Tải bản đầy đủ (.pdf) (209 trang)

Tìm hiểu thái độ đối với nghề giúp việc gia đình tại Đài Loan của người lao động ( nữ ) Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 209 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***




VŨ THỊ ANH



BẢNG TÓM TẮT ĐỀ TÀI:

TÌM HIỂU THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI NGHỀ
GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH TẠI ĐÀI LOAN
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG (NỮ) VIỆT NAM


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TÂM LÝ
Chuyên ngành : TÂM LÝ HỌC
Mã số : 60.31.80





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ KHANH













HÀ NỘI 2007


1
MỤC LỤC
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Lý do chọn đề tài.
2. Đối tượng nghiên cứu.
3. Mục đích
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Khách thể và phạm vi nghiên cứu.
6. Giả thuyết nghiên cứu.
7. Phương pháp nghiên cứu.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề thái độ.
1.1.2. Điểm qua một vài nghiên cứu đầu tiên về nghề giúp việc gia đình (GVGĐ).
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài.
1.2.1 Khái niệm thái độ.
1.2.1.1. Định nghĩa thái độ.
1.2.1.2. Đặc điểm thái độ.

1.2.1.3 Cấu trúc thái độ.
1.2.1.4. Chức năng thái độ.
1.2.1.5. Cơ chế hình thành thái độ.
1.2.1.6. Thang đo thái độ.
1.2.1.7. Sự thay đổi thái độ.
1.2.1.8. Mối quan hệ giữa khái niệm thái độ và một số khái niệm có liên quan.
1.2.1.9. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển thái độ.
1.2.2. Khái niệm nghề.
1.2.2.1. Định nghĩa nghề.

2
1.2.2.2. Đặc điểm của hoạt động nghề.
1.2.3. Khái niệm nghề GVGĐ.
1.2.3.1. Định nghĩa nghề GVGĐ.
1.2.3.2. Nghề GVGĐ tại Đài Loan.
1.2.3.3. Đặc điểm nghề GVGĐ.
1.2.3.4. Các đặc điểm tâm lý cần có của người làm nghề GVGĐ.
1.3. Động cơ chọn nghề GVGĐ tại Đài Loan của người lao động (NLĐ)
(nữ) Việt Nam.
1.3.1 Định nghĩa động cơ.
1.3.2 Quá trình hình thành và biến đổi động cơ chọn nghề của NLĐ
làm nghề GVGĐ tại Đài Loan.
1.3.3 Các yếu tố xã hội ảnh hưởng tới động cơ chọn nghề của NLĐ
làm nghề GVGĐ tại Đài Loan.
1.4. Vấn đề đào tạo nghề GVGĐ tại Đài Loan.
1.4.1 Thời gian đào tạo.
1.4.2 Nội dung đào tạo.
1.5. Những khó khăn mà NLĐ nữ Việt Nam phải đương đầu trong quá trình
làm nghề giúp việc tại Đài Loan.
CHƢƠNG 2. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU.

2.1 Xác định mẫu nghiên cứu.
2.2 Tiến trình nghiên cứu.
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN.
3.1. Động cơ thúc đẩy NLĐ chọn nghề GVGĐ tại Đài Loan.
3.2. Diễn biến thái độ của NLĐ Việt Nam đối với nghề GVGĐ.
3.2.1. Thái độ của NLĐ Việt Nam đối với nghề GVGĐ trước khi sang Đài
Loan làm việc.

3
3.2.2. Thái độ của NLĐ Việt Nam đối với nghề GVGĐ trong quá trình làm
việc tại Đài Loan.
3.2.3. Thái độ của NLĐ Việt Nam đối với nghề GVGĐ sau khi sang Đài
Loan làm việc và trở về nước.
3.3. Sự thay đổi thái độ của NLĐ đối với nghề GVGĐ trong cả quá trình
trước, trong và sau khi làm nghề GVGĐ tại Đài Loan.

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC




















4
Ký hiệu viết tắt.
NLĐ: Người lao động.
Nghề GVGĐ: Nghề giúp việc gia đình.
NT: Tiền Đài Loan.
ĐTB: Điểm trung bình.
XL: Xếp loại.
GĐTKLVTT: Giai đoạn trước khi làm việc thực tế.
QTLVTT: Quá trình làm việc thực tế.
SKLV: Sau khi làm việc.

5
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Giải quyết công ăn việc làm cho phụ nữ nói chung và phụ nữ nông
thôn nói riêng là một vấn đề không đơn giản, nhất là trong giai đoạn hiện
nay. Khi mà sản xuất nông nghiệp manh mún lạc hậu, các nghành nghề dịch
vụ phi sản xuất phát triển rất chậm, quĩ đất giành cho nông nghiệp ngày một
giảm, trong khi đó lại hạn chế về vốn đầu tư. ở nông thôn, thời gian sản xuất
chỉ kéo dài từ 3 đến 6 tháng (kể cả đã thâm canh tăng vụ) thời kỳ nông nhàn
lại kéo dài từ 6 đến 9 tháng trong 1 năm. Làm thế nào để giải quyết công ăn
việc làm tạo thu nhập cho phụ nữ nông thôn?

Theo thống kê của cục niên giám thì trình độ học vấn của phụ nữ
nông thôn rất thấp: chỉ có 40% tốt nghiệp PTCS và 8% tốt nghiệp PTTH,
điều kiện để tiếp xúc và ứng dụng khoa học kỹ thuật rất hạn chế, cơ hội lựa
chọn nghề nghiệp không có, kinh nghiệm làm việc chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp, chăn nuôi và chăm sóc con cái.
Ngày 6-5-1999 văn phòng Kinh tế Văn hoá của Đài Loan tại Hà Nội
và văn phòng Kinh tế Văn hoá của Việt Nam tại Đài Bắc ký thoả thuận một
số nội dung và điều kiện cụ thể việc Đài Loan tiếp nhận lao động của Việt
Nam sang làm việc có thời hạn tại Đài Loan, trong đó có lao động giúp việc
gia đình, đây được coi là hướng mở cho chính sách xuất khẩu lao động của
Việt Nam, và đây cũng được coi là một biện pháp xoá đói giảm nghèo ở
nông thôn, vì sau 2 năm lao động tại Đài Loan theo hợp đồng lao động
người phụ nữ giúp việc gia đình sẽ được thực lĩnh số tiền lương sấp xỉ 103
triệu VNĐ sau khi đã trừ tất cả các khoản chi phí và thuế.
Từ khi thoả thuận được ký kết số lượng các doanh nghiệp được phép
xuất khẩu lao động đến Đài Loan , ngày một tăng từ 15 doanh nghiệp năm
1999 lên 137 doanh nghiệp năm 2003 và số lượng lao động sang Đài Loan
làm nghề giúp việc ngày một nhiều, tính đến tháng 12/2003 là 3000 lao động

6
giải quyết rất nhiều khó khăn cho phụ nữ nông thôn. Trong khi nhu cầu của
thị trường lao động của Đài Loan về lao động giúp việc lên đến 90000, mặc
dù không chỉ tiếp nhận lao động Việt Nam làm nghề giúp việc nhưng do đặc
tính cần cù, sáng tạo, tháo vát… lao động Việt Nam rất được các gia đình
Đài Loan ưa chuộng do đó nhu cầu tiếp nhận lao động Việt Nam giúp việc
gia đình ngày càng. Nhưng do tỷ lệ lao động giúp việc vi phạm hợp đồng lao
động (bỏ trốn khỏi gia đình gia chủ ra ngoài làm việc khác) ngày một gia
tăng, cộng thêm một số lượng không nhỏ lao động chưa được đào tạo và
định hướng nghề một cách chu đáo đã sang Đài Loan làm việc, nên hiệu quả
công việc kém đã dẫn đến quyết định dừng tiếp nhận lao động Việt Nam

sang làm nghề GVGĐ từ phía Đài Loan từ tháng 12/2004. Quyết định này
đã gây rất nhiều khó khăn cho không chỉ cho các doanh nghiệp xuất khẩu
lao động mà còn gây khó khăn cho chính sách xoá đói giảm nghèo, giải
quyết công ăn việc làm cho người phụ nữ nông thôn.
Từ thực tế trên, chúng tôi chọn đề tài “Tìm hiểu thái độ đối với nghề
GVGĐ tại Đài Loan của người lao động (nữ) Việt Nam”. Nhằm thấy được
sự chuyển biến thái độ của NLĐ đối với nghề từ giai đoạn trước khi sang
Đài Loan làm việc đến giai đoạn làm việc thực tế và kết thúc hợp đồng lao
động, tìm những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan gây ra sự biến
chuyển trên. Từ đó, có những kiến nghị đến cơ quan thẩm quyền, để các cơ
quan này có các định hướng, điều chỉnh nhằm phát huy tính tích cực của
NLĐ trong quá trình hành nghề tại nước ngoài. Từ đó mà khẳng định lợi thế
xuất khẩu lao động của Việt Nam.
2. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU.
Thái độ của NLĐ (nữ) Việt Nam đối với nghề GVGĐ tại Đài Loan.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Chỉ ra thực trạng thái độ của NLĐ(nữ) Việt Nam đối với nghề GVGĐ tại
Đài Loan, phân tích các nguyên nhân dẫn đến thái độ, sự thay đổi thái độ

7
của NLĐ đối với nghề GVGĐ tại Đài Loan qua các giai đoạn trước khi làm
nghề: trong thực tế làm nghề và sau khi đã kết thúc hợp đồng lao động về
nước, qua đó đề xuất một số kiến nghị để các cơ quan quản lý đặc biệt là cục
quản lý lao động ngoài nước có những biện pháp quản lý phù hợp nhằm phát
huy những đặc điểm tâm lý tích cực của NLĐ Việt Nam trong quá trình làm
việc tại nước ngoài qua đó đẩy mạnh lợi thế xuất khẩu lao động nói chung.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
Để hoàn thành mục đích trên chúng tôi đề ra các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
Sơ lược lịch sử nghiên cứu thái độ và nghề GVGĐ trên thế giới và ở

Việt Nam. Làm rõ các khái niệm cơ bản và các khái niệm có liên quan sau:
khái niệm thái độ, khái niệm sự thay đổi thái độ, khái niệm nghề giúp việc
và lý luận về thái độ nói chung.
- Điều tra thực tiễn.
Tìm hiểu thái độ của NLĐ nữ Việt Nam đối với nghề GVGĐ qua các
giai đoạn: giai đoạn trước khi làm nghề, trong thực tế làm việc tại Đài Loan,
sau khi làm nghề giúp việc tại Đài Loan về Việt Nam.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ và sự thay đổi thái độ trên.
5. KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
5.1. Khách thể
168 NLĐ nữ Việt Nam đã từng làm nghề GVGĐ tại Đài Loan ở một
số tỉnh phía bắc như: Hải Dương, Hà Tây, Ninh Bình, Nam Định, Bắc Ninh,
Bắc Giang…
5.2. Phạm vi nghiên cứu.
Luận văn chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu thái độ của NLĐ nữ đối với nghề
GVGĐ tại Đài Loan như đã chỉ rõ ở phần nhiệm vụ nghiên cứu.

8
6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU.
Thái độ của NLĐ nữ đối với nghề GVGĐ thay đổi rõ rệt trước khi
sang Đài Loan làm việc, trong quá trình thực tế và sau khi kết thúc hợp đồng
về nước theo chiều hướng tích cực do NLĐ đạt được động cơ kinh tế của
mình.
7. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu trên, chúng tối đề ra các phương
pháp cụ thể bao gồm: Phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp điều
tra bằng bảng hỏi, phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn sâu,
phương pháp nghiên cứu trường hợp, phương pháp thống kê toán học.



















9
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. SƠ LƢỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ.
1.1.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề thái độ.
Người đầu tiên khởi xướng việc nghiên cứu thái độ chủ quan của nhân
cách là A.Ph. Lagiurxki (1874-1917) qua các nghiên cứu của mình ông chia
đời sống thực của con người thành hai lĩnh vực:
Cái tâm lý bên trong: là cơ sở bẩm sinh của nhân cách bao gồm khí
chất, tính cách và một loạt các đặc điểm tâm lý khác.
Cái tâm lý bên ngoài: hệ thống thái độ của nhân cách với môi trường xung
quanh.
Như vậy, thái độ của cá nhân theo A.Ph. Lagiurxki là sự biểu hiện ra bên
ngoài của cái tâm lý bên trong, là phản ứng với sự tác động môi trường xung

quanh.
a. Nghiên cứu thái độ ở Liên Xô.
Trong tiếng Nga, thuật ngữ thái độ mang nội hàm kép: ngoài nghĩa là
thái độ, còn có nghĩa là các mối quan hệ trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Do
vậy, khi dùng từ này tương đương với attitude trong tiếng Anh, các tác giả
còn sử dụng thuật ngữ tâm thế xã hội và sau này là thuật ngữ thái độ chủ
quan của cá nhân.
Dựa trên tư tưởng của A.Ph. Lagiurxki và xuất phát từ lập trường mác-
xít, V.N. Miaxisev đã đề ra học thuyết tâm lý về thái độ chủ quan hay “Học
thuyết thái độ nhân cách”. Ông coi nhân cách như một hệ thống thái độ và
phân tích các dạng các hình thức của chúng. Ông cho rằng: Thái độ là khía
cạnh chủ quan bên trong, là hệ thống trọn vẹn của các mối liên hệ liên cá
nhân có chọn lọc, có ý thức của nhân cách với các khía cạnh khác nhau của
hiện thực khách quan”. Hệ thống này xuất phát từ toàn bộ lịch sử phát triển

10
của con người, nó thể hiện kinh nghiệm cá nhân, qui định hoạt động và các
trải nghiệm của cá nhân từ bên trong. Mặt khác, thái độ là điều kiện bên
trong qui định hệ thống các hành động của con người. Tuy nhiên ông lại cho
rằng: “Tất cả các hoạt động tâm lý, hiểu theo nghĩa rộng đều có thể xem như
một dạng nào đó của thái độ”. Như vậy khi nghiên cứu thái độ Miaxisev đã
nghiên cứu nó dưới góc độ xã hội lịch sử, chú ý đến thái độ trong mối quan
hệ với hành vi. Nhưng việc coi hàng loạt các thuộc tính, quá trình tâm lý là
thái độ thì chưa có cơ sở khoa học.
Một cách tiếp cận khác, phục vụ cho việc nghiên cứu tái độ của các
nhà tâm lý học Xô Viết trước đây là các công trình của trường phái tâm thế
D.N.Uznadze. Trong học thuyết của D.N. Uznadze, thái độ được hiểu như
“tâm thế” và ông định nghĩa: “Tâm thế là sự mô phỏng trọn vẹn của chủ thể,
sự sẵn sàng tự giác của sự kiện và sự xác định hoàn thiện về hướng của hành
vi”.

Tâm thế chỉ xuất hiện khi có sự hội ngộ của hai yếu tố chính (nhu cầu
và hoàn cảnh thoả mãn nhu cầu). Ông dùng khái niệm tâm thế với tư cách là
khái niệm trung tâm của hoạt động, nhưng ông lại lấy cái vô thức để giải
thích hành vi của con người. Vì vậy, nhiều đồng nghiệp phê phán là trong
quan niệm của ông về tâm thế chỉ đề cập đến các quá trình hiện thực hoá các
nhu cầu sinh lý đơn giản mà không tính đến các hình thức phức tạp cao cấp
của nhu cầu con người. Ông đã loại bỏ tính qui định của các yếu tố xã hội
đối với nhu cầu của con người trong quá trình lĩnh hội các kinh nghiệm
sống…
Thuyết định vị của V.A. Iadov nghiên cứu vai trò của tâm thế trong
những hành vi xã hội của nhân cách. Ông đã đưa ra thuyết nghiên cứu hệ
thống định vị điều chỉnh hành vi hoạt động xã hội của cá nhân, khắc phục
những khuyết điểm vốn tồn tại của các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm

11
và trong môi trường vi mô. Thuyết định vị đã phát triển khái niệm tâm thế
và cho rằng hành vi xã hội của mỗi cá nhân được điều khiển bởi hệ thống
định vị, bao gồm tâm thế, tâm thế xã hội, xu hướng cơ bản của hứng thú, cơ
sở hệ thống định hướng giá trị. Như vậy tâm thế chỉ là một dạng định vị điều
chỉnh hành vi, phản ứng cá nhân trong các tình huống đơn giản khi có sự
gặp gỡ giữa nhu cầu sinh lý và đối tượng thoả mãn nhu cầu. Hệ thống định
vị được xắp xếp theo 4 bậc từ thấp đến cao với các mức độ khác nhau để
điều chỉnh hành vi xã hội của cá nhân.
Bậc 1: Bao gồm các tâm thế bậc thấp như trong quan niệm của P.N
Uznadze, hình thành trên cơ sở các nhu cầu và tình huống đơn giản nhất.
Bậc 2: Bao gồm các định vị phức tạp hơn, được hình thành trên cơ sở
các tình huống giao tiếp của con người trong nhóm nhỏ.
Bậc 3: Bao gồm các định vị mà có định hướng chung của sở thích
được hình thành trong những lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể.
Bậc 4: Bậc cao nhất hình thành nên hệ thống định hướng giá trị của

nhân cách, nó điều chỉnh hành vi và hoạt động của nhân cách trong những
tình huống mà tính tích cực xã hội có giá trị nhất định đối với nhân cách.
Trong đó định vị bậc cao có thể chi phối định vị bậc thấp.
Như vậy thuyết định vị đã xem xét thái độ từ góc độ mới, nó cho phép
thiết lập sợi dây liên hệ giữa cách tiếp cận vấn đề hành vi của nhân cách
dưới góc độ tâm lý học đại cương, xã hội học và tâm lý học xã hội.
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, khi nghiên cứu nhân cách như
một phạm trù cơ bản của tâm lý học, B.Ph. Lomov đã đề cập đến khái niệm
thái độ chủ quan của nhân cách. Ông cho rằng khái niệm “tâm thế”, “ý cá
nhân”, “attitude” là những khái niệm cùng loại, phản ánh những khía cạnh
khác nhau của thái độ. Cơ sở khoa học của thái độ chủ quan của cá nhân
được xác định là các quan hệ xã hội, trong đó quan hệ kinh tế có vai trò

12
quyết định. Ngoài ra, trong quá trình phát triển các cá nhân hình thành thái
độ với các khía cạnh khác nhau do sống trong cộng đồng (nhóm) nên các cá
nhân hình thành thái độ chủ quan với nhóm cộng đồng mà họ tham gia và cả
những nhóm và cộng đồng khác. Do vậy, xét cho cùng tính chất, động thái
của thái độ chủ quan được hình thành ở mỗi cá nhân phụ thuộc vào vị trí lập
trường mà nó chiếm chỗ trong hệ thống các quan hệ xã hội và sự phát triển
của nó trong hệ thống đó. Bên cạnh đó B.Ph. Lomov cũng khẳng định thái
độ tuy là một thuộc tính tương đối ổn định, bền vững phản ánh lập trường
của cá nhân với hiện thực khách quan nhưng nó cũng có thể thay đổi khi có
sự thay đổi vị trí khách quan của mỗi cá nhân trong xã hội thay đổi.
Trên cơ sở các quan điểm nghiên cứu về thái độ của các tác giả nêu
trên ta thấy rằng; trong tâm lý học Liên Xô, quan hệ xã hội được xem như là
cơ sở của việc hình thành và phát triển thái độ chủ quan của cá nhân, toàn bộ
hệ thống các quan hệ: kinh tế, dân sự, chính trị… với những quy luật của
riêng nó qui định thái độ của cá nhân bằng cách này hay cách khác. Đối với
từng cá nhân cụ thể, thì những người khác là hiện thân của các quan hệ xã

hội, vì vậy việc tham gia các nhóm, sự thay đổi vị thế xã hội của anh ta sẽ
qui định hành động, thể nghiệm mong muốn, sự hiểu biết, cách đánh giá của
chính anh ta.
b. Nghiên cứu thái độ ở các nước phương Tây.
Khái niệm “Thái độ” được hai nhà nghiên cứu người Mỹ W.I.
Thomas và F. Znaniecki đưa ra lần đầu vào năm 1918, như một đặc tính
quan trọng của các vấn đề xã hội. Theo hai ông, “thái độ là trạng thái tinh
thần (State of mind) của cá nhân đối với một giá trị” (4–tr.318). Trong
nghiên cứu của mình về người nông dân Ba Lan ở Mỹ, hai ông rất chú ý đến
sự thích ứng của con người đối với sự thay đổi của môi trường xã hội, sự

13
thay đổi các giá trị cũ bằng các giá trị mới mà đặc điểm cốt lõi là vấn đề thái
độ (4-tr.318).
Như vậy, chính từ nghiên cứu này một yêu cầu mới được đặt ra là
phải nghiên cứu thái độ ở cả 2 cấp độ cá nhân và xã hội, từ đó bắt đầu bùng
nổ các cuộc nghiên cứu về thái độ tập trung vào làm rõ định nghĩa, cấu trúc
chức năng và đặc biệt là mối quan hệ giữa thái độ và hành vi.
Thoạt đầu các nhà tâm lý học nhân văn, đại diện là Allport hoàn toàn
đồng ý với quan điểm sự có mặt của một thái độ đồng nghĩa với việc chuẩn
bị cho cá nhân hướng tới một hành động nào đó. Theo ông, thái độ đóng vai
trò quyết định chi phối hành vi của con người, muốn thay đổi hành vi của
con người tốt nhất là phải thay đổi thái độ. Nhưng đến La piere trong tác
phẩm “Thái độ và hành vi” (1934), với thí nghiệm lịch sử tốn khá nhiều
công sức đã tạo một bước ngoặt cho các nghiên cứu thái độ chuyển sang một
hướng khác. Ông đã cùng một sinh viên trẻ người Trung Quốc và vợ anh ta
làm một chuyến du lịch khắp nước Mỹ. Họ đến 184 hiệu ăn, quán cà phê và
66 khách sạn, nơi cắm trại cho người có ô tô và nhà nghỉ cho khách du lịch.
Hầu như ở khắp mọi nơi họ được đối sử lịch sự chu đáo như nhau, chỉ có 1
trường hợp duy nhất họ bị từ chối phục vụ. Sáu tháng sau tất cả các cơ sở

trên đều nhận được lá thư với câu hỏi: “Ông (bà) có chấp nhận đón tiếp
người Trung Quốc như là khách của nhà hàng (khách sạn) không?”, có 128
cơ sở trả lời, kết quả là 91% số người được hỏi phủ định. Kết luận đã gây ra
kinh ngạc và chứng minh một điều: “Thái độ và hành vi đôi khi rất khác
nhau” (4–tr.320), kết luận này sau này được mang tên là nghịch lý La piere”.
Kết quả thí nghiệm đặt ra câu hỏi hoài nghi vai trò của thái độ trong việc chi
phối hành vi con người, cộng thêm sự bế tắc khi lý giải nghịch lý trên đã làm
cho sự quan tâm của các nhà tâm lý học với vấn đề thái độ xã hội có phần
giảm sút. Tuy vậy kết quả thí nghiệm không phủ định toàn bộ các cố gắng

14
nghiên cứu thái độ thông qua sự biểu hiện bằng lời nói của các đối tượng,
nhưng nó góp phần khẳng định nghiên cứu tâm lý con người là vô cùng
phức tạp và không tránh khỏi những lúc bế tắc khó khăn.
Từ thập kỷ 60 trở lại đây, việc nghiên cứu thái độ dần dần lấy lại được
vị trí xứng đáng trong tâm lý học. Đặc điểm mới của thời kỳ này là việc xuất
hiện các thang đo thái độ; phương pháp “Đường ống giả vờ” của Edward
Jones và Harold Sigall (1971) cho phép đo thái độ một cách khá chính xác.
“Kỹ thuật lấn từng bước một” của Jonathan Freedman và Scott Fraser (1966)
cho rằng: Nếu bạn muốn ai đó làm một việc gì cho mình thì một trong
những kỹ thuật này là hãy đề nghị họ làm việc nhỏ trước đã khẳng định mối
quan hệ hai chiều giữa thái độ và hành vi. Thuyết tự tri giác của Daryl Bem
ra đời năm 1967 cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa thái độ và hành vi. Ông
đưa ra kết luận khi thái độ của chúng ta không rõ ràng hay cường độ quá
yếu, chúng ta sẽ chỉ đơn giản quan sát hành vi của mình và tình huống mà
nó diễn ra rồi suy luận về thái độ của bản thân. Allan Wicher (1969) sau khi
đã tổng kết các nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái độ và hành vi đã đưa ra
một kết luận đáng kinh ngạc: “Thái độ của con người hầu như chẳng dự báo
gì hành vi của họ” (4–tr.327).
Như vậy, xu thế chung trong nghiên cứu thái độ ở phương Tây là

nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản trong thực tiễn như vận động tranh cử,
tiếp thị, tuyên truyền quảng cáo, bảo vệ môi trường… cũng như việc nghiên
cứu các dạng thái độ định sẵn nhằm dự báo hành vi của họ khi gặp khó
khăn. Vì vậy, Shikhirep đã nhận xét: đặc điểm của tình trạng nghiên cứu thái
độ ngày nay ở phương Tây dù có nhiều phương pháp nghiên cứu thái độ cụ
thể, nhưng lại bế tắc về phương pháp luận trong việc lý giải các số liệu thực
nghiệm (6–tr.9). Việc qui các số liệu thu được từ các nghiên cứu về các thái
độ nhất định đã làm cho việc nghiên cứu, tìm kiếm, kiến tạo nên các mẫu về

15
thái độ trong tâm lý học phương Tây chỉ nhằm tạo ra những tình huống, điều
kiện, môi trường khách quan cụ thể giúp cho các nhà nghiên cứu hệ thống
hoá số liệu thu thập được của mình, và dựa vào các mẫu thái độ để dự báo
hành vi có thể xảy. Nhưng cơ sở khách quan của chúng không được làm rõ,
người ta hay qui về các thuộc ính di truyền của cá nhân. Nói cách khác,
trong tâm lý học Phương Tây, thực thể sinh học của con người được đề cao,
đơn vị hành vi bị chi phối nhiều bởi những bản năng, thói quen, các khuôn
mẫu tình cảm… Điều này hoàn toàn xa lạ với quan điểm của tâm lý học mác
xít, trong tâm lý học mác xít quan hệ xã hội được xem như là cơ sở của thái
độ chủ quan của cá nhân. Toàn bộ hệ thống các quan hệ kinh tế, dân sự,
chính trị… phát triển theo qui luật khách quan của lịch sử, qui định thái độ
chủ quan bằng cách này hay cách khác, thể hiện trong các hành động, mong
muốn, sự hiểu biết, đánh giá của các cá nhân. Nói cách khác, sự hình thành và
phát triển thái độ chủ quan của cá nhân đồng thời là sự hình thành và phát triển ý
thức của họ.
c. Nghiên cứu thái độ ở Việt Nam.
Những nghiên cứu thái độ ở Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều của
hệ thống lý luận tâm lý học Liên Xô. Nhìn chung, những nghiên cứu lý luận
về thái độ ở Việt Nam chưa nhiều, chủ yếu là quan điểm của một số nhà
nghiên cứu tâm lý đầu ngành như: Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khắc Viện…

Khi bàn về thái độ Nguyễn Khắc Viện cho rằng: “Trước một đối
tượng nhất định, nhiều người có phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó
khăn, đồng tình hay chống đối như đã có sẵn những cơ cấu tâm lý tạo ra
định hướng cho việc ứng phó.” (3–tr.56). Ta thấy quan điểm này gần với
thuyết tâm thế của Uznadze, thái độ đối với một đối tượng nào đó sẽ chi
phối hoạt động của họ với đối tượng ấy.

16
Những nghiên cứu thái độ vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực
tiễn, bên cạnh các nghiên cứu thuần về lý luận hay nghiên cứu thuần về thực
tiễn, ở Việt Nam khá phong phú về cả đối tượng và khách thể. Những
nghiên cứu này chủ yếu là nhằm vào đối tượng thanh niên (học sinh, sinh
viên) với các vấn đề học tập, môi trường học đường như nghiên cứu “Thái
độ học tập của sinh viên đại học An ninh nhân dân” của Nguyễn Đức Hướng
(luận văn thạc sĩ tâm lý học), “Thái độ của sinh viên ĐHQGHN với nạn ma
tuý học đường” (khoá luận tốt nghiệp cử nhân tâm lý học của Nguyễn Thanh
Cường)… Bên cạnh đó, còn có một số nghiên cứu về thái độ có liên quan tới
các vấn đề văn hoá nghệ thuật như nghiên cứu của Lê Ngọc Phương về
“Thái độ của sinh viên với nhạc trẻ”, “Thái độ của học sinh phổ thông trung
học với nghệ thuật chèo” của Trần Thu Hương…, thậm chí có cả một số
nghiên cứu về thái độ liên quan đến các vấn đề phức tạp như sức khoẻ sinh
sản, sống thử trước hôn nhân, chẳng hạn nghiên cứu của Lê Linh Trang
“Thái độ đối với quan hệ tình dục trước hôn nhân của sinh viên Học Viện
ngân hàng phân viện TP HCM” (Luận văn thạc sĩ tâm lý học),…
Tuy nhiên, nghiên cứu về thái độ của NLĐ (nữ) Việt Nam đối với
công việc giúp việc gia đình tại Đài Loan thì nghiên cứu của chúng tôi là
công trình nghiên cứu đầu tiên.
Đúng như tổng kết trong cuốn “Sổ tay tâm lý học xã hội” của William
Mc Guice “Thái độ và sự thay đổi thái độ vẫn là một trong những đề tài
nghiên cứu nhiều nhất trong tâm lý học xã hội. Sự cố gắng của các nhà tâm

lý học trong các nghiên cứu về thái độ nhằm hiểu rõ, dự đoán, kiểm soát và
thay đổi hành vi con người đã mang lại rất nhiều kết quả. Tuy nhiên phải
thừa nhận rằng, thái độ là một khái niệm tâm lý khó xác định một cách chính
xác, chính vì vậy dù được nghiên cứu nhiều nhưng còn gây tranh cãi” (1–
tr.317).

17
1.1.2. Điểm qua một vài nghiên cứu đầu tiên về nghề giúp việc gia đình.
Hình thức lao động giúp việc gia đình đã tồn tại rất lâu đời trong lịch
sử, nhưng chỉ đến thời gian gần đây nghề này mới được chú ý nghiên cứu
tìm hiểu. Trước đây nghề này và người làm nghề này chỉ được các nhà văn
tái hiện trong một vài tác phẩm của mình nhằm khắc hoạ sự phân biệt đẳng
cấp, sự tha hoá của một lớp người trong một giai đoạn lịch sử.
Ngày nay, do sự phân công lao động xã hội trong hoàn cảnh mới nghề
GVGĐ dần có xu hướng phát triển mới và thời gian gần đây được xã hội rất
quan tâm:
+ Báo Lao Động Xã Hội số 2 ngày 4 -1 -1998 với bài viết ÔSin thời nay.
+ Báo Phụ Nữ Việt Nam số 27 tháng 2-1997 với bài Người giúp việc thời
nay.
+ Báo Tiền Phong số 64 ngày 8 -8- 1996 bài Có một nghề muôn năm cũ.
+ Tạp chí Khoa Học về Phụ Nữ số 4 năm 1996 có bài viết của tác giả
Trần thị Vân Anh về nghề giúp việc.
+ Nghiên cứu của khoa Tâm Lý trường đại học Khoa Học Xã Hội và
Nhân Văn về trẻ em làm thuê giúp việc trong các gia đình ở Hà Nội…
Các nghiên cứu và các bài báo đã đề cập đến rất nhiều khía cạnh khác
nhau của nghề GVGĐ như đặc điểm công việc, tính chất mối quan hệ của
người làm nghề này, nhưng chưa có nghiên cứu nào đề cập đến nghề GVGĐ
ở Đài loan do người phụ nữ Việt Nam thực hiện cũng như thái độ với nghề
của người đã và đang làm nghề này.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI.

1.2.1. Khái niệm thái độ.
1.2.1.1. Định nghĩa thái độ.
Trong các nghiên cứu về thái độ ở phương Tây, trước hết phải nói đến
2 nhà nghiên cứu W.I. Thomas và F. Znaniecki, những người đầu tiên đưa ra

18
khái niệm thái độ mà theo đó “Thái độ là sự định hướng chủ quan của cá
nhân như một thành viên (cộng đồng) đối với giá trị này hay giá trị khác,
làm cho cá nhân có phương pháp hành động này hay phương pháp hành
động khác được xã hội chấp nhận” (1-tr.279). Nói cách khác thái độ theo 2
ông chính là sự định hướng giá trị của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Nhìn chung, trong các trường phái nghiên cứu khác nhau việc định nghĩa
khái niệm này vẫn chưa có sự thống nhất kể cả các trường phái trong tâm lý
học phương Tây cũng như các trường phái khác nhau trong tâm lý học Mác
xít.
Từ điển tâm lý học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên cho rằng: “Thái độ
là những phản ứng tức thì, tiếp nhận dễ dàng hay khó khăn, đồng tình hay
chống đối, như đã có sẵn những cơ cấu tâm lý tạo ra sự định hướng cho việc
ứng phó”.
Từ điển tiếng Việt lại định nghĩa: “Thái độ là cách nhìn nhận hay
hành động của cá nhân theo một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình
huống cần phải giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngoài của
ý nghĩ, tình cảm của một cá nhân đối với một sự kiện nào đó”.
Năm 1953 G.W. Allport cho rằng: “Thái độ là một trạng thái sẵn sàng
về mặt tinh thần và thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm, điều
chỉnh hoặc ảnh hưởng năng động đến các phản ứng của cá nhân với tất cả các
khách thể và tình huống mà nó có mối liên hệ” và đưa ra 5 đặc điểm của thái độ
như sau:
+ Thái độ là trạng thái của tinh thần và hệ thần kinh.
+ Thái độ là sự sẵn sàng phản ứng.

+ Thái độ là trạng thái có tổ chức.
+ Thái độ được hình thành trên cơ sở kinh nghiệm quá khứ.
+ Thái độ gây ảnh hưởng điều khiển hành vi.

19
Tuy định nghĩa về thái độ của G.W. Allport được nhiều nhà tâm lý
thừa nhận vì qua định nghĩa không những chỉ ra được thái độ là gì, tác giả
còn nêu ra nguồn gốc, vai trò chức năng của thái độ. Tuy nhiên, trong định
nghĩa trên, một lần nữa ta lại thấy, thái độ chỉ bó gọn trong đầu của một cái
tôi chủ quan, mà không thấy vai trò của yếu tố môi trường và của những
người khác đối với việc hình thành thái độ chủ quan của mỗi người.
Nhà tâm lý học Mỹ Newcom cho rằng:” Thái độ là khuynh hướng hành
động, nhận thức, tư duy, cảm nhận của cá nhân với khách thể có liên quan” nói
cách khác đó là sự sẵn sàng phản ứng. Những gì mà chúng ta tin là đúng và khi
ta có thái độ nhất định về một khách thể nào đó, sẽ đóng vai trò hiển nhiên trong
việc qui định sự sẵn sàng phản ứng của chúng ta trước khách thể đó.
H.C. Trianodis (1971) coi “Thái độ là tư tưởng được hình thành từ
những xúc cảm gây tác động đến hành vi nhất định ở một giai cấp nhất định
trong những tình huống xã hội. Thái độ của con người bao gồm những điều
người ta suy nghĩ và cảm thấy về đối tượng, cũng như thái độ xử sự của họ
đối với nó”(1-tr.280).
R. Marten khẳng định, thái độ là xu hướng thường xuyên đối với các
tình huống xã hội. Nó biểu thị sự thống nhất của ý nghĩ, tình cảm và hành
động. Thái độ của con người quan hệ chặt chẽ với hành vi, được khẳng định
bằng tình huống thống nhất bên trong.
H. Fillmore nhận định, thái độ là sự sẵn sàng phản ứng tích cực hay
tiêu cực đối với đối tượng hay các ký hiệu (biểu tượng) trong môi trường…
thái độ là sự định hướng của cá nhân đến các khía cạnh khác nhau của môi
trường và là cấu trúc có tính cơ động.
J. Traver và các cộng sự lại định nghĩa thái độ là cách cảm xúc tư duy

và hành động tương đối lâu dài với sự việc hay con người nào đó (1-tr.280).

20
Như vậy qua các định nghĩa trên ta thấy: mặc dù được diễn đạt bằng
các hình thức khác nhau, nội dung chi tiết cũng không hoàn toàn thống nhất
nhưng các tác giả đều định nghĩa thái độ trên cơ sơ chức năng của nó. Đó là
chức năng định hướng hành vi, thúc đẩy tăng cường tính sẵn sàng phản ứng
của con người trước đối tượng.
V.N. Miaxisev cho rằng, thái độ là khía cạnh chủ quan bên trong có tính
chọn lọc các mối liên hệ đa dạng ở con người với các khía khác nhau của hiện
thực. Hệ thống này diễn ra trong toàn bộ lịch sử phát triển của con người, biểu
thị kinh nghiệm cá nhân và qui định nội hàm hành động cũng như các trải
nghiệm của họ. Khái niệm thái độ là khía cạnh tiềm năng của các quá trình tâm
lý, liên quan đến tính tích cực chủ quan của nhân cách (1-tr.280). Nói cách khác
thái độ là điều kiện khái quát bên trong của hệ thống hành vi con người.
B.Ph. Lomov định nghĩa thái độ (thái độ chủ quan của nhân cách) là
“tâm thế xã hội là một dạng tâm thế được xem như một yếu tố hình thành
hành vi xã hội của nhân cách, xuất hiện dưới dạng các quan hệ của nhân
cách với các điều kiện hoạt động của nó và của những người khác (1-tr.280).
K.K. Platonov thì lại cho rằng “Thái độ là một cấu thành tích cực của
ý thức cá nhân và là mối liên hệ ngược của chủ thể với thế giới, được phản
ánh và được khách thể hoá trong tâm vận động”, nói cách khác thái độ có ý
thức.
Có thể nói, thái độ được các nhà nghiên cứu định nghĩa rất khác nhau,
nếu các nhà tâm lý học phương Tây đều có nhận định chung về nội hàm của
khái niệm thái độ đó là: tính sẵn sàng phản ứng, tính gây tác động đến hành
vi, nhưng các nghiên cứu còn mang tính chất mô tả chưa vạch ra được bản
chất của thái độ là gì. Thì các nhà tâm lý học Xô Viết thì đều có chung
khẳng định thái độ là sự phản ánh ý thức, là thuộc tính cốt lõi của nhân cách
và là một yếu tố định hướng cho hành vi xã hội của con người.


21
Từ việc tham khảo công trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác nhau
chúng tôi hiểu: Thái độ là một thuộc tính cốt lõi của nhân cách biểu hiện
phản ứng mang tính chủ thể trước những tác động của hiện thực khách
quan, được hình thành trên cơ sở các mối quan hệ xã hội mà chủ thể tham
gia vào thông qua hoạt động và giao lưu của mình.
1.2.1.2. Đặc điểm thái độ.
a.Tính đối tượng của thái độ.
Thái độ bao giờ cũng là thái độ đối với một cái gì đó (đó có thể là
hiện tượng tự nhiên nào đó hay hành vi của một con người cụ thể…) liên
quan tới sự đánh giá của cá nhân đối với sự vật hiên tượng hay người khác
có liên quan với mình. Chính đối tượng này ảnh hưởng tới nội dung của thái
độ và qui định hình thức mức độ biểu hiện thái độ của con người với đối
tượng đó.
b.Tính xu hướng của thái độ.
Trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển tâm lý người, thái
độ đang được hình thành bị chi phối và thể hiện rõ nhất ở mặt tình cảm. Con
người thể hiện thái độ đối với đối tượng theo xu hướng đối tượng đó gây ra
cảm xúc âm tính hay dương tính đối với họ. Nhưng ngay cả khi thái độ của
con người mang đậm nét lý tính hơn thì tình cảm (xu hướng tình cảm) đối
với đối tượng vẫn không mất đi. Tuy nhiên, sự biểu hiện của tình cảm trong
các tình huống cụ thể không phải lúc nào cũng nhất nhất như nhau mà có thể
gia tăng hay giảm đột ngột phụ thuộc vào sự tham gia của lý trí.
c.Tính phức tạp của thái độ.
Thái độ chủ quan của cá nhân phản ứng lập trường của cá nhân với
hiện thực khác quan; nhưng khi có sự thay đổi vị trí khách quan của mỗi cá
nhân trong xã hội đòi hỏi phải có sự đổi mới thái độ chủ quan. Sự khủng
hoảng tâm lý lứa tuổi chính là minh chứng cho sự thay đổi thái độ chủ quan


22
của cá nhân tương ứng với sự thay đổi vị thế của nó. Trong trường hợp
không có sự thay đổi thái độ chủ quan khi đã có sự thay đổi vị trí khách
quan của cá nhân thì rất có thể nảy sinh trở ngại trong việc làm chủ các chức
năng xã hội, xảy ra xung đột với những người xung quanh và xung đột nội
tâm.
Mặt khác thái độ chủ quan chính là mối quan hệ phụ thuộc đan xen
gữa ba thành tố cấu thành (nhận thức, xúc cảm - tình cảm, hành vi), tại một
thời điểm cụ thể các thành phần trên không nhất thiết phải hiện diện một cách
đồng bộ mà có thể xảy ra sự không trùng khớp giữa chúng. Nhưng, thái độ xã
hội nói chung lại là sự thông nhất của ba yếu tố cấu thành gây tác động định
hướng và điều chỉnh hành vi.
d. Tính chất hai cực của thái độ
Thái độ của con người với đối tượng không phải là nhất thành bất
biến mà nó có thể biểu thể hiện ở tính chất hai cực. Con người có thể có thái
độ âm tính và thái độ dương tính với cùng một đối tượng ở hai thời điểm
khác nhau. Ví dụ tại thời điểm mới biết về nghề GVGĐ tại Đài Loan do
thiếu hiểu biết về nghề người lo động có thái độ rất tiêu cực với nghề (coi đó
là công việc hầu hạ người khác chứ chẳng phải là nghề) nhưng sau một thời
gian làm việc, NLĐ không chỉ nhân thức về nghề của mình rõ ràng hơn mà tình
cảm và hành động đối với nghề dần dần thay đổi theo chiều hướng ngày một
tích cực.
1.2.1.3. Cấu trúc của thái độ.
Mặc dù có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau về thái độ,
nhưng hầu hết các nhà tâm lý đều nhất trí với quan điểm cấu trúc 3 thành
phần của thái độ do M. Smith đưa ra năm 1942 “Về cấu trúc của thái độ bao
gồm cả 3 mặt: nhận thức - xúc cảm, tình cảm - hành vi”.
a.Nhận thức.

23

Muốn có thái độ với một sự vật, hiện tượng nào đó, trước tiên con
người phải nhận thức được chúng (có tri thức về chúng). Tri thức này có thể
được phân biệt theo khối lượng và mức độ trung thực đối với sự vật hiên
tượng.
Nhận thức là quá trình lĩnh hội kinh nghiệm xã hội loài người, tuy
nhiên đó không chỉ là quá trình tiếp nhận mà còn là quá trình nhận biết,
khám phá bản chất của vấn đề. Nhận thức chính là sự hiểu biết của cá nhân
về đối tượng cho dù sự hiểu biết đó là đúng hay sai, có tương ứng hay
không. Điều đó có nghĩa là khi một sự vật, hịên tượng, hay một cá nhân tác
động đến chúng ta, để có một thái độ nhất định về đối tượng thì chúng ta cần
phải hiểu biết về đối tượng đó. Chính quá trình tìm tòi khám phá đối tượng
là cơ sở để chúng ta xác định thái độ của mình về đối tượng. Chính vì vậy,
nhận thức là thành phần không thể thiếu, là cơ sở cho việc hình thành thái
độ.
b.Xúc cảm- tình cảm.
Các kiến thức về sự vật, hiện tượng không phải là yếu tố duy nhất
quyết định đến sự hình thành thái độ. yếu tố xúc cảm - tình cảm cũng đóng
một vai trò quan trọng trong việc hình thành thái độ của con người. Thái độ
biểu hiện qua mặt xúc cảm - tình cảm với đối tượng thể hiện sự đánh giá tốt
xấu của chủ thể đối với đối tượng. Khi chủ thể có xúc cảm - tình cảm dương
tính đối với đối tượng thì sẽ hình thành nên thái độ ổn định bền vững đối với
chúng. Ngược lại, chủ thể có xúc cảm - tình cảm không tốt về sự vật, hiện
tượng, con người thì sẽ tạo ra thái độ kém bền vững đối với chúng.
c.Hành vi.
Hành động của cá nhân không chỉ là yếu tố trực tiếp quyết định sự
hình thành nhân cách, mà còn qui định sự hình thành thái độ chủ quan của
cá nhân với hiện thực khách quan. Hoạt động có mục đích thể hiện các khía

24
cạnh khác nhau của các quan hệ xã hội mà ở đó các cá nhân sống và phát

triển. Sự phản ánh những quan hệ này trong ý thức cá nhân là yếu tố quyết
định sự hình thành thái độ. Ngược lại khi thái độ đã trở thành động cơ của
hoạt động thì thái độ sẽ qui định phương hướng hành động.
Ba thành phần này có quan hệ chặt chẽ với nhau, sự thống nhất giữa
chúng tạo nên một thái độ xác định của chủ thể. Tuy vậy, tỉ lệ giữa các thành
phần trong thái độ có sự khác nhau tuỳ từng tình huống cụ thể. Thái độ được
thể hiện dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau, ảnh hưởng đến tất cả
các thuộc tính khác của nhân cách, nhưng việc các cá nhân tỏ thái độ với
hiện thực chính là phản ứng trở lại hiện thực, tác động vào hiện thực khách
quan để cải tạo nó theo mục đích, nhu cầu của cá nhân và xã hội.





1.2.1.4. Chức năng của thái độ.
Các nhà tâm lý đã nghiên cứu và thống nhất thái độ của những chức
năng cơ bản sau:
a. Chức năng thích nghi.
Trong quá trình sống, chúng ta tham gia vào các nhóm nhất định, lúc
nhỏ là lớp học, lớn lên là tổ xản suất… việc tham gia các nhóm làm cho
chúng ta có sức mạnh của nhóm đó, nhưng ngược lại áp lực của các nhóm
lên từng cá nhân là rất lớn. Trong trường hợp cá nhân ý thức được rằng việc
thực hiện hành động sẽ hình thành ở những người xung quanh và bản thân
những đánh giá mới về bản thân mình như : một người con có hiếu, một
người bạn tốt, một công dân gương mẫu, một nhân viên có trách nhiệm…
Nhận thức
Cảm xúc
Hành vi

×