Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Ảnh hưởng tam giáo trong tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 119 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN






TRẦN THỊ CHÂM
(Thích Đàm Luyện)







ẢNH HƯỞNG TAM GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG
ĐẠO ĐỨC LÊ THÁNH TÔNG








LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC











HÀ NỘI - 2010



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN






TRẦN THỊ CHÂM
(Thích Đàm Luyện)



ẢNH HƯỞNG TAM GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG
ĐẠO ĐỨC LÊ THÁNH TÔNG







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành : Tôn giáo học
Mã số : 60.22.90




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Thị Hòa Hới



HÀ NỘI – 2010

MỤC LỤC



Trang

MỞ ĐẦU
1

*. Lý do chọn đề tài
1

1. Tình hình nghiên cứu đề tài

3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
5

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5

4. Cơ sở lý uận và phương pháp nghiên cứu
6

5. Đóng góp của luận văn
6

6. Ý nghĩa của luận văn
6

7. Kết cấu của luận văn
7
Chương I
SỰ DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN TAM GIÁO TẠI VIỆT
NAM ĐẾN TRƯỚC THỜI LÊ THÁNH TÔNG.
8

1.1. Sự du nhập Tam giáo từ Trung Quốc vào Việt Nam
(Đến trước thời Lê Thánh Tông).
8

1.2. Một số quan niệm về vai trò, vị trí đạo đức trong
Tam giáo đồng nguyên.

31
Chương II
MỘT SỐ NỘI DUNG ẢNH HƯỞNG TAM GIÁO TRONG TƯ
TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA LÊ THÁNH TÔNG.
39

2.1. Cơ sở khách quan và chủ quan của sự ảnh hưởng
Tam giáo về đạo đức của Lê Thánh Tông.
39

2.2. Nội dung ảnh hưởng Tam giáo trong tư tưởng đạo
đức người cầm quyền của Lê Thánh Tông.
58

2.2.1. Ảnh hưởng của Nho giáo
58

2.2.2. Ảnh hưởng của Phật
73

2.2.3. Ảnh hưởng của Đạo giáo
75

2.3. Ý nghĩa của việc tiếp biến Tam giáo trong tư tưởng
đạo đức Lê Thánh Tông đối với việc xây dựng đạo đức
con người Việt Nam hiện nay.
86

KẾT LUẬN
100


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
105


1
MỞ ĐẦU

*. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tam giáo Nho, Phật, Đạo là các học thuyết chính trị- xã hội, đạo đức
Tôn giáo từ bên ngoài đã có mặt ở Việt Nam hàng ngàn năm. Trong suốt
chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam, Tam giáo đã dần dần thâm nhập gắn
bó mật thiết với đời sống- văn hóa tinh thần và đặc biệt là trong quan niệm tư
tưởng đạo đức của người Việt Nam. Qua quá trình tiếp biến lâu dài, nhiều yếu
tố tư tưởng đạo đức Tam giáo đã dần được giai cấp Phong kiến Việt Nam tiếp
nhận, đề cao và có sự tái cấu trúc hòa nhập với văn hóa Việt Nam, ăn sâu vào
thói quen, tâm lý, phong tục tập quán người Việt, nên đây đã là hướng nghiên
cứu quan trọng thu hút sự chú ý của nhiều học giả với nhiều công trình có giá
trị.
Trong thời kỳ phong kiến Ngô - Đinh tiền Lê - Lý - Trần trước thời Lê,
với việc qui định tiếp biến các yếu tố kế thừa tư tưởng Tam giáo thông qua bộ
lọc là tư tưởng yêu nước và tinh thần dân tộc mà giai cấp phong kiến Việt
Nam đã dần dần xây dựng được một hệ tư tưởng cho nhà nước phong kiến
trung ương tập quyền, củng cố độc lập, xây dựng nền văn hóa dân tộc và đào
tạo nhân tài cho đất nước. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng và củng cố đất nước
Việt Nam mà các yếu tố của Nho, Phật, Đạo đã được Lê Thánh Tông rất coi
trọng và sử dụng trong đường lối trị nước của mình, vì thế đây là những chủ
đề quan trọng đã được tiếp cận từ nhiều góc độ riêng rẽ cụ thể của giới nghiên
cứu … Tuy nhiên, đến nay trong điều kiện mới của khoa học xã hội và nhân
văn đã đến lúc tiếp tục làm sáng tỏ vấn đề tư tưởng của ông dưới góc độ liên

ngành Triết học, Tôn giáo học vẫn là cần thiết. Và vấn đề ảnh hưởng Tam
giáo đến tư tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông có ý nghĩa mới mẻ, cần được
đi sâu tìm hiểu một cách hệ thống.
Lê Thánh Tông tên tự là Tư Thành, được sinh ra ở bên ngoài cung cấm,
tại chùa Huy Văn ( hiện nay ở phía trong ngõ Văn Chương, Tôn Đức Thắng,

2
quận Đống Đa, Hà Nội). Sống giữa chốn dân gian từ nhỏ, cho đến năm lên 4
tuổi, mẹ của Vua Nhân Tông buông rèm chính sự, mới đón Tư Thành về
phong làm Bình Nguyên Vương cho ở nhà Thái Phiên để hàng ngày cùng
Nhân Tông và các Phiên Vương khác học tập tại tòa Kinh Diên. Chính từ đây,
Lê Thánh Tông được học tập, tiếp xúc với tư tưởng, tinh thần của Tam giáo.
Trong thời đại Lê sơ hào khí, kế thừa những tư tưởng yêu nước thương dân
sâu sắc kết hợp với lòng nhân ái của Đạo Phật, đạo đức toàn thiện của Đạo
Nho tư tưởng phóng khoáng của Đạo Lão Trang đã thấm nhuần vào ông từ
tấm bé, hình thành nên nhân cách một ông Vua anh minh, nhân đức làm nên
triều đại Lê Thánh Tông trị vì với tinh thần thượng quốc, thương dân, có trật
tự gia phong và kỷ cương xã hội. Những yếu tố tư tưởng đạo đức Tam giáo về
: Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng, Từ, Bi, Hỉ, Xả, “Vô Vi” các giá
trị đó… đã được Lê Thánh Tông tiếp biến, phát triển và trở thành đường lối
trị nước bằng đạo đức của mình. Với cốt lõi là tinh thần dân tộc Lê Thánh
Tông đã kế thừa các góc độ Tam giáo có thể nói Tam giáo được tiếp nhận chủ
động đã có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển tư tưởng đạo
đức Lê Thánh Tông. Tuy nhiên vấn đề là ảnh hưởng của Tam giáo trong tư
tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông rất đậm nét nhưng chúng đã được khúc xạ,
tiếp nhận như thế nào, để Tam giáo chính là một cơ sở quan trọng góp phần
làm nên khía cạnh nhân văn của đường lối đức trị ở Lê Thánh Tông. Ảnh h-
ưởng đó không phải là tất cả mà đã có sự tái cấu trúc, kết hợp tổng hợp theo
cách như thế nào. Những vấn đề này rất cần được tiếp tục làm sáng tỏ từ góc
độ Triết học, Tôn giáo học.

Trong bối cảnh hiện nay, văn kiện Đảng ta nhận định: Trong bộ máy
chính trị, sự suy thoái đạo đức ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
biểu hiện tập trung ở tình trạng tham nhũng là một trong những nguy cơ đe
dọa sự tồn vong của xã hội, bên cạnh đó những thang bậc đạo đức xã hội đang
có chiều hướng suy thoái, lối sống gấp thực dụng, hưởng thụ tiêu dùng theo
chủ nghĩa cá nhân chưa bị ngăn chặn … do đó trở lại tìm hiểu cách thức tiếp

3
nhận ảnh hưởng từ bên ngoài của tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông để kế thừa
có phê phán, chọn lọc những giá trị tư tưởng đạo đức nhân văn của Lê Thánh
Tông lại càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng sâu sắc đối với việc xây
dựng đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
Những lý do trên cho thấy rõ việc nghiên cứu “ ảnh hưởng của Tam
giáo đối với tư tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông ”là vấn đề cần thiết nhằm
chỉ ra được những giá trị tích cực cần kế thừa tiếp thu có chọn lọc để vận
dụng góp phần vào xây dựng nền đạo đức, chính trị con người Việt Nam
trong thời đại mới. Hơn nữa với tâm nguyện riêng là một người tu sĩ tu hành
tại chùa Huy Văn, với lòng thành kính Vua Lê Thánh Tông, chúng tôi chọn
vấn đề nghiên cứu này với mong muốn có những am hiểu sâu sắc hơn tư
tưởng của vị Vua được thờ phụng tại đây.
1. Tình hình nghiên cứu đề tài
Như chúng ta đã biết, vấn đề tìm hiểu nội dung tư tưởng của Nho giáo,
Phật giáo, Đạo giáo và ảnh hưởng riêng của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo
đến tư tưởng của Lê Thánh Tông từ trước đến nay đã và đang thu hút được
một số nhà nghiên cứu quan tâm, mặc dù không nhiều, song vấn đề này đã có
những công trình, bài viết được đánh giá cao. Trong đó phần lớn các tác giả
chú ý đề cập đến vấn đề nội dung của các phẩm chất đạo đức Nho giáo như
Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng … được Lê Thánh Tông tiếp biến và thể
hiện nhiều qua thơ, văn của ông. Tuy nhiên, khi đánh giá về các nội dung đó
thường tiếp cận từ góc độ khoa học riêng rẽ cụ thể: sử học, văn học, nghệ

thuật học, chính trị học, văn hóa học. Các nội dung khác của tư tưởng đạo đức
Phật giáo, Đạo giáo biểu hiện ở Lê Thánh Tông còn chưa được khai thác
nhiều, chẳng hạn: Ảnh hưởng của Phật giáo, Đạo giáo đến quan niệm về vai
trò, vị trí của đạo đức, con đường hình thành lối sống có đạo đức lý tưởng,
con đường xây dựng con người có đạo đức toàn thiện (siêu việt) … là những
vấn đề trọng yếu phổ quát chung của tư tưởng đạo đức Tam giáo được ông
tiếp biến khá thành công, nhưng trong các công trình đó chưa được chú ý đi

4
sâu, sự nhìn nhận đánh giá về các vấn đề đạo đức Tam giáo còn trên nhiều
quan điểm nhìn nhận khác nhau, thậm trí trái ngược nhau. Cho nên, chúng tôi
hiểu rằng tiếp tục việc xem xét lại những ảnh hưởng tư tưởng đạo đức trong
học thuyết của Tam giáo ở Lê Thánh Tông và vị trí, ý nghĩa của mỗi giáo
trong từng giai đoạn lịch sử của cuộc đời Lê Thánh Tông và vận dụng bài
học, giá trị tư tưởng tích cực chủ động của ông vào hoàn cảnh thực tiễn hiện
nay cần được quan tâm nghiên cứu từ chuyên ngành Triết học, Tôn giáo học
là việc làm cần thiết.
Từ trước và đặc biệt sau đổi mới, tìm hiểu về Tam giáo, nhất là ảnh
hưởng của Nho giáo ở Việt Nam trong đời sống chính trị, đạo đức đã được
giới nghiên cứu không chỉ ở Việt Nam mà cả nước ngoài đề xuất một cách sôi
nổi, nhiều công trình biên soạn và khảo cứu xoay quanh vấn đề điều kiện du
nhập, phát triển, giá trị, vai trò, đặc điểm tư tưởng chính trị đạo đức Nho giáo
trong lịch sử.
Riêng về nghiên cứu sâu ảnh hưởng của Nho giáo đến tư tưởng Lê
Thánh Tông cũng có một số công trình, bài viết như : “Lịch sử tư tưởng Việt
Nam” do Nguyễn Tài Thư (chủ biên - chương Tư tưởng thời Lê), sách “Lê
Thánh Tông - vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại ” do Lê Đức Tiết tái bản,
có bổ sung. Nxb. Tư pháp, 2007, sách tuyển “Lê Thánh Tông - về tác giả và
tác phẩm” Tuyển chọn, giới thiệu: Bùi Duy Tân. Lại Văn Hùng Nxb. Giáo
dục, 2007; Góp phần tìm hiểu cách chia phiên trong chính sách “Ngụ binh ư

nông” thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497)” của Hà Duy Biển; “Vua Lê Thánh
Tông và cải cách tổ chức bộ máy thời hậu Lê” của Minh Đạt; thơ “Lê Thánh
Tông” của Lâm Giang dịch, Nxb. Kim Đồng, 2001; “Tìm hiểu tư tưởng chính
trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh Mệnh” sách của Nguyễn
Hoài Văn, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2002 …
Qua đây có thể thấy, nhìn chung, các tác giả mới tập trung chú ý nghiên
cứu nhìn ảnh hưởng riêng Nho giáo đến Lê Thánh Tông dưới những góc độ
tiếp cận khác nhau, song nghiên cứu một cách tổng hợp vấn đề “ảnh hưởng

5
của Tam giáo ở tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông” (Để khẳng định điều này
thì chưa có đủ điều kiện, nhưng trong góc độ tư tưởng Lê Thánh Tông vẫn
khẳng định có những ảnh hưởng Tam giáo theo mức độ đậm nhạt khác nhau)
và chỉ ra những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức đạo đức Tam giáo đối với tư
tưởng đạo đức chính trị Lê Thánh Tông từ đó rút ra bài học nhằm vận dụng và
đánh giá vai trò của chúng đối với việc xây dựng nền đạo đức con người mới
ở nước ta hiện nay từ góc độ Triết học, Tôn giáo học thì chưa được quan tâm
nhiều đề nghiên cứu một cách tổng hợp hệ thống đầy đủ. Bởi những lý do đó
mà chúng tôi lựa chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu từ góc độ Triết học, Tôn giáo học để làm rõ vị trí, nội dung
của những tư tưởng đạo đức Tam giáo, hay của từng giáo phân tích vai trò và
ảnh hưởng của một số nội dung cơ bản đối với sự hình thành và phát triển tư
tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông và chỉ ra ý nghĩa của việc tiếp biến những
tư tưởng ấy đối với việc xây dựng nền đạo đức xã hội con người Việt nam
hiện nay.
2.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có ba nhiệm vụ :
- Làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Tam giáo, đặc điểm sự

du nhập và ảnh hưởng của chúng vào Việt Nam đến trước thời Lê Thánh
Tông.
- Phân tích làm rõ những ảnh hưởng quan niệm Tam giáo đối với tư
tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông ở một số nội dung cơ bản.
- Chỉ ra ý nghĩa sự vận chúng vào việc xây dựng nền đạo đức con ng-
ười Việt nam thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước từ góc độ
chuyên ngành Triết học, Tôn giáo học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:

6
Từ góc độ Triết học, Tôn giáo học tìm hiểu ảnh hưởng của quan niệm
Tam giáo đến tư tưởng đạo đức của Lê Thánh Tông và ý nghĩa của nó đối với
việc xây dựng đạo đức xã hội con người Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu :
Từ góc độ Triết học, Tôn giáo học
Nghiên cứu một số nội dung cơ bản của quan niệm đạo đức Tam giáo
và những ảnh hưởng của nó đối với tư tưởng đạo đức chính trị của Lê Thánh
Tông chủ yếu qua thơ văn của ông và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng
đạo đức xã hội con người Việt Nam hiện nay .
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được xây dựng trên cơ sở vận dụng các nguyên lý, quan điểm
chủ nghĩa Mác như: Quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Cơ sở lý
luận của luận văn còn dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về Tôn giáo, kế thừa biện chứng các giá trị truyền thống của
dân tộc.
4.2 . Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn kết hợp giữa việc sử dụng phương pháp chung của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ yếu sử dụng phương

pháp lôgic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, đối chiếu và so sánh với việc sử
dụng một số phương pháp liên ngành Triết học, Tôn giáo học, Triết học văn
hoá.
5. Đóng góp của luận văn
- Từ góc độ Triết học, Tôn giáo học luận văn làm sáng tỏ thêm về cơ sở
hình thành giá trị, nội dung tư tưởng đạo đức của Tam giáo và ảnh hưởng của
chúng tại Việt Nam.
- Phân tích làm sáng tỏ một số nội dung cơ bản ảnh hưởng Tam giáo
đến tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông, giá trị sự tiếp nhận ảnh hưởng của tư

7
tưởng đạo đức Tam giáo ở Lê Thánh Tông và sự vận dụng những tư tưởng đó
trong việc xây dựng đạo đức xã hội con người Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Góp phần tìm hiểu về những ảnh hưởng của tư tưởng
đạo đức của Tam giáo ở Lê Thánh Tông và ý nghĩa của nó trong việc xây
dựng đạo đức xã hội con người Việt Nam hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho công tác nghiên cứu và giảng dạy Triết học, Tôn giáo học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nội dung chính của luận văn gồm 2 chương 5 tiết



















8
Chương I
SỰ DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN TAM GIÁO TẠI VIỆT NAM ĐẾN TRƯỚC
THỜI LÊ THÁNH TÔNG
1.1. Sự du nhập Tam giáo từ Trung Quốc vào Việt Nam đến trước
thời Lê Thánh Tông.
Lịch sử tư tưởng Việt Nam có hai giai đoạn. Từ khi nước ta tiếp xúc
với Phương Tây, du nhập tư tưởng phương Tây tức là giữa thế kỷ XIX cho
đến nay, đó là thời đại mới, tư tưởng Việt Nam tiếp cận và hòa vào dòng tư
tưởng đồng đại của thế giới.
Đối với giai đoạn mới nghiên cứu vấn đề nội dung tư tưởng tương đối
thuận lợi. Đó là nội dung đối tượng và phương pháp chung tương tự như khi
nghiên cứu tư tưởng triết học cận hiện đại của các nước. Nhưng với giai đoạn
trước đây thì công việc phức tạp hơn. Nghiên cứu tư tưởng Lê Thánh Tông ở
thời kỳ này cũng đặt ra rất nhiều vấn đề nhưng không giống cách ở Phương
tây, nơi đã cung cấp cơ sở để hình thành phương pháp nghiên cứu hiện đại mà
chúng ta đã sử dụng phổ biến.
Cần chú ý, trong Bắc Thuộc và thời gian Phong kiến độc lập đến trước
Lê Thánh Tông dài ước tính từ thế kỷ II sau công nguyên cho đến thế kỷ XV,
nước ta có sự tiếp biến hỗn dung của Tam giáo, du nhập từ Trung Quốc vào.

Tam giáo Nho, Phật, Đạo có thay thế nhau giữ vai trò quan trọng nhưng thực
tế đời sống là cả ba có kết hợp với nhau, thẩm thấu vào nhau, chia phạm vi
với nhau, chi phối đời sống tinh thần của nhân dân ta. Bên cạnh Tam giáo còn
là sự song song tồn tại của cách suy nghĩ dân gian để dấu vết lại trong các
truyện kể và kết tinh trong tục ngữ, ca dao… Cũng cần nói đến ảnh hưởng
khác nữa của các học thuyết âm dương, Ngũ hành, cách phân tích thời, thế
…Chúng cũng là những tư tưởng du nhập chủ yếu từ Trung quốc và cũng tồn
tại không hoàn toàn độc lập với Tam giáo, các dòng đan xen tư tưởng đó ảnh
hưởng lớn đến các tư tưởng tri thức chính trị và đạo đức, cách suy nghĩ, tính
toán trong cuộc sống, sự kết hợp uyển chuyển giữa Nho, Phật, Đạo, giữa Tam

9
giáo với cách suy nghĩ tính dân gian, giữa những thứ đó với Âm dương, Ngũ
hành, để tổng hợp chung nhất thành quan niệm người Việt Nam về thế giới,
quan niệm về con người, cuộc sống, quan niệm sự vận động, sự đổi thay lịch
sử … Sự hỗn dung đó mới đúng là cách tư duy Việt Nam mà rõ ràng Lê
Thánh Tông cũng không ngoại lệ này.
Bởi vậy tư tưởng Lê Thánh Tông Việt Nam không chỉ là cái “thổ sản”
“thuần Việt”, mà còn tiếp biến nhiều cái từ ngoài đến, có khi được cải tạo, có
khi để nguyên dạng, nhưng đều được sắp xếp theo một cách nào đó hay sử
dụng theo một cách nào đó, cái này mới là mấu chốt của bản lĩnh Việt Nam
và ưu nhược điểm của cái này mới là cái chi phối sâu xa tư duy Việt Nam nói
chung, tư duy Lê Thánh Tông nói riêng.
Nho giáo từ thế kỷ II về sau dần dần ảnh hưởng chủ đạo đều từ Trung
Quốc truyền vào nước ta, Nho giáo được truyền bá với sự xâm lược quân sự
từ đời Hán, với chính quyền Phương Bắc đô hộ hàng ngàn năm và với những
lớp người Hán tỵ lạn sang Giao Châu, mảnh đất lúc ấy yên ổn hơn nội địa.
Song những người Hán quan lại hay không phải quan lại đã mang đến đây cả
Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Riêng đối với Phật giáo thì tình hình du
nhập có khác một chút. Nằm trên con đường biển từ Ấn Độ sang phương

Đông Nam và Trung Quốc, vùng ven biển nước ta đã . Cuối đời Hán, Luy lâu
(Thuận Thành - Hà Bắc) đã là một trung tâm Phật giáo thịnh vượng. Các nhà
nghiên cứu đã chứng minh trung tâm Luy Lâu còn ra đời trước cả trung tâm
Bành Thành và Lạc Dương ở Trung Quốc, và về đường biển có phần thì Phật
giáo từ Việt Nam mà vào Trung quốc, thế nhưng đối với chính quyền và lớp
trí thức thượng lưu thuộc người Hán vào mấy thế kỷ sau thì Phật giáo ở đây
cũng đã phát triển theo ảnh hưởng Phật giáo từ Trung Quốc. Ở Trung Quốc từ
Hán Võ Đế đã tìm ra phương thức Nho Pháp tĩnh dụng cho việc trị nước, bảo
vệ chế độ chuyên chế. Tư tưởng, học thuật Tôn giáo ở Trung Quốc trong tình
hình đó về sau cũng phát triển theo xu hướng dung hợp Phật, Đạo, Hoàng
Lão- âm dương - ngũ hành với Nho giáo. Tuy về sau ở Trung Quốc Nho giáo

10
được tôn làm quốc giáo, cũng đến đấy từ Hán, mới có điều kiện để tiến hành
việc tổng hợp hệ thống hóa: xác định thành phần kinh điển, xác định văn bản
và giải thích chính thức các luận điểm. Gói hành lý tinh thần mà các nhà trí
thức Trung Quốc mang vào vùng đất mới Giao Châu cũng là hỗn tạp như vậy.
Nhưng liệu những thứ đó truyền bá được đến mức nào trong xứ sở Phương
Nam còn cư dân vốn giữ nguyên tổ chức công xã làng quê với những phong
tục, tín ngưỡng của mình ? Và nền học thuật Hán hoá đó quan hệ như thế nào
với Phật giáo từ Ấn Độ đã có thời gian du nhập trước để bám rễ vào nhân
dân? Nên điều đáng chú ý là Nho giáo tuy vào sớm và chắc chắn được bộ
máy thống trị ưu tiên truyền bá - chứng cớ là những điều sử sách ghi chép về
sự nghiên cứu của Nhâm Diến, Tích quang, Sỹ Nhiếp thế nhưng trong thực tế
thì nó phát triển chậm, chậm so với Phật giáo và Đạo giáo. Qua Ngô, Đinh,
Tiền Lê, mãi đến thế kỷ XI, nhà Lý mới xây dựng Văn Miếu, tổ chức thi cử
Tam giáo. Tuy vậy, các Vua nhà Lý và cả nhà Trần nữa, vẫn tìm chỗ dựa
chính ở Phật giáo. Từ thế kỷ XV với nhà Lê sơ Nho giáo trở thành độc tôn,
chi phối mọi mặt hoạt động, độc tôn là nói Nho giáo trong khoa cử thay Phật
giáo, nhà Nho thay nhà sư trong đời sống chính trị nhà nước, còn thực tế

trong xã hội thì Phật giáo, Đạo giáo vẫn còn ảnh hưởng rộng rãi trong nhân
dân và cả trong tư tưởng Vua quan, nhất là tư tưởng đạo đức.
Tại Trung Quốc Nho giáo vốn không phải thuần nhất, có hệ thống chặt
chẽ, do yêu cầu thực tiễn càng về sau, khi đồng chức năng ý thức hệ và Tôn
giáo chính thống, để giải đáp nhiều vấn đề thực tế và ứng phó với các học
thuyết khác (nhất là Phật giáo) Nho giáo lại càng phải vay mượn, dung hợp
nhiều thứ hơn. Nhà Nho, nhất là nhà Nho từ Đường Tống về sau, càng ít
thuần nhất; trong tư tưởng của họ hội cả thành phần âm dương, Lão Trang,
Phật thường là không nhỏ, thứ Nho giáo thời lê được truyền bá vào và có ảnh
hưởng nhiều ở Việt Nam sau Minh là thứ Nho giáo hậu kỳ- Sau Tiên Tần,
Hán-Tống Nho- Minh Nho. Trong lịch sử Nho giáo ở Trung quốc từ thời
Xuân thu, Chiến quốc cho đến trước Tần- Hán việc học tập kinh điển tiến

11
hành theo lối sư truyền trực tiếp, ảnh hưởng khá rộng rãi. Sau nạn đốt sách
của nhà Tần, triều đình nhà Hán mới sưu tập kinh điển, đặt các chức Bác sỹ
ngũ kinh để giảng dạy và tiến hành với quy mô lớn và lâu dài việc xác định
thành phần kinh điển, văn bản và nội dung kinh điển. Đến đời Hán Linh đế
(Hy bình năm thứ 4) mới chọn định bản khắc vào bia, đá dựng trước nhà Thái
học. Qua một thời gian loạn ly dài, nhất là do tình hình phân tranh Nam Bắc
từ thế kỷ II đến thế kỷ VII, các luận giải kinh điển Nho học ý kiến đã trở
thành rất phân tán. Đường Thái Tông lại sai Khổng Dĩnh Đạt cùng một số ng-
ười khác soạn Ngũ kinh chính nghĩa để thống nhất kinh điển một lần nữa. Từ
Hàn Dũ (768 - 824) đời Đường đến đời Tống có một xu hướng khôi phục lại,
tổng hợp mới Nho, Phật, Đạo để Nho giáo đủ sức đối lập với Phật giáo và
Đạo giáo phát huy vai trò ý thức hệ và phát triển cùng với ý nghĩa là Tôn giáo
kết tinh lại thành học thuyết Tống Nho với các tên tuổi nổi bật là Chu Hy
(1130 - 1200) và Trình Hạo, Trình Di. Về mặt lịch sử tư tưởng, ở đời Tống,
Trình- Chu không phải là phái duy nhất, cũng không phải là phái tiến bộ nhất,
nhưng đáng nói là ảnh hưởng của phái đó ngay từ đời Nguyên, ở Phương

Nam đã rất lớn. Đến đời Minh mà dòng họ trị vì là con cháu Chu Hy, thì các
giải thích kinh điển của Chu Hy được coi là chính thống. Năm 1414 Minh
Thành Tổ giao cho Hồ Quảng biên soạn Tính Lý đại toàn, trình bày học
thuyết Lý học một cách hệ thống Tống Nho.
Trong lịch sử tư tưởng nước ta thời Bắc Thuộc thứ Nho giáo thời Hán,
đời Đường chắc cũng vào nước ta nhưng ảnh hưởng chỉ hạn chế trong đám
người Hán di cư. Còn Tống nho thì do sự tiếp xúc khá mật thiết của nước ta
dưới thời Lý-Trần với phương Nam Trung Quốc, do sự đô hộ của nhà Minh,
nên ảnh hưởng từ đấy nhanh chóng và rộng rãi hơn. “Đại Việt sử ký toàn thư
” chép: “ Năm Kỷ hợi (1419). Mùa xuân, tháng hai. Nhà Minh sai giám sinh
Đường Nghĩa sang ban các sách Ngũ kinh, Tứ thư, Tính lý đại toàn, Vi thiện
âm chất, hiếu thuận sự thực cho Nho học các phủ, châu, huyện. Đến năm
1435 nhân có phái đoàn sang chúc mừng vua Minh lên ngôi, vua Nhà Minh

12
lại ban sách Tứ thư đại toàn mới in xong. Cũng cần nhắc đến quy định khoa
cử trong chiếu định khoa thi của Lê Thái Tông năm 1434 có quy định môn thi
“kỳ thi thứ nhất một bài kinh nghĩa, Tứ thư mỗi sách một bài”. Việc tách hai
thiên Trung dung, Đại học trong Lễ ký thành sách, phân chương mục, chú
thích và đưa hai quyển đó vào Kinh điển như Ngũ kinh là việc làm của Trình
Di và Chu Hy. Đến đời Nguyên Nhân Tông (1312 - 1320) thì sách Tứ thư
thành kinh điển dùng cho việc thi cử. Ở nước ta từ năm 1396 cũng bắt đầu
“theo phép thi của nhà Nguyên”cũng cần nhắc là trước đó đời Trần Chu văn
An đã soạn Tứ thư thuyết ước. Từ đó cho đến thế kỷ XV uy tín của Trình Chu
trong việc giải thích kinh điển là tuyệt đối trong quy định khoa cử của nhà Lê
sơ và được cố gắng duy trì về sau.
Cần chú ý tuy rằng Nho giáo được độc tôn không có nghĩa là Phật giáo,
tư tưởng lão Trang và Đạo giáo bị phủ định hoàn toàn, chính ngay về mặt nội
dung từ Hán nho đến Tống Nho, Minh Nho là một quá trình hỗn dung. Tống
nho là một hệ thống hỗn hợp Nho Phật Đạo. Tại Việt Nam tuy có sự khác biệt

về mặt vai trò trong đời sống tinh thần xã hội hầu như đã thành sự thỏa thuận
ngầm với nhau giữa Tam giáo về một sự “phân công” phân lĩnh vực vùng ảnh
hưởng. Từ thời Lê sơ, Nho giáo được nhà nước đề cao ở Triều đình có vai trò
cốt yếu dành toàn quyền trong việc học hành thi cử - với ý nghĩa đào tạo nhân
tài cho bộ máy hành chính nhà nước quan liêu phong kiến . Nhưng trong các
địa hạt khác như tâm linh đạo đức xã hội, văn học, nghệ thuật, tín ngưỡng
tâm linh … Tam giáo song song tồn tại. Vẫn còn có những địa hạt, có những
địa phương Nho giáo không phải là có thế lực nhất. Trong một con người - kể
cả nhà Vua như Lê Thánh Tông - về mặt chính trị, ông chịu sự chi phối chủ
đạo của tư tưởng Nho giáo, nhưng về mặt tâm linh, đạo đức, tín ngưỡng, lối
sống … nhiều khi ông chịu ảnh hưởng tổng hợp Nho- Phật - Đạo và tín
ngưỡng bản địa.
Điều cần đặc biệt lưu ý là từ khi các triều đại giành được độc lập, chấm
dứt sự đô hộ của phong kiến Trung Quốc, thì cũng không thể “tự do” xóa bỏ

13
những tổ chức, thể chế đã hình thành mẫu số chung của khu vực qua hàng
ngàn năm Bắc Thuộc. Các triều đại Lý- Trần -Lê đều đã kế thừa và bắt chước
cách tổ chức chính quyền Nhà nước đáp ứng yêu cầu giữ vững chủ quyền độc
lập, xây dựng và bảo vệ đất nước cùng với chế độ chọn người bằng khoa cử
Nho học theo kiểu Trung Quốc. Ở Triều đình Nho giáo tỏ ra thích dụng với
mô hình tổ chức nhà nước trung ương tập quyền cao độ. Song Xã hội Việt
Nam vẫn tiếp tục bảo lưu các tế bào cơ sở là cộng đồng làng xã tự trị, tôn tộc
thì tuy trong hệ tư tưởng chính trị thì càng ngày Nho giáo tỏ ra có ưu thế
nhất, thích hợp nhất. Nho giáo giúp các triều đại đó nhất là ở thời Lê Thánh
Tông củng cố sự thống trị mà cũng giúp nó củng cố sự thống nhất Đất nước.
Các vị Minh quân và cả những nhà yêu nước lớn như Chu Văn An, Nguyễn
Trãi đều rất chăm lo, phát triển Nho giáo học, xây dựng Tư văn, tổ chức học
hành thi cử, lo biên soạn quốc sử, khuyến khích đạo lý Nho học … đều theo
lời khuyên của thánh hiền, đều theo trị đạo của Nho giáo. Việc phát triển Nho

học ngày một rõ nét thời Lê Thánh Tông, đưa nhà Nho vào chính trường cầm
quyền thay thế nhà sư và quý tộc, kéo dài từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XV, cho
ta thấy xu hướng ảnh hưởng chung ngày một đậm Nho Hán nho, Tống nho.
Từ khi độc lập về tư tưởng thực tế học hỏi tiếp biến Tam giáo không chỉ là xu
thế ở việc Phật giáo Thiền tông Trung Quốc thay cho Phật giáo chịu ảnh
hưởng Ấn Độ, mà còn ở việc Hán Tống Nho có ảnh hưởng càng ngày càng
sâu rộng trong thời độc lập mà còn cả ở việc sau này xu thế tông phái Lâm tế
của Phật giáo Trung Quốc được truyền bá phổ biến cả ở Bắc Hà và Nam Hà
vào quãng thế kỷ XVII thay vào thiền phái Trúc Lâm, từ thế kỷ XV. Ở đây
Việt Nam trong lịch sử đã có một sự chuyển vùng về ảnh hưởng văn hoá và
Đông Nam Á sang Đông Á, Lúc đầu bị cưỡng bức do xâm lược Trung Quốc
chiếm được vùng đất Châu Thổ Sông Hồng miền Bắc nước ta, biến nó thành
quận, huyện, nội thuộc là tách nó ra khỏi thế phát triển của vùng Đông Nam
Á. Người Việt chống lại để giữ gìn bản sắc độc lập của văn hoá dân tộc trong
hàng ngàn năm chính quyền đô hộ xúc tiến quá trình Hán hoá. Nhưng khi đã

14
dành được độc lập, các triều đại, kể cả chính quyền thịnh trị nhất là thời Lê
Thánh Tông để đủ sức mạnh giữ vững nền độc lập đó đã chủ động tiếp biến
Tam giáo, cũng tiếp tục con đường tiếp biến Tam giáo Hán hoá đó. Đó là vì
quyền lợi của giai cấp thống trị nhưng cũng là để xây dựng bảo vệ độc lập và
phát triển dân tộc. Tuy nhiên xét đến sâu xa hệ quả tất nhiên không chỉ có một
mặt ảnh hưởng tích cực, tuy chính quyền ra sức xúc tiến sự thống nhất toàn
diện nhưng trong một đất nước tuy đã thống nhất về lãnh thổ, về ngôn ngữ, về
lịch sử - tức là đã có sự hình thành dân tộc về cơ bản - mà sự giao lưu giữa
các vùng rất bị hạn chế và chưa có nhiều ý nghĩa kinh tế, trong điều kiện cơ
cấu bảo tồn tổ chức xã hội làng, xã khép kín, sống bằng nền kinh tế nhỏ nông
nghiệp và thủ công nghiệp tự túc, thoả mãn nhu cầu trao đổi hàng hoá ở các
chợ nhỏ địa phương; trong điều kiện sự gia nhập của các vùng mới vào đời
sống dân tộc trên quá trình Nam Tiến xảy ra vào những thời điểm xa nhau thì

cần thấy có những khác biệt vùng, có thể nói thực tế Hán hoá, ảnh hưởng Tam
giáo dù là Nho giáo hay Phật giáo hay Đạo giáo đậm nhạt rất khác nhau qua
các thời kỳ các vùng, ngay thời Lê Thánh Tông cũng vậy. Cần chú ý thêm có
thể nói trong đời sống chung của cả đất nước thì vẫn bảo tồn đựợc sắc thái
văn hoá Đông Nam Á vẫn là nền tảng, nhiều khi các yếu tố Hán tuy có vào,
thậm chí là vào lâu, vẫn không phá vỡ được mà phủ một lớp cơ cấu bên
ngoài. Thời Lê Thánh Tông điều đó còn thấy rất rõ ở các vùng trước đây
không được coi là "Đất văn vật". Nhìn nhận rõ sự phá vỡ không nổi sắc thái
bản địa đó là cơ sở cho một số người nói quá trình phát triển lịch sử ở Việt
Nam còn là quá trình giải Hán hoá hay nói trong tư tưởng Việt Nam ảnh
hưởng Nho giáo chỉ là cái vỏ, cái áo khoác ngoài. Chúng tôi thấy rằng không
chỉ thừa nhận một trong hai ý kiến trái ngược đó và không thể không bàn vấn
đề này trên bình diện văn hoá một cách rộng và tổng quát hơn ở một điều kiện
khác.Vấn đề mà luận văn tập trung bàn ở đây hay đối tượng xem xét ở đây là
ảnh hưởng Tam giáo đến tư tưởng đạo đức Lê Thánh Tông - và tư tưởng của
ông, không phải hiểu theo nghĩa là tổng số các thành tựu về tư duy, tổng cộng

15
các tư tưởng về kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự, khoa học … Mà tư tưởng
luận văn chú ý nghiên cứu khái quát đi đến là tư tưởng đạo đức chính trị ở
đời Lê mà cụ thể là Lê Thánh Tông. Ở đây Lê Thánh Tông là một ông Vua
sáng đại diện cho quyền lực tối cao thời thịnh trị là đại diện giai cấp cầm
quyền, những lớp người trí thức, những vùng văn vật có vị trí chi phối là đại
diện của thời Lê qua quá trình tiếp biến chủ động Tam giáo Hán hoá. Hán hoá
về tư tưởng thực ra không đơn giản chỉ là khoác áo Nho giáo hay Tam giáo ra
ngoài cái nội dung tư tưởng bản địa hay nhét cái nội dung tư tưởng bản địa
vào cái vỏ Tam giáo dùng vỏ khái niệm các học thuyết Tam giáo phủ ra ngoài
cái nội dung tư tưởng bản địa hay lồng với cách nhìn nhận xuất phát từ yêu
cầu thực tiễn của sự nghiệp xây dựng chế độ phong kiến trong thời đại đó, ở
đây Chúng ta một mặt không nên coi thường “khả năng đồng hoá”, khả năng

thích ứng, khả năng liên kết - nhiều khi là bằng cách lồng nội dung của nó hay
kể cả khoác cái áo của người khác - của chính học thuyết Nho giáo, thứ học
thuyết có cách hấp thu các loại hình tư tưởng kiểu đồng hoá hoà hợp điển
hình của văn hoá Trung Quốc, Thế nhưng vào Việt Nam vấn đề tồn tại một hệ
tư tưởng cũng đã phải phát triển đạt đến một mức cao nhất định cái bản địa đó
mới có đủ sức hấp thu chọn lọc quy tụ Tam giáo và chi phối mọi mặt hoạt
động, mà trước khi tiếp nhận nguồn vật liệu mới thì nó chưa phát triển theo
hướng như vậy. Có những nội dung Phật, Đạo Giáo Lê Thánh Tông chưa chú
trọng, có những địa hạt ông ít quan tâm. Vì vậy về sau Phật giáo, Đạo giáo
còn có cơ hội vẫn từ Trung Quốc tiếp tục được tiếp biến.
Nhìn chung ảnh hưởng Tam giáo Nho, Phật, Đạo tại Việt Nam thời Lê
Thánh Tông đã thành một xu thế Tam giáo chung một thực tế lâu dài trong
lịch sử. Xu thế, thực tế mặt tích cực đó làm cho nước ta cũng được phát triển
và cũng như Trung Quốc nhưng chắc chắn mặt tiêu cực ở những thế kỷ sau sẽ
vào bế tắc tình trạng trì trệ. Phi Hán hoá không phải đã là một xu thế luôn
mạnh mẽ trong quá khứ đang trở thành là một yêu cầu cần thiết của ngày nay

16
đòi hỏi tự ý thức, tự phê phán để giải phóng tư tưởng, để hiện đại hoá đất
nước tiến nhanh hội nhập để phát triển vững chắc.
Trong lịch sử các nước, hiện tượng du nhập các hệ tư tưởng từ ngoài
vào phổ biến hơn nhiều cùng với hiện tượng biệt lập phát sinh ở bản địa.
Ngay cả ở các nước có thể tự hào là có nền triết học phát triển cao cũng
thường bắt đầu bằng việc mở cửa du nhập tư tưởng từ ngoài vào rồi sau đó
mới phát triển nền triết học của mình qua một cuộc cách mạng tư tưởng để có
thể phát triển thành hệ tư tưởng triết học phải tiếp biến tư tưởng mới trải qua
sự phủ định biện chứng các lý luận hệ tư tưởng cũ. Khi ấy đã có một bước
nhảy vọt mới trong tư duy. Bước phát triển mới về chất như thế nhất định cần
có những yêu cầu và điều kiện thực tế mới, những điều kiện cho phép nhìn ra
sự phi lý của cách nhìn thế giới cũ, những nhu cầu vươn lên trở lực lớn trên

con đường phát triển nhận thức. Ở đây Việt Nam trong quá trình tiếp xúc văn
hoá đã tiếp nhận được những phát kiến vang đội về khoa học có vai trò cực
kỳ quan trọng. Và tất nhiên là phải có người, có lớp trí thức đủ năng lực làm
chủ được trí thức “ mới” của thời đại, có người đủ điều kiện vật chất và tinh
thần đảm đương nhiệm vụ khái quát tổng kết lịch sử đó. Trong lịch sử nước ta
không phải không có những lúc có biến động lớn, gặp trở lực lớn, nhưng
vươn lên có những thời đại rực rỡ, mở ra viễn cảnh huy hoàng, chắp cánh cho
tư duy con người, những thời đại đó thường là thừa kế phát huy hào khí thắng
lợi chống ngoại xâm, như sau các chiến thắng oanh liệt của Ngô Quyền, Lê
Hoàn xoá bỏ tình trạng Bắc thuộc, chiến thắng oanh liệt đời Lý- Trần- đời Lê
cũng vậy, … Đó là những thời đại tinh hoa dân tộc phát triển đến cao độ
không những dốc hết vào đấu tranh quân sự mà còn phải xây dựng phát triển
văn hoá để giữ vững độc lập, thắng lợi huy hoàng đã chắp cánh cho thơ ca,
cho nghệ thuật nhưng mặt khác nếu không lại tạo được những điều kiện thực
tế cho việc “ vựợt bậc” thì sự trì trệ là khó tránh khỏi mà quan trọng hàng đầu
là giữ gìn sự ổn định, sự nhất định đề phòng giặc ngoại xâm lược, với một thể
chế mà làng xã là thành luỹ, với một nền sản xuất mà năng suất dựa vào kinh

17
nghiệm, sự cần cù, bàn tay khéo léo thì kỹ thuật không đòi hỏi nhiều phát
minh khoa học, nhưng không có nghĩa thực tiễn không cần nhiều lý luận,
không có lý luận thì khó có sự nhảy vọt về chất mới.
Đến thế kỷ XV trong lịch sử tư tưởng Việt Nam đã có thời kỳ tiếp biến
Phật giáo từ Ấn Độ và sau đó Nho, Phật, Đạo từ Trung Quốc, nhưng không
trải qua cuộc tranh chấp tư tưởng kịch liệt nào. Tâm thức Việt Nam không
cuồng tín để dẫn đến đổ máu tranh chấp tư tưởng Tôn giáo . Nếu đội ngũ trí
thức trước thế kỷ XIV là những nhà Sư và sang thế kỷ XV là nhà Nho không
để lại cho chúng ta một di sản triết học to lớn thì ta cũng không nên trách cứ
họ, chưa thoát ràng buộc xã hội nguyên thủy thì người Việt đã gặp ngay nạn
xâm lăng từ phương Bắc và nạn ngoại xâm đe doạ thường trực suốt trang lịch

sử. Hoàn cảnh khắc nghiệt buộc người Việt lựa chọn thích ứng tiếp nhận chọn
lựa, lọc bỏ cha ông chúng ta quan tâm đến nhiều vấn đề đạo đức trong Tam
giáo chúng dạy chúng ta cách ứng dụng nhanh chóng cái học được để cố kết
tăng cường nội lực ứng phó, nhằm vận dụng linh hoạt vào mục đích thực tế,
chúng ta đã tiếp biến lựa chọn những cái đã có sẵn, chấp nhận tổ chức, sắp
xếp lại nó cho gọn nhẹ , nhưng lại biết cách sử dụng chúng cho hữu ích không
gây ra chống đối. Đối với thực tế mà “nhu cầu lý luận” đặt ra chỉ như vậy kho
Kinh, Tạng của Tam giáo là quá phong phú, thậm chí là quá mênh mông, ít ai
có điều kiện học đủ. Những trường hợp như Nguyễn Trãi thừa hưởng gia tài
sách vở của ông ngoại, một học giả quý tộc làm Tể tướng từ đời Trần, tiếp
xúc rộng rãi, hay như Vua Lê Thánh Tông là rất hiếm. Đại đa số người học
chỉ học đủ kinh, sử để đi thi. Đối với họ sách Tính Lý Đại toàn do Chu Hy
soạn còn là quá rườm rà nên phải làm Thuyết ước, phải làm Toản yếu - những
bản tóm tắt - cho dễ học. Trong lịch sử học thuật của ta ít có những nhà kinh
học chuyên để cả cuộc đời tra cứu, biện bác làm sáng tỏ nghĩa kinh điển, mà
cũng ít có những nhà tư tưởng nhìn tổng quát cả học thuật quá khứ để phê
phán, đề xuất kiến giải riêng. Những người lỗi lạc như Nguyễn Trãi, Lê
Thánh Tông có tinh thần tự hào dân tộc đều muốn phát triển tư văn ở Việt

18
Nam bằng cách chọn lọc các yếu tố phù hợp với điều kiện Việt Nam để đi
theo và tiến kịp không thua Trung Quốc chứ không phải chú trọng nhiều vào
phê phán thế giới quan, phê phán nó. Trên tinh thần dân tộc Việt Nam đó
những nhà sử học viết quốc sử Lê Văn Hưu, như Ngô Sĩ Liên sao cho giống
Thông giám Cương mục, những nhà thơ nhà văn viết cho hay được như Lý,
Đỗ, Âu, Tô. Những cái gọi là phương kỹ như nghề làm thuốc, bói toán, địa lý,
thiên văn … cũng là học kết hợp theo sách Tàu và kết hợp làm theo kinh
nghiệm bản địa nhưng giải thích theo Âm dương, ngũ hành và thực tiễn Việt
Nam, đặc điểm này cũng thể hiện ở tư tưởng Lê Thánh Tông rất rõ nhất là ở
quan niệm đạo đức.

Như vậy có một hệ tư tưởng tồn tại trong lịch sử Việt Nam nhưng
không nhất thiết tách biệt lập với cách nghĩ Trung Quốc. Nhà Vua Lê Thánh
Tông có ý thức rõ ràng về dân tộc và thực tế dân tộc của mình, cởi mở, tiếp
nhận cái khác từ Ấn Độ, Trung Quốc bắt chước và biết ứng dụng linh hoạt
cho dân tộc mình. Cho nên ông đã chuyển hướng từ ảnh hưởng văn hoá Đông
Nam Á sang văn hoá Đông Á, đã vay mượn rất nhiều ở tư tưởng Nho, Phật,
Đạo Trung Quốc nhưng ở đâu cũng có sự lược bỏ, lược bỏ những chỗ khắt
khe, tế toái. Lê Thánh Tông lược bỏ cũng có nghĩa là đơn giản hoá, sơ lược
hoá, thế nhưng làm như thế mà giảm bớt đi được những cái tế toái, cứng nhắc,
những cái trái tự nhiên, trái nhân đạo, vốn có nhiều trong cách giải thích kinh
điển Nho, Phật, Đạo Trung Quốc thì không phải là dở. Đặc điểm tư duy chú
trọng sự linh hoạt các tương quan, không biết nên giải thích là do ảnh hưởng
từ tinh thần trung dung của Nho giáo, tinh thần nhu đạo, bất tranh của Lão
Trang, tinh thần phá chấp khế lý khế cơ hỉ xả, từ bi của Phật hay chỉ là tập
quán chín bỏ làm mười của lối sống tiểu nông bản địa. Tất nhiên đó còn là
điểm hạn chế lớn cho cách tư duy chính xác, hệ thống, nhất quán cần thiết để
tìm chân lý, để có tư duy khoa học, triết học. Nhưng trong điều kiện thế kỷ
XV, hoàn cảnh căng thẳng thì tư tưởng Lê Thánh Tông đặc biệt với điểm linh

19
hoạt, coi trọng khía cạnh tương quan, đạo đức như vậy thường lại có hiệu quả
và rất phù hợp với Việt Nam. Đó là điểm chúng tôi nhấn mạnh.
Ngay cả ở Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông đều là những đại diện tiêu biểu
cũng lộ ra cách tư duy Việt Nam, có cả ưu điểm và nhược điểm
Tìm hiểu các nội dung tư tưởng ảnh hưởng Nho, Phật, Đạo ở Lê Thánh
Tông sẽ gặp rất nhiều khó khăn, khó khăn vì chúng ta thiếu tư liệu, khó khăn
vì Di thảo không thuần nhất còn rất là phức tạp. Trong tình hình như vậy
chúng ta rất dễ phạm sai lầm trong xử lý Di thảo Lê Thánh Tông, hoặc là
chúng ta đưa vào nhiều tư liệu cái không phải của Lê Thánh Tông mà là của
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… thậm chí của đời sau nữa, của truyền

thuyết dân gian, hoặc là chúng ta đưa vào những cái của tư tưởng Trung Quốc
làm lẫn lộn tư tưởng Lê Thánh Tông, làm sai lạc diện mạo, thực chất tư tưởng
của ông …
Trong lịch sử của Việt Nam có hiện tượng sự phát triển các phương
thức sản xuất qua các giai đoạn không đầy đủ, không thay thế nhau bằng cách
cái sau phủ định triệt để cái trước. Trong thực tế vẫn còn những tàn dư của xã
hội nguyên thuỷ (như ruộng công làng xã), của một chế độ nô lệ không điển
hình (như nô tì công và tư), của một chế độ phong kiến phân tán chưa thành
hình (như các hào trưởng, hào cường), một chế độ phong kiến tập trung tập
quyền chính trị quá sớm nhưng không trọn vẹn vì thiếu kinh tế đô thị, tồn tại
song song, đan chéo vào nhau một dạng trầm tích phức hợp phức thể. Cho
đến thế kỷ XV điều này còn rõ nét, cho nên trong tư tưởng Lê Thánh Tông
cũng có dạng kế thừa hỗn dung trầm tích như vậy. Nhưng nước ta lại sớm
thống nhất, thống nhất dưới hình thức quận, huyện của chính quyền đô hộ rồi
đến thế kỷ X thống nhất thành quốc gia độc lập tạo ra điều kiện để thế kỷ XV
dân tộc hình thành sớm. Cho nên tất yếu xuất hiện nhu cầu xây dựng dân tộc
ý thức hệ cũng có dạng hợp nhất. Từ thời Lê sơ đã đến lúc thực hiện thống
nhất ý thức hệ, Lê Thánh Tông đã làm sự thống nhất ở đây được thực hiện
bằng cách kết hợp tư tưởng yêu nước với tư tưởng Tam giáo và các yếu tố

20
khác. Đó là một mô hình phức hợp, có thể nhìn nó như một khối mà không
phải hoàn toàn là một chỉnh thể, liên hệ hữu cơ với nhau. Theo sự khảo sát
thực tế thơ văn và tư liệu Lê Thánh Tông, chúng ta có thể hình dung trong mô
hình phức hợp các thành tố kể trên không chồng chất lộn xộn mà liên kết
nhiều cấp, quanh cốt lõi là Nho giáo. Sự liên kết các yếu tố đó có mức độ chặt
chẽ khác nhau qua các giai đoạn cuộc đời Lê Thánh Tông. Có cái chỉ là vỏ
bọc, có cái được liên kết chặt chẽ, có những cái được liên kết thành khối riêng
nằm trong cái toàn bộ. Qua nghiên cứu thơ văn Lê Thánh Tông cho ta thấy
rằng Nho giáo là bộ phận xương sống của khối liên kết đó. Rõ ràng là trong

cái toàn thể hệ tư tưởng ở Lê Thánh Tông mà ta hình dung thì Nho giáo là
một phần trong nhiều phần, thế nhưng nó là bộ phận then chốt, quy định sự
chọn lọc, sự sắp xếp vì nó là học thuyết thống trị, và hơn thế, nó thích hợp với
cơ chế chính trị - kinh tế - xã hội đã phát triển ở thời Lê sơ.
Phân tích ảnh hưởng Tam giáo Nho, Phật, Đạo đến tư tưởng Lê Thánh
Tông một đại diện tiêu biểu thế kỷ XV thời kỳ rực rỡ của dân tộc, trong tình
hình tư liệu chủ yếu là qua tác phẩm văn học, sử học luật học, chúng ta lại
càng cần lưu ý tới tình trạng liên kết, thẩm thấu hỗn dung trên. Những mặt
ảnh hưởng như thiên đạo, trị đạo, cách tu thân, quan niệm sống, quan niệm
lịch sử của Lê Thánh Tông là Nho Hán Tống không hoàn toàn tách rời với vũ
trụ quan, nhận thức luận của Phật- Đạo bản địa rất khó tách bạch.
Tóm lại : Chú trọng đến những đặc điểm tiếp biến Tam giáo tại Việt Nam
như vậy, chúng ta mới có thể tìm những phương pháp tiếp cận và giải quyết
những vấn đề cụ thể của việc phân tích nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Tam
giáo trong quan niệm đạo đức của Lê Thánh Tông.
* Nho giáo vào Việt Nam trong thời Bắc thuộc, căn bản qua ba thời
kỳ như sau:
- 111 trước công nguyên - 39: các đời Tây Hán và Đông Hán
- 43 -544: Các đời Đông Hán, Tam Quốc,Tấn, Nam Bắc Triều.
- 603 - 939: Các đời Tuỳ, Đường, Ngô Quyền.

21
Mười thế kỷ đầu Bắc Thuộc, Nho học Việt Nam chưa thịnh, chưa hình
thành tầng lớp Nho sĩ nắm vai trò quan trọng trong xã hội. Thành phần tri
thức Việt ưu tú bấy giờ là những nhà Tu sỹ, đặc biệt là các Cao Tăng, thông
qua việc học chữ Nho để đọc kinh Phật, các Sư Tăng phần nào đó tiếp thu
luôn Nho học. Thế nên, khi đất nước vừa độc lập, kể từ Ngô (939 - 965), Đinh
(968 -979), Lê (980 -1009), trí thức tài đức ra giúp triều đình chủ yếu là các
đạo sĩ và thiền sư. Nên từ thời Lý Phật giáo phát triển mạnh Một số Thiền Sư
có công dạy các tục gia đệ tử trở thành nhân tài giúp nước, như sư Khánh Vân

và sư Vạn Hạnh lần lượt là thầy dạy Lý Công Uẩn; Sư Trí ở núi Cao Dã là
thầy của Thái uý Tô Hiến Thành, Thái Bảo Ngô Hoà Nghĩa …Các Vua Trần
Thái Tông, Trần Nhân Tông đều tiếp thu cả Nho giáo và Phật giáo…
Nho học Việt Nam cũng chủ động phát triển từ đời Lý thế kỷ XI, sang
cuối thế kỷ XIV đời Trần thì bắt đầu tham chính, Nho học mở đường xuất
thân cho kẻ sĩ thông qua khoa cử, nhờ đó thúc đẩy đội ngũ Nho sĩ, văn học
phát triển, văn hoá được nâng cao. Không ít tiên Nho Việt Nam là tác gia, đi
sâu vào Nho học như Chu Văn An soạn Tứ thư Thuyết Ước. Nhưng chiến
tranh liên miên thời Minh, sách vở bị cướp, đốt mất quá nhiều thời Lý -Trần -
Hồ, tư tưởng học thuật của tiên Nho Việt Nam hầu như không còn lưu lại
nhiều cho đời sau nghiên cứu. Đầu Lê sơ Nho học được Lê Lợi, Nguyễn Trãi
chú trọng coi làm hệ tư tưởng cho chế độ phong kiến tập quyền, nên nói đến
Nho giáo thời Lê sơ, cái nổi bật hình như không phải là tư tưởng triết học, mà
lại là văn chương, khoa cử, và vai trò đạo đức nhất là lĩnh vực đạo đức của
người cầm quyền, đạo đức chính trị của sĩ phu trong lịch sử.
Đầu đời Lê, từ Vua Lê Lợi Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông đều đề cao,
đặc biệt từ Vua Lê Thánh Tông Nho học rất được chú trọng, được tôn là quốc
học, khoa cử thúc đẩy, hình thành tầng lớp nho sĩ trí thức đông đảo. Kinh đô
có Quốc tử giám, Thái học viện, Vua Lê Thánh Tông chia nước làm mười ba
đạo, hầu hết các đạo ở đồng bằng đều lập trường công, ấn định quy chế thi cử.
Năm 1463 có chừng 1400 người thi Hội ở Thăng Long; năm 1475 tăng lên

22
khoảng 3000 thí sinh. Từ triều Lê, người thi đậu rất vẻ vang: Có lễ xướng
danh, lễ vinh quy, lễ khắc tên tiến sĩ vào bia đá ở Văn Miếu. Khoa cử Nho
học đề cao Tứ Thư, Ngũ Kinh ảnh hưởng nhiều Tống nho, Minh nho.
Nhiều danh nho đời Lê sơ Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh, Bùi Cẩm Hồ,
Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đỗ, Lương Thế Vinh, Đỗ
Nhuận, Thân Nhân Trung. Ảnh hưởng của Nho giáo đến nhiều lĩnh vực do
yêu cầu và điều kiện thực tiễn Việt Nam mà lĩnh vực đạo đức, nhất là đạo đức

ở phương diện làm quan, làm vua, làm chính trị, là xu thế nổi bật chịu ảnh
hưởng rõ rệt Nho giáo hơn tất cả. Trong tư tưởng Lê Thánh Tông cũng thể
hiện nổi bật chịu ảnh hưởng của Nho giáo trong quan niệm về đạo đức người
làm Vua, người cầm quyền.
* Sự du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam đến trước thời
Lê Thánh Tông.
* Trước thế kỷ III Phật giáo du nhập Việt Nam:
Khi bị nhà Hán xâm lăng, miền đất phía bắc nước Việt Nam nay bị đổi
tên là Giao Chỉ Bộ. Vào năm 203 (triều Hán Hiến đế), Giao chỉ Bộ Lại bị đổi
thành Giao Châu.
Phật giáo vào Việt Nam trước tiên bằng đường biển, từ phương Nam
lên, do các nhà Sư Ấn Độ theo thuyền buôn. Luy Lâu (vùng Dâu, Hà Bắc) có
thể là cửa ngõ để từ Việt Nam, các nhà sư, nhà buôn viễn xứ mượn đường đi
vào đất Hán.
Theo “Thiền uyển truyền đăng tập lục”, Pháp sư Đàm Thiên trong khi
đàm đạo với vua Nhà Tuỳ (thế kỷ VI - VII) đã cho biết Giao Châu có đường
thông thương với Ấn Độ, nên khi ở Giang Đông (Trung Quốc) đạo Phật hãy
còn xa lạ thì tại thủ đô Luy Lâu của Giao Châu đã có trên hai mươi Chùa
Phật, hơn năm trăm Nhà Sư, đã biết đến mười lăm bộ kinh.
Có bằng chứng cho thấy Phật giáo đã từ Việt Nam vào Trung Quốc
trước khi Phật giáo từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam. Thế kỷ III, Ngô

×