Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY TOÁN LỚP 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.84 KB, 13 trang )

SKKN: ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY TOÁN LỚP 3
PHẦN 1 – ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội nước ta hiện nay, vấn đề giáo dục là quốc sách hàng đầu. Bỡi
lẽ, giáo dục là nền móng của đất nước. Về mặt kiến thức mà nói nó là dụng cụ cho
con người trang bị buớc vào cuộc sống .
Chúng ta sống trong một thế kỉ của thời đại bùng nổ thông tin, trong xu thế toàn
cầu hóa, nền kinh tế tri thức có ý nghĩa quyết định đối với đất nước. Điều đó góp
phần vào việc giáo dục đào tạo cho một lớp người phát triển toàn diện, có đầy đủ
phẩm chất trí thức, đạo đức, năng động sáng tạo góp phần xây dựng đất nước
giàu đẹp. Vì vậy vấn đề này được xác định ngay từ bậc Tiểu học. Đối với bậc học
này là cơ sở ban đầu giúp các em những kĩ năng, kĩ xảo, có thói quen trong học tập,
cũng như trong mọi lĩnh vực khác giúp các em từng bước hướùng cho tương lai. Vì
vậy mà luật phổ cập giáo dục Tiểu học xem phổ cập giáo dục là nền tảng cho thế hệ
mai sau. Với tất cả các môn học ở bậc Tiểu học nói chung, môn toán nói riêng là
một trong những môn học chính, nó góp phần quan trọng và cần thiết cho học sinh.
Chính vì thế mà thời lượng được bố trí trong thời khóa biểu học tập của học sinh
chiếm tỉ lệ cao. Uớc mơ của những người làm công tác giáo dục, giảng dạy, của gia
đình và xã hội làm sao cho con em mình được có một trình độ kiến thức đúng, phù
hợp cho từng lứa tuổi .
Như vậy, vấn đề giáo dục có đạt được kết quả tốt hay không đó là yêu cầu mà mỗi
giáo viên cần thực hiện bằng những phương pháp mà tích lũy lâu nay, kết hợp các
phương pháp đã được đổi mới, hãy đưa vào sử dụng giảng dạy giúp các em hiểu và
nâng cao chất lượng học tập, phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh. Chính
vì thế tôi rất quan tâm đến vấn đề này. Xuất phát từ lòng yêu nghề mến trẻ, tôi cũng
có ước mong làm thế nào để học sinh phát huy tính chủ động, tích cực trong học

1
tập và nâng cao chất lượng môn Toán ở khối lớp 3 nói riêng và bậc Tiểu học nói
chung .
II. Mục đích và ý nghĩa của đề tài


Với mục đích và tìm hiểu thực trạng học tập môn Toán của học sinh lớp 3. Qua
môn Toán nhằm thực hiện mục đích giáo dục và bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những
người hữu ích cho xã hội. Nhưng để có được những điều như thế, đó chính là
những thế hệ đi trước. Để cho học sinh góp phần thích ứng với điều kiện học tập,
lao động như hiện nay. Đòi hỏi ở chính cá nhân phải tiếp thu lĩnh hội những kiến
thức mới, học hỏi nhiều ở bạn bè, thầy cô
Đã là giáo viên đòi hỏi những giáo viên phải có năng lực, phẩm chất đạo đức và
phương pháp tốt. Chính vì lẽ đó mà người giáo viên hiểu được nhu cầu, tâm lý khả
năng của học sinh để từ đó rút ra được những điều cần thiết cho việc giảng dạy.
Đây cũng chính là việc nâng cao chất lượngdạy của thầy và học của trò. Xác định
và kiểm nghiệm học tập môn Toán, bước đầu hình thành kĩ năng tính toán và giải
một số bài toán đơn. Có những phương pháp thích hợp thì học sinh sẽ tiếp thu môn
Toán sâu và rộng hơn, càng thêm hứng thú để học môn này. Qua đó lôi cuốn sự tập
trung của học sinh vào việc học. Học sinh có thái độ thích thú với môn Toán để từ
đó tìm hiểu nguyên nhân và chất lượng giảng dạy trong nhà trường được nâng cao.
III. Kết quả cần đạt

IV. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu


2
PHẦN 2 - NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận nghiên cứu
Qua nghiên cứu tôi thấy các em rất hứng thú khi học môn Toán. Bởi môn
Toán nó góp phần rất quan trọng đến cuộc sống .cũng như trong việc học các môn
học khác. Như vậy phương pháp của giáo viên đã giúp cho học sinh tích cực hơn
trong học môn Toán. Yêu cầu giáo viên phải quan tâm giúp đỡ các em, tận tình với
các em. Từ đó sẽ nâng aco chất lượng học tập nắm những kỉ năng, kỉ xảo tiếp thu
tri thức một cáh tron vẹn.
Tuy nhiên để nâng cao chất lượng học tập của môn Toán của học sinh Tiểu

học, giáo viên phải áp dụng phương pháp mới đó là lấy học sinh làm trung tâm.
Trong lý luận dạy học người ta khẳng định rằng chất lượng học tập phụ thuộc vào
trình độ tổ chức và điều khiển hoạt động dạy và học của thầy, trò.
Để việc dạy và học đạt kết quả cao phải dựa trên cơ sở hoạt động tích cực
chính học sinh và phương pháp dạy của giáo viên. Bên cạnh đó hoạt động VH cũng
góp phần vào sự nghiệp dục học tập của học sinh. Nhằm nâng cao chất lượng học
tập và giảng dạy ngày càng được phát huy kiến thức khoa học, kỉ thuật, kỉ năng, kỉ
xảo và thói quen trong học tập. Từ đó giúp cho bộ môn Toán có tầm quan trọng
trong qúa trình Giáo dục - Đào tạo .
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trong nhà trường Tiểu học hiện nay việc dạy học nói chung và việc học
Toán nói riêng còn nhiều bất cập người thầy vẫn còn nổi bật trong qui trình dạy và
học giáo viên vẫn thích giảng nhiều (thầy là trung tâm thuờng làm thay cho các em.
Phương pháp dạy là hệ thống những phương pháp cổ truyền mang kết quả mang
tính áp đặt cao, học sinh mang một tâm lý tự ti, thiếu tự tin thụ động trong hoạt
động học, giờ học thiếu không khí sinh động.

3
Người thầy chú trọng chất đầy kiến thức cho học sinh mà không quan tâm
cung cấp cho học sinh phương pháp học, cách học thiếu hẳn việc “rèn luyện cách
học” khiến cho học sinh càng thụ động (trở thành bình chứa mà người thầy cứ rót
vào trong khi đó lại không chịu xem bình chứa ấy có khả năng chứa hay không?)
các em thay vì là một cá thể đóng vai trò là chủ thể của quá trình dạy và học thì
cách dạy của giáo viên lại biến các em trở thành các thể chủ động nhận thức, khiến
các em chán học .
Đa số giáo viên hiện nay có thói quan thuân thủ sách giáo khoa, sách hướng
dẫn giảng dạy một cách tuyệt đối. Quá nhấn mạnh các yếu tố lý thuyết, chưa xem
trọng việc rèn luyện kỉ năng thực hành .
Với hệ thống phương pháp giảng dạy truyền thống, giáo viên thường áp đặt
cách giảng cho học sinh thực tế đã cho thấy nhiều học sinh khi giải Toán nên vấn

đề có thay đổi một ít, (khác mẫu) nhưng cách giải thì giống nhau các em chưa làm
ngay được. Mẫu trong việc giúp các em giải Toán rất quan trọng nhưng nếu thiếu
phương pháp dạy, tiến trình dạy chưa khoa học thì rất dễ dẫn các em đến tình trạng
rập khuôn máy móc khi giải Toán.
Do máy móc rập khuôn cho nên các em không tin vào ở kết quả mà mình đã
làm. Việc tự đánh giá sản phẩm mình làm ra gặp nhiều hạn chế. Các em chỉ biết
mình giải đúng, sai khi thầy đánh giá xong. Thói quen tự đánh giá bị hạn chế. Thể
hiện nhất là khi các em thương không thử lại, kiểm tra lại kết quả tin chắc mình đã
giải đúng. Đó là chưa kể đến việc do không xác định trình tự tính toán nên phần
nhiều phần lời giải của học sinh thương không chính xác .
Đối với các loại Toán tính giá trị của biểu thức, tìm X mặc dầu đây chỉ là
những bài toán nhỏ nhưng thuơng xuyên có mặt trong các loại bài tập, bài kiểm tra.
Ngoài việc các em thực hiện sai logic tính (tính giá trị của biểu thức) các em còn
không xác định X là gì ? (X nằm trong phép tính gì? Tìm X là tìm số hạn nào trong
phép tính ?) do vậy, các em thường làm mày mò, trình tự giải sai, không hợp lý và

4
kết quả không chính xác, thiếu cẩn thận như : Không thẳng hàng, thẳng cột, các dấu
hiệu phép tính
Trong nhà trường Tiểu học hiện nay, việc dạy học nói chung, dạy học môn
Toán nói riêng còn nhiều bất cập .Với nhiều phương hướng mà các cấp, giáo viên
đã đưa ra nhằm nâêng cao chất lượng dạy học. Nhưng kết quả đạt được chưa cao,
chất lượng học tập của học sinh chưa đạt được kết quả tốt đẹp so với yêu cầu mà
ngành giáo dục đề ra. Trong quá trình dạy Toán, do người thầy vẫn còn nổi bậc,
dạy vẫn giải thích nhiều “Thầy là trung tâm“. Thường làm thay cho các em,
phương pháp chiến lược là hệ thống cổ truyền nên kết quả giảng dạy mang tính áp
đặt cao. Chưa đi sâu, đi sát vào những đối tượng học sinh, chưa phù hợp với cá
nhân học sinh. Làm cho người học mang một tâm lý tự ti, thiếu tự tin, thụ đôïng
trong hoạt động học, giờ học thiếu sinh động. Người thầy chú trọng chất đầy kiến
thức cho học sinh mà chưa thật quan tâm cung cấp cho học sinh những phương

pháp học, cách học, khiến người học càng thụ động. Các em thay vì là một cá thể
đóng vai trò là chủ thể của qui trình dạy và học thì cách dạy của chúng ta lại biến
các em thành cá thể ở thụ động nhận thức, khiến các em chán học. Dẫn đến việc
đánh giá chất lượng, trình độ thực chấât của học sinh chưa được chính xác, đôi khi
cho điểâm còn theo cảm tính.
Đa số giáo viên hiện nay, có thói quen thủ theo sách giáo khoa, sách hướùng
dẫn cách giảng dạy một cách tuyệt đối. Còn nhấn mạnh đến yếu tố lý thuyết, chưa
xem trọng trong việc rèn luyện kỉ năng thực hành .
Ví dụ : Đối với môn Toán: Khi hình thành bảng nhân, bảng chia – học sinh đọc rất
trôi chảy – Nhưng khi giáo viên chỉ định bất cứ công thức nào trong bảng tính thì
học sinh không trả lời được, nếu trả lời được thì học sinh phải nhẩm lại từ đầu .
Với học sinh Tiểu học, lứa tuổi của các em là hay bắt chước, nghe bạn hay thầy cô
là các em nói theo, hình thức của các em là học vẹt môn Toán hay các môn khác
cũng thế. Khi giáo viên hỏi thì các em trả lời đúng, chính xác các qui tắc, cách thực
hiện một bài toán đơn. Nhưng khi cho các em luyện tập vào vở hay gọi lên bảng

5
thực hiện thì các em thường làm sai cách đặt tính hay trình bày bài giải của bài toán
đơn chưa đúng. Những số liệu sau đây phần nào cho ta thấy được chất lượng học
tập của học sinh .
Thực trạng chất lượng môn Toán ở học sinh khối 3 qua kiểm tra khảo sát đầu năm
học 20 20
Lớp Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
3A 06 28,6 07 33,3 03 14,3 05 23,8
3B 08 40,0 05 25,0 05 25,0 02 10,0
Tổng 14 34,1 12 29,3 08 19,5 07 17,1
Qua bảng thống kê trên tôi thấy chất lượng môn Toán đầu năm của các lớp
chưa cao. Dựa trên số liệu và trên cơ sở đã phân tích trên. Tôi đã phát hiện ra
những phương pháp nhằm góp phần nhỏ nâng cao chất lượng học sinh. Đồng thời

nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh trong học tập.
III. Mô tả nội dung
Để nâng cao chất lượng học tập môn Toán của học sinh khối 3 Tôi đề ra một
số biện pháp sau đây:
1.Trường học được tổ chức hoạt động theo mục đích giáo dục với nội dung được
sắp đặt có hệ thống với những phương pháp giáo dục có cơ sở khoa học .
Quản lý đảm bảo kết hợp lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường và kế
hoạch hành động phối hợp xuyên suốt giữa nhà trường- gia đình – xã hội .
Các tổ chức chuyên môn và ban giám hiệu nhà trường thường xuyên kiểm
tra, đánh giá và giúp đỡ giáo viên để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy
cũng như chất lượng học sinh ngày càng nâng cao.

6
2.Trên cơ sở chương trình, sách giáo khoa và sách hướng dẫn ta cần phân tích
những thiếu sót về kiến thức, kỹ năng hoặc chương trình mà ta đang nghiên cứu.
Đối với những bài có kiến thức khó chúng ta cần phải giải từng phần để
giúp các em dễõ tiếp thu kiến thức bài học .
Giáo viên giảng dạy cần phải nắm vững được toàn bộ chương trình, kiến
thức một cách chính xác. Dành nhiều thời gian cho học sinh luyện tập, thực hành.
Phải biếât lắng nghe ý kiến của học sinh để từ đó rút ra cho mình phương pháp
giảng dạy, truyền thụ kiến thức phù hợp với trình độ học sinh .
Trong quá trình học môn Toán giáo viên là người tổ chức qui trình dạy học và
hướng dẫn, điều khiển qui trình học. Quá trình này không ngoài mục đích là tạo
điều kiện cho mọi học sinh đều hoạt động học tập để phát triển năng lực cá nhân.
Đây là dịp mà ta tạo cho các em hứng thú, thích đến lớp để học cũng là dịp
mà các em được tự do thể hiện tài năng của mình. Thỏa mãn được tính tò mò và
năng lực của các em được chú ý, khơi dậy qua các hoạt động học tập như : Làm
nhanh một bài toán, tìm ra một cách giải quyết một bài toán .
Giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh từ vốn sống, vốn hiểu biết, kinh

nghiệm để chiếm lĩnh tri thức mới và vận dụng tri thức mới vào thực tiễn. Qua đó
cho thấy: Nếu vẫn dạy theo cách cũ, cách học cũ thì chắc chắn không thể đạt yêu
cầu mà đòi hỏi giáo viên chúng ta phải cải tiến phương pháp .
3.Tùy theo tình hình của lớp mà lựa chọn nội dung dạy cho thích hợp và đưa ra
những vấn đề cho các em giải quyết hợp lý với trình độ của từng đối tượng. Khối
lớp nào cũng vậy đều có bốn đối tượng học sinh (Giỏi, Khá, T.B, Yếu ). Nhưng có
chung chương trình, một nội dung. Vì thế giáo viên phải lựa chọn phương pháp
thích hợp, để giáo dục cho từng đối tượng học sinh.
Tăng cường phụ đạo học sinh yếu, kém về môn Toán cần giúp đỡ riêng để
đạt yêu cầu, hướng dẫn cho đối tượng này phải đi từ dễ đến khó và thường động
viên, khen ngợi sự tiến bộ của học sinh.

7
Việc vận dụng các phương pháp đều nhằm vào việc hướng dẫn các em chủ
động, tích cực trong học tập. Nói dễ hiểu hơn là người giáo viên ta nên vận dụng tất
cả các phương pháp hiện có một cách chọn lọc. Tiến hành phương pháp dạy học đó
theo một qui trình mới (khác hoàn toàn với cách tiến hành cũ ). Bằng cách vận
dụng các hình thức dạy học như : Học cá nhân, học theo nhóm, học theo lớp, trò
chơi học tập, hoạt động thực hành trong và ngoài lớp học Do đó giáo viên phải
xây dựng nề nếp học tập cho các em ở lớp cũng như ở nhà. Nhưng không nên quá
chú trọng vào việc học mà không chơi. Vì lứa tuổi của các em là lứa tuổi ham chơi
ta nên vận dụng cách. “Học mà chơi, chơi mà học“, một cách khéo léo trong tiết
dạy. Vì vậy giáo viên nên phải lựa chọn phương pháp cho thích hợp vừa sức đối
với các em từng trình độ, từng lứa tuổi .
4.Phối hợp và kết hợp chặt chẽ với học sinh, phụ huynh học sinh, để kịp thời trao
đổi những hạn chế trong học tập ở trường của mỗi em. Trên cơ sở đó cùng với phụ
huynh học sinh có những biện pháp giáo dục và quản lí tốt việc học tập của các em.
Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các em học tập, cha mẹ phải chú ý đến
việc học của con em mình. Làm thế nào để các em phải tự mình về báo cáo kết quả
tập cho cha mẹ. Phụ huynh phải thường xuyên kiểm tra sách, vở của các em, hỏi

bạn bè về con mình ở lớp như thế nào .
5.Nhà trường cùng phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, để đánh giá kết quả học tập
từng em. Cần có những biện pháp chỉ đạo đúng đắn kịp thời. Đồng thời, thường
xuyên kiểm tra chất lượng học sinh theo từng đợt, từng kỳ. Trên cơ sở đó có biện
pháp phù hợp cho người dạy định hướng được công tác giảng dạy theo từng trình
độ thích hợp .
Nếu chúng ta biết sử dụng linh hoạt nhiều hình thức và phương pháp dạy học
sẽ thu hút mọi học sinh vào hoạt động học tập. Trong giờ dạy tránh nói nhiều, kéo
dài, đơn điệu và nên nhớ không có phương pháp nào chiếm ưu thế trong mọi tiết
học .

8
IV. Kết quả nghiên cứu
Từ những biện pháp đã nêu trên, tôi thấy chất lượng của học sinh ngày càng
nâng cao. Học sinh đã tự giác, chủ động và tích cực tham gia vào hoạt động học
tập, không phải rụt rè, tự ti như trước nữa. Chất lượng học sinh ngày càng tiến bộ
do trình độ nhận thức của các em được nâng cao, tích cực phát biểu xây dựng bài,
làm bài đầy đủ ở trường cũng như ở nhà. Đó là yếu tố quyết định môn Toán được
tăng cao .
Chất lượng môn Toán khối lớp 3 giữa kì I năm học 20 20 .
Lớp Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
3A 08 38,1 09 42,9 02 9,5 02 9,5
3B 10 50,0 08 40,0 02 10,0 - -
TỔNG 18 43,9 17 41,5 04 9,7 02 4,9
Qua bảng chất lượng trên phần nào cho ta thấy số lượng học sinh Khá – Giỏi
tăng lên, giảm được học sinh yếu, kém so với khảo sát đầu năm. Nếu chúng ta vận
dụng linh hoạt trong nhiều phương pháp thì chắc chắn chất lượng đến cuối năm sẽ
tăng cao.
PHẦN 3 – KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

I. Kết luận
Chất lượng môn Toán rất quan trọng đối với việc giáo dục hiện nay. Nó góp
phầøn quan trọng đối với học sinh bậc Tiểu học nói chung và học sinh khối lớp 3
nói riêng.Và là cái nền của chất lượng học học môn Toán sau này và bậc học cao
hơn nữa. Trong quá trình dạy học tôi rút ra kinh nghiệm :
Trước hết, phải nói đến đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy phải tích cực
và nhiệt tình, góp phần chứng minh ưu thế và hiệu quả của việc giảng dạy môn
Toán .

9
Mục tiêu của môn Toán Tiểu học là hình thành những biểu tượng Toán học
ban đầu, rèn luyện những kĩ năng tính toán giáo viên là người hướng dẫn cho học
sinh hoàn thành mục tiêu này. Bên cạnh đó giáo viên cần phải nắm được tâm lí của
trẻ, nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, các thông tin khoa học, các tập
san giáo dục, thế giới trong ta
Giáo viên giảng dạy cần cải tiến phương pháp giảng dạy, vận dụng phối hợp
các phương pháp để học sinh phát huy tính chủ động, tính tích cực. Từ đó, học sinh
tiếp thu bài nhanh hơn và có chất lượng .
Thêm vào đó giáo viên phải hướng dẫn học sinh biết vận dụng lý thuyết vào
thực hành một cách chính xác và hiệu quả .
Hiện nay hầu hết ở các trường, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học đã được trang
bị tương đối đầy đủ. Do đó, đòi hỏi giáo viên trong khi giảng dạy phải linh hoạt,
khéo léo, tìm tòi những cách vận dụng phù hợp cho bài dạy, bỡi đa số thiết bị dạy
học môn Toán có thể sử dụng bằng nhiều cách khác nhau, ta sử dụng sao cho kiến
thức bài học đảm bảo .
Luôn hướùng vào học sinh, xem học sinh là trung tâm trong quá trình dạy
học để học sinh phát huy khả năng tự chiếm lĩnh tri thức bài học. Đồng thời giáo
viên luôn quan tâm đến từng đối tượng học sinh thường xuyên kiểm tra, theo dõi
kết quả học tập của học sinh để có biện pháp rèn luyện phù hợp .
Giáo viên phải nâng cao trình độ chuyên môn, không ngừng học hỏi kinh

nghiệm của ngưòi đi trước cũng như sự chỉ đạo đúng đắn của nhà trường được
nâng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội .
II. Khuyến nghị
*Đối với giáo viên:
Tất cả mọi hoạt động của người giáo viên là luôn hướng tới mục tiêu là đem
lại hiệu quả cao nhất, việc dạy học đặc biệt là việc giảng dạy môn Toán ở Tiểu học

10
nói chung và khối lớp 3 nói riêng, khi vận dụng phương pháp vào dạy học chúng ta
phải thực hiện thống nhất và đồng bộ với nhau .
Đối với giáo viên phải chịu khó, nhiệt tình, phải thực hiện tốt từng khâu,
từng bứơc một, trước khi thực hiện tiết dạy. Soạn giáo án, sự kiện tình huống xảy
ra, chuẩn bị đồ dùng dạy học có liên quan đến bài học, có dự kiến quan tâm vào
việc học tập của học sinh nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh trong
giờ học .
*Đối với nhà trường:
Đối với nhà trường Tiểu học cần chuẩn bị trang thiết bị đầy đủ, tổ chức nhiều
buổi sinh hoạt chuyên đề cho giáo viên học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, tạo điều
kiện thuận lợi cho giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn để nắm vững kiến thức
và phương pháp giảng dạy.
Đối với tổ chuyên môn cần thường xuyên kiểm tra, dự giờ giáo viên và kiểm
tra chất lượng học sinh qua từng đợt, từng kỳ để nắm bắt được chất lượng học sinh
của từng khối lớp, từ đó có biện pháp chỉ đạo đúng đắn và kịp thời .
*Đối với gia đình :
Đối với gia đình cần quan tâm đến việc học của con em, trang bị cho các em
đầy đủ đồ dùng, sách vở học tập nhằm tạo và đáp ứng sự đầy đủ cho các em trong
học tập .
*Đối với phòng giáo dục:
Đối với Phòng giáo dục, cần thường xuyên hơn nữa về tổ chức Hội giảng,
mở chuyên đề. Điều này sẽ góp phần rất lớn trong việc nâng cao ý thức tự học tập

kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cho việc giảng dạy của
giáo viên.
*Đối với xã hội :
Ngoài ra xã hội, cũng phải quan tâm đến các em, nhất là những học sinh có
hoàn cảnh khó khăn, giúp đỡ các em, động viên các em trong học tập.

11
Với sự hiểu biết và tìm hiểu một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy môn Toán trên không thể cứng nhắc trong việc vận dụng. Qua sáng kiến
kiến kinh nghiệm này, những điều chúng ta vừa đọc chỉ là gợi ý mở đầu cho phong
trào tự tìm tòi, tự nghiên cứu và phát hiện cách tổ chức dạy học tốt nhất trong việc
dạy học Toán, từ đó chất luợng dạy và học trong nhà trường được nâng cao nhưng
không sao tránh khỏi những thiếu sót .Rất mong sự góp ý chân thành của ban giám
khảo, những người thầy, cô đã đi trước, của các bạn đồng nghiệp để tôi có những
kinh nghiệm sâu sắc, sát thực hơn, hay hơn trong công tác dạy học, và những bài
sáng kiến kinh nghiệm sau .
…………., ngày … tháng … năm 20…
Người viết

12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán 3, NXB GD
2. Sách hướng dẫn giảng dạy Toán 3 (Sách Giáo Viên), NXB GD
3. Sách chuẩn kiến thức kĩ năng (Lớp 3) , NXB GD
4. Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học
5. Giáo trình tâm lý học Tiểu học
6. Giáo trình giáo dục học ở Tiểu học
7. Chuyên đề giáo dục Tiểu hoc
8. Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 3 (tập 1) - Vũ Văn Dương, Ngô Thị
Thanh Hương, Bùi Anh Tú, Nguyễn Thị Hiền, Phạm Vĩnh Thông – NXB GD 2007

9. Báo Toán học tuổi trẻ.
10. Bộ GD&ĐT, Các đề thi có ma trận mẫu, www.thi.moet.gov.vn
11. Bộ GD&ĐT, Hướng dẫn nhiệm vụ năm học.
12. Nguyễn Cảnh Toàn, Luận bàn và kinh nghiệm về tự học, Tủ sách tự học, 1995
13. Nguyễn Cảnh Toàn, Tự giáo dục, tự nghiên cứu, tự đào tạo, NXB ĐHSP, 2001
14. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên môn toán chu kỳ 2004-2007
15. Trần Phương và Nguyễn Đức Tấn, Sai lầm thường gặp và các sáng tạo khi giải
toán, NXB Hà Nội – 2004
16. Số học bà chúa của toán học – Hoàng Chúng.
17. Một số tài liệu khác và tranh ảnh sưu tầm trên internet.
18. Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng các lớp 1, 2, 3, 4 - Bộ Giáo dục - Đào
tạo

13

×