Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 110 trang )

ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC XÃ HộI Và NHÂN VĂN

đặng thị nga

Nhu cầu sử dụng mạng xà hội của sinh viên
tr-ờng cao đẳng s- phạm Thái Bình

LUậN VĂN THạC Sỹ
Chuyên ngành: Tâm lý học

Hà NộI – 2013
1


ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC XÃ HộI Và NHÂN VĂN

đặng thị nga

Nhu cầu sử dụng mạng xà hội của sinh viên
tr-ờng cao đẳng s- phạm Thái Bình

Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Tâm lý học
MÃ số: 60310401

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: GS.TS Trần Thị Minh §øc

Hµ Néi - 2013

2




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...........................13
1.1. Tổng quan nghiên cứu về nhu cầu sử dụng mạng xã hội .........................13
1.1.1. Tổng quan các nghiên cứu về nhu cầu.....................................................13
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về mạng xã hội ....................................................17
1.2. Một số khái niệm cơ bản ..............................................................................26
1.2.1. Khái niệm về nhu cầu ..............................................................................26
1.2.2. Khái niệm mạng xã hội ............................................................................31
1.2.3. Những ảnh hưởng của mạng xã hội đến người sử dụng ..........................36
1.2.4. Đặc điểm tâm lý của sinh viên .................................................................39
1.2.5. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên ...........................................41
Tiểu kết chƣơng ..................................................................................................43
Chƣơng 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................44
2.1. Tổ chức nghiên cứu ......................................................................................44
2.1.1. Giới thiệu chung về khách thể nghiên cứu thuộc trường Cao đẳng
Sư phạm Thái Bình ............................................................................................44
2.1.2. Tiến trình thực hiện..................................................................................45
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................46
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu .............................................................46
2.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi .......................................................47
2.2.3. Phỏng vấn sâu ..........................................................................................47
2.2.4. Phương pháp phân tích kết quả nghiên cứu .............................................48
Tiểu kết chƣơng ...................................................................................................50
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ..................................................................51
3.1. Thực trạng sử dụng mạng xã hội trong sinh viên CĐSP Thái Bình ........51
3.1.1. Mức độ sử dụng MXH và các MXH sinh viên thường dùng ..................51
3.1.2. Thời gian sinh viên vào mạng xã hội .......................................................54

3.1.3. Số lượng đối tượng giao lưu trên mạng của sinh viên .............................58
3.1.4. Nguồn cập nhật thông tin của sinh viên ..................................................61

3


3.2. Những biểu hiện cụ thể của nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh
viên ........................................................................................................................63
3.2.1. Nhu cầu sử dụng MXH thể hiện qua nhận thức của sinh viên CĐSP
Thái Bình về MXH ............................................................................................63
3.2.2. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội thể hiện qua cảm xúc của sinh viên
CĐSP Thái Bình đối với MXH..........................................................................73
3.2.3. Sự đáp ứng của MXH đối với các nhu cầu của sinh viên ........................77
3.3. Đánh giá của sinh viên về những tác động của mạng xã hội đối với
đời sống học tập của họ .......................................................................................91
3.3.1. Tác động tích cực của mạng xã hội đối với sinh viên .............................92
3.3.2. Tác động tiêu cực của mạng xã hội đối với sinh viên .............................95
Tiểu kết chƣơng ................................................................................................100
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .......................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................107
PHỤ LỤC

4


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê số lượng sinh viên theo năm học và theo giới tính(%) ............44
Bảng 3.1. Thời gian sinh viên vào mạng xã hội (%).................................................54
Bảng 3.2. Thời gian truy cập mạng xã hội của sinh viên xét theo năm học ............55
Bảng 3.3. Thời gian truy cập mạng xã hội của sinh viên xét theo giới tính (%) ......56

Bảng 3.4.Số bạn trên mạng xã hội của sinh viên(%) ................................................59
Bảng 3.5.Nhận thức về tính năng của MXH .............................................................66
Bảng 3.6. Những khó khăn khi sử dụng MXH .........................................................72
Bảng 3.7. Cảm xúc của sinh viên khi không được sử dụng mạng xã hội .................76
Bảng 3.8. Đánh giá của sinh viên về sự đáp ứng của MXH đối với nhu cầu học
tập, giải trí và tìm kiếm việc làm (ĐTB) .................................................87
Bảng 3.9.Đánh giá của sinh viên về sự đáp ứng của mạng xã hội đối với nhu
cầu giao tiếp xã hội (ĐTB) .......................................................................88
Bảng 3.10.Đánh giá của sinh viên về những ảnh hưởng tiêu cực của
MXH9(%) .................................................................................................96

5


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Thống kê số lượng sinh viên theo nơi sinh(%) ....................................45
Biểu đồ 3.1: Mức độ sử dụng MXH của sinh viên(%) .............................................51
Biểu đồ 3.2. Các mạng xã hội sinh viên thường xuyên sử dụng(%) .........................52
Biểu đồ 3.3: Thời gian trong ngày SV thường sử dụng MXH (%) ...........................57
Biểu đồ 3.4. Đối tượng giao lưu trên mạng của sinh viên(ĐTB) ..............................60
Biểu đồ 3.5: Nguồn cập nhật kiến thức chủ yếu của sinh viên(%) ...........................62
Biểu đồ 3.6: Vai trò của MXH đối với bản thân sinh viên(%) .................................65
Biểu đồ 3.7: Nhận thức của sinh viên về tính bảo mật của mạng xã hội(%) ............68
Biểu đồ 3.8. Mức độ hài lịng của sinh viên với các tính năng của mạng xã hội
(ĐTB) .......................................................................................................74
Bảng đồ 3.9: Cảm xúc của sinh viên sau mỗi lần tham gia mạng xã hội (%) ..........75
Biểu đồ 3.10. Đánh giá của sinh viên về sự đáp ứng của mạng xã hội đối với
nhu cầu thể hiện bản thân của sinh viên ...................................................77
Biểu đồ 3.11. Mục đích sử dụng MXH của sinh viên (%) ........................................80
Biểu đồ 3.12.Mục đích truy cập MXH của sinh viên theo năm học (%) ..................81

Biểu đồ 3.13. Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên cho mục đích học
tập (ĐTB) .................................................................................................82
Biểu đồ 3.14. Đánh giá của sinh viên về sự đáp ứng của MXH đối với nhu cầu
học tập, giải trí và tìm kiếm việc làm (ĐTB) ..........................................86
Biểu đồ 3.15. Đánh giá của sinh viên về mức độ đáp ứng của mạng xã hội đối
với nhu cầu tình cảm, tình dục của họ khi sử dụng MXH .......................89
Biểu đồ 3.16. Mức độ sinh viên truy cập các trang web sex theo năm học của SV (%) .... 90

6


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô trong khoa
Tâm lý học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình học tập và làm luận
văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS Trần Thị Minh Đức đã nhiệt tình hướng
dẫn tơi trong q trình làm luận văn.
Tơi cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn các thầy cô giáo cùng các sinh
viên trường Cao đẳng sư phạm Thái Bình đã hợp tác giúp đỡ tơi hồn thành luận
văn này.
Trong q trình nghiên cứu, đề tài khơng tránh khỏi thiếu sót, tơi kính mong
nhận được sự bổ sung, đóng góp ý kiến để đề tài của tơi được hồn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng 11 năm 2013
Tác giả

Đặng Thị Nga

7



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng
bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Trần Thị Minh Đức.
Hà Nội, ngày 28 tháng 11 năm 2013
Tác giả

Đặng Thị Nga

8


DANH MỤC BẢNG VIẾT TẮT
CĐSP

: Cao đẳng sư phạm

ĐHQG : Đại học Quốc gia
ĐTB

: Điểm trung bình

MXH

: Mạng xã hội

NXB

: Nhà xuất bản


TLH

: Tâm lý học

SV

: Sinh viên

9


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay mạng xã hội (social networks) đã và đang trở nên phổ biến và ngày
càng đi sâu vào cuộc sống con người. Các hoạt động thường nhật của con người
ngày càng bị ảnh hưởng, chi phối bởi mạng xã hội.
Mạng xã hội là mơ hình truyền thơng mới nhất trong q trình phát triển xã
hội đương đại, làm đơn giản hoá các phương thức tương tác và kết nối giữa con
người với nhau. Dù tuổi đời chỉ mới vài năm song các mạng xã hội như Facebook,
Twitter… đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng phổ biến tồn cầu, thu hút đơng
đảo người dùng và thậm chí cịn "gây nghiện" cho khơng ít người. Với rất nhiều
người, mạng xã hội không chỉ là nơi giao lưu kết bạn, bày tỏ bản thân, liên lạc với
gia đình, mà cịn là một cơng cụ tiếp thị, đánh bóng tên tuổi, lơi kéo bạn bè. Mạng
xã hội cũng là miếng đất màu mỡ tạo cơ hội phát triển tội phạm mạng. Nó khơng
chỉ ảnh hưởng đến người dùng nhẹ dạ, mà còn kéo theo những hệ lụy cho cả bạn bè,
đồng nghiệp và gia đình thơng qua những tội phạm mạng lừa đảo. Mạng xã hội
cũng chính là mơi trường lý tưởng cho các “tư tưởng độc hại”, thiếu lành mạnh lan
truyền, hay tạo nên những trào lưu xã hội khó kiểm sốt…
Các nghiên cứu về mạng xã hội đã không ngừng phát triển nhằm khai thác

những thế mạnh của mạng xã hội nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của người sử dụng.
Trên bình diện nghiên cứu, hiện nay chúng ta chưa có một cuộc điều tra xã hội nào
mang tính cả nước về việc sử dụng mạng xã hội như: những mạng xã hội nào thanh
niên thường sử dụng? Những lý do sử dụng mạng xã hội là gì? Những ảnh hưởng
nào của chúng đến đời sống tâm lý- xã hội của thanh niên?... Việc học sinh, sinh
viên và khơng ít người trưởng thành tiêu tốn thời gian, tiền bạc, tương lai… vào
hình thức giao tiếp ảo - mạng xã hội, mà quên đi những hình thức giao tiếp truyền
thống đã khiến các mạng xã hội có thể trở thành một vấn nạn xã hội. Tất cả những
câu hỏi này đều chưa có lời giải đáp.
Thái Bình là một tỉnh thuần nơng, tuy nhiên những năm gần đây sự bùng nổ
mạnh mẽ của internet cũng đã tác động không nhỏ đến mọi tầng lớp nhân dân nói
chung và học sinh sinh viên nói riêng. Nhận thấy được mạng xã hội là một phương
tiện truyền thơng ngày càng gắn bó chặt chẽ thân thiết với sinh viên nói chung, sinh
viên trường CĐSP Thái Bình nói riêng và sự tham gia sử dụng mạng xã hội của sinh
10


viên ngày càng nhiều. Chính vì vậy, chúng tơi chọn đề tài nghiên cứu: “Nhu cầu sử
dụng mạng xã hội của sinh viên trường CĐSP Thái Bình” làm đề tài luận văn của
mình với ý thức rằng, đây là vấn đề mới và ít được nghiên cứu chuyên sâu.
Đề tài tập trung tìm hiểu “Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên
trường CĐSP Thái Bình” trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra một bức
tranh chung về tình hình sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường CĐSP Thái
Bình. Trong đề tài này, chúng tơi làm rõ những mục đích, nội dung mà sinh viên
truy cập mạng xã hội, đồng thời, tìm hiểu tác động của mạng xã hội đối với đời
sống, học tập của sinh viên, từ đó đưa ra các giải pháp hợp lý để mạng xã hội trở
thành công cụ, người bạn hữu ích của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng là
thế hệ nịng cốt của đất nước trong bước đường hội nhập.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Cao đẳng Sư

phạm Thái Bình. Qua đó, đề xuất các giải pháp tăng cường nhận thức cho sinh viên
về cơ hội cũng như các nguy cơ mà mạng xã hội có thể mang lại, nhằm hạn chế
những hậu quả xấu do mạng xã hội gây ra đối với sinh viên nói riêng và xã hội nói
chung. Từ đó, giúp sinh viên có khả năng sử dụng mạng xã hội một cách hợp lý
phục vụ cho mục đích học tập và rèn luyện của mình.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên
4. Khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: 290 sinh viên (năm thứ nhất- đến năm thứ 3) trường
Cao đẳng Sư phạm Thái Bình. Trong đó:
+ 155 sinh viên năm thứ nhất
+ 45 sinh viên năm thứ hai
+ 90 sinh viên năm thứ ba
- 10 sinh viên tham gia phỏng vấn sâu
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên trường Cao đẳng Sư Phạm
Thái Bình là rất cao.
- Có sự khác biệt giữa mức độ và biểu hiện nhu cầu sử dụng mạng xã hội
giữa các nhóm khách thể nghiên cứu.

11


6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu hệ thống phương pháp luận và những cơ sở lý luận về mạng xã
hội; nhu cầu và nhu cầu sử dụng mạng xã hội trong sinh viên.
- Khảo sát về nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên CĐSP Thái Bình
hiện nay.
- Đánh giá thực trạng nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên CĐSP Thái
Bình và ảnh hưởng của nó tới hoạt động học tập và rèn luyện của sinh viên.

- Phân tích các yếu tố tác động của MXH đối với nhu cầu sử dụng MXH của
sinh viên từ đó, giúp họ nhận thức được những mặt lợi hại của dịch vụ này.
- Đề xuất các giải pháp giúp sinh viên nói chung và sinh viên CĐSP Thái
Bình nói riêng có định hướng tốt hơn và đạt hiệu quả hơn trong việc sử dụng mạng
xã hội.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Về khách thể nghiên cứu đề tài chỉ tập trung khảo sát 300 sinh viên tại
trường CĐSP Thái Bình
- Về nội dung nghiên cứu đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng nhu cầu, những
biểu hiện nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên và những tác động chủ yếu
của MXH đến đời sống và học tập của sinh viên.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập, tổng hợp và phân tích đánh giá
các tài liệu và các nghiên cứu trước để kế thừa có chọn lọc xây dựng tổng quan và
lịch sử vấn đề nghiên cứu góp phần bổ sung hệ thống lý luận cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra bảng hỏi (Anket): Đây là phương pháp chính của đề
tài nhằm thu thập những thông tin về nguyên nhân sử dụng mạng xã hội, thực trạng
sử dụng mạng xã hội (tần suất và thời gian vào mạng...), thái độ xã hội đối với việc
sinh viên dùng mạng xã hội. Với đề tài này chúng tôi sử dụng thiết kế nghiên cứu
điều tra một lần theo lát cắt ngang.
- Phương pháp phỏng vấn: để thu thập thêm thông tin về thực trạng sử dụng
mạng xã hội của sinh viên và những ảnh hưởng của nó tới hoạt động học tập và rèn
luyện của họ.
- Phương pháp thống kê toán học: sử dụng phần mềm sử lý số liệu SPSS 15.0

12


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan nghiên cứu về nhu cầu sử dụng mạng xã hội
1.1.1. Tổng quan các nghiên cứu về nhu cầu
1.1.1.1. Các nghiên cứu về nhu cầu trên thế giới
Các trường phái Tâm lý học khác nhau như Tâm lý học Gestalt, Tâm lý học
hành vi, tâm lý học nhân văn, phân tâm học, tâm lý học hoạt động…có các nghiên
cứu đề cập tới nhu cầu của con người.
- Nghiên cứu nhu cầu Tâm lý học hành vi
Jamne Watson (1878- 1958) là người khởi xướng ra trường phái tâm lý học
hành vi tại Mỹ. Lý thuyết này cho rằng khi có một kích thích nào đó tác động lên cơ
thể thì cơ thể tạo ra một phản ứng tương ứng đáp lại. Ơng cho rằng: “Tâm lý học
khơng mơ tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi cơ thể. Hành
vi được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài, nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp ứng lại
một kích thích nào đó, nó được thể hiện bằng công thức hành vi nổi tiếng S - R”.
Tâm lý học hành vi với người sáng lập J. Watson và các nhà tâm lý học theo
thuyết hành vi mới chỉ ra các yếu tố trung gian có ảnh hưởng tới những phản ứng của
con người khi có kích thích. Một số hạn chế đó là quan điểm này cịn máy móc về
hành vi của con người. Dù theo thuyết hành vi cũ hay mới thì các nhà hành vi cũng
khơng tìm thấy được bản chất nhu cầu cái thúc đẩy hành vi và hoạt động con người.
- Lý thuyết nhu cầu trường phái tâm lý học nhân văn
Các nhà tâm lý học nhân văn khi nghiên cứu nhu cầu đã coi nhu cầu là động cơ
hoạt động của con người. Nhà tâm lý học A.Maslow đã đưa ra hệ thống những nhu cầu
cơ bản của con người và cho rằng cần phải thỏa mãn nhu cầu đó trong q trình hình
thành và phát triển nhân cách. Đó là các nhu cầu và thứ tự được sắp xếp như sau:
Nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng và
nhu cầu tự khẳng định. Ông nhấn mạnh khả năng làm thỏa mãn nhu cầu cấp thấp dễ
hơn thỏa mãn nhu cầu cấp cao vì nhu cầu cấp thấp có giới hạn và sự thỏa mãn bên
ngồi, nhu cầu cấp cao khó thỏa mãn hơn với lí do chúng được thỏa mãn từ nhu cầu
bên trong, từ nội tâm cá nhân. Sự thỏa mãn nhu cầu là động lực thúc đẩy con người

13



hành động. Các hành vi mua hàng, hành vi tiêu dùng du lịch, hành vi sử dụng các
phương tiện thông tin đại chúng có thể bị chi phối 5 loại nhu cầu trên.
Maslow khẳng định các nhu cầu trong hệ thống thứ bậc của con người có
quan hệ với nhau, ông cho rằng hệ thống thứ bậc nhu cầu của con người rất linh
hoạt và thay đổi vị thế phù hợp với hoạt động của chủ thể cũng như thích ứng với
hoàn cảnh, trạng thái cơ thể trong những thời điểm nhất định. Khi cá nhân thỏa mãn
nhu cầu ở mức độ thấp thì nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ xuất hiện, sự thỏa mãn nhu
cầu và xuất hiện những nhu cầu ở mức độ cao hơn.
Trong đề tài nghiên cứu của mình, chúng tơi sử dụng các bậc thang nhu cầu
của Maslow làm cơ sở nghiên cứu nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên. Các
biểu hiện nhu cầu sử dụng MXH của sinh viên cũng chính là sự cụ thể hóa các bậc
thang nhu cầu của Maslow.
- Quan điểm các nhà tâm lý học hoạt động về nhu cầu
Sau cách mạng tháng Mười, nền Tâm lý học Liên Xơ đã có bước phát triển
mạnh mẽ. Dưới ánh sáng của Triết học Mác – Lê Nin, các nhà Tâm lý học Liên Xô
khi nghiên cứu về con người, đời sống tâm lý người đã khẳng định: Nhu cầu là yếu
tố bên trong quan trọng đầu tiên thúc đẩy hoạt động của con người. Ngay trong triết
học, F Anghen- tuy không phải là một nhà tâm lý học, nhưng khi nói về quan điểm
của mình về nhu cầu, ơng khẳng định: “Người ta quy cho trí óc, cho sự mở mang và
hoạt động của bộ óc tất cả công lao làm cho xã hội phát triển được nhanh chóng và
đáng lẽ người ta phải giải thích rằng hoạt động của mình là do nhu cầu của mình
quyết định (mà những nhu cầu đó quả thật đã phản ánh vào trong đầu óc con người
làm cho họ có ý thức đối với những nhu cầu đó) thì người ta lại quen giải thích rằng
hoạt động của mình là do tư duy của mình quyết định [4,tr280]
Nghiên cứu nhu cầu trong tâm lý học hoạt động chủ yêu dựa trên nền tảng
triết học duy vật lịch sử và duy vật biện chứng. Các nhà tâm lý học hoạt động cho
rằng nhu cầu của con người được sản xuất ra và thực thi trong q trình hoạt động.
Điều đó là cơ sở nảy sinh và phát triển nhu cầu, là hoạt động bản thân chủ thể.

X.L.Rubinstein đã bổ sung những thiếu sót của các nhà nghiên cứu trước
trong nghiên cứu của mình về nhu cầu. Ơng khẳng định nhu cầu của con người thể
hiện mối quan hệ của con người với thế giới xung quanh. Để tồn tại và phát triển,

14


con người luôn phải hoạt động nhằm đáp ứng những nhu cầu nhất định. Nhu cầu là
sự đòi hỏi cái gì đó nằm ngồi chủ thể. “Cái gì đó” chính là đối tượng của nhu cầu,
có khả năng đem lại sự thỏa mãn cho nhu cầu thông qua hoạt động của chủ thể. Vì
vậy, theo ơng phải thống nhất yếu tố khách quan (thuộc về đối tượng- thế giới đối
tượng) với yếu tố chủ quan (thuộc về chủ thể, trạng thái tâm lý của chủ thể) trong
quá trình hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu, khả năng đáp ứng những đòi hỏi ấy
một mặt phụ thuộc vào thế giới đối tượng và những điều kiện cụ thể, mặt khác lại
phụ thuộc vào năng lực, sự nỗ lực của chính chủ thể.
B.Ph.Lomov khi nghiên cứu về nhân cách ông cũng đề cập khá nhiều đến
nhu cầu. Ông cho rằng nhu cầu như là một thuộc tính của nhân cách. “Nhu cầu cá
nhân là địi hỏi nào đó của nó về những điều kiện và phương tiện nhất định cho việc
tồn tại và phát triển. Nhu cầu đó nhất thiết bắt nguồn từ những q trình xảy ra có
tính khách quan trong đó cá nhân tham dự vào suốt cả đời sống của mình. Dĩ nhiên
nhu cầu là trạng thái của cá nhân nhưng là nhu cầu về một cái gì đó nằm ngoài cá
nhân” [2,tr.479].
A.N.Leonchiep đã đưa ra định nghĩa về nhu cầu như sau: “Nhu cầu là một
trạng thái tâm lý của con người cần một cái gì đó cho cơ thể nói riêng, con người
nói chung, sống và hoạt động. Nhu cầu của con người ln ln có đối tượng, đối
tượng của nhu cầu có thể là vật chất hoặc tinh thần, chứa đựng những khả năng thỏa
mãn nhu cầu. Nhu cầu có vai trị định hướng, đồng thời là động lực bên trong kích
thích hoạt động của con người.” [10,tr.221]. Ông cho rằng: cũng như những đặc
điểm tâm lý khác của con người, nhu cầu cũng có nguồn gốc trong hoạt động thực
tiễn. Theo ông, nhu cầu thực sự bao giờ cũng có tính đối tượng: nhu cầu bao giờ

cũng là nhu cầu về một “cái gì đó”. Nhu cầu, với tính chất là sức mạnh nội tại thì
chỉ có thể được thực thi trong hoạt động. Lúc đầu, nhu cầu chỉ xuất hiện như là một
điều kiện, một tiền đề cho hoạt động, chỉ đến khi chủ thể thực sự bắt đầu hành động
với đối tượng thì lập tức xảy ra sự biến hoá của nhu cầu, nó khơng cịn tồn tại một
cách tiềm tàng. Sự phát triển của hoạt động càng đi xa bao nhiêu thì nhu cầu càng
chuyển hoá bấy nhiêu thành kết quả của hoạt động.[10,tr.221]
Tóm lại, các nghiên cứu nói trên về nhu cầu đã nêu bật được vai trò quan
trọng của nhu cầu đối với hoạt động của con người cũng như đối với sự hình thành

15


và phát triển tâm lý, nhân cách cá nhân. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất ở quan
điểm cho rằng nhu cầu của con người là một hệ thống, khi hệ thống này bắt đầu
phát huy tác dụng thì con người chuyển sang trạng thái tích cực năng động nói
chung cả về mặt sinh lý thần kinh và tâm lý, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
nhận thức, rung cảm và hoạt động thực tiễn diễn ra. Nhu cầu của con người không
ngừng biến đổi theo sự phát triển của cá nhân và xã hội.
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi nghiên cứu theo hướng đối tượng
của nhu cầu sử dụng mạng xã hội của sinh viên cũng chính là động cơ thúc đẩy
hành động sử dụng mạng xã hội của sinh viên. Đồng thời nhu cầu sử dụng mạng xã
hội của sinh không ngừng biến đổi theo sự phát triển của xã hội nói chung và theo
sự phát triển của cơng nghệ thơng tin nói riêng.
1.1.1.2. Các nghiên cứu về nhu cầu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, một số cơng trình nghiên cứu nhu cầu trên khách thể là học sinh,
sinh viên và một số nhóm quần chúng nhân dân đã được thực hiện trong các khoá luận,
luận văn, luận án của sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh. Theo đó, có thể
kể đến các cơng trình nghiên cứu đã được đăng trên tạp chí Tâm lý học như sau:
GS. TS Trần Hữu Luyến với đề tài: “Nhu cầu học ngoại ngữ ở trường THPT
những năm đổi mới tại một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ”. Kết quả nghiên cứu của đề

tài cho thấy, nhu cầu học ngoại ngữ ở trường THPT những năm đổi mới tại một số
tỉnh thành đồng bằng Bắc Bộ có một số nét nổi bật như: Nhu cầu được học ngoại
ngữ ở trường THPT là rất lớn, nhu cầu tiếng Anh là rất cao, nhu cầu đang được dạy
- học ở trường THPT nhìn chung trùng hợp với sở thích nhu cầu cụ thể của học
sinh, lý do chọn học ngoại ngữ của học sinh chủ yếu là do học sinh nhận thức được
vị trí, vai trị và tầm quan trọng của ngoại ngữ trong sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, nhu cầu được dạy thêm, học thêm ngoại ngữ đang học của học sinh
cũng rất cao, tuyệt đại đa số đã thừa nhận điều này.
Tác giả Bùi Thị Vân Anh với đề tài: “Nhu cầu giao tiếp của người nghỉ hưu
ở Hà Nội” (Tạp chí Tâm lý học- 2009). Đề tài đề cập đến nhu cầu giao tiếp của
người nghỉ hưu ở Hà Nội. Nhu cầu nổi lên hàng đầu ở người nghỉ hưu hiện nay là
được quan tâm, chia sẻ với người khác, nhu cầu nắm bắt thông tin về cuộc sống xã
hội xung quanh và được đóng góp ý kiến của bản thân. Qua kết quả nghiên cứu, tác

16


giả đưa ra các khuyến nghị rằng: Gia đình và xã hội cần tạo điều kiện cho người
nghỉ hưu tham gia giao tiếp, sinh hoạt tập thể để họ ổn định tâm lý, tránh sự mặc
cảm, tiếp tục hòa nhập vào đời sống cộng đồng, đóng góp cơng sức cho sự ổn định,
phát triển bền vững của gia đình và toàn xã hội.
Đề tài: “Nhu cầu hoạt động tham vấn ở các trường giáo dưỡng” TS.Đỗ
Ngọc Khanh- Viện Tâm lý học. Đề tài nghiên cứu thực tế về nhu cầu tham vấn và
hoạt động tham vấn ở các trường giáo dưỡng. Mục đích khảo sát bao gồm: tìm hiểu
thực trạng hoạt động tham vấn (hình thức, phương pháp, mơi trường và chất lượng
tham vấn) của các trường giáo dưỡng, tìm hiểu nhu cầu về tham vấn của học sinh và
nhu cầu được đào tạo, tập huấn về tham vấn của cán bộ, giáo viên trong 3 trường:
Trường Giáo dưỡng số 2- Ninh Bình, Trường Giáo dưỡng số 3- Đà Nẵng và trường
Giáo dưỡng số 5- Long An.
TS. Lã Thu Thủy với đề tài: “Hệ thống nhu cầu của cư dân ven đơ trong q

trình đơ thị hóa”. Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy thực trạng nhu cầu của
người dân ven đô là vô cùng phong phú và đa dạng. Xem giữa nhu cầu vật chất đơn
thuần là những nhu cầu tinh thần mang tính tinh tế. Tác giả cho rằng, nếu có thể tạm
định lượng các loại nhu cầu để xem xét xu hướng chung trong hệ thống nhu cầu của
người dân vùng ven đô cho thấy nhu cầu học tập của con cái chiếm ưu thế nhất, thứ
hai là nhu cầu việc làm, thứ ba là nhu cầu vật chất, nhu cầu văn hóa tinh thần và nhu
cầu đất đai được xếp cuối cùng với vị trí ngang nhau. Trong q trình đơ thị hóa
những nhu cầu đó có những biến đổi nhất định, tùy thuộc vào mức độ đơ thị hóa của
từng vùng khác nhau.
Các cơng trình ở Việt Nam đã góp phần làm rõ thêm lí luận nhu cầu của tâm
lý học macxit trong các lĩnh vực thực tiễn, đặc biệt là trong giáo dục. Hầu hết các
cơng trình ở Việt Nam đều nhằm phát hiện các đặc điểm và biểu hiện của nhu cầu
trong các hoạt động cụ thể của con người, trên cơ sở lí thuyết và thực nghiệm tìm ra
giải pháp làm thoả mãn và nâng cao hơn nữa chất lượng của nhu cầu đó.
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về mạng xã hội
1.1.2.1. Các cơng trình nghiên cứu trên thế giới về mạng xã hội
Mạng xã hội (Social network) hay còn gọi là Mạng xã hội ảo là dịch vụ kết
nối các thành viên cùng sở thích trên internet lại với nhau, với nhiều mục đích khác

17


nhau. Khi các cá nhân tham gia vào xã hội ảo - mạng xã hội thì khoảng cách về
khơng gian địa lý, giới tính, độ tuổi, thời gian trở nên vô nghĩa. Nhờ vào những ưu
việt này mà mạng xã hội đang có tốc độ lây lan chóng mặt ở mọi lứa tuổi, đặc biệt
là ở thanh niên trên toàn thế giới.
Mạng xã hội xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1995 với sự ra đời của trang
Classmate với mục đích kết nối bạn học. Tiếp theo là sự xuất hiện của SixDegrees
vào năm 1997 với mục đích giao lưu kết bạn dựa theo sở thích [23]. Năm 2002,
Friendster trở thành một trào lưu mới tại Hoa Kỳ với hàng triệu thành viên ghi danh.

Năm 2004, MySpace ra đời với các tính năng như phim ảnh (embedded video) đã
nhanh chóng thu hút hàng chục ngàn thành viên mới mỗi ngày [24] MySpace
trở thành mạng xã hội đầu tiên có nhiều lượt xem hơn cả Google và được tập đoàn
News Corporation mua lại với giá 580 triệu USD. Cùng năm 2004, Facebook ra mắt.
Ban đầu đây là địa chỉ dành cho sinh viên đại học kết nối và chia sẻ. Ngay sau khi ra
đời tại trụ sở trường đại học Harvard, Facebook đã có tới 19.500 sinh viên đăng kí
trong tháng đầu tiên. Hai năm sau, Twitter cũng kịp thời ra đời, ghi dấu mốc quan
trọng trong quá trình phát triển của mạng xã hội. Tại thời điểm năm 2008, mỗi giây
người dùng Twitter đăng lên 3.283 thông điệp và mỗi ngày mạng xã hội Twitter cũng
thực hiện hơn 800 triệu lượt tìm kiếm [25]. Năm 2006 đánh dấu bước ngoặt mới cho
hệ thống mạng xã hội Facebook trực tuyến cho phép người dùng tạo ra những công
cụ mới cho cá nhân mình, cũng như các thành viên kết nối khác. Hiện nay Facebook
có tốc độ phát triển chóng mặt, với số lượng người dùng khoảng 600 triệu. Theo khảo
sát vừa được cơng bố tại Mỹ, Facebook nói riêng và mạng xã hội nói chung chính là
điểm đến tiêu tốn nhiều thời gian nhất của người dùng.
Hiện nay, trên thế giới có hàng trăm mạng xã hội khác nhau mà mọi lứa tuổi
có thể tham gia, như mạng Myspace và Facebook nổi tiếng Ở Bắc Mỹ và Tây Âu,
Orkut và Hi5 tại Nam Mỹ, Friendster tại Châu Á và các đảo quốc Thái Bình
Dương, Bebo tại Anh Quốc, CyWorld tại Hàn Quốc, Mixi tại Nhật Bản và Zing Me
tại Việt Nam. [26]
Từ góc độ kinh tế, mạng xã hội là một phương tiện để các nhà sản xuất, kinh
doanh quảng cáo sản phẩm, xây dựng mạng lưới người tiêu dùng, đánh giá và điều
chỉnh thị thường…

18


Vai trị và những ảnh hưởng tích cực của mạng xã hội đã được chứng minh
bằng số lượng người dùng là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, mạng xã hội
cũng có những mặt trái của nó. Thay vì đến với nhau ngồi đời thực để thăm hỏi,

chuyện trị thì giới trẻ chỉ suốt ngày dán mắt vào màn hình máy tính để trao đổi,
“vui chơi”. Như vậy, các kỹ năng sống, kỹ năng xử lý tình huống của họ dần dần bị
mất đi và thay thế bằng các kỹ năng của xã hội ảo. Có những trường hợp trở nên
“nghiện” mạng xã hội, biểu hiện ở việc nếu không online họ có thể bị rơi vào trạng
thái nơn nao, khó chịu, buồn bực… Mạng xã hội nhanh chóng tạo hiệu ứng xã hội
bằng cách truyền tải những thông tin, hình ảnh cho hàng ngàn, hàng triệu thành viên
khác về những chuyện xấu như nữ sinh cởi áo giữa lớp học, cấu xé nhau nơi công
cộng, “lộ hàng”... Điều này gây nên hiện tượng bắt chước, lây lan trong xã hội, ảnh
hưởng đến lối sống của giới trẻ.
Nhiều nhà khoa học hàng đầu của Anh cảnh báo rằng các trang web cộng
đồng đang gây nên nhiều thay đổi tiêu cực đối với não của trẻ em tại xứ sở sương
mù. Susan Greenfield, một chuyên gia thần kinh nổi tiếng của Anh, khẳng định các
mạng xã hội như Facebook, Twitter và Bebo khiến trẻ em trở nên ích kỷ hơn, đồng
thời làm giảm khả năng tập trung và làm tăng tính tự mãn. Baroness Greenfield,
một nhà thần kinh học của Đại học Oxford, hiện giữ chức giám đốc Viện Hoàng gia
Anh, cho rằng, việc tiếp xúc liên tục với mạng xã hội sẽ đảo ngược mọi hoạt động
của não: “Các mạng xã hội, trị chơi điện tử bạo lực, chương trình truyền hình sẽ
làm chậm tốc độ phát triển của não trẻ, vì chúng rất dễ bị thu hút bởi âm thanh và
ánh sáng mạnh”. Baroness cũng khẳng định việc việc chơi game, chat và tham gia
mạng xã hội có thể khiến cả một thế hệ mất đi khả năng tập trung trí óc: “Tơi ln
sợ rằng một ngày nào đó, cách giao tiếp truyền thống sẽ bị thay thế bởi những hộp
thoại trên màn hình máy tính”, bà tâm sự [29].
Nhiều nhà tâm lý cũng cho rằng công nghệ số đang thay đổi cách tư duy của
con người. Họ chỉ ra rằng học sinh ngày nay không cần phải lập dàn ý trước khi
viết bài luận vì sự phổ biến của các chương trình xử lý văn bản trên mạng. Sue
Palmer, tác giả của cuốn sách nổi tiếng Toxic Childhood, phát biểu: “Sự phát triển
trí óc của trẻ em ngày nay đang bị cản trở vì chúng khơng tham gia vào những hoạt
động mà loài người đã thực hiện từ hàng nghìn năm nay. Tơi khơng phản đối việc

19



cho trẻ tiếp cận với công nghệ số và máy tính, nhưng trước khi tham gia vào xã hội
ảo, chúng cần phải biết cách tạo mối quan hệ với người thực”. Trong một cuốn
sách mang tên Alone Together vừa xuất bản mới đây, tiến sĩ Turkle đã kêu gọi
người dân nên bớt thời gian dành cho các trang mạng xã hội như Twitter hay
Facebook. Thay vào đó, chúng ta nên tằng cường các hoạt động giao tiếp trong xã
hội thự [30].
Không thể phủ nhận rằng các mạng xã hội như Facebook, Twitter rất dễ gây
nghiện và một nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng việc sử dụng mạng xã hội đang ngày
càng trở nên phổ biến và dễ gây nghiện hơn cả việc dùng rượu hay hút thuốc.
(Nghiên cứu được thực hiện bởi trường Đại học Chicago Booth School of Business,
với 205 tình nguyện viên tham gia cung cấp số liệu)[31]
Theo một khảo sát gần đây nhất của WeAreSocial, một tổ chức có trụ sở
chính ở Anh nghiên cứu độc lập về truyền thơng xã hội tồn cầu cho biết: “Trong số
30.8 triệu người sử dụng Internet ở Việt Nam có trên 8.5 triệu người dùng Facebook
và đây là mạng xã hội phổ biến nhất ở Việt Nam cuối năm 2012”. Số người dùng
Facebook ở Việt Nam tăng thêm 500.000 chỉ trong 2 tuần, 28% người sử dụng
Internet ở Việt Nam có tài khoản Facebook. Trung bình ở Việt Nam cứ mỗi ba giây
lại có người đăng kí dịch vụ facebook. Chỉ một năm trước đây có khoảng 2.9 triệu
người sử dụng facebook, nhưng hiện nay con số này đã tăng lên trên 8.5 triệu
người- tăng gần 200%. Facebook được sử dụng mọi lúc mọi nơi, tạo ra sức cuốn hút
ghê gớm và tốc độ lan truyền mạnh mẽ đặc biệt là trong giới trẻ.
1.1.2.2. Các cơng trình nghiên cứu về mạng xã hội ở Việt Nam
Nếu như giai đoạn 2005- 2008 đa số các mạng xã hội chỉ cung cấp nội dung
thông tin đơn giản dưới dạng blog và hình ảnh, với đại diện tiêu biểu là Yahoo 360,
thì đến 2009, mơ hình mạng xã hội thế hệ thứ ba mới bắt đầu bước vào Việt Nam
với đại diện “nội địa” tiêu biểu là Zing Me. Mạng xã hội thế hệ mới của người Việt
Nam đã nhanh chóng chiếm được sự ưa chuộng của giới trẻ Việt Nam và phát triển
bùng nổ về số lượng người dùng cũng như thời lượng sử dụng.

Theo một thống kê toàn cầu của Google công bố tháng 8/2010, mạng xã hội
lớn nhất ở Việt Nam là Zingme của cơng ty VNG (Tập đồn Vinagame), nơi phần
đông người sử dụng là những thanh thiếu niên từ độ tuổi 15 – 22 [32]. Với thế hệ

20


này, internet đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày
của họ. Học hành, giao tiếp, đọc thông tin… tất cả đều qua internet. Đây là thế hệ
không ngại chia sẻ trên internet - mức độ thông tin mà họ không ngại ngần bày tỏ
qua internet thật là đáng ngạc nhiên đối với thế hệ già hơn. Như nhận xét của tạp
chí Time trong bài viết về nhân vật của năm: “Ý thức về bản thân của chúng ta
thay đổi nhiều hơn, trong khi ý thức về sự riêng tư mở rộng hơn. Những gì đã
từng được coi là thầm kín thì nay được chia sẻ với hàng triệu người chỉ bằng một
cú nhấp chuột” [33].
Theo ông Effendy Ibrahim, giám đốc kiêm cố vấn Luật về An toàn Internet
của Symantec Châu Á: “Chúng ta đang cho đi một cách hào phóng những thơng tin
mà tin tặc có thể lợi dụng để tấn cơng chính chúng ta”. Chỉ bằng những thơng tin
cơng khai có được, tin tặc có thể dễ dàng nắm được sở thích chiếm được niềm tin
của người dùng. Chúng có thể dễ dàng truy cập và tấn công trang profile để rồi từ
đây mở rộng vùng tấn cơng sang tồn bộ bạn bè trong Frendlist [34].
Tại Việt Nam, Zing Me có 6,1 triệu người sử dụng chiếm xấp xỉ 20 % tổng
số người dùng Internet Việt Nam; Yume.Vn có 2,9 triệu người dùng; Facebook có
2,6 triệu người dùng. Hiện nay, cộng đồng mạng ngày càng thu hút đông đảo học
sinh, sinh viên, doanh nhân, doanh nghiệp...Theo ước tính của VNG thì đến năm
2014 tỉ lệ sử dụng mạng xã hội của người Việt Nam có thể lên tới 50% [35].
Giới trẻ Việt Nam hiện nay năng động và thành thạo với công nghệ thông
tin. Việc tham gia vào các mạng xã hội của giới trẻ như là một nhu cầu tất yếu. Tuy
nhiên tính kết nối toàn cầu của mạng xã hội Việt Nam còn thấp. Các mạng xã hội
riêng của Việt Nam như Tamtay.vn; Truongxua.vn; Banbe.net hay Zing me ...cũng

ít người dùng dù giao diện dễ sử dụng, có các chức năng thuận lợi cho việc tìm lại
bạn học cũ ở mọi miền đất nước, giao lưu, chia sẻ tâm tình... Theo khảo sát của tổ
chức Cimigo Việt Nam, số người dùng mạng xã hội tính tới cuối năm 2010 tại Việt
Nam đã đạt gần 10 triệu người [34]. Khảo sát này chưa đi sâu vào thói quen và hành
vi lướt mạng xã hội của người dùng Việt, nhưng chắc chắn chân dung ảo của đại đa
số người dùng không hề mờ nhạt chút nào, thậm chí là rất chi tiết từ tên tuổi, nơi
làm việc, địa chỉ, ngày sinh cho đến ảnh chân dung, tình trạng hơn nhân, con
cái...tất cả đều được hiển thị công khai trên trang profile.

21


Với rất nhiều người trẻ tuổi đang sử dụng mạng xã hội, thơng tin về họ rất dễ
dàng tìm kiếm. Facebook góp phần rất lớn khiến cho sự nhận dạng trên mạng xã hội
của họ là con người thực, chứ khơng phải là một nhân vật vơ danh núp bóng đằng
sau một cái tên ảo nữa. Mạng xã hội cung cấp thông tin chi tiết về cá nhân từ các
mối quan hệ xã hội, bạn bè họ, đến sở thích, quan điểm sống của họ và đến cả thói
quen ăn uống mua sắm của họ nữa. Ở Việt Nam rất nhiều người “add” bạn bè ồ ạt
và cơng khai hóa mọi thông tin. “Với đa số những người trẻ, bảo vệ sự riêng tư
không phải là ưu tiên hàng đầu của họ”. Ơng Nguyễn Bảo Hồng, giám đốc điều
hành quỹ đầu tư mạo hiểm IDG Việt Nam nhận xét “Họ vẫn đang ở độ tuổi loay
hoay xác lập bản thân mình và có nhu cầu thể hiện khẳng định mình” [33]
Hiện nay, khơng ít thanh niên Việt Nam mắc chứng “nghiện” facebook. Họ
lang thang trên facebook để đọc và bình luận cho hết thì giờ rảnh rỗi và dùng blog
như một góc riêng để viết nhật kí để đọc của bạn bè và chia sẻ cùng nhau. Tất cả
những điều này đáng được nghiên cứu.
* Các đề tài nghiên cứu liên quan
Mạng xã hội là một lĩnh vực tương đối mới mẻ, đo đó những cơng trình
nghiên cứu về lĩnh vực này chưa nhiều. Trong đề tài này, tác giả tổng hợp được một
số báo cáo cơng trình nghiên cứu sau:

- Tác giả Trần Hữu Luyến với đề tài: “Mạng xã hội đối với thanh niên Việt
Nam- Thực trạng và giải pháp”.Mã số VI 1.1- 2011.04 ( 04/2012/V/HĐXH). Đề tài
nghiên cứu thực trạng và giải pháp sử dụng mạng xã hội của thanh niên Việt Nam
hiện nay. Đề tài đang được triển khai chưa có nghiệm thu kết quả. Trong q trình
làm luận văn, được sự cho phép, chúng tơi có sử dụng một phần bộ câu hỏi nghiên
cứu trong đề tài của tác giả Trần Hữu Luyến làm bộ công cụ nghiên cứu nhu cầu sử
dụng mạng xã hội của sinh viên.
- Xem xét những tác động của internet đến hoạt động học tập của sinh viên,
Nguyễn Quý Thanh cùng nhóm tác giả Nguyễn Vân Anh, Nguyễn Khánh Hịa,
Nguyễn An Ni nghiên cứu đề tài “Mối quan hệ của việc sử dụng internet và hoạt
động học tập của sinh viên” Mã số Q.CL.05.01[13]. Đề tài đã tiến hành khảo sát
640 sinh viên của 10 trường đại học, trong đó 5 trường ở Hà Nội và 5 trường ở
Thành phố Hồ Chí Minh.

22


Đề tài đã đưa ra những kết quả chính như: Mối liên hệ giữa hành vi học tập
chủ động tích cực của sinh viên với việc sử dụng internet đó là, internet chỉ có liên hệ
tới hành vi lên thư việc đọc tài liệu theo chiều hướng tích cực, tức là những người
càng truy cập càng nhiều thì càng chăm lên thư viện.Về dạng hành vi phản học tập có
mối liên hệ với việc truy cập Internet ở khía cạnh khác. Có một nghịch lý là tần xuất
truy cập Internet càng cao thì tỷ lệ nghỉ học lại càng giảm. Sinh viên sử dụng mạng
với mục đích giao tiếp nói chuyện riêng trong lớp nhiều hơn. Sinh viên truy cập
Internet hàng ngày làm việc trái giờ chiếm tỷ lệ lớn nhất nhưng ở mức độ thường
xun thì những người khơng bao giờ truy cập vi phạm nhiều hơn. Đặc biệt, những
người sử dụng Internet phục vụ học tập ít có hành vi giờ này học bài môn khác so với
những người truy cập mạng khơng với mục đích đó. Tần suất truy cập Internet cũng
liên hệ tới hành vi ngủ, chơi cờ hoặc đánh bài trong giờ học. Những người truy cập
mạng hàng ngày vi phạm nhiều nhất nhưng nếu sử dụng ở mức độ trung bình thì tỷ lệ

này thấp hơn so với những người không truy cập Internet.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu, đề tài đi đến kết luận Internet là một
công cụ hữu hiệu bổ trợ cho quá trình giảng dạy- học tập của sinh viên. Tuy nhiên,
cho dù nó đã tạo ra những sự thay đổi nhất định trong cách học của sinh viên, xét về
cơ bản mức độ ảnh hưởng này không sự lớn như kì vọng. Việc phổ cập và tạo điều
kiện cho sinh viên có thể truy cập vào mạng internet phục vụ cho việc học là cần
thiết, nhưng đi kèm nó phải là việc thay đổi một cách căn bản q trình dạy. Vì nếu
khơng, sinh viên cũng chẳng cần chủ động hơn, khơng cần có thêm những thơng tin
từ internet thì họ vẫn có kết quả cao. Nhóm tác giả cũng khẳng định rằng, điểm bất
hợp lý này cần được giải quyết đồng bộ từ phía giảng viên, sinh viên cũng như
những nhà quản lý giáo dục.
- Đề tài nghiên cứu “Xu hướng sử dụng Internet ở Việt Nam” do tập đồn
thơng tin thị trường tồn cầu thực hiện tháng 12 năm 2008. Cuộc nghiên cứu được
khảo sát trên 1200 người sử dụng Internet tại 4 thành phố Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng
và Cần Thơ bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp. Nghiên cứu mang tính chất khảo
sát và chỉ dừng lại ở mục đích nhằm cung cấp thơng tin cho các nhà tiếp thị và truyền
thông những thông tin về thói quen sử dụng Internet của người Việt Nam, từ đó
hoạch định các chiến lược Maketing trên Internet phù hợp hơn với người Việt Nam.

23


Kết quả nghiên cứu chuyên sâu qua cuộc nghiên cứu về xu hướng sử dụng
Internet tại các thành phố lớn ở Việt Nam cho thấy, một tầm nhìn tổng quát về các
hoạt động trực tuyến của người sử dụng bao gồm thói quen sử dụng các phương tiện
truyền thơng liên kết, lối sống tâm lý của người sử dụng Internet và việc nghiên cứu
thương hiệu mà họ quan tâm và ưa chuộng. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy: Thời
gian bình quân sử dụng Internet mỗi ngày đã tăng gần gấp đôi, từ 22 phút năm 2006
lên 43 phút năm 2008. Chi phí bình qn cho việc truy cập Internet (bao gồm phí
thuê bao) là 174.000 đồng/tháng. Xu hướng truy cập Internet tại nhà (66%) đã vượt

trội hơn so với việc ra quán café Internet (53%). Tuy nhiên, lứa tuổi thanh thiếu
niên lại hay truy cập Internet ở các quán café Internet hơn. Cập nhật thông tin và sử
dụng công cụ tìm kiếm là các hoạt động online phổ biến. 82% số người được hỏi sử
dụng các cơng cụ tìm kiếm và gần 90% trong số họ đọc tin tức trên Internet. Hơn
95% người sử dụng Internet ở Việt Nam dùng các dịch vụ Yahoo! Messenger và
Email [36]
- “Thực trạng sử dụng Internet ở thanh thiếu niên Việt Nam”, 2004 trên trang
web chungta.com. Bài viết sử dụng phương pháp quan sát và phỏng vấn một số đối
tượng là thanh, thiếu niên và một vài giáo viên. Kết quả cho thấy được Internet có
vẻ như đã trở thành một phương tiện rất quen thuộc đối với đông đảo thanh thiếu
niên nhất là ở các thành phố lớn. Bài viết chỉ ra rằng: đa số khách hàng ở các quán
café Internet là thanh thiếu niên với mục đích vào Internet để chat (tán gẫu) và tình
trạng truy cập Internet một cách tự phát mà không được ai hướng dẫn trước ngay cả
ở nhà và trong trường học từ đó sẽ dẫn đến tình trạng “lợi bất cập hại”. Bài viết
cũng đưa ra được sự cần thiết có những kế hoạch đào tạo định hướng sử dụng máy
tính và Internet một cách cơ bản và rộng rãi cho học sinh, sinh viên.
Tác giả Nguyễn Quý Thanh với bài viết “Internet và định hướng giá trị của
sinh viên về tình dục trước hơn nhân” [12]. Bài viết được rút ra từ cuộc nghiên cứu
thực nghiệm khảo sát trên 640 sinh viên trên quy mô tại 5 trường đại học ở Hà Nội
và 5 trường đại học ở TP.HCM. Từ kết quả nghiên cứu của mình, Nguyễn Q
Thanh đã đưa ra mơ thức sử dụng Internet phổ biến nhất của sinh viên Việt Nam đó
là: Sử dụng cho mục đích Chat (66.3%), cịn việc tìm kiếm thông tin học tập và đọc
báo, truyện tranh trên mạng (65.6%). Từ phân tích trên có thể dễ dàng nhận thấy

24


rằng sinh viên lên mạng tìm kiếm thơng tin cho nhu cầu giải trí nhiều hơn là để thu
thập thơng tin cho việc học tập, thu thập kiến thức. Qua bài viết, tác giả nhấn mạnh
đến việc sử dụng Internet thường xuyên có ảnh hưởng đến định hướng giá trị của

sinh viên. Đồng thời cũng đưa ra nhận định về số lượng các nghiên cứu về tác động
của Internet đối với lối sống sinh viên là còn nhiều hạn chế và chưa nhiều.
- Tác giả Phạm Hồng Tung có bài nghiên cứu về “Văn hóa và lối sống của
thanh niên Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế”[16]. Trong
khuôn khổ bài nghiên cứu này, tác giả khơng đi sâu phân tích và trình bày kỹ về
những vấn đề lý thuyết và cách tiếp cận đối với các đối tượng nghiên cứu phức tạp
là thanh niên, văn hóa thanh niên và lối sống thanh niên. Tuy nhiên, để bước đầu
xây dựng những nguyên tắc cho cách tiếp cận đối với chủ đề chính và góp phần
nhận diện những xu hướng biến đổi của văn hóa và lối sống của thanh niên Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, tác giả đã đề cập tới
một số khái niệm công cụ và khía cạnh phương pháp luận của các vấn đề nghiên
cứu. Trên cơ sở của các cách tiếp cận, tác giả trình bày cho phép nhận diện và đánh
giá xu hướng và mức độ biến đổi của lối sống của thanh niên Việt Nam trong bối
cảnh đẩy nhanh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước chủ động hội nhập quốc tế.
- Tác giả Nguyễn Bích với bài viết “Internet và những tác động làm thay đổi
tại Việt Nam”. Tác giả nhận định rằng, một trong những dịch vụ hàng đầu của thông
tin đại chúng là sự xuất hiện của Internet. Nó là một phương tiện khơng thể thiếu
của nhân loại hiện nay, một dịch vụ nhanh gọn, tiện ích, một hệ thống thơng tin tồn
cầu có thể được truy cập cộng đồng. Chính vì những ưu thế đó, Internet đã và đang
thâm nhập vào mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và hoạt động sống
của con người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội.
Qua tổng quan các tài liệu trên, tác giả đề tài nhận thấy Internet nói chung và
mạng xã hội nói riêng là một sản phẩm công nghệ mới đồng thời dưới góc độ tâm lý
học, nó là một hình thức mang nhiều đặc trưng mới làm phong phú cho cuộc sống
của con người. Tuy nhiên, với nhiều chức năng vừa mang tính tích cực vừa mang
tính tiêu cực, mạng xã hội đã và đang là mối quan tâm cũng như đã gây nhiều lo
ngại cho các nhà quản lý và nhiều tổ chức liên quan, trước nhu cầu hiểu biết ngày
càng cao về loại hình phương tiện truyền thơng mới mẻ này của giới trẻ. Qua đó, tác

25



×