Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

ìm hiểu một số ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh thần người Việt hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 118 trang )

Hà Nội - 2010Hà Nội - 2010
Tìm hiểu một số ảnh h ởng của tôn giáo
đến đời sống văn hoá tinh thần
ng ời việt hiện nay
Tìm hiểu một số ảnh h ởng của tôn giáo
đến
đời
sống văn hoá tinh thần
ng
ời việt
hiện nay
Luận văn thạc sỹ triết họcLuận văn thạc sỹ triết học
Vũ đức chính
(Thích Thanh Nhiễu)
Vũ đức chính
(Thích
Thanh Nhiễu)
đạI học quốc gia hà nội
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN V N
đạI học quốc gia hà nội
TRNG I
HC KHOA HC X HI V NHN V N
luận văn thạc sỹ triết học
h nội 2010
Vũ đức chínhVũ đức chính
(Thích Thanh Nhiễu)(Thích Thanh Nhiễu)
Hà Nội - 2010Hà Nội - 2010
Luận văn thạc sỹ triết họcLuận văn thạc sỹ triết học
đạI học quốc gia hà nội
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN V N
đạI học quốc gia hà nội


TRNG I
HC KHOA HC X HI V NHN V N
Chuyên ngành
Mã số
Chuyên ngành

số
: Tôn giáo học
: 60.22.90
: Tôn giáo học
:
60.22.90
Giỏo viờn hng dn:
TS. Trần thị kim oanh
Giỏo viờn hng dn:
TS.
Trần thị kim oanh
Tìm hiểu một số ảnh h ởng của tôn giáo
đến đời sống văn hoá tinh thần
ng ời việt hiện nay
Tìm hiểu một số ảnh h ởng của tôn giáo
đến
đời sống văn hoá tinh thần
ng
ời việt hiện nay
Vũ đức chính
(Thích Thanh Nhiễu)
Vũ đức chính
(Thích
Thanh Nhiễu)


119
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
6. Đóng góp của luận văn: 6
7. Ý nghĩa của luận văn: 6
8. Kết cấu của luận văn 7
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
TRƯỚC KHI CÓ TÔN GIÁO NGOẠI NHẬP 8
1.1. Khái quát về tôn giáo ở Việt Nam 8
1.1.1. Tôn giáo và những biểu hiện của tôn giáo 8
1.1.2. Vài nét về tôn giáo ở Việt Nam 21
1.2. Đời sống văn hóa tinh thần của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ
trước khi có tôn giáo ngoại nhập. 25
1.2.1. Một số khái niệm chung 25
1.2.2. Đôi nét về đời sống văn hóa tinh thần của người Việt 32
Chương 2: MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI
SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY 38
2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hoá tinh thần người Việt 40
2.1.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa tín ngưỡng và luân lý đạo đức 40
2.1.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn học nghệ thuật. 56
2.2. Ảnh hưởng của Công giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần
người Việt 73


120
2.2.1. Ảnh hưởng của Công giáo đến văn hóa tín ngưỡng và luân lý
đạo đức. 73
2.2.2. Ảnh hưởng của Công giáo đối với văn học nghệ thuật. 94
2.3. Một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và
khắc phục một số hạn chế của tôn giáo đối với đời sống văn hoá tinh
thần của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. 103
KẾT LUẬN 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ V (khóa VIII),
Đảng ta đã ra Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó xác định một trong mười nhiệm vụ cụ
thể là “chính sách văn hóa đối với tôn giáo”. Nghị quyết ghi:
“Về tôn giáo, thi hành nhất quán chính sách tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân. Các tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật.
Bảo đảm cho sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật Nhà
nước. Nghiêm cấm việc xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước. Nhà
nước chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giúp đỡ đồng bào có đạo xóa
đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống, tham gia các công việc xã hội, từ thiện
Đồng bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn
trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc, sống "tốt đời đẹp đạo"”[21;126].
Như vậy, trong quan điểm chỉ đạo Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy
rõ vị trí và tầm quan trọng của tôn giáo trong đời sống văn hóa xã hội. Tôn

giáo với tính cách là một yếu tố của cấu trúc xã hội, đã có những ảnh hưởng
không nhỏ đến con người và xã hội trên cả hai mặt, tích cực và tiêu cực, góp
phần tạo nên sắc thái đặc biệt cho đời sống văn hóa tinh thần của nhân loại.
Ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời sống văn hóa tinh thần được đánh
giá hết sức khác nhau, thậm chí đối lập nhau trong lịch sử. Tuy nhiên, có
nhiều ý kiến thống nhất với nhau rằng: tôn giáo vừa có khả năng tạo nên
những giá trị làm phong phú và thúc đẩy đời sống văn hóa tinh thần của xã hội
song cũng có thể tạo nên những cản trở đối với sự phát triển đời sống văn hóa
tinh thần, đời sống xã hội. Vì vậy, vấn đề được đặt ra cho người nghiên cứu

2
tôn giáo học là phải thấy được những hợp lý và khiếm khuyết của hiện tượng
tôn giáo và những ảnh hưởng của nó đã, đang và sẽ cản trở lịch sử nhân loại.
Điều này thực sự cần thiết trong thời đại ngày nay, khi cùng với sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, các trào lưu hiện đại hóa, các tôn giáo thế giới có xu
hướng gắn bó hơn với đời sống thế tục, đặc biệt trong các lĩnh vực văn hóa
tín ngưỡng truyền thống, luân lý đạo đức và văn học nghệ thuật để tự điều
chỉnh, thích ứng với xu thế của thời đại, mong giữ được thánh địa thiêng
liêng của mình để tiếp tục tồn tại và tồn tại lâu dài.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo. Bên cạnh những tôn giáo nội
sinh như đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, còn có những tôn giáo được du
nhập từ bên ngoài vào như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo…
Các tôn giáo ở Việt Nam luôn tồn tại song hành cùng lịch sử dân tộc,
bên cạnh những hạn chế nhất định, tôn giáo đã có những đóng góp tích cực
nhất định cho nền văn hóa dân tộc, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo
của dân tộc Việt Nam.
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra
mạnh mẽ, trước những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, tôn giáo
ở Việt Nam đang có những biến động phức tạp theo nhiều chiều hướng. Vì
vậy, nhiều vấn đề được đặt ra, nhất là xung quanh việc đánh giá ảnh hưởng

của tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của xã hội.
Trong các tôn giáo ở Việt Nam, Phật giáo và Công giáo là những tôn
giáo thế giới vào nước ta từ rất sớm. Nhìn chung, đây là các tôn giáo khá gắn
bó, đồng hành cùng dân tộc. Trong quá trình tồn tại và phát triển, các tôn giáo
này đã đóng góp cho dân tộc trên nhiều phương diện, đặc biệt là phương diện
văn hóa tinh thần, tạo ra sự đa dạng trong đời sống văn hóa tín ngưỡng truyền
thống, những chuẩn mực trong luân lý đạo đức và giá trị nhân văn, nhân bản
trong văn học nghệ thuật của người Việt Nam.

3
Do vậy, nghiên cứu ảnh hưởng của tôn giáo (đặc biệt là hai tôn giáo thế
giới Phật giáo và Công giáo) đối với văn hóa Việt Nam là công việc có ý
nghĩa nền tảng, góp phần vào công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để hiểu đúng hơn về vị thế của tôn giáo đối với
văn hóa nước nhà là một vấn đề hết sức cần thiết. Xuất phát từ những suy nghĩ
như vậy, chúng tôi chọn vấn đề nghiên cứu:“Tìm hiểu một số ảnh hưởng của
tôn giáo đến đời sống văn hóa tinh thần người Việt hiện nay” làm luận văn
của mình. Hy vọng, với đề tài này, chúng tôi góp phần vào việc nghiên cứu
tôn giáo, có một cách nhìn khách quan hơn về vị thế của tôn giáo thế giới
(Phật giáo, Công giáo) hiện nay trong xã hội Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, trong suốt một thời kỳ dài, chúng ta quan niệm tôn giáo sẽ
mất đi cùng với quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Do đó, vấn đề tôn giáo
ít được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Những năm gần đây, trước
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ đổi mới vấn đề tôn giáo được
đặt ra và đòi hỏi có sự nhìn nhận, phân tích và đánh giá lại dưới những góc độ
khác nhau, đặc biệt là dưới góc độ văn hóa. Vì vậy, đã xuất hiện nhiều công
trình nghiên cứu về tôn giáo, về văn hóa tôn giáo và ảnh hưởng của nó trong
đời sống xã hội.
Nghiên cứu về văn hóa có các công trình tiêu biểu như: “Cơ sở văn hóa

Việt Nam” của Trần Quốc Vượng (chủ biên); “Việt Nam văn hóa sử cƣơng”
của học giả Đào Duy Anh; “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc
Thêm; Một số vấn đề lý luận văn hoá thời kỳ đổi mới” của Hoàng Văn Vinh;
“Văn hoá và văn hóa học thế kỷ XX”, của Viện khoa học xã hội; “Văn hóa và
sự phát triển” của một số tác giả nước ngoài viết về văn hóa như: Iu.Đavưđôp,
L.G.Ionin, V.E.Đaviđôvich, Zđanôp
Nghiên cứu về tôn giáo tiêu biểu là các công trình: “Lý luận về tôn
giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của Đặng Nghiêm Vạn, “Một số tôn

4
giáo ở Việt Nam”, của Nguyễn Thanh Xuân; “Mƣời tôn giáo lớn trên thế
giới”, của Hoàng Tâm Xuyên; “Tôn giáo thế giới và Việt Nam” của Mai
Thanh Hải; Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập 1, 2 của Lê Mạnh Thát, “Phật
giáo Việt Nam những vấn đề hiện nay”, của Nguyễn Tài Thư; “Phật giáo
trong mạch sống dân tộc”, của Thích Thanh Từ; “Việt Nam giáo sử”, của
Phan Phát Huồn; “Lịch sử truyền giáo”, tập 1, 2 của Nguyên Hồng; “Nghi lễ
và lối sống Công giáo trong văn hoá Việt Nam” của Nguyễn Hồng Dương
Ngoài ra, còn một số ít công trình đề cập trực tiếp tới một vài phương
diện biểu hiện sự tác động qua lại giữa văn hóa và tôn giáo: “Tôn giáo trong
mối quan hệ với văn hóa và phát triển ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Hồng
Dương; “Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngƣỡng tôn giáo ở Việt Nam” của
Chu Quang Trứ; “Ảnh hƣởng của các hệ tƣ tƣởng và tôn giáo đối với con
ngƣời Việt Nam hiện nay” do Nguyễn Tài Thư chủ biên; “Những vấn đề lý
luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam” và “Lý luận về tôn giáo và tình hình
tôn giáo ở Việt Nam”, của Đặng Nghiêm Vạn
Một số tạp chí cũng có những bài viết nghiên cứu về tôn giáo và ảnh
hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa xã hội như: Tạp chí Triết học, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, Tạp chí Công tác tôn giáo, Tạp chí Nghiên cứu Phật
học, Tạp chí Công giáo và dân tộc, Có thể kể đến các bài viết như: “Đạo
đức và đạo đức tôn giáo nhìn từ góc độ triết học” của Nguyễn Hữu Vui (Tạp

chí triết học, số 4, 1995); “Tôn giáo tín ngƣỡng trong đời sống văn hóa hiện
nay” của tác giả Đỗ Quang Hưng (Tạp chí Cộng sản, số 15, 1999); “Phật giáo
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá”, của Nguyễn Đức Lữ, (Tạp chí Triết
học số, 11, năm 2006); “Bƣớc đƣờng hội nhập văn hoá dân tộc của Công giáo
Việt Nam”, của Nguyễn Hồng Dương (Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 7,
năm 1999)
Nhìn một cách tổng thể, những nghiên cứu trên đều thống nhất quan
điểm thừa nhận văn hóa tôn giáo có ảnh hưởng tích cực đến văn hóa Việt

5
Nam, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc. Song, cũng có
những yếu tố tiêu cực cần phải khắc phục bằng những giải pháp cụ thể trên
những bình diện nhận thức cũng như thực tiễn. Tuy nhiên, do yêu cầu của xã
hội hiện nay, việc tiếp tục nghiên cứu về văn hóa tôn giáo ở dạng chuyên
biệt vẫn rất thiết thực và cần thiết. Theo hướng nghiên cứu này, tác giả luận
văn kế thừa những giá trị của các công trình đi trước trong việc thực hiện đề
tài của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích khái quát về tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay và đời sống văn hóa tinh thần của người Việt ở đồng bằng
Bắc Bộ trước khi có tôn giáo ngoại nhập, luận văn tập trung phân tích những
ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hoá tinh thần người Việt hiện nay và
đưa ra một số giải pháp để phát huy những giá trị văn hoá tôn giáo tốt đẹp,
khắc phục những mặt hạn chế của tôn giáo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn có hai nhiệm vụ
Thứ nhất, Phân tích khái quát về tôn giáo ở Việt Nam và đời sống văn
hóa tinh thần của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ trước khi có tôn giáo
ngoại nhập.
Thứ hai, Phân tích và làm sáng tỏ một số ảnh hưởng của tôn giáo cụ thể
như Phật giáo, Công giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần người Việt ở

đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. Đồng thời đưa ra một số một số giải pháp nhằm
phát huy những giá trị tốt đẹp, khắc phục những hạn chế trong tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Ảnh hưởng của tôn giáo (Phật giáo, Công giáo)
đối với đời sống văn hoá tinh thần người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số ảnh hưởng của
tôn giáo (mà cụ thể là Phật giáo và Công giáo) đến đời sống văn hóa tinh

6
thần của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ trên một số lĩnh vực cụ thể: tư
tưởng, tín ngưỡng truyền thống, văn học nghệ thuật. Những lĩnh vực này rất
gần gũi và gắn bó với sinh hoạt đời sống văn hoá tinh thần của người Việt.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; những quan điểm, đường lối chính sách
của Đảng về tôn giáo; các công trình nghiên cứu về tôn giáo của các nhà Khoa
học trong và ngoài nước.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tôn giáo trong
mối quan hệ với đời sống văn hoá tinh thần từ góc độ tôn giáo học, sử
dụng tổng hợp các phương pháp trong quá trình nghiên cứu như kết hợp
logic với cơ sở, lý luận gắn với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng
hợp tư liệu
6. Đóng góp của luận văn:
Trên cơ sở phân tích khái quát về tôn giáo ở Việt Nam và đời sống văn
hóa tinh thần người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ trước khi có tôn giáo ngoại
nhập, luận văn phân tích một số ảnh hưởng của tôn giáo cụ thể như Phật giáo,
Công giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ
hiện nay. Đồng thời đưa ra một số một số giải pháp nhằm phát huy những giá
trị văn hóa tôn giáo tốt đẹp, khắc phục những hạn chế trong tôn giáo ở Việt

Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn:
7.1. Về mặt lý luận: Luận văn phân tích và làm sáng tỏ một số ảnh
hưởng của tôn giáo (mà cụ thể là Phật giáo và Công giáo) đến đời sống văn
hóa tinh thần của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ trên một số lĩnh vực cụ thể:
tư tưởng, tín ngưỡng truyền thống, văn học nghệ thuật

7
7.2. Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công
tác giảng dạy, nghiên cứu, học tập về tôn giáo; cho việc hoạch định chính sách
đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nội dung luận văn gồm 2 chương 5 tiết.







8
Chương 1:
KHÁI QUÁT VỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG
BẮC BỘ TRƯỚC KHI CÓ TÔN GIÁO NGOẠI NHẬP

1.1. Khái quát về tôn giáo ở Việt Nam
1.1.1. Tôn giáo và những biểu hiện của tôn giáo
Trong Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta

đã nêu rõ vai trò của tôn giáo và tầm quan trọng của công tác tôn giáo: “Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và
Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân
dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục
mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống
những hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng thời nghiêm cấm và ngăn
chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc,
chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân”[20;78].
Vậy, tôn giáo là gì? Bản chất của tôn giáo ra sao? Tôn giáo đã ảnh hưởng đến
đời sống xã hội như thế nào? mà Đảng ta lại khẳng định như vậy?
Tôn giáo là gì? Đây là một vấn đề xưa cũ nhưng cũng là một vấn đề
thường xuyên mới. Người ta xem xét, nhận thức tôn giáo từ những không gian
văn hóa và truyền thống tư tưởng khác nhau, do sự đa dạng của xuất phát điểm
và góc nhìn khác nhau mà dẫn đến kết luận và giải đáp cũng rất khác nhau. Điều
này làm nảy sinh ra vấn đề là nên lý giải tôn giáo như thế nào?
Theo những định nghĩa phổ thông thì tôn giáo là một dạng sinh hoạt
tâm linh, trong đó con người tin vào sự hiện hữu của các thế lực siêu nhiên, có
quyền lực siêu phàm, có thể tác động đến đời sống của con người khi con
người sống cũng như khi đã chết. Tin vào sự bất tử của linh hồn và một thế

9
giới sau khi chết, trong đó linh hồn của những người đã chết vẫn tồn tại trong
một cuộc sống khác. Từ đó con người đi đến chỗ tôn vinh, thờ phụng các thế
lực siêu nhiên, linh hồn của những người đã chết với hy vọng được sống an
lành nơi trần thế và được hưởng phúc vĩnh hằng nơi thế giới bên kia sau khi
đã chết.
Tôn giáo có đặc trưng nổi bật là đặt niềm tin vào các lực lượng siêu
nhiên, đặt ra những phương thức ứng xử để trước mắt có được một cuộc sống
an bình nơi trần thế và sẽ được hưởng một hạnh phúc vĩnh hằng nơi thế giới
bên kia, nhờ vào sự hỗ trợ của những sức mạnh siêu nhiên đó.

Phơ bách thì lại cho rằng: “Nếu chúa là ý thức mà con người rút ra từ
bản thân nó” thì tôn giáo rõ ràng là thích hợp của con người, của những
thang bậc lịch sử khác nhau, của những tộc người khác nhau. Con người tạo
ra tôn giáo, như C. Mác và nhiều nhà khoa học trước và sau ông chấp nhận
thì rõ ràng tôn giáo phải thích nghi với xã hội con người. Xã hội thay đổi, tư
duy con người thay đổi, tôn giáo của họ cũng thay đổi theo. “Con người làm
ra tôn giáo chứ tôn giáo không làm nên con người. Nói cách khác, tôn giáo
là sự tự ý thức và tự cảm giác của con người vốn tự chưa tìm thấy bản thân
mình hoặc đã tự đánh mất mình một lần nữa. Nhưng con người không phải
là một sinh vật đứng ngoài thế giới. Con người là thế giới con người, là Nhà
nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, đó là cái nhận
thức thế giới đảo ngược Tôn giáo là cái lý thuyết chung về thế giới đó, là
bộ bách khoa toàn thư tóm tắt, là cái lôgic bình dân, là niềm danh dự tinh
thần, là sự hân hoan, là sự thưởng phạt về luân lý, là sự bổ khuyết thiêng
liêng, là nơi tìm thấy sự an ủi và biện minh, phổ cập của cái thế giới ấy. Bởi
vì, trong thực tế không hề tồn tại cái tính chất nhân loại ấy Tôn giáo là
tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái
tim cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh
thần”[52;570].

10
Như vậy, tôn giáo không chỉ là sản phẩm của con người nói chung, hơn
thế nó là sản phẩm của riêng con người, của mọi thời đại, mọi màu da, mọi
vùng đất để tự thăng hoa trong khi đôi chân vẫn gắn chặt với đất mẹ, với số
phận không đều nhau, với niềm hạnh phúc và đau khổ xen kẽ, với vinh quang
và cay đắng. Tôn giáo đòi hỏi người ta không chỉ tin và ngưỡng mộ, nó đòi
hỏi lòng tin vào sự tưởng tượng phong phú, dồi dào, nhằm nâng đỡ tự thân các
thân phận người.
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, một trong những cái nôi của văn minh nhân
loại, một mảnh đất màu mỡ của tôn giáo và triết học. Sau khi Phật Thích Ca tịch

diệt. Phật giáo dần dần tách ra nhiều tông phái, trong đó nổi bật là hai tông phái
Tiểu thừa (Hinayana) và Đại thừa (Mahayana). Tông phái Tiểu thừa phát triển ở
Nam Ấn và truyền qua các nước như Xrilanca, Miến Điện, Thái Lan,
Campuchia, Lào và Nam Việt Nam. Tông phái Đại thừa phát triển ở Bắc Ấn rồi
truyền qua Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Bắc Việt Nam.
Xét về đặc tính tông truyền thì đạo Ki tô có phần tiêu biểu hơn, như
Ph.Ăngghen đã từng nhận xét: Sau Cơ Đốc giáo con người không thể sáng tạo
ra một tôn giáo nào hoàn hảo hơn. Và chỉ trong vài năm, Ki tô giáo bành
trướng từ Palextin tiến sâu vào nội địa ba châu Á, Âu, Phi. Và sau này Công
giáo lan sang miền Lưỡng Hà (Mesopotamie), Ba Tư rồi Ấn Độ, đồng thời
tràn qua Alexandri và Bắc Phi.
Tôn giáo còn là một sự kiện của lịch sử xã hội, bởi tôn giáo không chỉ
quan tâm đến những vấn đề của thế giới bên kia mà còn dành phần quan trọng
cho sự quan tâm đến những vấn đề đời thường của xã hội con người và được
thể hiện rõ trong luân lý, đạo đức của tư tưởng tôn giáo. Ở bất cứ điều kiện
kinh tế nào, những thiên tai, những bất hạnh trong xã hội như núi lửa, động
đất, hỏa hoạn, lụt lội, bệnh tật mà con người đang gánh chịu thì tôn giáo đã
góp phần nhất định trong việc gánh vác bớt những nỗi khổ đau đó của con
người. Nó góp phần hạn chế những hành vi tiêu cực của con người, hàn gắn,

11
bù đắp một cách thiết thực, dù ở mức độ nào đó, những rủi ro bất hạnh của
con người phần nào cũng giải quyết được.
Hơn thế nữa tôn giáo còn là văn hóa, như chúng ta đã biết văn hóa đã
sản sinh ra văn hóa tôn giáo, văn hóa tôn giáo ấy mang tính đặc trưng của tôn
giáo sản sinh ra nó, nhưng đồng thời cũng in đậm màu sắc của nó lên văn hóa
đời thường của cộng đồng đi theo tôn giáo đó. Bởi vì, những nơi nào đó coi
tôn giáo là Quốc giáo hoặc nơi có số tín đồ đông nhất sẽ đem lại cho nền văn
hóa ấy một bản sắc riêng. Các công trình văn hóa kiệt xuất của Hy Lạp, Ai
Cập, Ấn Độ, Trung Quốc không chỉ là sản phẩm của tôn giáo đơn nhất, mà là

sự hội nhập nhuần nhuyễn giữa văn hóa tôn giáo và văn hóa đời thường tới
mức khó mà tách bạch. Do vậy, tôn giáo phải được coi như là một thành tố
văn hóa của cộng đồng. Cho nên, trong thực tế khi muốn tìm hiểu kỹ văn hóa
của một cộng đồng nào thì nhất thiết không thể bỏ qua tôn giáo của dân tộc
ấy. Và như vậy, một tôn giáo nào đó du nhập vào một quốc gia bình thường sẽ
diễn ra một sự giao lưu hòa nhập hoặc tiếp biến văn hóa, làm phong phú thêm
đời sống văn hóa của quốc gia ấy.
Như vậy, tôn giáo của các dân tộc đều là một dạng thức văn hóa, thậm
chí là một dạng thức văn hóa đặc biệt. Vì vậy, nếu ai phủ nhận sạch trơn các
giá trị của tôn giáo được xem như là một người cực đoan. Bởi tôn giáo là sản
phẩm của chính con người, nó là vật cộng sinh với con người, tương lai của
nó thuộc về con người.
Tôn giáo hiểu theo quan niệm mác xít là một hình thái ý thức xã hội, là
sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người những sức mạnh bên ngoài, kể cả sức
mạnh trần gian mang tính siêu thế gian và chi phối cuộc sống con người. Tôn
giáo cũng là hạnh phúc hư ảo của nhân dân. Bất cứ trong hoàn cảnh xã hội
nào, thì cơ sở của mọi tôn giáo cũng là niềm tin của con người vào cái
“thiêng” thông qua các hệ thống và biểu tượng. Ví như đạo Phật, biểu tượng
của cái thiêng đó là cái “Thiện”. Phật là người tu luyện rũ bỏ dục vọng để đạt

12
tới cái “Thiện” – “Phật tính”. Điều này quy định mọi hành vi ứng xử của con
người trong xã hội. Mọi hệ thống biểu tượng của tôn giáo đều là hệ thống biểu
tượng của văn hóa, nó vừa chứa đựng hệ giá trị dân tộc, đồng thời là sự thể
hiện bản sắc và sắc thái văn hóa của dân tộc trong những thời đại nhất định.
Và nhà sử học mác xít Pháp, Charles Haichelin cũng đã nhận định: “Tôn giáo
là một sự phản ánh đặc biệt, hoang đường và sai lệch vào trong ý thức xã hội
những mối liên hệ giữa con người với nhau và với tự nhiên, bởi con người cả
trong xã hội nguyên thủy cũng như trong xã hội được phân chia giai cấp cổ
đại, phong kiến, tư bản cũng đều đặt dưới sự thống trị của những sức mạnh ở

bên ngoài họ, mà họ không nhận biết được, cũng như không chi phối và kiểm
soát được, vì thế mà đối với chúng, họ cảm thấy có sợ hãi bí ẩn, sự sợ hãi
này sẽ sản sinh ra các vị thần linh”[31;46].
Nhưng khi nghiên cứu về tác động, ảnh hưởng của các yếu tố ý thức hệ,
đặc biệt là ý thức hệ tôn giáo tới đời sống văn hóa xã hội ta phải thận trọng
với những giá trị về cuộc sống mà tôn giáo mang lại có khả năng thỏa mãn
nhu cầu tinh thần của con người như: giá trị đạo đức dân tộc, ý nghĩa cho cuộc
đời mỗi người, sự bảo đảm theo cách này hay cách khác cho thắng lợi của lẽ
công bằng, sự thỏa mãn nhu cầu tuyệt đối của cuộc sống ấm no nơi Thiên
Đàng, Niết Bàn Rất dễ đưa ta đến chỗ biến tôn giáo và ảnh hưởng của nó,
vốn chỉ mang tính độc lập tương đối, trở thành tính độc lập tuyệt đối, nghĩa là
nó tác động đến đời sống con người với vị thế như là một yếu tố ở bên ngoài
thế giới vật chất – một luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy tâm.
Bởi xét cho cùng trên thực tế những lý tưởng cao quý mà tôn giáo đem
lại cho con người không bao giờ thực hiện được, nó chỉ là sự thỏa mãn nhu
cầu một cách ảo tưởng. C.Mác nói: “Tôn giáo là trái tim của thế giới không
trái tim”, “Tôn giáo là tinh thần của những trật tự không có tinh thần”, “Tôn
giáo chỉ là cái mặt trời ảo tưởng xoay quanh con người chừng nào con người
chưa biết đầu xoay quanh bản thân mình”[52;569-570].

13
Từ lâu các nhà nghiên cứu tôn giáo ở nước ta (chỉ nói riêng các nhà
nghiên cứu mác xít) đã có những cuộc tranh luận khoa học với nhiều ý kiến
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về những ảnh hưởng của tôn giáo. Không
ít người chỉ nhìn thấy tôn giáo như một thứ “thuốc phiện” của nhân dân, một
hiện tượng tinh thần xã hội, hoàn toàn tiêu cực (như đạo Ki tô khi du nhập vào
nước ta). Nhiều người khác lại tuyệt đối mặt tích cực của tôn giáo trong đời
sống xã hội, đồng nhất lý tưởng và đạo đức tôn giáo (nhất là Phật giáo) với lý
tưởng và đạo đức của con người Chủ nghĩa xã hội.
Điều đó cho thấy, vấn đề ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống xã hội

nhất là đời sống văn hóa tinh thần là một vấn đề khá phức tạp.
Ảnh hưởng của tôn giáo trong đời sống văn hóa xã hội thường được
biểu hiện thông qua những chức năng của tôn giáo. Tôn giáo có nhiều chức
năng như chức năng: đền bù hư ảo, chức năng thế giới quan, chức năng giao
tiếp, chức năng liên kết, chức năng văn hóa, chức năng giáo dục, chức năng
chính trị
Ở đây chúng tôi không bàn tới vai trò và chức năng cụ thể của tôn giáo
mà chỉ đề cập một vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận là vấn đề tiếp cận vai
trò của tôn giáo từ góc độ Tôn giáo học và Triết học.
Với tính chất là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo thường được
xem xét từ góc độ nhận thức luận (góc độ triết học). Sự xem xét về mặt triết
học cho phép làm rõ ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống văn hóa xã hội
như thế nào? Trên ý nghĩa đó mà C.Mác đã nói: “Tôn giáo là thuốc phiện
của nhân dân”.
Theo C.Mác, trong một xã hội mà chúng sinh bị áp bức, trong một thế
giới “không có trái tim”, “không có tinh thần” là “tiếng thở dài”, là “trái tim”,
là “tinh thần” của xã hội đó. Tôn giáo vừa là biểu hiện, vừa là sự phản kháng
chống lại sự khốn cùng của xã hội. Hiểu theo ý đó, tôn giáo vừa là sản phẩm
tinh thần, vừa là giải pháp tình thế cứu khổ, là niềm an ủi nào đó trong thế

14
giới đau khổ chưa tìm được lối thoát. Niềm tin tôn giáo có tác dụng như một
loại thuốc an thần đối với một cơ thể đang bị bệnh hiểm nghèo chưa tìm được
phương thức cứu chữa. “Thuốc phiện”, hiểu theo ý ẩn dụ, chủ yếu là khía
cạnh tạo một sự cân bằng nào đó về tinh thần để không rơi vào bế tắc.
Mỗi tôn giáo lành mạnh đều có giá trị nhân văn, khía cạnh đạo đức, tình
cảm riêng và tính cộng đồng gắn bó.
Có thể nói tôn giáo là một dạng văn hóa đặc biệt của nhân loại. Ngoài
tính thiện, tính nhân văn, nó còn có yếu tố thiêng liêng, yếu tố thăng hoa là
những địa hạt mà chỉ bằng trực giác, xuất thần, linh thiêng, mặc khải thì mới

với tới được. Chính nhờ vào những yếu tố này con người mới tiến được vào
cõi xa xăm, mà từ trước chỉ coi như là sự huyền bí. Vì vậy, nhu cầu tâm linh
tín ngưỡng của quần chúng nhân dân cũng bức thiết như nhu cầu về đời sống
vật chất như ăn, ở, mặc Nói cách khác, tôn giáo là phần không thể thiếu
được của mỗi con người.
Vì vậy mà đạo Phật ra đời ở Ấn Độ khoảng thế kỷ thứ V trước Công
nguyên. Đức Phật là con vua Tịnh Phạn (Suddhadama) ở phía Bắc xứ Ấn Độ.
Mẹ thân sinh ra Ngài mang họ Thích Ca (Cakya), nên sau gọi Thích Ca Mâu
Ni Phật. Thái tử Tất Đạt Đa sinh vào khoảng 563-438 TCN. Thời đó, xã hội
Ấn Độ theo đạo Bà La Môn, được phân chia thành năm đẳng cấp. Ba lớp
người thuộc đẳng cấp trên (vua chúa, quý tộc, thương gia) tha hồ đàn áp bóc
lột hai đẳng cấp dưới (giới lao động và lớp người cùng khổ gọi là Parisas).
Thái tử Tất Đạt Đa buồn phiền vì nỗi thống khổ cùng cực của người lao
động và với cảnh sinh, lão, bệnh, tử của họ, Ngài đã từ bỏ đạo Bà La Môn
(
1
)
,
đến năm 29 tuổi, đã quyết chí bỏ nhà đi tu hành tìm con đường giải thoát cho
loài người khỏi mọi đau khổ trên đời. Sau khi đã thành Phật – Bụt (Bậc giác
ngộ) (hình 1). Ngài đã đi khắp lưu vực sông Hằng và những nơi khác để giáo


1
Đạo Bà La Môn lúc đó là hệ tư tưởng chính thống trị xã hội Ấn Độ cổ đại.

15
hóa chúng sinh. Ngài không phân biệt sang hèn, chủng tộc, mong giải thoát bể
khổ cho loài người.
Xuất phát từ góc độ như vậy, cho nên Ki tô giáo thời kỳ đầu hình thành

là từ Đế chế La Mã được thiết lập bằng chiến tranh và dựa chủ yếu vào sức
lao động của Nô Lệ. Do đó, từ cuối thế kỷ II, đầu thế kỷ I TCN, Đế quốc La
Mã đã chứa chất đầy mâu thuẫn. Mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa Nô
Lệ và Chủ Nô. Lúc đó hàng loạt cuộc khởi nghĩa vũ trang của Nô Lệ nổi dậy
chống giai cấp Chủ Nô và quân xâm lược. Nhưng tất cả cuộc khởi nghĩa đó
đều bị dập tắt trong biển máu một cách dã man. Trong tâm trạng tuyệt vọng,
quần chúng lao khổ trông chờ vào sự giúp đỡ của lực lượng siêu nhiên, một vị
thần hay một đường cứu thế để có thể đánh đổ Đế quôc La Mã, giải phóng
dân tộc và Ki tô giáo đã ra đời trong hoàn cảnh đó.
Bởi thế có thể nói, đạo Ki tô vừa là sản phẩm tinh thần của quần chúng
trước tình trạng bi đát và thất vọng trong cuộc sống, vừa là phản ứng của họ
trước cuộc sống áp bức bóc lột của giai cấp Chủ Nô thống trị. Do vậy, Đạo Ki
tô như một thứ tôn giáo của những người Nô Lệ, những người nghèo, những
người áp bức đến cùng cực mà “Kinh Phúc Âm” đã để lại một câu nói nổi
tiếng: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên
đàng”[Mc:10;25], Ph.Ăngghen cũng đã viết: "những tín đồ Cơ Đốc giáo đầu
tiên được tuyển trong số những người nào? Chủ yếu là trong số "những người
đau khổ và bất hạnh thuộc những tầng lớp người dân thấp nhất, như yêu cầu
đối với một phần tử cách mạng"[53;685].
Và như vậy, tôn giáo thế giới (Phật giáo, Ki tô giáo) có một điểm chung
là: Chúng đều mang lại cho con người một điều gì đó gắng đạt tới và xem xét
về mặt bản chất thì chúng cũng không bao giờ hướng con người tới cái xấu,
cái độc ác, mà luôn luôn khuyến khích con người làm điều thiện, vươn tới cái
đẹp, cái hoàn mỹ, cái cao cả vì lợi ích của bản thân và cộng đồng. Tuy nhiên,
con người vì mục tiêu lợi ích riêng đều có thể sử dụng tôn giáo khiến nó đi
ngược lại cái thiện, cái tốt đẹp, trở thành phản giá trị, phản văn hóa. Từ khi xã

16
hội có giai cấp thì không có Nhà nước nào không sử dụng thứ công cụ tôn
giáo này phục vụ cho lợi ích của giai cấp và của tập đoàn thống trị của mình.

Vì như vậy, từ đời sống trần tục, tôn giáo bị “người đời” làm biến đổi, tha
hóa, có khi ngược lại mục tiêu tốt đẹp cao cả ban đầu của nó. Lịch sử nhân
loại cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp các giai cấp, các tập đoàn xã hội
đã lợi dụng tôn giáo gây ra chiến tranh, tàn phá, gây tai họa cho loài người.
Thậm chí họ còn dùng nó như là một công cụ cho chính sách xâm lược tàn
bạo của chủ nghĩa bành trướng xâm lược.
Phật giáo vốn là một tôn giáo từ bi, hỉ xả - một triết thuyết giải thích
một cách sâu xa về cuộc sống con người, về căn nguyên nỗi khổ đau của họ
và chỉ ra cho con người một con đường cực kỳ vi diệu để tự giải phóng mình
khỏi nỗi khổ đau đó. Vì vậy, nguyên tắc chính được nêu ra là Tứ Thánh Đế,
còn gọi là Tứ Diệu Đế.
Khổ đế: Cõi đời là cảnh khổ, không những chỉ con người khổ mà vạn
vật đều khổ cả. Phật đã chỉ ra nỗi cực khổ vô hạn của đời: “Sinh là khổ, già là
khổ, không ưa mà hợp là khổ, ưa mà phải dời là khổ, muốn mà không được là
khổ, lưu luyến trong ngũ trọc là khổ”[1;254]. Nỗi khổ con người gồm “Bát
khổ”, đó là: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Oán tăng hội khổ, Ái biệt ly khổ, Cầu bất
đắc khổ, Ngũ uẩn xí hành khổ.
Tập đế: Cho rằng những nỗi khổ của con người đều do nhiều nguyên
nhân, tuy nhiên tựu chung lại gồm các nguyên nhân chính: Theo Phật giáo,
nguyên nhân thứ nhất là do “vô minh”, tức là sự mông muội, không thấu hiểu
lẽ sinh tử ở đời; còn chín nguyên nhân khác cùng với lão, bệnh, tử và các nỗi
khổ do sinh mà ra, gồm lại thành mười hai nguyên nhân, liên hệ mật thiết với
nhau, tức là Thập nhị nhân duyên. Thập nhị nhân duyên gồm:
1. Vô minh là sự u mê, mờ tối
2. Hành là tưởng – nghĩ và hành động, tức là tự buộc mình vào luân
hồi.
3. Thức là biết ta là ta, biết ta có thể hành động, tạo tác được.

17
4. Danh – sắc là ta có danh xưng và có hình thể.

5. Lục nhập là sáu giác quan, tức là tai, mắt, mũi, lưỡi, thân và ý (trí tuệ).
6. Xúc là nhờ có giác quan mà ta tiếp xúc với ngoại vật.
7. Thụ là chịu ảnh hưởng của ngoại cảnh.
8. Ái là yêu thích, mong muốn, có lòng tư dục.
9. Thủ là lấy, là quyến luyến với cuộc sống động.
10. Hữu là có ta sống trong thế gian.
11. Sinh là sinh ra trong nhân thế.
12. Lão, tử là già và chết.
Mười hai nguyên nhân trên có mối quan hệ mật thiết với nhau và là
nguyên nhân chính gây ra nỗi khổ cho con người. Có thể biểu hiện mối quan
hệ của Thập nhị nhân duyên theo sơ đồ sau:
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN












Hình 1: Sơ đồ mối quan hệ Thập Nhị Nhân duyên

Nhân

Nhân qúa khứ


Nhân hiện tại

18
Diệt đế: Cho rằng mọi nỗi khổ của con người hoàn toàn có thể tiêu
diệt được bằng cách diệt trừ những nguyên nhân, tức là diệt trừ “vô minh” và
“ái dục”.
Đạo đế: Con đường thoát khổ của con người. Phật giáo chỉ ra “Bát
chính đạo” – tám con đường thoát khổ: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ,
Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính định.
Tóm lại, về phương diện thực hành thì đạo Phật cũng trình bày nhiều
nguyên tắc. Nhưng xét ra, quan niệm đáng cho ta thấy lưu ý hơn cả có lẽ là
điều răn và sáu phép tu, mà nhà Phật gọi là Ngũ giới và Lục độ. Thực hành
theo đạo đế để diệt trừ những nguyên nhân gây đau khổ cho con người thì con
người được giải thoát và đạt đến Niết bàn. Niết bàn được hiểu là trạng thái
vẳng lặng, tịch diệt, con người sống an nhiên, tự tại, vô ngã, vị tha.
Với đạo Ki tô là một tôn giáo bình đẳng, bác ái, xuất hiện như là một
tôn giáo của những người nô lệ, họ cho rằng cuộc sống thế gian đầy rẫy tội ác,
họ luôn coi trọng lao động, chống ách áp bức, bóc lột và chống xâm lược,
chống bọn giàu có, nhưng họ tin và hy vọng sẽ được cứu vớt. Họ chờ đợi ở sự
phán quyết của Chúa và cho rằng đế quốc La Mã “mụ đàn bà khổng lồ đầy tội
lỗi” sẽ bị diệt vong, những tín đồ Ki tô sẽ được sung sướng trong vương quốc
của Chúa. Điều đó đã an ủi người nghèo khổ, điều mà những tôn giáo trước
đó mang tính chất quí tộc và là công cụ thống trị của Nhà nước, nô lệ không
thể làm được, bởi vậy mà tôn giáo này không phân biệt chủng tộc, và ai cũng
có thể phạm tội và cũng có thể sám hối. Cho nên Giáo lý Ki tô luôn khuyên
con người, làm điều lương thiện, tránh xa điều ác, tích đức hành thiện, thương
yêu con người, nhân ái, vị tha. Phạm vi của giáo lý Ki tô rất rộng, nhưng tựu
chung gồm một số vấn đề cơ bản sau:
Thiên Chúa luận: Nói về quan niệm độc thần, nguồn gốc vũ trụ và nhân
loại, bản chất và thuộc tính của Thiên Chúa, mối quan hệ giữa Thiên Chúa với

thế giới và con người.

19
Tam vị nhất thể: Nói về Thiên chúa ba ngôi, Chúa Cha- Chúa Con –
Chúa Thánh Thần.
Ki tô luận: Nói về Giê su Ki tô (hình 2) chính là “đạo thành nhục thân”,
tức là con một của Thiên Chúa giáng sinh để cứu đời, cứu người, luân lý
“Kính Chúa yêu người” của Ki tô.
Cứu chuộc luận: Nói về sự an bài, cứu độ của Thiên Chúa đối với con
người trần thế, sứ mệnh và vai trò cứu thế của Ki tô.
Thánh thần luận: Nói về vai trò của Thánh Thần khiến cho con người
“biết tội”, “hối tội”, “trở nên Thánh”, nhắc nhở tín đồ sống phải giữ mình
trong sạch.
Sáng thế luận: Nói về sự sinh thành của vũ trụ, nguồn gốc thế giới,
vạn vật.
Nhân tính luận: cũng gọi là “Nguyên tội luận”, nói về bản tính và vận
mệnh của con người, sự thất lạc của “hình tượng Thiên Chúa” và sự ra đời của
“nguyên tội”, ý chí, trách nhiệm, thăng hoa và trầm luân, sa đọa và cứu chuộc
của con người.
Mạt thế luận: Nói về ngày phán xét cuối cùng, ngày tận thế của thế
giới, ý nghĩa và sự khu biệt giữa Thiên đàng và Địa ngục, Luyện ngục, sự trở
lại của Ki tô và nghìn năm vui vẻ, hạnh phúc, kết cục của lịch sử và nơi quay
trở về cuối cùng của con người trần thế.
Giáo hội luận: Nói về tính chất và đặc trưng của Giáo hội, ý nghĩa tượng
trưng của Giáo hội với tư cách là nơi “trú ngụ của Thượng đế ở trần gian”.
Thờ phượng luận: Nói về tính chất và ý nghĩa của thờ phượng lễ nghi
như lễ Thánh Tẩy, lễ Thánh thể, địa vị và tính tất yếu của nó trong hoạt
động tín ngưỡng.
Ân sủng luận: Nói về ân sủng và nhân từ của Thiên Chúa, tình yêu
Thiên Chúa.

Thánh Mẫu luận: Nói về ý nghĩa của Maria, thân mẫu của Giê su.

20
Giáo lý Công giáo còn đề cập đến những chuẩn mực luân lý của con
người trong cuộc sống, điều này được thể hiện rõ trong mười điều răn của
chúa: 1. – Ngoài Thiên Chúa ra không được tin thờ bất cứ vị thần nào khác; 2
– Không được chế tạo và sùng bái ngẫu tượng; 3- Không được dùng danh
Thiên Chúa một cách bất xứng; 4- Hãy nhớ ngày sa – bát, và coi đó là ngày
thánh; 5- Hãy hiếu kính cha mẹ; 6- Không được giết người; 7- Không được
gian dâm; 8- Không được trộm cắp; 9- Không được làm chứng hại người; 10-
Không được ham muốn tài sản của người khác.
Có thể nói, những triết thuyết nói trên của tôn giáo đều là sản phẩm trí
tuệ của những con người xuất chúng, đạt tới một cấp độ chân lý, có sức thuyết
phục và hấp dẫn lớn đối với quảng đại quần chúng trên con đường tìm đến cõi
hạnh phúc trọn vẹn mà họ hằng ấp ủ, nên được ngưỡng mộ, tôn quý, coi đó là
những điều giáo huấn cao quý, là chỗ nương tựa cho đời sống tâm linh và tinh
thần. Do đó, có tên gọi là “tôn giáo” (theo ngữ Hán - Việt là những điều giáo
huấn tôn quý). Và như vậy, đặc trưng nổi bật của “tôn giáo” là cung cấp cho
con người một con đường (Đạo) để tự mình vận dụng đặng đạt tới đích mong
muốn. Cũng từ nhận thức đó mà trong Báo Cứu quốc, số 14 và 15 tháng 1
năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Đức Chúa hy sinh vì nhân
loại. Người đã vì loài người mà hy sinh phấn đấu, còn chúng ta thì chúng ta
hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Trong Công giáo có câu “Vạn chúng nhất
tâm”, nên chúng ta phải hy sinh cho nhân loại và chúng sinh”.
Hay: “Chúa Giê su dạy: Đạo đức là bác ái
Phật Thích ca dạy: Đạo đức là từ bi”[57;225].
Tôn giáo là một thành tố của văn hóa tinh thần nên đối với người Việt
Nam, đạo nào cũng được coi trọng, miễn là giáo lý không đi ngược lại đạo
đức căn bản của dân tộc, trái với thuần phong mỹ tục của nhân dân, không
phản lại lợi ích của cộng đồng, của đất nước.


21
Tính bao dung trong tôn giáo, tư tưởng tự do tôn giáo thuộc nếp nghĩ,
nếp sống bình thường của người Việt Nam, là cơ sở của sự đoàn kết tôn giáo
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Đúng như vậy, lịch sử đã chứng minh xu hướng chủ yếu của các tôn
giáo ở nước ta là hướng về dân tộc, gắn bó với đất nước. Xét cho cùng thì
giữa các giáo lý và truyền thống yêu nước, thương nòi của Việt Nam không có
mâu thuẫn mà hỗ trợ nhau. Đối với Phật tử Việt Nam không có sự khiêm
cưỡng giữa đạo Phật và dân tộc, cũng giống như đối với Công giáo thì kính
Chúa yêu nước là thuận lý.
Chính vì sự tương đồng trong tư tưởng như vậy, nên khi tôn giáo (Phật
giáo, Công giáo) du nhập vào Việt Nam đã được người Việt chấp nhận. Bởi
vậy, hai tôn giáo này đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn hóa tinh thần
của người Việt trên nhiều bình diện như: tâm linh, tín ngưỡng; phong tục
truyền thống và văn học nghệ thuật mà trong phần hai luận văn chúng tôi sẽ
trình bày.
1.1.2. Vài nét về tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia nằm giữa ngã ba của Đông Nam châu Á. Do
đặc điểm địa lý tự nhiên, lịch sử và văn hóa nên các tôn giáo ở Việt Nam rất
đa dạng và phong phú. Ở Việt Nam tồn tại hầu hết các tôn giáo mang tính toàn
cầu hay khu vực. Các tôn giáo được Nhà nước thừa nhận đó là: đạo Phật, đạo
Công giáo, đạo Hồi, đạo Tin Lành, đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, đạo
B’hai. Ngoài ra, còn một số tôn giáo khác hiện cũng đang tồn tại như: Tịnh độ
Cư sĩ Phật hội, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương…và một số hệ phái
Tin Lành đang hoạt động bình thường. Có thể khái quát về tình hình tôn giáo
ở nước ta như sau:
Về số lượng tín đồ: tính đến năm 2007, nước ta có tổng số tín đồ các
tôn giáo là 23 triệu. Trong đó, Phật giáo gần 10 triệu, Công giáo 5,9 triệu, Tin
Lành gần 1 triệu và Hồi giáo 67 nghìn tín đồ, Cao Đài 3,2 triệu, Phật giáo Hòa

×