá trị ở trên, trân trọng, kế thừa quan
điểm của các tác giả, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi hiểu giá
trị là những cái cần, cái có ích, có ý nghĩa với chủ thể (cá nhân, tập thể và xã hội),
với tư cách là phương tiện thoả mãn những nhu cầu và lợi ích, đồng thời biểu thị
niềm tin của con người về những mục đích và phương thức ứng xử lý tưởng, có thể
bị thay đổi theo những điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể.
1.2.1.2. Đặc điểm của giá trị :
Từ khái niệm giá trị, chúng ta có thể nhấn mạnh mấy đặc điểm sau của giá
trị:
- Bất cứ sự vật nào cũng có thể xem là có giá trị dù nó là vật thể hay phi vật
thể miễn là nó được thừa nhận, được xem là quan trọng đối với họ.
- Giá trị luôn mang tính khách quan. Sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của một
giá trị không phụ thuộc vào ý thức con người mà phụ thuộc vào sự xuất hiện, tồn tại
hay mất đi của một nhu cầu nào đó của con người. Không phải do ý thức mà do yêu
cầu của hoạt động thực tiễn quy định giá trị. Thực tiễn là tiêu chuẩn của mọi giá trị.
- Giá trị có tính chính diện, có ý nghĩa tích cực, đáng quý, có ích với chủ thể.
- Giá trị là tiêu chuẩn cho sự đánh giá, ưa thích và sự lựa chọn.
- Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và yếu
tố hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể
hiện sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể [33, tr.55].
12
Gía trị không phải là những nhu cầu, ước muốn. Trong khi các nhu cầu nảy
sinh từ sự thiếu hụt những đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần thoả mãn để tồn tại
và phát triển, ước muốn là sự mong mỏi nhằm vào một đối tượng hay trạng thái
nhất định, những ước muốn có thể trở thành một nhu cầu, trong đó pha trộn những
ước muốn tương ứng thì giá trị là những cái cần và có ích cho chủ thể [24, tr.57].
Giá trị cũng không phải là những động cơ. Trong khi động cơ là cái thôi thúc
con người hoạt động, là đối tượng mà hoạt động cần chiếm lĩnh thì giá trị có sức
mạnh tương đối độc lập so với bất cứ động cơ đặc thù nào đó.
Về vai trò, giá trị có tác dụng như những quy tắc, chuẩn mực để hướng
con người tới mục tiêu, thúc đẩy và điều chỉnh hành động của con người nhằm
đạt tới những mục tiêu đó. Giá trị là cơ sở của việc đánh giá thái độ, hành vi
nào là đúng và nên có, hành vi nào là sai và không nên có. Sự thống nhất, ổn
định về tâm lý, đạo đức, tinh thần của cá nhân và xã hội được chỉ đạo bởi các
giá trị. Nó là thang bậc, chuẩn hành vi để các thành viên của xã hội so sánh,
đối chiếu, phân biệt được những hành động và suy nghĩ tốt đẹp, tích cực hoặc
tiêu cực sai lệch. Các giá trị góp phần hình thành ý thức, thái độ và sức mạnh
của dư luận đạo đức để đối phó với những hành vi đi ngược lại lợi ích xã hội .
Giá trị có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của nhân cách .
Đối với mỗi người, giá trị có hai chức năng cơ bản sau:
+ Là cơ sở cho sự hình thành và duy trì những định hướng giá trị trong
ý thức của con người, cho phép cá nhân giữ một lập trường nhất định, bày tỏ
quan điểm của mình, đánh giá và phê phán. Các giá trị là một bộ phận của ý
thức, mà thiếu nó thì không thể có nhân cách được [24, tr.31].
+ Thúc đẩy hành vi, hoạt động của con người, bởi vì sự định hướng của con
người trong thế giới xung quanh và nguyện vọng đạt được các mục đích riêng lẻ của
họ đều được đối chiếu với các giá trị nằm trong cấu trúc nhân cách.
1.2.1.3 Phân loại giá trị
Hiện nay, có nhiều cách phân loại giá trị. Trong quan điểm của mình, tuỳ
thuộc vào mục đích tiếp cận mà mỗi tác giả có những cách phân loại giá trị khác
nhau.
13
Dựa vào sự thoả mãn nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần của con người
mà giá trị được phân chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Đây là cách phân
loại khá phổ biến. Các tiêu chuẩn khách quan để phân biệt hai loại hình giá trị này
là ở chỗ, người ta xem xét sự vật, hiện tượng thoả mãn nhu cầu vật chất hay nhu cầu
tinh thần của con người.
Theo J.H.Fichter, nhà xã hội học Mỹ, mỗi hiện tượng xã hội có thể coi được
dùng làm khởi điểm cho sự phân loại giá trị. Ông dùng các căn cứ để phân loại giá
trị là nhân cách, xã hội và văn hóa [33, tr.57].
Nhà giáo dục học T.Makiguchi dựa trên hệ thống thang bậc giá trị đã sắp xếp
theo thứ tự Thiện, Ích, Mỹ chia thành 3 loại: giá trị kinh tế, giá trị đạo đức và giá trị
thẩm mỹ [21, tr.112].
Theo cách phân loại của Rokeach, có hai loại giá trị: giá trị mục đích và giá
trị công cụ. Theo ông, các giá trị mục đích là những mục đích, lý tưởng, những tình
trạng mục đích của tồn tại đáng để đạt được đối với cá nhân và xã hội. Các giá trị
này bao gồm: thế giới hoà bình, an ninh quốc gia, tự do, bình đẳng, cuộc sống ý
nghĩa, tình bạn, chân thành, tôn trọng ngươi khác, thông minh, sáng suốt, cuộc sống
sung túc. Các giá trị công cụ (phương tiện) là phương thức ứng xử lý tưởng tối ưu
đối với cá nhân và xã hội trong mọi tình huống liên quan tới mọi đối tượng. Những
giá trị công cụ bao gồm: trách nhiệm, danh dự, lòng tin, thanh lịch, dũng cảm, hợp
tác, trong sạch, khoan dung, kỷ luật [33, tr.58].
Ở Việt Nam, theo cách tiếp cận hệ thống, tác giả Thái Duy Tuyên đã phân
chia giá trị thành các loại:
+ Giá trị nhân văn: biểu thị sự tôn trọng và yêu thương con người, thừa nhận
quyền phát triển tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.
+ Giá trị đạo đức: biểu hiện ở những chuẩn mực quy định mối quan hệ giữa
con người với nhau, giữa con người với tự nhiên và giữa con người với xã hội (gia
đình, cộng đồng) trên tinh thần yêu thương hay thù hận, tôn trọng hay không tôn
trọng.
14
+ Giá trị văn hoá: những giá trị luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học
kỹ thuật công nghệ trên cơ sở tiến bộ xã hội và biểu hiện ở đạo đức, sống có văn
hoá và sự phát triển toàn diện của con người.
+ Giá trị chính trị - pháp luật, biểu hiện thái độ đối với việc giành và giữ
chính quyền, thể chế nhà nước, với quyền lợi dân tộc, giai cấp, cộng đồng, quyền
công dân, mối quan hệ bình đẳng, công bằng, tự do và dân chủ, niềm tin và lý
tưởng.
+ Giá trị kinh tế hướng vào sự hoạt động nghề nghiệp, của lao động, sản
xuất, kinh doanh, các hình thức sở hữu, thu nhập và đời sống vật chất, sự giàu
nghèo và hưởng thụ [32, tr.6-11].
Như vậy, nhìn chung việc phân loại giá trị hết sức đa dạng, phong phú. Do
mục đích khác nhau nên hướng tiếp cận đến các giá trị có sự khác nhau, vì vậy có
thể nói mọi sự phân loại đều mang tính chất tuơng đối.
` 1.2.2. Định hướng giá trị
1.2.2.1 Khái niệm về định hướng giá trị
Có nhiều cách hiểu khác nhau về định hướng giá trị. Nhìn chung, có thể thấy
các định nghĩa về định hướng giá trị được biểu hiện theo một số hướng chính sau:
- Hướng nghiên cứu định hướng giá trị như là các mục đích:
Khi nhắc đến các tác giả đầu tiên có những công trình nghiên cứu về định
hướng giá trị theo hướng xem xét định hướng giá trị như là các mục đích phải kể tới
V.B.Olsanxki, A.G.Zdraromuxlov, V.A.Iadov.
V.B.Olsanxki nghiên cứu định hướng giá trị trong sự lựa chọn các mục đích,
xem xét chúng như sự vươn tới của cá nhân hoặc nhóm đến các hình thức khác nhau
của giá trị xã hội [21, tr.12].
Tác giả người Nga A.G.Zdraromuxlov đã phân tích định hướng giá trị như
quá trình hướng đích của mỗi chủ thể với những nỗ lực, tìm kiếm mục tiêu, cách
thức và phương tiện nhằm thu được lợi ích, cũng như đạt được hiệu quả công việc
trong các hoạt động của con người [21, tr.13].
15
V.A.Iadov xem định hướng giá trị là những biểu tượng của con người về
những mục đích chủ yếu của cuộc đời và những phương tiện cơ bản đạt những mục
đích ấy. Định hướng giá trị đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các chương
trình hành vi lâu dài. Chúng hình thành trên những nhu cầu của chủ thể về việc nắm
vững những hình thức cơ bản của hoạt động sống trong những điều kiện lịch sử cụ
thể xác định và do tính chất các quan hệ xã hội quy định. Các quan hệ xã hội là
nguồn gốc khách quan hình thành những nhu cầu của chủ thể [33, tr.68].
- Hướng xem xét định hướng giá trị như là thái độ của cá nhân:
G.V.Onparte định nghĩa khái niệm định hướng giá trị là trạng thái tâm lý và
thần kinh của sự sẵn sàng, được tạo ra trên cơ sở kinh nghiệm và nó có ảnh hưởng
điều khiển hay năng động tới những phản ứng của cá nhân đối với tất cá những
khách thể và tình huống gắn liền với cá nhân đó [20, tr.24].
Trong các công trình nghiên cứu của D.Katz, D.Krets và của những người
khác đã chỉ ra rằng, định hướng giá trị chứa ít nhất 3 yếu tố:
a. Lý trí - lòng tin, quan điểm, giá trị và ý kiến
b. Tình cảm - liên quan đến những yếu tố nội tâm của cá thể
c. Hành động - khuynh hướng hoặc sự sẵn sàng hành động thực tế theo
hướng của quan hệ đó [20, tr 26].
- Hướng xem định hướng giá trị là cơ sở của các đánh giá của chủ thể đối
với thực tại:
Theo hướng này, I.T.Lêvưkin cho rằng: định hướng giá trị là việc đánh giá
các khả năng và tình hình hiện có, để xác định các phương tiện và phương pháp
nhằm đạt được những mục tiêu đã được đề ra hình thành trên cơ sở đó [26, tr.56].
Theo một số nhà Tâm lý học xã hội thì: Hệ thống định hướng giá trị phản
ánh hệ tư tưởng và văn hoá xã hội, cơ sở bên trong của những quan hệ của con
người đối với những giá trị khác nhau có tính vật chất, chính trị, tinh thần và đạo
đức. Định hướng giá trị của nhóm hình thành trong quá trình hoạt động cùng nhau,
phụ thuộc vào quan hệ của nhóm trong hệ thống các quan hệ xã hội.
16
Ở Việt Nam, các tác giả nghiên cứu cũng có nhiều quan niệm khác nhau về
định hướng giá trị.
Theo tác giả Thái Duy Tuyên, khái niệm định hướng giá trị thường được
hiểu theo 2 nghĩa. Nghĩa thứ nhất: ông quan niệm mỗi cá nhân hay cộng đồng nào
đó định hướng giá trị cho mình có nghĩa là lựa chọn cho mình một giá trị hoặc một
hệ thống giá trị nào đấy. Nghĩa thứ hai, mỗi cá nhân hay cộng đồng định hướng giá
trị cho một người hay một tập thể có nghĩa là giáo dục giá trị [32].
Tác giả Đào Hiền Phương cho rằng “Định hướng giá trị là sự phản ánh chủ
quan, có phân biệt các giá trị trong ý thức và tâm lý con người. Định hướng giá trị
của mỗi người mang những nét riêng biệt đặc trưng của người đó. Con người sống
trong môi trường nào, thuộc thành phần xã hội nào đều mang những nét chung nhất
định của nó về định hướng giá trị. Định hướng giá trị không phải là bất biến, nhất là
các giá trị vật chất, nó có sự thay đổi theo môi trường sống và hoạt động thực tiễn,
Định hướng giá trị chi phối, điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người, hướng tới
những mục đích cơ bản trong cuộc sống” [21,tr.23].
Theo tác giả Lê Đức Phúc: “Định hướng giá trị là thái độ lựa chọn của con
người đối với các giá trị vật chất và tinh thần, là một hệ thống tâm thế, niềm tin, sở
thích được biểu hiện trong hành vi của con người” [20,tr.23]. Ở đây, tác giả Lê Đức
Phúc quan tâm đến 3 khía cạnh của định hướng giá trị, đó là: nhận thức, thái độ,
hành vi.
Như vậy, có rất nhiều cách quan niệm khác nhau về định hướng giá trị.
Trên cơ sở phân tích, tiếp thu quan điểm của các nhà nghiên cứu về định
hướng giá trị, chúng tôi thống nhất quan niệm về định hướng giá trị theo quan
điểm của tác giả Lê Đức Phúc, do đó, chúng tôi hiểu:
Định hướng giá trị là thái độ của con người đối với các giá trị vật chất và
tinh thần, là một hệ thống quan điểm, niềm tin, cảm xúc được biểu hiện trong hành
vi của con người.
1.2.2.2 Đặc điểm, vai trò và quá trình hình thành định hướng giá trị.
Từ khái niệm về định hướng giá trị, chúng ta có thể thấy một số đặc điểm sau
của định hướng giá trị:
17
+ Định hướng giá trị của con người được thể hiện trên 3 mặt: quan điểm,
niềm tin, cảm xúc và hành vi.
+ Định hướng giá trị được hình thành trong quá trình cá nhân hoặc
nhóm người gia nhập vào các quan hệ xã hội với tư cách chủ thể của các hoạt
động đó, hướng vào các giá trị có ý nghĩa cơ bản đối với cá nhân hay nhóm.
+ Quá trình định hướng giá trị bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố nhận
thức (đánh giá), ý chí và cảm xúc (thử nghiệm) cũng như các khía cạnh đạo
đức, thẩm mỹ trong sự phát triển nhân cách .
+ Định hướng giá trị là cơ sở bên trong của hành vi, quyết định lối sống
của cá nhân.
Định hướng giá trị là “cái trục” mà mọi ý nghĩ và thế giới tâm lý của con
người xoay quanh. Định hướng giá trị là nhân tố trung tâm chi phối mọi suy nghĩ,
điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người, từ đó hướng hoạt động tới mục đích
cơ bản của cuộc đời.
Từ đó ta thấy việc nghiên cứu định hướng giá trị là rất quan trọng và có ý
nghĩa trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Vì vậy,
hiện nay việc định hướng giá trị, giáo dục giá trị đang trở thành vấn đề có tính chất
toàn cầu. Do có sự thay đổi về nhận thức, tâm lý, do ngoại cảnh, môi trường học
tập, do nhu cầu của cuộc sống và sự tác động của thế giới bên ngoài nên việc định
hướng giá trị ở con người hiện đang có sự thay đổi khá phức tạp. Việc tìm ra cái
chung nhất ở hệ thống giá trị đặc trưng của họ, để từ đó nghiên cứu định hướng giá
trị cho họ là việc làm liên tục và lâu dài. Cần phải khắc phục tình trạng đổ vỡ niềm
tin thiếu định hướng trong tương lai, biến con người thành những người chạy theo
xã hội tiêu dùng, sống theo mục đích thiếu lý tưởng.
Định hướng giá trị được hình thành thông qua quá trình cá nhân gia nhập các
quan hệ xã hội. Trong quá trình đó, họ dần hình thành nên ở mình những giá trị về
cuộc sống, những giá trị về phẩm chất cá nhân, những giá trị nghề nghiệp. Hệ thống
định hướng giá trị cá thể hình thành và thay đổi liên tục dưới ảnh hưởng của các
điều kiện xã hội, tương ứng với các đặc điểm tâm lý của cá nhân và nằm trong quá
trình xã hội hoá. Chúng hình thành trên những nhu cầu của chủ thể về việc nắm
18
vững những hình thức cơ bản của hoạt động sống trong điều kiện lịch sử cụ thể xác
định và do tính chất của các quan hệ xã hội quy định.
Định hướng giá trị của cá nhân còn được hình thành dưới tác động của môi
trường xã hội, trong đó các giá trị cá thể, giá trị nhóm, giá trị xã hội của xã hội đồng
thời tác động và đan xem vào nhau. Tuy nhiên, trong quá trình hình thành đó, nhân
cách không thụ động mà là thành phần tích cực của các quan hệ xã hội và các tương
tác xã hội. Kết quả của quá trình định hướng giá trị là khẳng định được giá trị hay
nói một cách khác là giá trị được hình thành ở cá nhân và cá nhân căn cứ vào giá trị
đó mà hành động.
1.2.2.3 . Phân loại định hướng giá trị
Các giá trị của con người rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Vì vậy, dựa
trên những căn cứ khác nhau có các cách phân loại định hướng giá trị cũng khác
nhau, cụ thể:
- Nếu căn cứ vào đối tượng của sự định hướng, ta có:
+ Định hướng giá trị vật chất.
+ Định hướng giá trị tinh thần.
- Nếu căn cứ vào ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của những giá trị mà
con người đang theo đuổi, ta có:
+ Định hướng giá trị tích cực.
+ Định hướng giá trị tiêu cực.
- Nếu căn cứ vào ý nghĩa xã hội hay cá nhân của những mục đích cá
nhân hướng tới, ta có:
+ Định hướng giá trị xã hội.
+ Định hướng giá trị cá nhân.
1.2.3. Định hướng giá trị nghề
1.2.3.1. Khái niệm chung về Nghề
Theo từ điển tiếng Việt căn bản, “Nghề” là “công việc chuyên môn theo sở
trường hoặc theo sự phân công của xã hội” [19, tr.654]. Như vậy, nghề là một hoạt