Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Định hướng giá trị về gia đình hạnh phúc của sinh viên đã tốt nghiệp ra trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 116 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




ĐÀO THỊ LAN HƯƠNG





ĐỀ TÀI: ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ VỀ GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC CỦA
SINH VIÊN ĐÃ TỐT NGHIỆP RA TRƯỜNG





LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC









Hà Nội - 2010

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




ĐÀO THỊ LAN HƯƠNG



Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 603180

ĐỀ TÀI: ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ VỀ GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC CỦA
SINH VIÊN ĐÃ TỐT NGHIỆP RA TRƯỜNG




LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC




Người hướng dẫn khoa học: Tiễn sĩ Trương Thị Khánh Hà



Hà Nội – 2010

4

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 9
1. Lý do chọn đề tài 9
2. Mục đích nghiên cứu 10
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 10
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu 11
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 11
6. Giả thuyết khoa học 11
7. Phương pháp nghiên cứu 11
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 12
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ VÀ GIA
ĐÌNH 12
1. 1. Một số nghiên cứu về định hướng giá trị 12
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài 12
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước 13
1.2. Một số nghiên cứu về gia đình. 16
1.2.1. Nghiên cứu ở nước ngoài 16
1.2.2. Nghiên cứu ở trong nước 19
1.3. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài nghiên cứu 21
1.3.1. Giá trị 21
1.3.2. Định hướng giá trị 27
1.3.3. Định hướng giá trị về gia đình hạnh phúc 32
1.3.4. Định hướng giá trị về gia đình hạnh phúc của sinh viên đã tốt nghiệp ra

trường 34
CHƯƠNG 2
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 45
2.1. Tổ chức nghiên cứu 45
2.2. Phương pháp nghiên cứu 46

5

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ VỀ GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC CỦA
SINH VIÊN ĐÃ TỐT NGHIỆP RA TRƯỜNG 49
3.1. Quan niệm của sinh viên đã tốt nghiệp ra trường về gia đình hạnh phúc 49
3.2. Định hướng giá trị của sinh viên đã tốt nghiệp ra trường về các yếu tố tạo nên
gia đình hạnh phúc 52
3.2.1. Yếu tố tình yêu thương, sự chung thủy trong gia đình 56
3.2.2. Yếu tố kinh tế 61
3.3. Các yếu tố cần thiết trong mối quan hệ vợ chồng để đảm bảo gia đình hạnh
phúc 74
3.4. Những phẩm chất cần có của người chồng, người vợ để đảm bảo gia đình hạnh
phúc 75
3.4.1. Phẩm chất cần có của người chồng để đảm bảo gia đình hạnh phúc 75
3.4.2. Phẩm chất cần có của người vợ để đảm bảo gia đình hạnh phúc 79
3.5. Định hướng giá trị của sinh viên đã tốt nghiệp ra trường về mô hình gia đình
hạnh phúc 82
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
PHỤ LỤC 99












6

Bảng các cụm từ viết tắt

ĐHGT
Định hướng giá trị
GĐHP
Gia đình hạnh phúc
GT
Giá trị

Gia đình
SV ĐTNRT
Sinh viên đã tốt nghiệp ra trường
CNH - HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa























7

DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU

Bảng 3.1: Quan niệm của SVĐTNRT về GĐHP 49
Bảng 3.2: Mức độ ưu tiên các yếu tố tạo nên gia đình hạnh phúc 53
Bảng 3.2.1: Tỷ lệ lựa chọn yếu tố tình yêu chân thành, chung thủy 56
Bảng 3.2.1.1: So sánh tỷ lệ lựa chọn nam và nữ, giữa những người chưa lập gia
đình và đã lập gia đình về yếu tố tình yêu, thủy chung 58
Bảng 3.2.2: Tỷ lệ lựa chọn yếu tố kinh tế 61
Bảng 3.2.2.1: So sánh tỷ lệ lựa chọn giữa nam và nữ, những người đã lập gia đình
và những người chưa lập gia đình về yếu tố kinh tế 64
Bảng 3.2.3 : ĐHGT nam và nữ về các yếu tố phân công lao động trong GĐ 67
Bảng 3.2.4: Mong muốn số con, giới tính con trong gia đình 71

Bảng 3.3: Các yếu tố cần thiết trong mối quan hệ vợ chồng 74
Bảng 3.4.1. Phẩm chất người chồng đảm bảo gia đình hạnh phúc 75
Bảng 3.4.1.1: So sánh giữa nam và nữ về phẩm chất cần có của người chồng đảm
bảo gia đình hạnh phúc 77
Bảng 3.4.2. Phẩm chất người vợ đảm bảo gia đình hạnh phúc 79
Bảng 3.4.2.2. So sánh giữa nam và nữ về phẩm chất người vợ đảm bảo gia đình
hạnh phúc 80












8


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.2. Mức độ ưu tiên các yếu tố tạo nên gia đình hạnh phúc 54
Biểu đồ 3.2.2: Tỷ lệ lựa chọn yếu tố kinh tế 62
Biểu đồ 3.4.1. Phẩm chất người chồng đảm bảo gia đình hạnh phúc 77
Biểu đồ 3.4.2. Phẩm chất người vợ đảm bảo gia đình hạnh phúc 80
Biểu đồ 3.5: Mô hình gia đình được ưa thích 83
Biểu đồ 3.5.1: So sánh ĐHGT của nam và nữ về mô hình gia đình hạnh phúc 87

Biểu đồ 3.5.2: ĐHGT của người đã lập gia đình và chưa lập gia đình về lựa chọn
mô hình gia đình hạnh phúc 89



9

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống xã hội của con người, giá trị là sự biểu hiện về những quan
điểm thái độ, hành vi của cá nhân, nhóm, cộng đồng xã hội. ĐHGT tạo thành nội
dung của xu hướng cá nhân, nó quyết định lối sống của cá nhân, ảnh hưởng trực
tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách ở mỗi người và sự tiến bộ xã hội.
Gia đình là tế bào của xã hội. Tế bào khoẻ, cơ thể mới khoẻ. Gia đình êm ấm,
hạnh phúc thì xã hội mới phồn vinh, ổn định. Như Bác Hồ nói “Quan tâm đến gia
đình là rất đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình
càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt” [21, tr.128] . Đối với mỗi cá nhân, gia đình
là môi trường xã hội đầu tiên, cái nôi của sự hình thành và phát triển nhân cách của
mỗi cá nhân. Tác giả Nguyễn Khắc Viện đã nói “Gia đình là nơi để mỗi thành viên
từ tấm bé được bồi dưỡng về mặt vật chất và tinh thần, là chỗ dựa khi cuộc sống
ngoài xã hội gặp khó khăn. Gia đình là một tổ ấm”. Gia đình có yên ấm hạnh phúc
thì mới tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi cá nhân phát triển về mặt vật chất và tinh
thần. Như vậy, có thể khẳng định rằng gia đình có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với xã hội và cá nhân.
Chúng ta đã biết gia đình được coi là một xã hội thu nhỏ, chịu sự chi phối
của xã hội lớn. Trong mỗi thời kì lịch sử phát triển của xã hội lại có những giá trị
truyền thống hình mẫu lý tưởng của gia đình tương ứng. Quan niệm của con người
về gia đình cũng thay đổi theo sự phát triển của xã hội. Xã hội hiện nay đang
chuyển dần từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, sự chuyển đổi này

ảnh hưởng rất lớn đến đời sống vật chất, tinh thần, ảnh hưởng tích cực và tiêu cực
đến sự phát triển gia đình. SVĐTNRT (sinh viên đã tốt nghiệp ra trường) lực lượng
lao động lớn của xã hội, là chuyên gia của nhiều lĩnh vực hoạt động trong xã hội,
họ còn là chủ nhân của những gia đình trẻ trong tương lai. Họ có vai trò rất quan
trọng trong việc xây dựng một gia đình hạnh phúc, góp phần xây dựng nên một xã
hội văn minh, thịnh vượng. Việc tìm hiểu ĐHGT của SVĐTNRT về gia đình hạnh

10

phúc có ý nghĩa thiết thực về mặt lý luận và thực tiễn. Định hướng về gia đình hạnh
phúc có tác động sâu sắc đến nhận thức, hành vi của mỗi cá nhân, có ảnh hưởng rất
lớn đến việc quyết định sẽ lập gia đình và duy trì đời sống gia đình đó như thế nào
và có những quyết định đến việc sinh đẻ, chăm sóc con cái và phụng dưỡng cha mẹ.
Chúng tôi thực sự muốn tìm hiểu SVĐTNRT có định hướng như thế nào về gia
đình hạnh phúc. SVĐTNRT có ĐHGT về GĐHP một cách đúng đắn sẽ tạo điều
kiện tốt cho sự phát triển không những của các thành viên trong gia đình mà còn
quyết định sự tiến bộ đi lên của xã hội, điều này cũng đồng nghĩa với việc nếu
SVĐTNRT mà không có ĐHGT về GĐHP đúng đắn thì sẽ ảnh hưởng rất lớn sự
nghiệp, sức khỏe, tương lai, con cái… và cũng kéo theo sự thụt lùi sự phát triển của
xã hội.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Định
hướng giá trị về gia đình hạnh phúc của sinh viên đã tốt nghiệp ra trường”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị của sinh viên đã tốt nghiệp ra trường
về gia đình hạnh phúc
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- ĐHGT của SVĐTNRT về các yếu tố tạo nên GĐHP
- ĐHGT của SVĐTNRT về phẩm chất người chồng tạo nên GĐHP
- ĐHGT của SVĐTNRT về phẩm chất người vợ tạo nên GĐHP

- ĐHGT của SVĐTNRT về mô hình GĐHP
3.2. Khách thể nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi nghiên cứu trên 120 SVĐTNRT hiện đang sống
và làm việc tại thành phố Hà Nội. Cụ thể là: 60 nam (30 nam đã lập gia đình; 30
nam chưa lập gia đình) và 60 nữ (30 nữ đã lập gia đình; 30 nữ chưa lập gia đình);

11

4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Tìm hiểu ĐHGT của SVĐTNRT về một số yếu tố tạo
nên gia đình hạnh phúc.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận
- Khái quát một số vấn đề lý luận về gia đình hạnh phúc và các yếu tố ảnh hưởng
- Đưa ra các khái niệm cơ bản của đề tài
5.2. Nghiên cứu thực tiễn
- ĐHGT của SVĐTNRT về các yếu tố tạo nên GĐHP
- ĐHGT của SVĐTNRT về phẩm chất người chồng tạo nên GĐHP
- ĐHGT của SVĐTNRT về phẩm chất người vợ tạo nên GĐHP
- ĐHGT của SVĐTNRT về mô hình GĐHP
5.3. Kết luận và kiến nghi
6. Giả thuyết khoa học
Hiện nay phần lớn SVĐTNRT có ĐHGT về GĐHP thiên về giá trị vật chất
hơn giá trị tinh thần, và có sự khác nhau về ĐHGT về GĐHP giữa sinh viên nam;
nữ, và giữa người đã lập gia đình và người chưa lập gia đình.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tai lieu
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu bằng bảng hỏi

7.2.3. Phương pháp quan sát
7.2.4. Phương pháp hoàn thiện câu
7.2.5. Phương pháp thống kê toán học
Trong đó phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp chính

12

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ VÀ GIA ĐÌNH
1. 1. Một số nghiên cứu về định hướng giá trị
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Định hướng và định hướng giá trị luôn là vấn đề mà không chỉ những nhà
nghiên cứu ở nước ta mà ở các nghiên cứu trên thế giới cũng đề cập đến rất nhiều.
Phải kể đến một số công trình sau:
Năm 1977 - 1978 Trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên của Bungari
đã đề cập đến vấn đề ĐHGT đạo đức cho thanh niên. Trong đó đi sâu nghiên cứu sự
khác biệt thang GT so với thế hệ cha ông.
Năm 1985 Viện nghiên cứu thế giới của Nhật Bản đã chỉ đạo nghiên cứu
thanh niên ở độ tuổi từ 18 đến 24 tuổi của 11 nước, đó là: Nhật, Mỹ, CHLB Đức,
Pháp, Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển, Nam Tư, Philippin, Nam Triều Tiên, Brazin. Viện khảo
sát Xã hội học của Châu Âu đã tiến hành điều tra thanh niên ở lứa tuổi từ 15 - 24
tuổi ở 10 nước Châu Âu: Pháp, Hà Lan, CHLB Đức, ý, Bỉ, Lucxămbua, Đan Mạch,
Ailen, Anh và Hi Lạp. Cả hai cuộc điều tra trên người ta đề cập chủ yếu đến vấn đề
GT và ĐHGT của thanh niên nhằm chuẩn bị sẵn sàng bước vào cuộc sống.
Năm 1986 - 1987 UNESCO đã đề nghị The Clup of Rome (1972) tiến hành cuộc
điều tra quốc tế về GT đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỉ XXI trong
tình hình có những biến đổi thường xuyên và nhanh chóng về bạo lực đang ảnh
hưởng đến xã hội. Mục đích của cuộc nghiên cứu là hướng dẫn người làm công tác
giáo dục các vấn đề về GT đạo đức, đề nghị họ mở rộng điều tra hơn nữa và sử
dụng điều tra đó vào hệ thống giáo dục của các nước, ở tất cả những nơi mà lớp trẻ

cần được giáo dục về GT đạo đức
Trong những năm trở lại đây, các nước Châu Âu và Đông Nam Á đã có nhiều
cuộc hội thảo, tập huấn về nghiên cứu GT và giáo dục GT. Nhiều tài liệu về giáo
dục GT của các nước đã được công bố, đặc biệt là “Chương trình giáo dục cho
người Philippin”, (1998) và tập tài liệu “GT trong hành động” của Trung tâm Canh

13

tân và Công nghệ giáo dục thuộc tổ chức bộ trưởng giáo dục Đông Nam Á xuất bản
1992. Các tài liệu này đã trình bày quan niệm, mục tiêu, chương trình, và cách đưa
giáo dục GT vào nhà trường và cộng đồng các nước Indonesia, Philippin, Singapo,
Thái Lan, Malaysia.
V. A. Ladop cho rằng: ĐHGT là những biểu tượng của con người về những
mục đích chủ yếu của cuộc đời và những phương tiện cơ bản đạt những mục đích
ấy. ĐHGT đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các chương trình hành vi lâu
dài. Chúng hình thành trên cơ sở những nhu cầu của chủ thể về việc nắm vững
những hình thức cơ bản của hoạt động sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể
xác định và do tính chất của các quan hệ xã hội quy định. Các quan hệ xã hội là
nguồn gốc khách quan hình thành những nhu cầu của chủ thể [19, tr.46].
I. Têvưkin cho rằng: ĐHGT là việc đánh giá khả năng, tình hình hiện có để
xác định các phương tiện và phương pháp nhằm đạt mục đích đề ra.
K.D. Đavưdov cho rằng: ĐHGT là một hệ thống các đích của cá nhân được
khắc hoạ có tính lựa chọn của cá thể đối với các GT.
Khoảng giữa những năm 1950 đã có công trình nghiên cứu và làm rõ mối
quan hệ giữa giá trị vật chất và giá trị tinh thần trong xã hội đương thời Mỹ. Mục
đích nghiên cứu của ông là nhằm giúp cho mọi người tìm thấy điều làm cho họ
hạnh phúc. Kết quả cho thấy, sự giàu có về vật chất không làm cho cuộc sống của
con người hạnh phúc, một cuộc sống đầy đủ không liên quan đến một cuộc sống
tinh thần tốt đẹp. Sau đó ông tiếp tục công trình nghiên cứu trên 1000 thiếu niên và
thu được kết quả là những thiếu niên thuộc tầng lớp xã hội thấp kể về hạnh phúc

nhiều nhất, còn trẻ em thuộc tầng lớp gia đình có địa vị cao trong xã hội lại kể về
hạnh phúc ít nhất. Ông đã nhắc đến một trong những nhiệm vụ của các nhà tâm lý
học xã hội là phải dạy cho lớp trẻ tìm thấy niềm vui trong những sự việc đúng đắn.
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước
Nền kinh tế của Việt Nam thời gian gần đây có nhiều biến đổi lớn như vận hành
theo cơ chế thị trường, điều đó ảnh hưởng sâu sắc đến nhân cách con người Việt

14

Nam. Bên cạnh sự xuất hiện những giá trị mới đúng đắn trong đời sống, đã xuất
hiện những lệch lạc về ĐHGT. Chính vì thế, vấn đề GT và ĐHGT đã thu hút được
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều người. Có thể kể đến một vài công trình sau:
Đào Hiền Phương cho rằng: “ĐHGT là sự phản ánh chủ quan, có tính phân
biệt các GT trong ý thức và tâm lý con người, ĐHGT của mỗi người mang những
nét đặc trưng riêng biệt của người đó. Con người sống trong môi trường nào, thuộc
thành phần xã hội nào, đều mang những nét nhất định của nó về ĐHGT. ĐHGT
không phải là bất biến, nhất là các GT vật chất nó có sự thay đổi theo môi trường
sống và hoạt động thực tiễn. ĐHGT chi phối điều chỉnh hình vi, hoạt động của con
người, hướng tới những mục đích cơ bản trong cuộc sống” [18, tr.23]
Theo Lê Đức Phúc: “ĐHGT là thái độ, là sự lựa chọn các GT vật chất và GT
vật chất và tinh thần, là một hệ thống tâm thế, niềm tin, sở thích, được biểu hiện
trong hành vi của con người” [17, tr.18].
Theo Thái Duy Tuyên: “ĐHGT là thái độ, là sự lựa chọn các GT vật chất và
tinh thần là hệ thống tâm thế, niềm tin, sở thích, của con người đối với một GT nào
đó” [20, tr.147,154]
Năm 1989, Viện xã hội học đã thực hiện đề tài “Chuyển đổi về cơ cấu xã hội và
ĐHGT ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ”. Đề tài tiếp cận đến ĐHGT của các nhóm
xã hội có độ tuổi khác nhau ở một số tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ.
Năm 1990, Viện nghiên cứu thanh niên với đề tài “Tình hình Sinh viên” thuộc
chương trình “Chính sách thế hệ trẻ” do Ban khoa giáo trung ương chủ trì đã tiếp

cận vấn đề này qua một số mặt như: ĐHGT cuộc sống, nghề nghiệp và tính tích cực
xã hội.
Từ những năm 1991 – 1995 tác giả Nguyễn Quang Uẩn đã tập trung nghiên cứu
những đặc trưng cơ bản trong nhân cách con người Việt Nam hiện nay trên 3 mặt là
ĐHGT của nhân cách: tiềm năng, khả năng của nhân cách, phẩm chất, hành vi, nếp
sống, thói quen của nhân cách. Đặc biệt đề cập đến vấn đề GT, ĐHGT của con
người Việt Nam trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, đổi mới, mở
cửa và thực hiện quá trình CNH – HĐH đất nước. Các nghiên cứu đã chỉ ra sự

15

chuyển đổi mạnh mẽ về ĐHGT xã hội, đặc biệt đối tượng là thanh niên trong giai
đoạn xã hội chuyển sang nền kinh tế thị trường. Từ kết quả nghiên cứu này tác giả
Phạm Minh Hạc đã nhấn mạnh để phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH chuẩn bị cho
những chủ nhân tương lai của đất nước đi vào thế kỷ XXI, chúng ta cần giáo dục
cho thế hệ trẻ những ĐHGT dưới đây: có niềm tin vững chắc và quyết tâm thực
hiện sự nghiệp CNH – HĐH, có bản chất nhân văn, nhân đạo, nhân ái trong quan hệ
giữa người với người, có năng lực khoa học, có trình độ công nghệ cao, có thể lực
cường tráng, có ý thức công dân, có cá tính và bản sắc riêng [23, tr.123 – 128]
Năm 1993, tác giả Đỗ Ngọc Hà trong đề tài “Mâu thuẫn thế hệ trong xã hội ta
hiện nay, thực trạng và giải pháp” đã bàn đến sự khác biệt về ĐHGT giữa nhóm xã
hội thanh niên, trung niên, và người già.
Đề tài “Ảnh hưởng của kinh tế thị trường đối với việc hình thành và phát triển
nhân cách con người Việt Nam”, mã số KX- 07- 10 (1993) do Thái Duy Tuyên làm
chủ nhiệm, đã đề cập tới vấn đề “Nhu cầu, nguyện vọng của thanh niên và địng
hướng giá trị của thanh niên”
Năm 1996 trong luận án Phó Tiến Sĩ Tâm lý học của Nguyễn Thị Khoa:
“ĐHGT chất lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức hiện nay”, tác giả đã phân
tích hệ thống định hướng chất lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức Việt Nam
hiện nay theo từng độ tuổi và theo các lĩnh vực mà họ tham gia.

Năm 1998, Lê Quang Sơn trong luận án Tiến sĩ Tâm lý học “Những đặc trưng
tâm lý trong ĐHGT của thanh niên Việt Nam hiện đại” đã xem ĐHGT như là những
thái độ của nhân cách với bản thân và thế giới trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Năm 2001, Luận án tiến sĩ của Đỗ Ngọc Hà: “ĐHGT của thanh niên, sinh viên
hiện nay” đã khảo sát 1803 sinh viên của cả 3 miền Bắc – Trung - Nam về ĐHGT
của họ, những biểu hiện đặc trưng và xu hướng biến đổi ĐHGT của thanh niên, sinh
viên hiện nay
Tác giả Lê Thị Thanh Huyền trong luận văn thạc sĩ đã đưa ra các vấn đề:
+ ĐHGT nhân cách của sinh viên về các mặt của cuộc sống xã hội
+ ĐHGT nhân cách người giáo viên và các thang giá trị

16

+ Các yếu tố ảnh hưởng đến ĐHGT nhân cách của sinh viên [11, tr.5]
- Trong cuốn “ĐHGT của thanh niên, sinh viên trong giai đoạn hiện nay” (2008)
của tác giả của Cao Xuân Thạo thì lại đề cập đến vấn đề:
+ Những giá trị quan trọng đối với cuộc sống của thanh niên, sinh viên trong
giai đoạn hiện nay
+ ĐHGT trong học tập, khoa học
+ ĐHGT trong các mối quan hệ giao tiếp
- Năm 1995, Nguyễn Đăng Động luận văn Thạc sĩ Tâm lý học “Bước đầu tìm
hiểu một số biểu hiện về ĐHGT nghề dạy học của sinh viên sư phạm trong điều
kiện kinh tế thị trường” đã đi sâu tìm hiểu về những giá trị về nghề sư phạm và
những phẩm chất căn bản của nhà giáo, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.
Như trên tôi đã đưa ra những công trình nghiên cứu về GT, ĐHGT ở cả những
nghiên cứu của thế giới và Việt Nam tuy nhiên những nghiên cứu “ĐHGT về
HPGĐ” thì còn ít.
Nhìn chung, vấn đề ĐHGT đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các đối tượng
thanh niên, sinh viên của một số trường Cao đẳng, Đại học. Trên cơ sở tiếp thu
những thành tựa của những tác giả đi trước đồng thời bằng lý luận và thực tiễn quá

trình nghiên cứu trên khách thể mới và địa bàn mới. Chúng tôi tiếp thu để hoàn
thiện hơn cho cơ sở lý luận về đề tài của mình.
1.2. Một số nghiên cứu về gia đình.
1.2.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Gia đình có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển xã hội nói chung và
sự phát triển nhân cách của con người nói riêng. Mỗi thời đại lịch sử được quyết
định bởi trình độ phát triển của lịch sử và trình độ phát triển của gia đình. Do vậy,
gia đình là vấn đề quan trọng được nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu.
Đứng trên nhiều góc độ khác nhau, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều quan
niệm khác nhau về gia đình.

17

Tuyên bố về Tiến bộ xã hội trong phát triển của Liên hợp quốc định nghĩa: “Gia
đình là một đơn vị của xã hội là môi trường tự nhiên có sự phát triển và hạnh phúc
của mọi thành viên nhất là trẻ em”.
Theo H. Lốccơ, “GĐ là một nhóm người liên kết với nhau bằng quan hệ hôn
nhân và máu mủ hay bằng nhận con nuôi, tạo ra một hệ thống riêng biệt, tác động
qua lại và giao tiếp với nhau qua vai trò xã hội của con người: là chồng, là vợ, là bố,
là mẹ, là anh, chị, anh, em …. tạo nên một nền văn hoá chung”. Quan niệm này rất
đầy đủ về ý nghĩa của một gia đình vì vừa chỉ ra cấu trúc của gia đình vừa chỉ ra
mối quan hệ và quan trọng nhất đã chỉ ra rằng tổng hoà các thành viên trong gia
đình, bằng giá trị và sự tác động qua lại đã tạo ra nền văn hoá.
Nhà giáo dục lỗi lạc của Liên Xô là A. X. Xukhômlinxki đã trình bày các vấn đề
trong gia đình ở cuốn “Giáo dục con người chân chính như thế nào” [26]
Trong cuốn “Trong gia đình”, Protopopova đã trình bày một số khía cạnh của
đời sống tâm lý hay vợ chồng và giữa các thành viên khác trong gia đình, sự đấu
tranh giữa vợ chồng để tìm ra bến bờ hạnh phúc.
Trong cuốn “Xây dựng gia đình” của L. Côvaleva, tác giả đã đề cập đến rất
nhiều vấn đề khác nhau, như lựa chọn bạn đời như thế nào? Giữ gìn tình yêu như

thế nào? cần xây dựng hạnh phúc gia đình ra sao?
Cuốn “Tình yêu - Gia đình - Hạnh phúc” của Bangdelade nói về vấn đề đạo đức
giữa vợ và chồng và các mặt khác.
Tác giả Xã hội học Nga T. A. Phanaxeva đã tổng kết có 3 quan niệm khác nhau
về gia đình:
+ Quan điểm thứ nhất: Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội liên kết với nhau bằng
một chỗ ở, bằng một ngân sách chung và một mối quan hệ ruột thịt.
+ Quan điểm thứ hai: Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội liên hệ với nhau trong
một nhà, bằng một nguồn ngân sách chung và mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau bằng
tình cảm và trách nhiệm.
+ Quan điểm thứ 3: Gia đình hiện đại là một nhóm nhỏ xã hội bao gồm bố mẹ và
con cái của một vài thế hệ, các thành viên trong gia đình có mối quan hệ ràng buộc

18

về chất, tinh thần theo những nguyên tắc mục đích sống như nhau về các vấn đề
trong sinh hoạt [25, tr.4]
Từ những năm 500 tr. CN, các nhà kinh điển của Nho giáo đã coi nhà là mắt
xích quan trọng nhất nối kết con người với đất nước và thế giới. Các tác phẩm của
cả hai thời kỳ Nho giáo nguyên thủy và Hậu Nho với các đại biểu nổi tiếng như
Khổng Tử, Mạnh Tử (Nho giáo nguyên thủy) và Chu Hi, Trình Y Xuyên (Hậu Nho)
đã đặt các nghiên cứu về gia đình ở Trung Quốc và được truyền bá sang các nước
như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên… Các tác phẩm cũng đã chỉ rõ vị trí, vai trò
của gia đình trong xã hội. Đồng thời cũng nêu cụ thể vị trí, vai trò của từng thành
viên trong gia đình và xác lập một trật tự xã hội từ trong nhà ra toàn xã hội một cách
chặt chẽ. Nho giáo đã coi mối quan hệ giữa thân – nhà – nước – thiên hạ là nền
tảng của cấu trúc xã hội. Mạnh Tử cho rằng: thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà,
nhà gốc ở thân mình (thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại
thân) [13, tr.79]. Hay một lẽ sống và cũng là một chuẩn mực đạo đức cho mỗi con
người trong xã hội là tu thân, tề gia, trị quốc

Các nhà triết học Hy Lạp là những người đầu tiên nghiên cứu về gia đình một
cách hệ thống. Aristotle coi gia đình là một phạm trù biến đổi, mang tính lịch sử
trong quá trình tiến triển của lịch sử. Tuy nhiên, những nghiên cứu này của ông còn
mang tính tự phát, dựa vào những nhận thức nhạy cảm, thông minh, nhưng có phần
chủ quan và thiên kiến.
S. Freud đã phân tích gia đình dưới cả hai khía cạnh sinh học và xã hội. Ông cho
rằng gia đình là nền tảng của sự phát triển nhân cách ở trẻ: các mối quan hệ thời thơ
ấu quyết định đặc điểm nhân cách mỗi cá nhân. Các xung đột vô thức thời bé là
nguồn gốc các triệu chứng bệnh lý về sau. Ông đi lý giải cái vô thức và đưa ra lý
thuyết chọn bạn đời theo hướng sinh học. Ông quan niệm rằng: “Tình yêu chẳng
qua là ánh hào quang phủ lên sự hưởng thụ tính dục. Tình yêu chỉ là ảo tưởng, là
thi vị hóa tính dục, sức mạnh của tình yêu là thỏa mãn tính dục” [16, tr.88]. Bên
cạnh đó, ông coi gia đình là “một hình thức hợp lý hóa tình dục”. Dưới góc nhìn
của S. Freud, gia đình được xem xét trên 3 mối quan hệ: vợ - chồng; cha mẹ - con

19

cái; anh chị em. Trong mối quan hệ vợ chồng ông lý giải các hiện tượng ngoại tình,
đồng tính… giống như một cơ chế bù trừ. Quan hệ cha mẹ - con cái: trong những
năm đầu đời của trẻ sự sáp nhập giữa trẻ và mẹ diễn ra mạnh mẽ. Trong những năm
tiếp theo diễn ra theo hai chiều hướng: yêu mến (sự đồng nhất) và ghét bỏ (sự ghen
tỵ), điều này thể hiện rõ nhất qua câu chuyện “Ơđip”. Trong quan hệ anh chị em,
Phân tâm học chủ yếu là quan hệ cạnh tranh tình yêu thương của cha mẹ. Dễ dẫn
đến các biểu hiện của thoái lui, cắm chốt (chậm phát triển). Tương ứng với mỗi giai
đoạn phát triển tâm tính dục, cần có những đáp ứng phù hợp để đảm bảo sự phát
triển nhân cách bình ổn.
Tác giả Morton S. Fine cho rằng gia đình là “Nhiều gia đình hợp lại thành một
cộng đồng lớn hơn, có luật pháp quy định, phong tục tập quán, ngôn ngữ, tôn giáo
ràng buộc họ với nhau, chi phối, điều hoà công việc của họ để họ có thể có cuộc
sống trật tự, có tổ chức ở một nghĩa nào đó, cộng đồng là gia đình mở rộng [34,

tr.131].
1.2.2. Nghiên cứu ở trong nước
Vấn đề gia đình và hạnh phúc gia đình được rất nhiều nhà nghiên cứu và đã đưa
ra những quan niệm khác nhau. Chính vì vậy, các nhà nghiên cứu của Việt Nam
cũng đã kế thừa và đưa ra một số công tình nghiên cứu. Đầu tiên phải kể đến cuốn
Tâm lý học gia đình của Ngô Công Hoàn với các quan niệm cơ bản về gia đình và
khả năng giữ gìn và bảo toàn, phát huy hạnh phúc trong gia đình. Trong tác phẩm
này, tác giả đã đề cập đến những đặc điểm, những quy luật tâm lý diễn ra trong cuộc
sống hàng ngày của mỗi gia đình. Theo ông quan điểm về gia đình là:
+ Gia đình là một nhóm xã hội, nhất thiết phải có 2 người trở nên;
+ Trong gia đình phải có giới tính khác nhau thông quan quan hệ hôn nhân;
+ Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình phải là quan hệ ruột thịt, huyết
thống, nghĩa là có quan hệ tái sản xuất ra con người. Nếu không có quan hệ này thì
không thể gọi là gia đình theo đúng nghĩa;
+ Quan hệ kinh tế: Các thành viên trong gia đình sống và hoạt động trong
một ngân sách chung do các thành viên đem lại khi lao động;

20

Trong cuốn Tâm lý học Tình yêu, Gia đình của Nguyễn Đình Xuân đã đề cập
đầy đủ về các yếu tố xoay quanh các chủ đề :
+ Mối quan hệ giữa tâm lý và sự phát triển gia đình
+ Các yếu tố tâm lý trong việc xây dựng tâm lý gia đình
+ Tâm lý của các thành viên trong gia đình
+ Xung đột và cách giải quyết xung đột
Theo bác sĩ Nguyễn Khắc Viện: Gia đình gồm bố mẹ và con cái và có hay
không một số người khác ở chung một nhà.
Trong báo cáo tại Hội nghị “Người mẹ Việt Nam và vấn đề nuôi dạy con”, trên
cơ sở đưa ra một số dẫn chứng đáng lo ngại xung quanh vấn đề hôn nhân giữa nam
và nữ trong và ngoài nước đã chỉ ra sự cần thiết phải có kế hoạch, chương trình, cụ

thể nhằm giúp thanh niên quan niệm đúng đắn về tình yêu và có tâm thế nhất định
cho việc làm cha, làm mẹ sau này.
Trong cuốn “Bí quyết xây dựng hạnh phúc lứa đôi” của Huỳnh Đức Quang đã
đề cập đến vấn đề hôn nhân, mối quan hệ giữa tình yêu và hôn nhân của tuổi trẻ
cũng như mối quan hệ của vợ chồng và con cái và việc nuôi dạy chúng nên người.
Cuốn “Giáo dục gia đình” của tác giả Phạm Khắc Chương đã đề cập đến tầm
quan trọng của gia đình, các nội dung và phương pháp giáo dục trong gia đình.
“Gia đình và giáo dục gia đình” của trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình
và phụ nữ (đề tài KX 07- 09) nhấn mạnh, vai trò, chức năng của gia đình, nội dung,
phương pháp giáo dục trong gia đình hiện nay cũng như sự ảnh hưởng của các môi
trường khác đến gia đình [1, tr.20]
Trong cuốn “Xây dựng gia đình và xác định cuộc sống văn minh hạnh phúc” của
Nhà Xuất Bản Phụ Nữ đã giới thiệu một số bài phát biểu tại hội nghị chuyên đề bàn
về cuộc vận động phụ nữ tham gia xây dựng gia đình văn hoá, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh vị trí, chức năng của gia đình.
Cuốn “Nhận diện gia đình Việt Nam hiện nay” của Trung tâm nghiên cứu khoa
học về phụ nữ, đã đề cập đến thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay, và xu hướng
phát triển của nó.

21

Bên cạnh đó có nhiều luận văn, luận án nghiên cứu đến những vấn đề liên quan
đến gia đình và hạnh phúc gia đình trong đó phải kể đến:
+ Luận án Tiến sĩ Cao Thị Huyền Nga đã đề cập đến xung đột tâm lý trong
quan hệ vợ chồng một trong những nguyên nhân cơ bản gây đổ vỡ cuộc sống gia
đình. Tác giả đã phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận về xung đột tâm lý trong
quan hệ vợ chồng. Trên cơ sở đó đã phân tích thực trạng và làm rõ những xung đột
tâm lý trong quan hệ vợ chồng hiện nay và đề xuất ra giải pháp nhằm củng cố và
xây dựng gia đình hạnh phúc [15, 2004]
Như vậy, vấn đề gia đình được rất nhiều tác giả nghiên cứu và các tác giả đã đưa

ra những quan điểm cơ bản những vấn đề chung về gia đình.
1.3. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài nghiên cứu
1.3.1. Giá trị
Khái niệm về giá trị
GT và giá trị học được nghiên cứu từ lâu và được tiếp cận bởi nhiều khoa
học khác nhau. Thời cổ đại và trung đại những tri thức về GT học gắn liền với Triết
học. Cuối thế kỉ XIX, GT học mới tách ra thành một khoa học độc lập và thuật ngữ
GT được dùng như một khái niệm khoa học.
Lúc đầu khái niệm GT được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế. GT gắn liền
hàng hoá, GT không đồng nhất với giá thành, giá cả. “Khi gạt bỏ thuộc tính GT sử
dụng của hàng hoá thì hàng hoá là sự kết tinh sự hao phí sức lao động của người sản
xuất hàng hoá lao động mới biểu hiện dưới hình thức GT. Vì thế GT phản ánh quan
hệ sản xuất của mọi người”
GT kinh tế là thuật ngữ chỉ sức mạnh của vật chất này khống chế những vật
khác khi trao đổi. Để bộc lộ GT, vật phẩm phải có giá trị ích lợi tức là có khả năng
thoả mãn nhu cầu, lòng ham muốn của con người. Do đó, trong phân tích kinh tế,
GT là vị trí tương đối của hàng hoá trong trật tự ưa tiên, vị trí của nó càng cao thì
GT của nó càng lớn. GT kinh tế lệ thuộc vào tình hình thị trường vào tình trạng
khan hiếm của hàng hoá.

22

Triết học nghiên cứu GT với nội dung rộng, nghiên cứu chung nhất các mối
quan hệ qua lại giữa chủ thế và đối tượng. Tuy nhiên, trong Triết học vẫn biết tồn
tại những quan niệm khác nhau về GT. Dưới đây là một số khái niệm tiêu biểu :
Từ thời cổ đại đến thời F. Hegels và B.Kroch: GT bị đồng nhất với tồn tại.
Sau khi khái niệm tồn tại được tách ra thành hai yếu tố: hiện thực và GT thì khái
niệm GT mới có nội dung phong phú hơn.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan (thuyết Kant mới, M.Sheler, N.Gartman) coi
GT là những tồn tại của những tồn tại của những bản chất tiên nghiệm, những chuẩn

mực lý tưởng tồn tại bên ngoài sự vật, không phụ thuộc vào nhu cầu và ham muốn
của con người.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan (chủ nghĩa thực chứng mới, cảm xúc luận )
coi GT là hiện tượng của ý thức, là biểu tượng của thái độ chủ quan của con người
đối với khách thể mà người đó đang đánh giá.
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi GT có nguồn gốc chân chính từ lao động sáng
tạo lịch sử của đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Các GT đều thông qua
nhận thức và được thực tiễn kiểm nghiệm. GT được xác định không phải ở các
thuộc tính của sự vật mà ở sự cuốn hút của các thuộc tính ấy vào các lĩnh vực hoạt
động khác nhau của con người, vào hứng thú và nhu cầu của con người. GT xuất
hiện khi sự vật tham gia vào các quan hệ thực tiễn của con người và biểu hiện
cường độ của nó trong việc gây ra những thái độ nhất định ở chủ thể hoạt động.
Thực tiễn là cơ sở, phương pháp luận để xác định bản chất GT.
Khác với Triết học, Xã hội học coi khái niệm GT bao gồm các hiện tượng
GT của một xã hội cụ thể. Xã hội học không nhằm giải thích các GT chung mà xác
định nội dung, sự phân bố nguyên nhân và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể hình
thành nên hệ thống GT nhất định của xã hội, sau đó xếp thứ bậc các GT rồi diễn tả
chúng bằng các thang đo. Bằng cách đó có thể phân tích được ĐHGT của con người
trong xã hội.
Nhà Xã hội học Liên Xô V. P. Tugarinôp quan niệm: “GT là những khách
thể những hiện tượng và những thuộc tính của chúng mà tất cả cần thiết cho con

23

người của một xã hội hay một nhóm nào đó cũng như một cá nhân riêng lẻ, với tư
cách là phương tiện thảo mãn những nhu cầu và lợi ích của họ, đồng thời cũng là
những tư tưởng và những ý định với tư cách là chuẩn mực, mục đích hay lý tưởng ”
[37, 1968].
Nhà Xã hội học Mỹ J. H. Ficher cho rằng: “Tất cả cái gì có lợi ích đáng ham
chuộng hoặc đáng chinh phục đối với cá nhân hoặc xã hội đều có GT” [31, 1973].

Một vật có GT khi nó được thừa nhận là có ích và cần có, chẳng hạn như thức ăn,
tiền bạc, nhà cửa đều có GT vì chúng được thừa nhận là có ích và việc mong muốn
có được những thứ đó đã ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của con người. Không
chỉ có hàng hoá vật chất mà những lý tưởng khái niệm đều có GT như sự thật,
lương thiện và công lý.
Quan niệm đạo đức học cho rằng: Quy tắc GT về lĩnh vực đạo đức. Theo I.
X. Côn GT là một trong những biểu hiện của quan hệ xã hội được biểu hiện như
sau: “ý nghĩa phẩm giá đạo đức của cá nhân, tập đoàn, những ứng xử của con người
hay những đặc điểm đạo đức của các quy chế, những quan niệm đánh giá có liên
quan đến ý thức xã hội, những lý tưởng, nguyên tắc, chuẩn mực”[30, 1987].
Theo Tâm lý học giải thích khái niệm GT chung từ quan điểm Triết học.
Các tác giả đưa ra khá nhiều định nghĩa về GT. ở Việt Nam có thể điểm tới một số
tác giả tiêu biểu như sau:
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “GT là tính có ý nghĩa tích cực, tốt đẹp, đáng
quý, có ích của các đối tượng với chủ thể” [5, tr.22].
Theo tác giả Trần Trọng Thuỷ: “GT là một hiện tượng xã hội điển hình biểu
thị các sự vật, hiện tượng, các thuộc tính và quan hệ của hiện thực và các tư tưởng
chuẩn mực, mục đích, lý tưởng được loài người tạo ra nhưng đều phục vụ cho sự
tiến bộ của xã hội và sự phát triển của cá nhân con người” [19, tr.11]
Các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang cho rằng:
“Cần phải hiểu khái niệm GT trong mối quan hệ với các thuật ngữ liên quan nhu
cầu, sở thích, động cơ Song GT không đồng nhất với nhu cầu…các GT không phải
là những động cơ GT là những cái cần và có ích cho chủ thể” [24, tr.21].

24

Tác giả Lê Đức Phúc cho rằng: “Giá trị là cái có ý nghĩa đối với xã hội, tập
thể và cá nhân, phản ánh mối quan hệ chủ thể khách quan được đánh giá xuất phát
từ điều kiện lịch sử xã hội thực tế và phụ thuộc vào trình độ phát triển nhân cách.
Khi đã được nhận thức đánh giá lựa chọn, giá trị trở thành một trong những động

lực thúc đẩy con người theo xu hướng nhất định” [17, tr.19]
Như vậy, qua một số quan điểm trên chúng ta có thể khát quát một số đặc
điểm sau đây:
- Bất cứ sự vật nào cũng có thể xem là có GT dù nó là vật thể hay phi vật thể,
miễn là nó được người ta thừa nhận, người ta cần đến nó như nhu cầu hoặc cấp cho
nó một vị trí quan trọng trong đời sống của họ.
- Cần phân biệt cái gọi là là bản chất và quy luật của sự vật hiện tượng với
cái gọi là giá trị của chúng. Sự vật hiện tượng nào cũng có bản chất của nó và tuân
theo quy luật của nó, chúng tồn tại với quy luật nhất định, chúng tồn tại độc lập với
nhu cầu của con người. Còn GT của sự vật hiện tượng bao giờ cũng tồn tại trong
mối quan hệ với nhu cầu của con người. Tuỳ theo con người có nhu cầu hay không
có nhu cầu nào đó mà một sự vật hiện tượng đối với con người là có GT hay không
có GT.
- GT luôn mang tính khách quan. Sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi một GT
nào đó không phụ thuộc vào ý thức con người mà phụ thuộc vào sự xuất hiện, tồn
tại hay mất đi một nhu cầu nào đó của con người. Không phải do ý thức mà do yêu
cầu của hoạt động của thực tiễn quy định GT. Vì vậy thực tiễn là tiêu chuẩn của GT.
- Trong mọi GT đều chứa đựng yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và yếu tố
hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật hiện tượng mang GT, thể hiện sự
lựa chọn và đánh giá của chủ thể.
- Sự vật được coi là có GT đều mang lại cho chủ thể khả năng tự phát triển.
- GT được coi là sự lựa chọn cho hành động của con người, là cơ sở hình
thành ĐHGT của con người và con người sản sinh ra giá trị đồng thời duy trì,
truyền thụ và thực hiện GT.

25

Như vậy, để hiểu khái niệm giá trị một cách chung nhất thì phải xem xét nó trên
bình diện Triết học, nhưng để lý giải và xác định nội dung của hiện thực thì phải
tiếp cận dưới góc độ cụ thể, sử dụng kết hợp các khái niệm của Đạo đức học, Xã hội

học, Tâm lý học.
Kế thừa quan điểm của các tác giả nêu trên, chúng tôi lựa chọn khái niệm
của tác giả Lê Đức Phúc “Giá trị là cái có ý nghĩa đối với xã hội, tập thể và cá nhân,
phản ánh mối quan hệ chủ thể khách quan được đánh giá xuất phát từ điều kiện lịch
sử xã hội thực tế và phụ thuộc vào trình độ phát triển nhân cách. Khi đã được nhận
thức đánh giá lựa chọn, giá trị trở thành một trong những động lực thúc đẩy con
người theo xu hướng nhất định” [17, tr.19]
Quá trình hình thành giá trị
GT là một mối quan hệ trong mối quan hệ nhiều mặt của con người với con
người, với thế giới, và với đời sống xã hội. GT có liên quan với nhu cầu. Nói đến
nhu cầu phải nói đến đối tượng, nội dung và đặc biệt là phương thức thoả mãn nhu
cầu. Mối quan hệ GT được tái sinh trong quá trình phát triển của nền văn hoá xã hội
và của cá nhân riêng lẻ. Do vậy, việc nghiên cứu giá trị không chỉ việc là miêu tả
đơn giản những hiện tượng giá trị mà phải đặt trong mối quan hệ với nền văn hoá xã
hội trong đó chủ thể sống và hoạt động.
Bằng quá trình xã hội hoá, con người lĩnh hội các GT từ nền văn hoá xã hội - lịch
sử cùng với những tri thức, thái độ và tình cảm. Các tổ chức xã hội có vai trò quyết
định trong việc giữ gìn, phổ biến các GT là: gia đình, hệ thống giáo dục và tất cả
các tổ chức xã hội. Tuy nhiên, cá nhân không chỉ tiếp nhận các GT xã hội một cách
giản đơn mà lĩnh hội một cách có chọn lọc thông qua lợi ích và quan hệ thực tiễn
của họ.
Trong sự chuyển biến của xã hội, việc nâng cao trình độ học vấn và phát triển xã
hội nói chung dẫn tới việc tạo ra những GT mới, các GT mới này hoặc thay thế GT
cũ hoặc tác động với chúng và làm thay đổi chúng. Khi các GT được hình thành
cũng sẽ thay đổi theo sự biến đổi của xã hội. Nếu các tổ chức xã hội đón nhận các
GT mới thì quá trình xã hội hoá sẽ xảy ra với mâu thuẫn GT ít hơn. Ngược lại, nếu

26

những GT được truyền đạt thông qua các tổ chức trong quá trình xã hội hoá có chức

năng trái ngược nhau và không được củng cố bởi các kinh nghiệm xã hội thì các
mâu thuẫn GT sẽ mạnh lên và lúc đó các thành viên xã hội cố gắng hướng tới các
GT đối kháng riêng biệt.
Về mặt lý luận chung, trong quá trình hình thành GT khách thể được phản
ánh vào trong tâm lý của chủ thể và mối quan hệ chủ thể - khách thể được chia làm
hai loại: quan hệ nhận thức và quan hệ đánh giá.
+ Quan hệ nhận thức: chủ thể hiểu rõ bản chất, quy luật của khách thể
+ Quan hệ đánh giá: xuất phát từ nhu cầu của bản thân chủ thể để từ đó phát
hiện và tiếp thu GT của khách thể đối với chính mình
Phân loại giá trị
Dựa trên các căn cứ khác nhau người ta có thể có cách phân loại GT khác nhau.
Có thể nói đến một số cách phân loại như sau:
Dựa vào vấn đề cơ bản của Triết học chia thành 2 loại: GT vật chất và GT tinh
thần. Tiêu chuẩn để phân chia hai loại GT này ở chỗ, người ta xem xét sự vật hiện
tượng thoả mãn nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần của con người. Trong các
GT vật chất, người ta phân biệt GT sử dụng với GT kinh tế, nghĩa là phân biệt cái
có ích và cái tiêu thụ được trên thị trường. Trong các GT tinh thần người ta thường
đề cập đến: GT khoa học, GT chính trị, GT pháp luật, GT đạo đức, GT thẩm mĩ, GT
tôn giáo.
Dựa trên các GT chi phối hành vi của con người (hành vi cơ thể, hành vi nhân
cách, hành vi văn hoá, và hành vi xã hội) theo M. Ponpon và J. R.Wiliam nêu ra các
GT văn hoá và các GT xã hội.
Theo Herbert Mahr. GT được phân thành: các GT của sức sống (đời sống và sức
khoẻ), các GT khoái cảm (ham muốn), các GT về sự có ích (tiêu dùng), các GT đạo
đức (cái thiện), các GT khoa học (chân lý), các GT thẩm mĩ (cái đẹp) và các GT xã
hội chính trị (tự do, bình đẳng, bác ái, công bằng) [20, tr.56]
Phân loại theo cấu trúc ta có giá trị mục đích và giá trị phương tiện. Đây là hướng
phân loại được sử dụng khá phổ biến trong nghiên cứu định hướng giá trị của cá

×