Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Quan niệm về hôn nhân và gia đình trong kinh Qur’an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 120 trang )

Hà Nội - 2010Hà Nội - 2010
Quan niệm về hôn nhân và gia đình
trong kinh quran
Quan niệm về hôn nhân và gia đình
trong
kinh quran
Luận văn thạc sỹ triết họcLuận văn thạc sỹ triết học
Vũ văn chungVũ văn chung
đạI học quốc gia hà nội
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN
đạI học quốc gia hà nội
TRNG I
HC KHOA HC X HI V NHN VN
Vũ văn chung luận văn thạc sỹ triết học hà nội 2010Vũ văn chung luận văn thạc sỹ triết học hà nội 2010
Hà Nội - 2010Hà Nội - 2010
Luận văn thạc sỹ triết họcLuận văn thạc sỹ triết học
đạI học quốc gia hà nội
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN
đạI học quốc gia hà nội
TRNG I
HC KHOA HC X HI V NHN VN
Chuyên ngành
Mã số
Chuyên ngành

số
: Tôn giáo học
: 60.22.90
: Tôn giáo học
:
60.22.90


Ngi hng dn khoa hc:
TS. Trần thị kim oanh
Ngi hng dn khoa hc:
TS.
Trần thị kim oanh
Quan niệm về hôn nhân và gia đình
trong kinh quran
Quan niệm về hôn nhân và gia đình
trong
kinh quran
Vũ văn chungVũ văn chung
Hà Nội - 2010Hà Nội - 2010
Luận văn thạc sỹ triết họcLuận văn thạc sỹ triết học
Chuyên ngành
Mã số
Chuyên ngành

số
: Tôn giáo học
: 60.22.90
: Tôn giáo học
:
60.22.90
Quan niệm về hôn nhân và gia đình
trong kinh quran
Quan niệm về hôn nhân và gia đình
trong
kinh quran
Vũ văn chungVũ văn chung




110
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5
6. Đóng góp của luận văn 6
7. Ý nghĩa của luận văn 6
8. Kết cấu của luận văn 6
Chương 1: KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ KINH QUR’AN 7
1.1. Nguồn gốc kinh Qur’an 7
1.1.1. Bối cảnh ra đời 10
1.1.2. Vai trò của Muhammad 19
1.2. Vai trò của kinh Qur’an đối với Muslim 27
1.2.1. Nội dung cơ bản của kinh Qur’an 27
1.2.2. Kinh Qur’an trong đời sống Muslim 39
Chương 2: VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG KINH QUR’AN 47
2.1. Vấn đề hôn nhân trong kinh Qur’an 47
2.1.1. Kết hôn 47
2.1.2. Ly hôn 56
2.2. Vấn đề gia đình trong kinh Qur’an 64
2.2.1. Mối quan hệ vợ - chồng 70
2.2.2. Mối quan hệ giữa cha, mẹ và các con. 76
2.3. Ảnh hưởng quan niệm hôn nhân, gia đình trong kinh Qur’an đối
với hôn nhân và gia đình người theo đạo Islam ở Việt Nam 85

KẾT LUẬN 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101




1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Islam là một tôn giáo lớn ra đời trên bán đảo Ả rập, trong quá trình
truyền đạo và phát triển đã lan rộng trên phạm vi toàn thế giới, đến Đông
Nam Á và Việt Nam.
Tình hình thế giới Islam trong thời gian gần đây đã thu hút sự quan
tâm, chú ý của nhiều quốc gia, cũng như của nhiều nhà nghiên cứu dưới
các khía cạnh khác nhau. Đặc biệt với nước ta, trong bối cảnh hiện nay, tôn
giáo nói chung, Islam giáo nói riêng có ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu sắc tới
mọi mặt của đời sống văn hóa, xã hội. Văn kiện Hội nghị lần thứ V, Ban
chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa VIII, phần những
nhiệm vụ cụ thể, Điểm 8: Chính sách văn hóa đối với tôn giáo khẳng định:
“Khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện trong tôn giáo, đồng
thời tuyên truyền giáo dục khắc phục tệ mê tín dị đoan; chống việc lợi dụng
tôn giáo thực hiện ý đồ chính trị xấu”[26;66-67]. Tại điều 5 Pháp lệnh tín
ngưỡng tôn giáo của Đảng cũng cho rằng: Tôn trọng giá trị văn hóa, đạo
đức tôn giáo
Ở nước ta, hiện nay số lượng tín đồ theo đạo Islam có khoảng
70.000 người trong đó số tín đồ là người Chăm đã chiếm khoảng trên
64.000 người[44;32], tập trung chủ yếu ở vùng Nam Trung Bộ, Đông
Nam Bộ, Tây Nam Bộ, các tỉnh khác tuy có nhưng rất ít. Song những ảnh
hưởng của Islam đối với đời sống văn hóa, xã hội, với mỗi gia đình người

theo đạo Islam ở Việt Nam là không nhỏ. Sự ảnh hưởng không chỉ dừng
lại trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức mà còn thấm sâu, hòa quyện trong
quan niệm, tập tục hôn nhân và gia đình truyền thống người theo đạo
Islam ở Việt Nam.



2
Gia đình là tế bào cơ sở của mọi xã hội, đóng vai trò chủ đạo trong
tái tạo, bảo tồn và duy trì nòi giống cũng như là cơ sở tiên quyết để gìn giữ,
truyền dạy, bảo lưu văn hóa truyền thống. Đặc điểm nổi trội của hôn nhân
và gia đình là tính bảo lưu lâu dài những yếu tố được định hình từ quá khứ,
biểu hiện ra bằng những tập tục, mối quan hệ huyết tộc
Trong quá trình lịch sử, mọi gia đình không chỉ chịu ảnh hưởng bởi
những giá trị truyền thống lâu đời của gia tộc, dòng họ và truyền thống dân
tộc mà còn chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các hệ tư tưởng tôn giáo mà họ tin
theo. Hệ tư tưởng tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn, thậm chí chi phối đời sống
hôn nhân và gia đình của các tín đồ. Giáo lý, kinh sách tôn giáo coi vấn đề
hôn nhân và gia đình như một vấn đề trọng yếu, chính là nền tảng cốt lõi để
phát triển đạo, mở rộng cộng đồng tín đồ của mình.
Nếu đối với mỗi xã hội, hạt nhân của nó là gia đình, như Hồ Chủ
Tịch từng nói trong Hội nghị dự thảo luật hôn nhân gia đình, ngày 10 tháng
10 năm 1959: "Xã hội tốt thì gia đình càng tốt/ Gia đình tốt thì xã hội mới
tốt/ Hạt nhân của xã hội là gia đình", thì đối với mỗi tôn giáo, gia đình là
cũng chính là "cái gốc", là "hạt nhân" của tôn giáo.
Không chỉ với Công giáo trong giáo lý và đặc biệt là kinh Thánh
nhấn mạnh, quan tâm sâu sắc tới vấn đề hôn nhân và gia đình, mà Islam
cũng rất coi trọng vấn đề hôn nhân gia đình, coi đó như là một "chiến lược"
để phát triển đạo, củng cố, giáo dục đức tin. Điều này được nhắc đến nhiều
lần trong kinh Qur'an.

Mọi nếp sống tinh thần và vật chất của tín đồ Islam đều được quy
định trong kinh Qur'an. Do đó, Qur'an không chỉ là một quyển Phúc Âm
mà còn là một bộ luật để áp dụng trong hôn nhân, gia đình và xã hội. Theo
tin tưởng của người Islam, Qur'an không phải là một tác phẩm do con
người sáng tạo ra, vì Qur'an biểu hiện tư tưởng của Đấng Cao Cả đã có từ
thiên niên vạn kỷ, do Thượng Đế - tức Allah tư tưởng và đã tư tưởng dưới
hình thức ngôn ngữ Ả rập, lấy Muhammad làm trung gian để truyền chuyển
cho nhân loại.



3
Tìm hiểu “Quan niệm về hôn nhân và gia đình trong kinh Qur’an”
không chỉ mang lại một cách nhìn nhận, đánh giá khách quan hơn về tư
tưởng của Kinh Qur’an trong các quan niệm về thế giới, con người và xã
hội,… nhất là vấn đề hôn nhân và gia đình. Gia đình Muslim vốn là một
vấn đề luôn được sự quan tâm nghiên cứu không chỉ đối với thế giới Islam
mà có tính chất nhân loại, toàn cầu. Đặc biệt, trong xã hội ngày nay, việc
đấu tranh về giới và chống bạo lực giới, đòi sự bình đẳng về giới trong các
gia đình Muslim đang là vấn đề thời sự nóng bỏng.
Do đó, nghiên cứu về quan niệm hôn nhân và gia đình trong kinh
Qur’an dưới góc độ tiếp cận của Tôn giáo học để phân tích, làm sáng tỏ
những giá trị văn hóa, đạo đức gia đình, đồng thời liên hệ với thực tiễn hôn
nhân gia đình của người theo đạo Islam ở Việt Nam, là hữu ích, theo đúng
tinh thần của Đảng ta trong Nghị quyết Đại hội X khẳng định: "Xây dựng
gia đình ấm no, bình đẳng tiến bộ, hạnh phúc thực sự là tổ ấm của mỗi
người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành,
nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa
truyền thống tốt đẹp"[28;103-104].
2. Tình hình nghiên cứu

Islam là một tôn giáo lớn trên thế giới luôn thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều quốc gia, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước
dưới những khía cạnh tiếp cận khác nhau.
Có thể kể đến các tác giả nước ngoài tiêu biểu như: Dominique
Sourel với “Hồi giáo” (Do Mai Anh, Thi Hoa, Thu Thủy, Thanh Vân dịch),
Nxb. Thế giới, Hà Nội, năm 2002; Jamal J.Elias với tác phẩm “Islam” và
“Vấn đề giáo phái trong Islam giáo”, Nxb.Routledge Publisher, USA, năm
1999; Trevor Ling Owen Cole, Peggy Morgan với “Six Rilegions in the
Twenty First Century”, Nxb. Stanley Thornes Publisher, England, năm
2000; Will Durant với “Lịch sử văn minh Ả rập”, Nxb Văn hóa thông tin,



4
Hà Nội, 2004… Nhìn chung, các công trình này đều nghiên cứu về nguồn
gốc ra đời, lịch sử truyền bá, sự phân chia các giáo phái, quá trình phát
triển của đạo Islam trên thế giới.
Các tác giả trong nước nghiên cứu về Islam, Hồi giáo Việt Nam, vai
trò của Hồi giáo đối với văn hóa, như: Nguyễn Văn Luận với “Người Chăm
Hồi giáo miền Tây Nam phần Việt Nam”, Tủ sách biên khảo, Nxb. Bộ văn
hóa giáo dục và Thanh Niên, năm 1974; Nguyễn Đức, Thế Trường, Lê Yên
với “Islam Hồi giáo”, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, năm 2002; Nguyễn
Thọ Nhân với “Đạo Hồi và thế giới Ả rập”, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2004; Nguyễn Hồng Dương với “Một số vấn đề cơ bản về tôn giáo, tín
ngưỡng của đồng bào Chăm ở hai tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận hiện nay",
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2007… Những công trình này nghiên
cứu về lịch sử hình thành và phát triển của đạo Islam, những giáo lý, giáo
luật, lễ nghi của đạo Islam và cũng đề cập ít nhiều đến cộng đồng tín đồ
Islam ở Việt Nam, sự ảnh hưởng của đạo Islam trong đời sống sinh hoạt văn
hóa, tín ngưỡng của người theo đạo Islam ở Việt Nam.

Ngoài ra còn có một số bài báo, tạp chí cũng nghiên cứu vấn đề này:
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, Tạp chí Công tác Tôn giáo, Tạp chí Triết
học, Tạp chí Dân tộc học,….Trong đó có các bài báo tiêu biểu như “Đạo
Hồi với người Chăm ở Việt Nam” của Lương Ninh, Tạp chí nghiên cứu
Lịch sử, số 1, năm 1999; Lương Thị Thoa với “Thử tìm hiểu một vài nét
đặc trưng của đạo Hồi”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5, năm 2001;
Ngô Văn Doanh với “Islam giáo và văn hóa Đông Nam Á thời cận hiện
đại”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 12, năm 2008; Nguyễn Văn Dũng
với “Một số vấn đề của Islam giáo trong đời sống xã hội hiện đại”, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, số 3, năm 2005…
Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, các công trình nghiên cứu
trên chủ yếu về: nguồn gốc ra đời, giáo lý, lịch sử phát triển, sự truyền bá
Islam trên thế giới và Việt Nam, sự hội nhập văn hóa mà chưa có một công



5
trình nào tìm hiểu “Quan niệm về hôn nhân và gia đình trong kinh
Qur’an”, đây là lần đầu tiên vấn đề này được đặt ra xem xét.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu quan niệm hôn nhân và gia đình
trong kinh Qur’an, phân tích, chỉ ra những giá trị tích cực và điểm chưa phù
hợp của quan niệm này. Trên cơ sở đó liên hệ với hôn nhân, gia đình người
theo đạo Islam Việt Nam, dự đoán xu hướng và đề xuất một số khuyến
nghị phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trong hôn nhân gia đình
người theo đạo Islam ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực thực hiện mục đích trên, luận
văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất: Trình bày khái lược chung về kinh Qur’an.
Thứ hai: Phân tích quan niệm hôn nhân và gia đình trong kinh

Qur’an, đồng thời liên hệ với hôn nhân và gia đình người theo đạo Islam ở
Việt Nam, dự đoán xu hướng biến đổi và đề xuất một số khuyến nghị phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống trong hôn nhân gia đình người theo
đạo Islam ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm hôn nhân và gia đình
trong kinh Qur’an.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Một số vấn đề cụ thể trong quan niệm hôn
nhân và gia đình: Quan niệm kết hôn, ly hôn; Mối quan hệ vợ- chồng; Quan
hệ giữa cha mẹ và các con; liên hệ với hôn nhân gia đình người theo đạo
Islam ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn đựơc xây dựng trên cơ sở vận dụng
quan điểm mác xít về tôn giáo, bản chất, vai trò, chức năng xã hội của
tôn giáo.



6
Luận văn cũng tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước về đạo Islam, kinh Qur’an.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp của
Tôn giáo học và Triết học, phương pháp lôgíc lịch sử, phân tích, tổng hợp,
đối chiếu và so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn tìm hiểu, phân tích một số vấn đề cụ thể về quan niệm hôn
nhân gia đình trong kinh Qur’an như: kết hôn, ly hôn, mối quan hệ vợ -
chồng, quan hệ cha, mẹ - con cái. Chỉ ra những hạt nhân hợp lý, giá trị tích
cực và điểm chưa phù hợp của những quan niệm ấy trong đời sống nhân
loại hiện nay nói chung, đặc biệt hôn nhân gia đình các tín đồ theo đạo

Islam nói riêng. Liên hệ với hôn nhân gia đình người theo đạo Islam ở Việt
Nam và đưa ra một số dự đoán xu hướng biến đổi, đề xuất phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống trong hôn nhân gia đình người theo đạo Islam
ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu, phân tích và
làm sáng tỏ quan niệm hôn nhân và gia đình trong kinh Qur’an.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào
nhận thức và ứng xử phù hợp hơn với cộng đồng Islam giáo, có thể làm
tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về tôn giáo nói
chung và Islam, cho việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo của Đảng
và Nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục
lục, nội dung chính của luận văn gồm 02 chương 05 tiết.



7
Chương 1:
KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ KINH QUR’AN

1.1. Nguồn gốc kinh Qur’an
Khi nghiên cứu nguồn gốc, nội dung tư tưởng kinh sách tôn giáo, xét
về mặt kết cấu tôn giáo, theo tôn giáo học mác xít, kinh sách phản ánh hệ
tư tưởng tôn giáo. Hơn nữa, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một
hình thức phản ánh đặc biệt thế giới hiện thực, nên khi nhận định về tôn
giáo phải xem xét nó như một kết cấu của xã hội, một hiện tượng kiến trúc
thượng tầng của xã hội có giai cấp. Tôn giáo hiện đại xuất hiện trong xã hội
có giai cấp, bao gồm ba yếu tố cơ bản: ý thức tôn giáo, sự thờ cúng tôn giáo

và tổ chức tôn giáo. Trong đó ý thức tôn giáo là yếu tố quan trọng nhất. Ý
thức tôn giáo phản ánh toàn bộ tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo. Bộ
phận trung tâm, hạt nhân của hệ tư tưởng tôn giáo chính là thần học. Thần
học có vai trò quan trọng, là nhân tố để củng cố và duy trì đức tin tôn giáo.
Nếu thần học bị lợi dụng để vào mục đích nào đó, sẽ làm nó “méo mó, biến
dạng” cái “bản chất” vốn có của tôn giáo. Nhận định về điều này, khi phê
phán những quan niệm về tôn giáo, C.Mác cho rằng: “Người ta xuất phát từ
tôn giáo chính cống và từ thần học chính cống. Cái mà trước kia người ta
coi là ý thức tôn giáo, là quan niệm tôn giáo thì sau này lại được quy định
theo nhiều cách khác nhau. Toàn bộ bước tiến là ở chỗ những quan niệm
siêu hình, quan niệm chính trị, quan niệm pháp luật, quan niệm đạo đức và
những quan niệm khác mà người ta cho là những quan niệm thống trị, đều
được liệt vào những quan niệm tôn giáo hay thần học; cũng như ở chỗ
người ta tuyên bố rằng ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức, ý
thức tôn giáo hay ý thức thần học, rằng con người chính trị, con người pháp
luật, con người đạo đức – xét cho cùng “con người nói chung” – là con
người tôn giáo”[52;26-27]. Ngược lại, thần học cũng có thể làm “biến



8
dạng” tôn giáo khi nó trở thành “bà đỡ” cho chính trị. Trong kết cấu tôn
giáo, tâm lý tôn giáo, sự thờ cúng tôn giáo, tổ chức tôn giáo là những yếu
tố có thể biến đổi, duy chỉ có ý thức hệ tôn giáo là không thể thay đổi, mà
kinh sách của các tôn giáo chứa đựng những tư tưởng ý thức hệ tôn giáo là
“bất di bất dịch”, kinh sách của tôn giáo đóng vai trò quan trọng đối với
việc củng cố đức tin, duy trì đức tin và thực hành đức tin. Những tư tưởng
thần học trong kinh sách tôn giáo phản ánh lý tưởng của chính tôn giáo ấy,
mục đích mà nó hướng tới. Tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể của
sự hình thành và phát triển của mỗi tôn giáo mà kết cấu, nội dung của thần

học có thể khác nhau, song bất kỳ một hệ thống thần học nào cũng đặt cho
mình nhiệm vụ chứng minh sự tồn tại của cái siêu nhiên thần thánh, lập luận
cho tính đúng đắn của giáo lý, sự linh thiêng của kinh thánh, của những điều
răn dạy về đạo đức, lễ nghi tôn giáo.
Nếu xét dưới góc độ văn hóa thì kinh sách tôn giáo là di sản văn hóa
quý báu của loài người. Nội dung kinh sách phản ánh nhân sinh quan, thế
giới quan tôn giáo. Đối với mỗi tôn giáo, kinh sách được coi là bộ phận
quan trọng nhất để thực hành giáo lý và đức tin. Kinh sách tôn giáo là sản
phẩn sáng tạo tuyệt vời của bộ óc con người, những tư tưởng trong Kinh
sách tôn giáo đều có nguồn gốc hiện thực của nó, từ những tiền đề vật chất
hiện thực. C.Mác cũng cho rằng: “sự sản xuất ra những ý niệm, những quan
niệm và ý thức thì lúc đầu trực tiếp gắn liền mật thiết với hoạt động vật
chất và với sự giao tiếp vật chất của con người – ngôn ngữ của đời sống
hiện thực. Ở đây, những quan niệm, tư duy, sự giao tiếp tinh thần của con
người xuất hiện ra còn là sản phẩm trực tiếp của những quan hệ vật chất
của họ. Đối với sự sản xuất tinh thần, đúng như nó biểu hiện trong ngôn
ngữ của chính trị, của pháp luật, của đạo đức, của tôn giáo, của siêu hình
học v.v trong một dân tộc cũng thế…Ý thức không bao giờ có thể là cái gì
khác hơn là sự tồn tại được ý thức và tồn tại của con người là quá trình đời
sống hiện thực của con người”[52;37].



9
Như vậy, tôn giáo là sản phẩm sáng tạo tinh thần của con người, là
sản phẩm của sự “tồn tại được ý thức” của con người trong đời sống hiện
thực. Hệ tư tưởng tôn giáo, kinh sách tôn giáo cũng đều bắt nguồn từ
những “cội rễ” của đời sống hiện thực, của quá trình hoạt động thực tiễn
của con người. Không nằm ngoài quy luật đó, Kinh sách của mỗi tôn giáo
hình thành không chỉ là sản phẩm hoạt động tinh thần của con người, nhu

cầu truyền bá tư tưởng giáo thuyết tôn giáo mà bắt nguồn từ chính những
tiền đề kinh tế xã hội, từ tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất
định mà tôn giáo đó ra đời. Kinh sách của tôn giáo vừa là sản phẩn sáng tạo
của bộ óc con người, vừa là sự kế thừa những thành quả của nền văn hóa
mà nó ra đời đồng thời cũng là sự tiếp thu ảnh hưởng của những nền văn
hóa khác, của những tôn giáo trước nó. Ví như, Phật giáo là một tôn giáo
lớn, với hệ thống kinh sách đồ sộ “thiên kinh vạn quyển”. Kinh điển Phật
giáo chịu ảnh hưởng của chính hệ ngôn ngữ, văn hóa mà nó truyền thừa.
Nếu như kinh điển của Phật giáo Nguyên thủy ở Ấn Độ, phần nhiều chịu
ảnh hưởng trực tiếp của nền văn hóa tiền Vedda và Vedda, ảnh hưởng của
tư tưởng kinh Vedda, tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại và Upanissad, Bà la
môn. Thì kinh điển của các tông phái Phật giáo truyền thừa ở Tây Tạng lại
vừa có sự kế thừa của kinh điển Phật giáo Nguyên thủy, đồng thời chịu ảnh
hưởng của ngôn ngữ, văn hóa Tây Tạng… Hay, Thánh kinh của Ki tô là
sản phẩm của văn hóa La Mã, phản ánh những giá trị văn hóa La Mã và
chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại, tư tưởng của đạo Do
Thái. Với Islam thì kinh Qur’an (Hình 1) ra đời trên bán đảo Ả rập là sản
phẩm của nền văn hóa Ả rập, phản ánh những giá trị văn hóa trên bán đảo
Ả rập, ảnh hưởng bởi những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, tín ngưỡng
của bán đảo Ả rập. Đối với người Muslim, kinh Qur’an được thiêng liêng
hóa, coi là chân lý, trong đó có những điều răn dạy về giáo lý, luật lệ, lễ
nghi, sự thờ phụng, cách thức hành đạo, điều kiện nhập đạo, mối quan hệ
gia đình, xã hội, đồng đạo, các nguyên tắc cư xử…tất cả việc “đạo” và



10
“đời”. Kinh Qur’an thường được lấy làm chuẩn mực cho tất cả, được lấy để
giải quyết mâu thuẫn trong phiên tòa, trong sự tranh chấp, xô xát.
1.1.1. Bối cảnh ra đời

Kinh Qur’an, theo cách chuyển biên thông thường và trong ngữ
nghĩa mà chúng ta thường hay dùng, thì đó chính là kinh Thánh của cộng
đồng Islam. Nó hàm chứa những mặc khải bằng tiếng Ả rập mà chính
Thượng Đế Allah thỉnh thoảng gửi qua thiên thần Gabriel xuống cho sứ giả
của Ngài là Muhammed từ năm 610 trước Công Nguyên cho đến khi ông
mất vào năm 632 trước Công Nguyên, thời kỳ này cũng chính là những
năm mà cộng đoàn Islam đầu tiên được thành hình.
Nếu xét về mặt ngữ nghĩa, khi từ “Qur’an” được sử dụng trong các
bản văn, thì nó có nghĩa là “đọc” hay “suy ngẫm lại” những điều mà
Thượng Đế đã khắc trong trong tim của Muhammad, truyền lệnh cho ông
hãy đọc và rao giảng cho muôn dân. Chính vì thế, theo nguyên bản, thì
kinh Qur’an chính là một bản “kinh Thánh” đọc bằng miệng và cho đến
ngày nay chúng ta vẫn thường nghe kinh ấy được trình bày dưới dạng ca
ngâm có nhịp điệu.
Một khoảng thời gian ngắn sau cái chết của Muhammed, những
người Islam tiên khởi đã thu thập các bản văn về những lời mạc khải được
nhớ lại bởi những người bạn đồng hành với vị sứ giả Muhammed và từ một
số bản viết tay của họ, để rồi, họ gom góp và hệ thống hóa thành kinh
Thánh, như là những ấn bản chuẩn mà chúng ta có được ngày nay. Kinh
Qur’an gồm có các đoạn thơ, được mô tả như là “những dấu chỉ” phi
thường từ Thượng Đế, và được sắp xếp thành 114 thiên Sura hay chương,
mỗi chương có một tên riêng, được lấy trong từ ngữ chính của bản văn.
Xét về mặt nhận thức, người Islam nghĩ về kinh Qur’an cũng giống
như một thông điệp được trình bày bằng tiếng Ả rập mà Thiên Chúa trước
kia đã truyền phán tại Torah, qua trung gian của Mosê, giống hệt như Phúc
Âm là qua chính Chúa Giêsu.



11

Kinh Qur’an được hình thành cùng với quá trình hình thành đạo
Islam trong buổi đầu sơ khai, gắn liền với bối cảnh kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội và tín ngưỡng tôn giáo trên bán đảo Ả rập.
Ảrập là một bán đảo lớn ở Tây Nam châu Á, tiếp giáp giữa ba châu:
châu Á, châu Âu và châu Phi, lại nằm trên con đường giao lưu quốc tế nối
các trung tâm văn hóa cổ kính của thế giới về cả đường bộ và đường thủy
nên từ lâu Ảrập đã có một nền văn hóa khá đặc biệt và giữ một vai trò quan
trọng trong văn minh thế giới.
Về phương diện địa lý, Ảrập là một cao nguyên đá hoa cương hơi
nghiêng về phía vịnh Ba Tư, được bao quanh bởi những dãy núi không cao.
Khí hậu vùng này rất nóng, ít mưa, về phương Nam có gió mùa nên đời
sống dễ chịu hơn. Bởi thế, có người ví Ảrập như một lò lửa khổng lồ, là nơi
xuất phát những tôn giáo làm dịu lòng nhân thế nhưng âm ỉ thiêu đốt đám dân
nghèo khó.
Thời thượng cổ người ta chỉ biết nhiều đến vùng bờ biển phía Tây từ
Hồng Hải tới cao nguyên Nedjed, từ bán đảo Sinai đến phía Nam thành phố
Mecca - chính ở vùng này Islam đã ra đời và là bàn đạp để truyền đạo tới
cả ba Châu tiếp giáp.
Về phía Nam có một số xứ như Yemen, Hađramut, Oman, Bhreim
nhưng dân cư còn thưa thớt.
Dân chúng Ảrập thường tập trung trong các vùng núi non (ở đó
tương đối phì nhiêu hơn) và các ốc đảo chính ở miền Taif, Tabuouk,
Taima, El Ola, Kaiba…Các thành phố chính là Mecca và Medina.
Về phương diện nhân văn, dân Ảrập chia làm hai nhóm có nguồn
gốc và nếp sống khác hẳn nhau. Hai nhóm này thường kình địch nhau từ
đời này qua đời khác.
Ở miền Nam, dân thuộc dòng Yémenites con cháu của Quahtan gồm
các người Laklm, Kinda, Ghassan… Dân dòng này từ lâu đã biết định cư




12
một chỗ, không sống du mục như những dòng khác. Họ cũng có lịch sử văn
minh khá cao.
Vương quốc Menéen, Vương quốc Saba, Vương quốc Hymyarites
đều là những vương quốc lừng lẫy tiếng tăm từ thế kỷ IX trước Công
Nguyên đến thế kỷ II đều thuộc dòng Yémenites con cháu của Quahtan.
Ở miền Bắc dân thuộc dòng Nizarites (hay maaddites) vốn là con
cháu của Islamael, gồm các bộ lạc Quais và Quraich.
Vùng này tương đối chậm tiến hơn miền Nam, dân đều là người du
mục sống lang thang với những đàn lạc đà và cừu ngay ở giữa vùng sa mạc.
Hai bộ lạc này vào thế kỷ thứ II bị triều đại Himyrites xâm lăng, sau khi triều
đại này đổ, hai bộ lạc trên hợp thành một nước cộng hòa thương mại đã có
thời giữ độc quyền về mậu dịch giữa Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương.
Tuy giữa hai dòng Nam và Bắc luôn luôn có sự tương tranh nhưng
về phương diện ngôn ngữ, sinh hoạt kinh tế đều đồng nhất.
Người Ảrập theo chế độ đa thê. Tùy vào sự giàu nghèo, mà họ có
một số vợ và nàng hầu khác nhau. Đàn ông có thể bỏ vợ một cách dễ dàng
hay đem bán vợ như những người nô lệ. Xã hội Ảrập rất khinh rẻ đàn bà,
nên họ thường có tục chôn bé gái ngay từ lúc sơ sinh. Có lẽ họ cho rằng sự
hiện diện của một đứa con gái trong nhà là một cái nhục.
Về phương diện xã hội: Kinh Qur’an và đạo Islam ra đời trong bối
cảnh lịch sử xã hội trên bán đảo Ả rập có bước ngoặt lớn, trình độ phát
triển xã hội của các khu vực không đồng đều. Vùng phía Nam bán đảo Ả
rập có điều kiện tự nhiên và khí hậu tương đối thích nghi với sản xuất nông
nghiệp. Yêmen được gọi là “mảnh đất giàu có của Ả rập”, từ thời xa xưa
khoảng 1000 đến 2000 năm trước Công nguyên đã có nền văn minh tương
đối phát triển. Người Mina, người Xapôích và người Ximuê đều trải qua
các vương triều của chế độ nô lệ, bị suy yếu trước khi Islam và kinh Qur’an
ra đời, các vương quốc không còn tồn tại nữa phần lớn đã chuyển đi nơi




13
khác. Ở phương Bắc đã từng xuất hiện một số tiểu vương quốc Ả rập,
nhưng sau đó đã trở thành phiên thuộc của đế quốc Bygiăng tin và đế quốc
Ba Tư ở bên cạnh. Khu vực miền Trung của bán đảo, trình độ xã hội còn
kém xa khu vực miền Nam và miền Bắc, lấy nền kinh tế chăn nuôi làm cơ
sở, dân du mục (người Pêtuin), nghề nông nghiệp của vùng này tương đối
nguyên thủy. Do Ả rập nằm sát đường giao thông quan trọng giữa ba châu
Âu, Á, Phi; đường thông thương chủ yếu đi qua toàn bán đảo, các thành
phố như Mecca, Yasưlipu.v.v… theo đà phát triển, mậu dịch và thương
nghiệp trong thành phố cũng được phát triển. Nhìn chung, vùng đất Trung
Bộ đang trong quá trình tan rã nhanh chóng của xã hội theo chế độ thị tộc,
xã hội có giai cấp đang dần hình thành, nhưng diễn ra tương đối chậm ở
các vùng thảo nguyên và sa mạc.
Trong số những cư dân thành thị Mecca, do sự phát triển của thương
nghiệp đã xuất hiện sự phân hóa tài sản: Một cực tầng lớp quý tộc giàu có
quản lý nhiều nô lệ, gia súc và tài sản; còn cực kia là tầng lớp bần nông và
nô lệ nghèo khổ, mất hết sự bảo hộ hữu hiệu của bộ lạc. Các thành viên
trong nội bộ thị tộc dựa vào quan hệ huyết thống để duy trì sự liên hệ, sống
tập trung trong từng khu vực. Chức trách chủ yếu của các thủ lĩnh bộ tộc là
duy trì, bảo đảm an toàn và đoàn kết trong bộ tộc, nhưng không có quyền
hành chính. Giữa những bộ lạc thị tộc, bộ lạc du mục và những cư dân định
cư làm nghề buôn bán vì tranh giành bãi cỏ, đầm nước, gia súc, đường sá,
hàng hóa và của cải nên thường xảy ra chiến tranh, tàn sát lẫn nhau; cưỡng
hiếp và cướp đoạt trở thành hành vi bình thường trong cuộc sống, sự trả thù
cho những người cùng huyết thống trở thành một phong tục tập quán.
Trong lịch sử từng xảy ra những việc như: hai bộ tộc chỉ vì để đạt mục tiêu
trong một cuộc đua ngựa đã gây ra tranh chấp trong vòng mấy chục năm.

Hai đế quốc lớn Bygiăngtin và Ba Tư kề gần phía Bắc bán đảo Ả
rập, vì tranh giành và khống chế con đường buôn bán của Ả rập, đã tiến
hành cuộc chiến tranh kéo dài mấy trăm năm. Năm 525, người Aixaơpia



14
được Bygiăngtin ủng hộ đã đem quân xâm lược Yêmen và thống trị Yêmen
suốt nửa thế kỷ. Thêm vào đó là nạn lũ lụt từ trên núi đổ xuống làm cho các
công trình tưới tiêu bị phá hủy, nông nghiệp điêu tàn, nhiều bộ lạc phải di
cư lên phía Bắc, con đường buôn bán bị ngừng trệ, vùng đất Yêmen phồn
vinh nhanh chóng bị suy yếu. Năm 570, tổng đốc Yapulaca của Aixaơpia
đóng tại Yêmen đem quân tiến đánh Mecca, giữa đường bị bệnh ôn dịch
nên phải rút quân, cuộc chiến loạn đã tiến thêm một bước phá hủy cuộc
sống nơi đây. Năm 575, Ba Tư xuất quân đánh đuổi người Aixaơpia, xác
lập nền thống trị của mình tại Yêmen, ngoài ra còn mở thêm con đường
buôn bán Đông - Tây qua eo biển Ba Tư và lưu vực Lưỡng Hà đến Địa
Trung Hải. Sự thay đổi con đường buôn bán đã tác động không nhỏ đến đời
sống kinh tế xã hội của các cư dân thành phố Mecca.v.v… những người
sinh sống bằng cách dựa vào mậu dịch trở nên khó khăn, do đó làm tăng
thêm nguy cơ bất ổn cho xã hội.
Mâu thuẫn xã hội Ả rập trở nên gay gắt, sự xâm nhập va uy hiếp
không ngừng của ngoại tộc, các giai tầng trong xã hội đều tìm cách để thoát
ra khỏi cảnh khốn cùng, chống lại sự xâm lược của ngoại tộc, thực hiện liên
minh bộ tộc và xây dựng đất nước thống nhất đã trở thành nguyện vọng
chung, cũng là yêu cầu khách quan của tiến trình lịch sử. Thời cơ làm thay
đổi xã hội đã đạt tới chín muồi.
Như vậy, sự phân hóa về mặt xã hội, tình trạng cát cứ của những bộ
lạc, sự tranh chấp, xâm chiếm lẫn nhau giữa các bộ lạc diễn ra gay gắt. Đặc
biệt vào khoảng năm 600 Công lịch, tầm quan trọng của Mecca gia tăng do

có vị trí thuận lợi cho việc kiểm soát tuyến đường mậu dịch theo hướng
Bắc – Nam dọc theo dải phía Tây của bán đảo. Đây là tuyến đường thông
thương hàng hóa ở phía Nam Ả rập cũng như hàng hóa được vận chuyển
tới đây bằng đường biển từ Abyssinia và Ấn Độ để tới Địa Trung Hải. Một
tuyến đường mậu dịch khác theo hướng Tây – Bắc từ vịnh Ba Tư bị ngưng
lại do cuộc xung đột giữa Ba Tư với đế quốc Bygiăngtin ở nửa cuối thế kỷ



15
VI, bởi thế tầm quan trọng của con đường qua Mecca tăng lên. Kết quả là,
Mecca trở thành một trung tâm thương mại, nơi có những giao dịch tài
chính lớn do các thương gia có số tài sản riêng ngày càng lớn dường như
không bị phụ thuộc vào mối liên hệ truyền thống và gia đình, thị tộc. Xã
hội Ả rập đã xuất hiện hình thức tư hữu, hình thức sở hữu tư nhân, điều này
đã tạo ra một cuộc khủng hoảng cho xã hội Mecca. Sự xuất hiện của tư hữu
đã phá vỡ cơ cấu xã hội cũ mà đơn vị cơ sở là các thị tộc, bộ lạc, đồng thời
làm gia tăng những rối ren trong xã hội. Điều này cho thấy, chính sự phân
công lao động đang diễn ra trong công xã thị tộc, bộ lạc trên bán đảo Ả rập
đã tạo nên hình thức sở hữu mới đó là sở hữu tư nhân. Sở hữu tư nhân được
hình thành trên ở đây là do những quy định mối quan hệ giữa cá nhân với
nhau trong thị tộc, bộ lạc, căn cứ vào quan hệ của họ với tư liệu lao động,
công cụ lao động và sản phẩm lao động. Sự phá vỡ mô hình xã hội thị tộc
bộ lạc trên bán đảo Ả rập là một tất yếu lịch sử. C.Mác có viết: “Những
giai đoạn phát triển khác nhau của sự phân công lao động cũng đồng thời là
những hình thức khác nhau của sở hữu, nghĩa là mỗi giai đoạn phân công
lao động cũng quy định những quan hệ giữa cá nhân với nhau, căn cứ vào
quan hệ của họ với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao
động”[52;31].
Những bất công trong xã hội, sự hống hách, huênh hoang, đàn áp của

những kẻ giàu đối với người nghèo, bộ lạc thị tộc này đối với bộ lạc thị tộc
khác trở nên phổ biến. Sự mất niềm tin của quần chúng nhân dân Ả rập nơi
trần thế đã thôi thúc họ tìm đến niềm tin vào một thế giới “siêu trần thế”,
tìm đến một niềm tin hoang đường, hư ảo để bù đắp lại cái hiện thực “trần
trụi”, đau thương, đầy rẫy những bất công, áp bức, bóc lột. Đó chính là cơ
sở kinh tế - xã hội, là nguồn gốc xã hội cho sự ra đời của đạo Islam và kinh
Qur’an. Bởi xét đến cùng trên thực tế những lý tưởng cao quý mà tôn giáo
đem lại cho con người không bao giờ thực hiện được, nó chỉ là sự thỏa mãn
nhu cầu một cách ảo tưởng. C.Mác nói: “Tôn giáo là trái tim của thế giới



16
không trái tim”, “Tôn giáo là tinh thần của những trật tự không có tinh
thần”, “Tôn giáo chỉ là cái mặt trời ảo tưởng xoay quanh con người chừng
nào con người chưa biết đầu xoay quanh bản thân mình”[51;570]. Trên ý
nghĩa đó mà C.Mác đã nói: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Theo
ông, trong một xã hội mà chúng sinh bị áp bức, trong một thế giới không có
trái tim, không có tinh thần, tôn giáo là tiếng thở dài, là trái tim, là tinh thần
của xã hội đó. Tôn giáo vừa là biểu hiện, vừa là sự phản kháng chống lại sự
khốn cùng của xã hội. Hiểu theo ý đó, tôn giáo vừa là sản phẩm tinh thần,
vừa là giải pháp tình thế cứu khổ, là niềm an ủi nào đó trong thế giới đau
khổ chưa tìm được lối thoát. Niềm tin tôn giáo có tác dụng như một loại
thuốc an thần đối với một cơ thể đang bị bệnh hiểm nghèo chưa tìm được
phương thức cứu chữa. “Thuốc phiện”, hiểu theo ý ẩn dụ, chủ yếu là khía
cạnh tạo một sự cân bằng, sự an ủi, liều thuốc giảm đau làm dịu, làm nhẹ
những nỗi đau tinh thần để không rơi vào bế tắc.
Như vậy, để cứu xã hội khỏi sự bế tắc ấy, bế tắc trước cấu trúc xã hội
thị tộc bộ lạc không còn phù hợp, đặt ra yêu cầu cần phải xây dựng một trật
tự xã hội mới để khắc phục tình trạng vô tổ chức, điều này đưa đến một

phong trào tôn giáo mới do Muhammad dẫn dắt nhằm mục đích thống nhất
các thị tộc bộ lạc trên bản đảo Ả rập.
Về phương diện tín ngưỡng tôn giáo: Có rất ít tư liệu nói về tình
hình tín ngưỡng tôn giáo ở bản đảo Ả rập thời điểm Muhammad ra đời
nhưng các đế chế chung quanh đó như Abyssinia và Bygiăngtin đều là
những vương quốc Ki Tô giáo. Ngay cả Sasania Persia ở phía Đông Bắc
bán đảo Ả rập (Iran ngày nay) dù đã tôn thờ Bái Hỏa giáo nhưng cũng có
một số lượng ít tín đồ Ki Tô. Ở phía Tây Bắc Ả rập là vùng Ai Cập, người
dân theo tín ngưỡng đa thần, thờ các thần tự nhiên, các thần động vật, linh
hồn người chết, thần đá, thần lửa, thần cây Có thể có một số tín đồ Ki Tô
giáo người Ả rập nhưng số lượng rất ít và những người này mới chỉ là
những người theo đạo riêng rẽ chứ không phải toàn thể thị tộc hay bộ lạc.



17
Bên cạnh đó, số lượng người Do Thái sinh sống ở Ả rập dường như
đông hơn các khu vực khác. Có những bộ lạc hoàn toàn là người Do Thái.
Một vài bộ lạc trong số này có thể từ Palestin di chuyển tới sau sự kiện đế
quốc La Mã phá hủy ngôi đền thờ ở Jerusalem cuối thế kỷ I Công lịch.
Đến thế kỷ thứ VI, đạo Do Thái đã có thế lực rất lớn ở Yemen, thậm chí
cả tầng lớp thống trị ở đó đều là môn đồ đạo Do Thái. Giáo lý độc thần,
truyền thuyết và phong tục tập quán của đạo Do Thái và Ki Tô đã từng
được lưu truyền ở một số khu vực trên bán đảo Ả rập, cho dù người ở nơi
đó đối với sự hiểu biết về hai đạo này rất nông cạn, chưa hoàn chỉnh,
nhưng sự hình thành tư tưởng, giáo lý của đạo Islam về sau đã có những
ảnh hưởng nhất định.
Trước khi Islam ra đời, đa số người Ả rập sùng bái đa thần giáo. Các
vị thần mà người Ả rập sùng bái hoặc là các linh hồn trú ngụ ở các vật thể
tự nhiên như cây cối, đá sỏi, hoặc các vị thần tự nhiên như mặt trăng, mặt

trời và mưa. Trung tâm tín ngưỡng đa thần giáo là ngôi đền Kaba ở Mecca.
Ngôi đền Kaba thuộc quyền cai quản của bộ lạc Quraich – một bộ lạc buôn
bán có địa vị ở Mecca và những vùng lân cận. Người Quraich tự nhận là
hậu duệ của Abraham và Ismael, chỉ định các thầy tư tế và người giữ điện
Kaba. Nhiều người Ả rập nhìn nhận vị trí của thần mặt trăng và việc đi lại –
Allah (nghĩa là Thượng Đế) – như là tổ tiên của họ và là vị thần dẫn dắt các
vị thần khác. Allah có lẽ là thần của bộ lạc Quraich. Ba vị thần khác là con
gái của Allah: Al Lat (thần Mặt Trời) và Ma Nat (thần Vận mệnh), Al Uzza
(thần Vạn năng) cũng được sùng bái rộng rãi. Ngoài ra, người Ả rập còn
thờ thêm đến 360 vị thần của đủ các bộ lạc khác nhau dưới quyền cai trị
của bộ lạc Quraich.
Vậy nguyên nhân nào, nhu cầu nào khiến cho một hình thức tôn giáo
mới ra đời và tồn tại không chỉ ở bán đảo Ả rập mà còn ở toàn bộ vùng
Trung Đông và rộng hơn nữa, điều này phải kể đến vai trò của Muhammad.
Muhammad chính là người sáng lập ra đạo Islam và kinh Qur’an. Có thể



18
thấy rằng, trong nhiều trang kinh Qur’an chứng tỏ ông đã ít nhiều chịu ảnh
hưởng bởi luân lý của Ki Tô. Nhất thần giáo của người Do Thái, và thấy Ki
Tô cùng Do Thái có uy tín mạnh ra sao nhờ thánh kinh mà người ta tin là
lời khải thị của Thượng Đế. So với những tôn giáo đó, ông thấy sự sùng bái
ngẫu tượng có tính chất đa thần, luân lý không nghiêm, chiến tranh thường
xảy ra giữa các bộ lạc với nhau, tình trạng chia rẽ về chính trị của dân tộc Ả
rập, cần phải có một tôn giáo đoàn kết, hợp nhất tất cả các loạn đảng đó
thành một quốc gia mạnh mẽ, một tôn giáo đem lại luân lý không thấp kém
dựa theo luật chém giết và trả thù của người dân du mục, mà cao thượng
hơn, căn cứ vào những giới luật do Thượng Đế khải thị, do đó có được một
sức mạnh chắc chắn. Nhiều người chắc cũng đã có ý nghĩ đó, vì có nhiều

nhà “tiên tri” xuất hiện ở Ả rập vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII. Nhiều
người Ả rập đã bị ảnh hưởng người Do Thái mà chờ đợi một vị chúa Cứu
thế. Và Muhamad chính là nhà tiên tri thực hiện sứ mệnh của Thiên Chúa
Allah để cứu thế tình trạng rối ren, loạn lạc và bất công trong xã hội Ả rập
lúc đó.
Khi khẳng định về vai trò của cá nhân trong lịch sử C.Mác có viết:
“Sự hợp nhất những vùng tương đối rộng thành những vương quốc phong
kiến là một nhu cầu của giai cấp quý tộc ruộng đất cũng như của thành thị.
Do đó, bất cứ ở đâu, tổ chức của giai cấp thống trị - giai cấp quý tộc – cũng
có một ông vua đứng đầu”[52;36].
Muhmamad chính “ông vua đứng đầu”, chính là “cá nhân kiệt xuất”
trong lịch sử, một “lãnh tụ vĩ đại” đã tạo nên những chuyển biến trong xã
hội Ả rập từ một xã hội thị tộc bộ lạc bỏ qua giai đoạn chiếm hữu nô lệ để
trở thành một quốc gia phong kiến thống nhất. Sở dĩ có bước nhảy vọt, bỏ
qua giai đoạn chiếm hữu nô lệ, là do sự phát triển vượt bậc của kinh tế xã
hội, của thương nghiệp đã tạo ra những tiền đề vật chất xã hội, bước nhảy
vọt trong quan hệ sản xuất của xã hội Ả rập đã rất chin muồi và vượt trước
so với quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, đáp ứng yêu cẩu của quan hệ sản
xuất phong kiến.



19
1.1.2. Vai trò của Muhammad
Quá trình hình thành và hoàn thiện kinh Qur’an gắn với hoạt động
truyền đạo của Muhammad và các hậu duệ của ông, sau này họ chính là
những người đã dày công sưu tầm, biên soạn cuốn kinh Qur’an.
Muhammad (hình 2) được sinh ra ở Mecca vào khoảng 580 Tây lịch
trong một gia đình họ Hachim thuộc bộ lạc Quraich. Bộ lạc này đã định cư
ở Mecca từ lâu. Chính bộ lạc này đã xây đền Kaaba ở đây từ năm 2171

trước Tây lịch kỷ nguyên tính từ ông tổ Islamel trở xuống đến Muhammad
đúng được 30 đời. (Theo truyền thuyết ông sinh từ năm 570 nhưng nhiều
sách viết là ông sinh ngày thứ hai ngày 12 tháng Rabi (tháng 3), 42 trước
kỷ nguyên, Islam giáo tức là năm 580. Tục truyền rằng khi ông ra đời trên
trời có hào quang khắp vùng, vũ trụ chuyển động, đền Cosroes bị động đất
đổ mất 4 ngọn tháp, lửa thần ở Ba Tư cháy từ mấy ngàn năm bỗng tắt, hồ
Sava tự nhiên khô cạn hết nước). Cha ông là Abd Allah mất sớm từ khi ông
ra đời được hai tháng, mẹ là bà Amina, sáu năm sau thì mất. Muhammad
được ông nội là Abd-El Motalib và chú là Abou Talib nuôi, chính nhờ chú
mà Muhammad học được một nghề được dân chúng Ảrập thời đó rất yêu
thích: nghề thương mại (Có sách viết là trong thời kỳ ở với chú, ông
chuyên đưa đường cho các đoàn lữ hành trong sa mạc).
Khi đi qua Syria và Lưỡng Hà ông có dịp tiếp xúc với các nhà tu
hành Ki Tô, mặc dù không biết chữ nhưng qua giao tiếp, tìm hiểu những
người này, Muhammad đã biết đến hai cuốn kinh Cựu ước và Tân ước. Và
có lẽ trong dịp này ông đã bắt đầu có một ý niệm về độc thần giáo. Chính
ý niệm này đã khiến ông suy nghĩ nhiều tới tôn giáo mới mà sau này ông
xây dựng.
Tương truyền Muhammad là người chín chắn, làm việc rất cẩn thận
nên được mọi người tin yêu và tặng ông cái tên Al-Amin có nghĩa là một
người được hoàn toàn tín nhiệm. Năm 25 tuổi ông vào làm quản lý cho một



20
bà góa phụ giàu có ở Mecca tên là Khadijah. Sau ông đã lấy bà làm vợ, nhờ
thế lực của vợ, ông trở thành một nhân vật có địa vị trong vùng và cũng từ
đó ông không phải lo sinh kế nữa nên có thời gian chăm lo việc đạo.
Vào khoảng năm 610 – 611, năm 30 tuổi, ông quyết định đem độc
thần giáo ra truyền giảng ở Meccca. Ban đầu chỉ có những thanh niên,

những người nghèo khó theo ông, còn những người giàu có thế lực và quý
phái trong dòng Quraich thì chống lại.
Trước Muhammad còn truyền đạo trong vòng bí mật. Sau thấy nhiều
người chống lại, ông đã công khai giúp đỡ những người nghèo, chỉ trích sự
thờ phụng đa thần tốn tiền và mê tín ở đền Kaaba. Lời công kích của ông
đã làm đảo lộn tôn ti trật tự trong đám dân thành Mecca thời đó và làm cho
những người quý tộc tức giận. Họ quyết liệt đàn áp bằng cách tàn sát các
tín đồ tôn giáo mới này. Lúc bấy giờ, những người theo Muhammad còn ít
nên trước cảnh tàn sát đó, ông đã khuyên họ tản cư sang Abyssinie trốn tạm
ít lâu. Muhammad cũng rời thành Mecca đi giảng đạo ở TaiF phía Nam
Mecca. Nhưng không thu được kết quả, ông quyết định đi ngược về phía
Bắc và truyền giáo tại thành Yathib nơi cách Mécca 450 km. Ở đây, ông đã
thu được kết quả, số tín đồ ngày càng tăng. Họ hứa rằng sẵn sàng bảo vệ
tôn giáo cũng như giáo chủ của họ nên ông có ý định chọn thành Médinatel
Nabi có nghĩa là thành phố của nhà tiên tri. Sau này người ta gọi tắt là
Médina và quyết định cho các tín đồ Islam còn sót lại ở Mecca di dân sang
đây. Ngày ông chọn để di dân là ngày 16 tháng 7 năm 622, người Muslim
gọi là ngày hidjra, có nghĩa là ngày Thánh di. Sau này họ chọn ngày di cư
này làm ngày mở đầu cho kỷ nguyên Islam giáo vì chính sau ngày này
Islam giáo phát triển rất mạnh và trở thành một trong những tôn giáo lớn
thế giới.
Muhammad đã xây cất ở đây một Thánh Đường và tập trung phát
triển đạo ở Médina, nhưng những người quý tộc dòng Quraich ở Mecca
luôn tìm cách triệt hạ thành Medina. Trước tình hình đó, Muhammad đã



21
hợp các tín đồ, tập luyện dùng vũ lực để chống lại. Suốt trong đời ông,
giáo quân phải dự chiến đến 64 trận, trong đó có 24 trận do ông thân

chinh chỉ huy.
Năm 624 giáo quân đã truyền giáo thành công ở Badr (thành Mecca).
Năm 625 thành Mecca tập trung lực lượng tấn công giáo quân ở Ôhod,
nhưng thất bại Muhammad bị thương, các giáo quân của ông vẫn cố sức
chống giữ không để cho quân Mecca tiến vào được thành Médina.
Sau đó quân Quraich còn liên kết với người Do Thái và nhiều bộ lạc
khác, tập hợp đến 24.000 quân tiến đến Medina. Họ vây hãm thành ba tuần
nhưng không thắng được vì trong thành có hào sâu không thể vượt qua.
Đến năm 626 (năm thứ IV theo kỷ nguyên Islam giáo) qua nhiều
tuần điều đình, hai bên đã ký hòa ước Hodaibiya. Hòa ước này công nhận
Muhammad là giáo chủ đạo Islam và có quyền vị như người đứng đầu
quốc gia.
Hòa ước này cho phép Muslim hàng năm trở về đất thánh ở Mecca
thăm ba ngày nhưng lại cấm không cho các tín đồ di dân thêm sang Médina
trong khi không cấm những người đó ở Medina trở về Mecca. Thời ấy,
người ta cho là Muhammad đã nhượng bộ đối phương để củng cố lực
lượng giáo quân.
Việc phía Nam đã yên, Muhammad tiếp tục tấn công lên phía Bắc.
Lúc bấy giờ, người Do Thái cũng quyết liệt chống đối ông nhưng vì họ
không đoàn kết nên ban đầu ông đánh các bộ lạc nhỏ lẻ, sau đánh đến
những bộ lạc lớn hơn như Khaibar và Fadak. Kế tiếp đánh đến
Transjordania, dẹp bộ lạc Mouta và tiến về phía Đông Nam Tứ Hải nhưng
ở đây ông gặp sức chống cự mãnh liệt của những người Ảrập theo Công
giáo ở Syria và phải rút về.
Sau đó vì lý do chính trị ông lấy bà Mainuma, một góa phụ con ông
Abu - Sofyan, một nhà gia thế thuộc dòng Quraich để làm tăng thanh thế
của ông trong tầng lớp quý tộc thành Mecca.




22
Đến năm 629 trong lúc bộ lạc Quraich phải lo đánh nhau với các bộ
lạc khác ở chung quanh thì Muhammad đem quân đánh chiếm thành
Mecca. Lúc ấy thế lực bộ lạc Quraich đã giảm nhiều nên ông đã lấy được
thành Mecca. Sau đó ông vào thăm thánh địa nhưng chỉ ở đây có mười lăm
ngày rồi lại trở về Medina. Khi lấy được thành Mecca ông lại tiếp tục đánh
một trận Honain để dẹp đội quân hawazin thì ông mới làm bá chủ bán đảo
Ảrập về phương diện chính trị, quân sự cũng như tôn giáo.
Năm 631 ông dẫn quân đánh Bygiăngtin nhưng không thành công.
Năm 632, mười năm sau ngày Thánh di, ông trở về Mecca hành hương và
ba tháng sau ông mất tại đó. Muhammad mất, ông không có con trai nên
trong đạo Islam đã có sự tranh giành ảnh hưởng, một bên con rể của
Muhammad là Ali và một bên là Abou Bakr, do Ali không có thế lực nên
Abou Bakr đã dành được ngôi vị giáo trưởng và là giáo trưởng thứ nhất
của Islam.
Như vậy, có thể thấy rằng vai trò của Muhammad đối với sự ra đời
Islam và Kinh Qur’an là rất lớn. Muhammad do sự từng trải xã hội cùng
với việc nhận thức được tình hình xã hội và tôn giáo trên bán đảo Ả rập, đã
có sự quan sát thể nghiệm đối với “chứng bệnh” của xã hội Ả rập và yêu
cầu của quần chúng lúc đó. Hơn thế, bị trào lưu lịch sử của xã hội thúc đẩy
ông bước lên vũ đài lịch sử to lớn. Trải qua những thai ghén và chuẩn bị,
ông bắt tay vào việc sáng lập một tôn giáo mới. Dưới ngọn cờ cách mạng
tôn giáo, ông đã lãnh đạo và tổ chức quần chúng tiến hành một phong trào
cách mạng biến đổi xã hội Ả rập với ý nghĩa vạch thời đại.
Bằng cách sử dụng một hình thức tôn giáo mới để tập hợp quần
chúng, thống nhất các bộ lạc, thị tộc trên bán đảo Ả rập để hình thành nhà
nước Ả rập. Cộng đồng Islam giáo không chỉ là một cộng đồng tôn giáo mà
còn mang tính chất cộng đồng chính trị, cộng đồng xã hội. Việc không có
sự phân biệt rạch ròi giữa tôn giáo với chính trị và luật pháp trong xã hội
Islam nằm ngay trong lịch sử ra đời của nó. Điều này là tất yếu đối với tình

×