Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tìm hiểu tư tưởng của Phan Bội Châu về tôn giáo, tín ngưỡng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.08 KB, 108 trang )


1































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN KHẮC SÂM




TÌM HIỂU TƢ TƢỞNG CỦA PHAN BỘI CHÂU
VỀ TÔN GIÁO, TÍN NGƢỠNG





LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Tôn giáo học







HÀ NỘI - 2012


2































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN KHẮC SÂM






TÌM HIỂU TƢ TƢỞNG CỦA PHAN BỘI CHÂU
VỀ TÔN GIÁO, TÍN NGƢỠNG



Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60. 22. 90


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. Đỗ Thị Hòa Hới










HÀ NỘI - 2012

4






























MỤC LỤC
Trang

A. Mở đầu
1

B. Nội dung
7
CHƢƠNG 1.
ĐIỀU KIỆN CHO SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG
VỀ TÔN GIÁO, TÍN NGƢỠNG CỦA PHAN BỘI CHÂU

7
1.1.
Điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội trong và ngoài nƣớc tác động đến tƣ
tƣởng về tôn giáo, tín ngƣỡng của Phan Bội Châu

7
1.1.1.
Tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
7
1.1.2.
Sự tác động của tình hình thế giới vào Việt Nam
18
1.1.3.

Nhiệm vụ lịch sử mới và hai xu hướng giải quyết
21
1.2.
Quá trình hình thành và phát triển tƣ tƣởng về tôn giáo, tín ngƣỡng
của Phan Bội Châu

25
1.2.1.
Tiến trình tư tưởng về tôn giáo, tín ngưỡng của Phan Bội Châu
25
1.2.2.
Những điều kiện chủ quan để Phan Bội Châu trở thành nhà tư tưởng về
tôn giáo, tín ngưỡng tiêu biểu đầu thế kỷ XX

29
CHƢƠNG 2.
MỘT SỐ GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ TRONG TƢ TƢỞNG CỦA
PHAN BỘI CHÂU VỀ TÔN GIÁO, TÍN NGƢỠNG

37
2.1.
Quan niệm nho giáo của Phan Bội Châu khi bàn về khía cạnh tôn giáo
- trời, đạo trời, qủy thần

37
2.2.
Quan niệm của Phan Bội Châu về đoàn kết tôn giáo, tự do tôn
giáo
42
2.3.

Phan Bội Châu phê phán những biểu hiện mê tín dị đoan hủ tục của
các tôn giáo, tín ngƣỡng

54
2.4.
Tƣ tƣởng phân biệt giữa những ngƣời theo tôn giáo chánh tín và
những kẻ thực dân đội lốt tôn giáo

65
2.5.
Tƣ tƣởng Phan Bội Châu về Phật giáo
71
2.6.
Tƣ tƣởng của Phan Bội Châu về phân biệt những yếu tố tích cực,
tƣơng đồng ở các tôn giáo

84
2.7.
Một số hạn chế trong tƣ tƣởng của Phan Bội Châu
90

C. Kết luận
97

D. Tài liệu tham khảo
100


5
A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Phan Bội Châu (1867-1940) là nhà yêu nước, nhà tư tưởng, danh nhân
văn hóa trong lịch sử cận đại Việt Nam. Ông là dấu nối giữa tư tưởng văn hóa
truyền thống với tư tưởng văn hóa hiện đại của Việt Nam. Vì thế đã có rất
nhiều nhà nghiên cứu đề tài Phan Bội Châu từ nhiều góc độ lịch sử, văn học,
văn hóa, tư tưởng triết học. Tuy rằng nhìn nhận về các vấn đề này còn nhiều ý
kiến khác nhau nhưng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Ngày nay,
chúng ta đi theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ chí
Minh; chúng ta không quên các cống hiến của các vị tiền bối yêu nước trong
đó có nhà chí sĩ, nhà văn hóa lớn, có vị “thiên sứ” Phan Bội châu” [22, tr.10].
Cho đến nay, những quan niệm tiến bộ trong tư tưởng của Phan Bội
Châu vẫn còn ánh lên những nhân tố hợp lý và có ý nghĩa về mặt lý luận và
thực tiễn. Việc tiếp tục tìm hiểu tư tưởng của Phan Bội Châu nói chung và tư
tưởng Phan Bội Châu về tôn giáo nói riêng sẽ góp phần không nhỏ vào sự
nghiệp cách mạng của nước ta hiện nay và giúp cho chúng ta có thêm luận cứ
để chứng minh cho tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Như chúng ta biết, đã có nhiều công trình nghiên cứu
về Phan Bội Châu, đặc biệt là trong lĩnh vực sử học, văn học thì khá dồi dào.
Riêng trong lĩnh vực tôn giáo, tư tưởng của ông chưa được nghiên cứu nhiều
và còn có những nhận định, đánh giá chưa thống nhất. Tư tưởng Phan Bội
Châu về tôn giáo tuy chưa thành hệ thống nhưng không kém phần tiêu biểu,
đặc sắc và hàm chứa nhiều nội dung, ý nghĩa sâu sắc. Do đó, việc tìm hiểu tư
tưởng của ông trên lĩnh vực này vừa là một nhu cầu, vừa là một công việc có
ý nghĩa lý luận và thời sự cấp thiết.
Trong điều kiện hiện nay, cùng với việc tiếp thu những giá trị tinh hoa
của nhân loại, hơn bao giờ hết, chúng ta phải biết giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa của dân tộc nhằm xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc. Sự nghiệp cách mạng của chúng ta không được phép đoạn tuyệt với

6

quá khứ, mà phải là sự tiếp nối và phát huy những truyền thống tốt đẹp,
những giá trị nhân văn của dân tộc. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Trong điều kiện kinh tế thị
trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng
cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập
quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc”[21, tr.11]. Dưới ánh sáng của Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và đứng trước yêu cầu của thực tiễn, việc
nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung và việc tìm hiểu tư tưởng
tôn giáo của Phan Bội Châu nói riêng đang là một nhu cầu cần thiết đối với
chúng ta. Việc làm đó chng những có ý nghĩa về mặt lý luận, mà còn có ý
nghĩa về mặt thực tiễn đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nước ta hiện nay.
Sự hình thành và phát triển tư tưởng tôn giáo của Phan Bội Châu là một
quá trình phức tạp, trải qua nhiều thời kỳ khác nhau, ở mỗi thời kỳ lại có
những đặc điểm nhất định và bao chứa một nội dung khá phong phú có ý
nghĩa sâu sắc cần được đi sâu tìm hiểu. Xuất phát từ những lý do đó, trong
khuôn khổ luận văn tôi sẽ đi sâu vào tìm hiểu tư tưởng tôn giáo, tín ngưỡng
của Phan Bội Châu ở một số nội dung tư tưởng nội bật mà ở đó còn nhiều
điểm chưa thống nhất vơ
́
i nhau. Đặc biệt, luận văn tập trung tìm hiểu ở trong
các di thảo của Phan Bội Châu để lại qua Phan Bội Châu Toàn tập, Nhà xuất
bản Thuận Hóa, Huế, 2000.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Lịch sử Việt Nam thời cận đại ghi nhận vị trí rất quan trọng của tư
tưởng Phan Bội Châu. Chúng ta biết đến công ơn như một nhân vật lịch sử tài
năng ở các lĩnh vực văn thơ, triết học, chính trị, lịch sử, tôn giáo… Vì thế, tư
tưởng của Phan Bội Châu là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong
và ngoài nước với khối lượng rất lớn. Trong thời gian gần đây có nhiều cuộc
hội thảo như:


7
Năm 1997, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 130 năm ngày sinh của Phan Bội
Châu, Trường ĐHKHXH&NV tổ chức hội thảo khoa học về cuộc đời và sự
nghiệp của ông, có sự phối hợp với trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hội
khoa học lịch sử Việt Nam, Bảo ta
̀
ng cách mạng Việt Nam. Hội nghị có sự
tham gia của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu Trung ương và địa phương.
Gần đây, tháng 9/2005, nhân kỷ niệm 100 năm phong trào Đông Du, Ban
Tuyên huấn tỉnh Nghệ An và trung tâm văn hóa ngôn ngũ Đông Tây đã tổ
chức hội thảo kỷ niệm 100 năm phong trào Đông Du và Phan Bội Châu.
Tháng 11/2005, Trường Đại học KHXH&NV phối hợp với đại sứ quán
Nhật Bản tại Việt Nam và Trường Đại học Waseda Nhật Bản tổ chức hội
thảo khoa học “Quan hệ văn hóa, giáo dục Việt Nam - Nhật Bản và 100
năm phong trào Đông Du” trong đó đánh giá vai trò vô cùng quan trọng
của Phan Bội Châu đối với quan hệ Việt Nam - Nhật Bản thông qua hoạt
động của ông ở Nhật Bản.
Trên lĩnh vực nghiên cứu, có nhiều công trình có giá trị, trước hết phải
kể đến công trình tiêu biểu như “Tìm hiểu Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh” của Tôn Quang Phiệt (Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1956).
- “Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế kỹ XIX đến Cách
mạng tháng Tám”, tập 2 của GS. Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1975).
- “Phan Bội Châu - Con người và sự nghiệp cứu nước” của Chương
Thâu (Luận án Phó tiến sĩ sử học, Viện Sử học, Hà Nội, 1981).
- Tiếp theo những công trình nghiên cứu về văn học, Sử học, năm
1976, các tác giả: Bùi Đăng Duy, Nguyễn Đức Sự, Chương Thâu đã viết
chuyên đề nghiên cứu về tư tưởng chính trị và tư tưởng Triết học của Phan
Bội Châu mà nhà xuất bản khoa học xã hội đã xuất bản ra mắt bạn đọc.

- Trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 64, tháng 8 năm 1967 nhà nghiên
cứu Lê Sỹ Thắng đã có bài viết: “Thử nêu lên vài nhận xét về tư tưởng triết
học của Phan Bội Châu”.

8
Trong đó có nêu lên những quan điểm của Phan Bội Châu về mối quan
hệ giữa người với trời, qủy thần và tôn giáo, nêu lên mối quan hệ giữa thể xác
và linh hồn, đồng thời cũng đưa ra những nhận xét bước đầu về quan niệm
của Phan Bội Châu về tôn giáo.
- Tác giả Đặng Huy Vận viết: “Phan Bội Châu và công cuộc vận động
đồng bào Thiên Chúa giáo ở đầu thế kỷ XX” đăng trên Tạp chí nghiên cứu
lịch sử số 104/1967.
- Tác giả Phạm Hồng Tung có bài: “Tìm hiểu về Phan Bội Châu và vấn
đề đoàn kết lương giáo chống pháp đầu thế kỷ XX”. Tạp chí nghiên cứu lịch
sử 6/1999.
- Tác giả Lê Ngọc Thông có bài viết: “Quan niệm của Phan Bội Châu
về tôn giáo” (Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 1, 2001 ) trong đó có nêu một
số nội dung tư tưởng Phan Bội Châu về tôn giáo nhưng chưa thành hệ thống
và đầy đủ.
- Gần đây, tác giả Đỗ Thị Hòa Hới và Nguyễn Khắc Sâm có bài viết:
“Tư tưởng Phan Bội Châu về Phật giáo thời kỳ ở Huế” (Tạp chí Khuông Việt,
số 7, 2009) trong đó đề cập đến tư tưởng của ông về Phật giáo.
- Trong những năm gần đây các luận án tiến sĩ đã đề cập gián tiếp với
tư tưởng về tôn giáo của Phan Bội Châu như luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn
Hòa với “Tư tưởng triết học và chính trị của Phan Bội Châu”.
Lê Ngọc Thông với “Thế giới quan của Phan Bội Châu”, Luận án tiến
sĩ, năm 2003.
Trên đây là những công trình nghiên cứu lớn, những tìm hiểu về Phan
Bội Châu, các công trình này đều tiếp cận ở nhiều góc độ: Lịch sử, văn học,
triết học…Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu tư tưởng về

tôn giáo, tín ngưỡng của Phan Bội Châu một cách hoàn chỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là: Qua phân tích điều kiện hoàn cảnh lịch sử
đối với sự hình thành và phát triển tư tưởng về tôn giáo của Phan Bội Châu.

9
Từ đó, nêu lên được những nội dung tư tưởng về tôn giáo, tín ngưỡng của
Phan Bội Châu qua các thời kỳ, bước đầu đánh giá ý nghĩa những đóng góp
của ông đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam cận đại.
Để thực hiện được mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận văn hướng đến là:
+ Phân tích những điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng tác
động tới sự hình thành và phát triển tư tưởng tôn giáo, tín ngưỡng của Phan
Bội Châu.
+ Hệ thống hóa và phân tích những nội dung tư tưởng về tôn giáo, tín
ngưỡng của Phan Bội Châu.
+ Bước đầu phân tích ý nghĩa và nêu lên được giá trị và hạn chế của
những tư tưởng đó đối với tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam
trước 1945.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
4.1. Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý, những
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
các quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về tôn giáo và chính sách tôn
giáo hiện nay.
4.2. Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và lịch sử triết
học, nhất là lịch sử triết học Phương Đông, luận văn đã kết hợp sử dụng các
phương pháp cụ thể chủ yếu sau: Logic lịch sử, phân tích tổng hợp, so sánh và
hệ thống hóa…nhằm tái hiện một cách chân thực những quan điểm về tôn
giáo, tín ngưỡng của Phan Bội Châu.
5. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu.
Luận văn tìm hiểu tư tưởng của Phan Bội Châu về tôn giáo, tín ngưỡng

qua các thời kỳ. Đặc biệt chú trọng đi sâu tìm hiểu về tư tưởng tôn giáo, tín
ngưỡng của ông trong Phan Bội Châu toàn tập, Nhà xuất bản Thuận Hóa,
Huế, 2000.



10
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu, kế thừa, hệ thống hóa và làm
sâu sắc hơn nhận thức về tư tưởng tôn giáo, tín ngưỡng của Phan Bội Châu.
Từ đó, luận văn chng những cung cấp thêm cứ liệu góp phần xây dựng môn
lịch sử tư tưởng Việt Nam cận đại, mà còn có thể làm tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm đến vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trong hiện thực xã hội
Việt Nam.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được chia làm: 2 chương và 9 tiết.





















11
B. NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. ĐIỀU KIỆN CHO SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƢ TƢỞNG VỀ TÔN GIÁO, TÍN NGƢỠNG CỦA PHAN BỘI CHÂU

1.1. Điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội trong và ngoài nƣớc tác
động đến tƣ tƣởng về tôn giáo, tín ngƣỡng của Phan Bội Châu
1.1.1. Tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Từ cuối thế kỷ XIX, phong trào vũ trang khởi nghĩa từ Nam chí Bắc
sau khi Hàm Nghi xuất bôn và phát hịch Cần Vương đã lụi dần với sự thất bại
của cuộc khởi nghĩa Hương sơn (1896), toàn bộ đất nước ta bị đặt dưới sự
thống trị của thực dân pháp. Chúng bắt đầu thực hiện kế hoạch “khai thác
thuộc địa lần thứ nhất”, kéo dài từ năm 1897 đến chiến tranh thế giới làn thứ
nhất. Trước đó, xã hội Việt Nam từ tính chất thuần phong kiến tập quyền Á
Đông vốn đình trệ lâu dài, vì trong lo
̀
ng nó không có mầm mống đủ mạnh cho
sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, giờ đây đã bị cuốn hút vào quỹ đạo của chủ
nghĩa tư bản Pháp. Xã hội Việt Nam trở thành một xã hội thuộc địa - nửa
phong kiến.
a. Về chính trị
Nhằm khai thác thuộc địa với quy mô ngày càng lớn, thực dân pháp đã
thiết lập và kiện toàn cơ cấu mọi mặt của bộ máy thống trị thực dân từ Trung

ương đến địa phương. Nhà nước “bảo hộ” thi hành nhiều chính sách thực dân
nhằm biến nước ta thành một “sân sau” của chính quốc, thị trường tiêu thụ
hàng hóa và bóc lột nhân công để thu về lợi nhuận cao nhất cho tư bản Pháp,
đồng thời vẫn kìm hãm xã hội Việt Nam trong tình trạng trì trệ của một nước
công nghiệp lạc hậu để dễ bề thống trị. Thực dân Pháp nắm quyền điều khiển
bộ máy thống trị và câu kết với giai cấp phong kiến phản động đầu hàng làm
tay sai cho chúng. Cả bộ máy quan lại Nam triều từ trên xuống đến tỉnh,
huyện, xã cùng với bè lũ thực dân xâm lược ra sức đàn áp bóc lột nhân dân ta.
Đồng chí Lê Dun đã viết: “Để bóc lột nhân dân lao động, chủ yếu là nông

12
dân nước ta, đế quốc Pháp không phá bỏ chế độ phong kiến, để cho chủ nghĩa
tư bản phát triển tự do, trái lại chúng rất cần duy trì chế độ phong kiến đó.
Chúng nuôi dưỡng chế độ phong kiến chính là để bóc lột theo lối tư bản chủ
nghĩa nặng nề hơn, mạnh và nhiều hơn”[16, tr.22]. Đứng đầu cai trị toàn
Đông Dương có viên thực dân Pháp giữ chức toàn quyền, bên cạnh viên toàn
quyền về phía Việt Nam có triều đình Huế làm bù nhìn. Đứng đầu các xứ, kỳ
có các tên thực dân Pháp giữ chức thống đốc, thống sứ hoặc khâm sứ. Đứng
đầu các tỉnh có các tên công sứ người Pháp. Bên cạnh có các tên tuần phủ
hoặc tổng đốc người Việt…
Song song với việc cu
̉
ng cố bộ máy hành chính, thực dân Pháp còn
tăng cường lực lượng quân đội và nắm hết quyền chỉ huy tất cả quân đội Pháp
và Việt. Chúng còn ra sức cu
̉
ng cố các cơ quan tòa án, cảnh sát, mật thám,
nhà tù…ở các địa phương để sẵn sa
̀
ng đàn áp phong trào cách mạng và những

người có hành động chống đối.
Thủ đoạn thâm độc nhất của chính quyền thuộc địa là chính sách “chia
để trị” “dùng người Việt trị người Việt” [53, tr.19]. Chúng thực hiện 3 chế độ
chính trị cho 3 kỳ, gây chia rẽ người Nam với người Bắc, người Trung, gây
chia rẽ thù hằn giữa dân tộc đa số với dân tộc thiểu số, giữa các tôn giáo với
nhau.
Ngoài ra, về mặt xã hội, chúng còn duy trì và phát triển những phong
tục hủ bại thời phong kiến, khuyến khích cờ bạc, uống rượu, hút thuốc phiện,
phát triển mê tín dị đoan trong nhân dân, khuyến khích việc thành lập và
tuyên truyền các tôn giáo để âm mưu ru ngủ nhân dân ta. Tất nhiên, đối với
những người đi ngược lại và đả phá sự hủ bại thối nát, mê tín, ngu dân ấy thì
đều bị chúng ngăn cấm và trừng trị, như các phong trào của Đông Kinh Nghĩa
Thục năm 1907, cuộc vận động Duy Tân 1904 - 1908 ở Trung kỳ, phong trào
Đông Du 1905 - 1907.
Trước tình hình đó, đã làm cho mâu thuẫn giữa toàn bộ dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược càng thêm gay gắt. Để giải quyết mâu thuẫn

13
đó, đòi hỏi phải đoàn kết, hiệp lực mọi lực lươ
̣
ng yêu nước, tiến bộ đứng dậy
lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp. Chính yêu cầu này đã ảnh hưởng và
được phản ánh đậm nét trong tiến trình phát triển tư tưởng về tôn giáo của
Phan Bội Châu trong quá trình đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.
b. Về kinh tế
Trước khi Pháp xâm lược, kinh tế nước ta chỉ là một nền kinh tế nông
nghiệp tự nhiên, tự cung, tự cấp. Thủ công nghiệp tuy có nhiều nghề nhưng
quy mô nhỏ bé, phân tán khắp nơi, có nghề có kỹ thuật khá tinh xảo, nhưng
do kinh tế hàng hóa chưa phát triển, nên còn ở mức phường bạn, chưa có công
xưởng và chỉ bó gọn trong từng địa phương nhỏ hẹp. Thương nghiệp chỉ là

buôn bán nhỏ, làm nhiệm vụ trao đổi từng vùng, do giao thông không thuận
lợi và thuế khóa nặng nề nên kém phát triển. Việc buôn bán với nước ngoài bị
chính sách bế quan tỏa cảng của triều đình ngăn chặn.
Thực dân Pháp đánh chiếm nước ta, giành lấy quyền thống trị về chính
trị, sử dụng nó vào việc phát triển kinh tế theo lợi ích của chúng để thu lợi
nhuận cao nhất và bù vào chỗ thua thiệt và chậm chạp vì phải sa lầy vào chiến
tranh trước đây. Chính sách kinh tế của Pháp ở Việt Nam có thể nói gọn lại là:
bán hàng hóa, khai thác nguyên liệu bằng cách bóc lột nhân công r mạt và
cho vay lãi “nền sản xuất chỉ được thu gọn trong việc cung cấp cho chính
quốc nguyên liệu hay những vật phm gì mà nước Pháp không có. Công
nghiệp nếu cần được khuyến khích thì cũng chỉ trong giới hạn nhằm bổ sung
cho công nghiệp chính quốc, không làm hại đến nền công nghiệp chính
quốc”[39, tr.112-113].
Trên cơ sở chính sách đó, thực dân Pháp đã thực hiện việc độc chiếm
thị trường, độc quyền ngoại thương, mua r hàng nông nghiệp và bán đắt
hàng công nghiệp. Chúng cũng độc quyền thu mua, xuất khu nhiều mặt hàng
quan trọng khác từ than đá, quặng mỏ, nông - lâm - hải sản…đến cả các sản
phm thủ công. Đồng thời, thực dân Pháp sử dụng bộ máy thống trị đề ra
những luật lệ, tô thuế hết sức nặng nề, nhằm bần cùng hóa nhân dân lao động,

14
tạo ra nguồn công nhân r mạt, thừa thãi, cung cấp cho quá trình khai thác
thuộc địa, dựa vào sức người, sức của sẵn có.
Như vậy, thực dân Pháp một mặt, duy trì phương thức sản xuất phong
kiến cũ lạc hậu, mặt khác, từng bước du nhập phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa tại thuộc địa. Vì thế, nền tảng và cơ cấu của xã hội Việt Nam lúc
bấy giờ có nhiều biến chuyển mới, có cả hai phương thức sản xuất mới cùng
song song tồn tại: phương thức sản xuất phong kiến và phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. “Dưới sự tác động của hai phương thức sản xuất này đã làm
cho nền tảng, cơ cấu kinh tế của xã hội Việt Nam biến đổi theo chiều hướng

đi dần vào quỹ đạo mới, tiến bộ hơn - qũy đạo tư bản chủ nghĩa, nhưng là một
thứ tư bản chu
̉
nghĩa thuộc địa, phụ thuộc hoàn toàn vào chính quốc”[29,
tr.10]. Tuy vậy, do có sự mở rộng giao lưu hàng hóa và do nhu cầu của bè lũ
thực dân muốn khai thác tài nguyên mà buộc chúng mở mang giao thông, xây
dựng đường sá, cầu cống, các thương điếm, công trường, xí nghiệp… ra đời.
Sự chuyển biến trong cơ cấu kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho các luồng
tư tưởng bên ngoài du nhập vào. Mặt khác, nó cũng làm phá sản chính sách bế
quan tỏa cảng của triều đình nhà Nguyễn, làm cho Việt Nam tiếp xúc được
với thế giới, nhất là với Châu Âu tư bản chủ nghĩa, mặc dù thực dân Pháp đã
chặn một hàng rào thuế quan khá chặt chẽ và bắt buộc Việt Nam chỉ được
sống với thân phận phụ thuộc, làm cái đuôi của tư bản Pháp và chỉ được phép
có quan hệ với riêng nước Pháp mà thôi” [53, tr.21].
Chính những điều kiện kinh tế này đã có tác động lớn làm cho tính
chất cổ truyền của xã hội Việt Nam bị biến dạng và bị phá vỡ dần về mọi
mặt cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chính điều
này, đã có tác động đến toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam nói
chung và tư tưởng Phan Bội Châu nói riêng, mở rộng phạm vi nhận thức về
tôn giáo của ông.



15
c. Về văn hóa - giáo dục - tôn giáo
Để đào tạo những người giúp việc trực tiếp cho các tổ chức chính trị và
kinh tế của chúng, thực dân Pháp phải tổ chức nền giáo dục. Tùy theo yêu cầu
chính trị của từng giai đoạn mà chúng đưa ra những chủ trương cụ thể. Nhưng
quán xuyến tất cả thời thuộc Pháp là xây dựng một nền giáo dục thực dân -
nửa phong kiến với mục đích nhằm nô dịch và đồng hóa nhân dân Việt Nam.

Phương châm của chúng là một mặt ra sức duy trì để lợi dụng nền Nho học
với chế độ khoa cử lỗi thời, mặt khác chỉ mở tại các đô thị lớn một số ít
trường tiểu học Pháp - Việt, trường thông ngôn trong phạm vi tối cần thiết mà
thôi. Báo cáo của P.Đume đọc trước Hội đồng tối cao Đông Dương có đoạn:
“Những nguyên tắc đã làm cho trong xã hội người bản xứ, gia đình được
vững mạnh, cha mẹ được kính trọng, chính quyền được tuân thủ đều được rút
ra từ các sách Hán học ngay những nguyên tắc nền tảng của luân lý Nho giáo,
họ khắc sâu vào lòng dạ những nguyên tắc sẽ hướng dẫn họ trong cả cuộc đời.
Chính các trường làng đã đem lại cho họ nền học vấn đó” [39, tr.109].
Những tên toàn quyền thực dân tiếp theo sau như Xaro, Meclanh…đều
thực hiện chính sách giáo dục “nhằm cổ súy cựu học”, mua chuộc Nho sĩ như
vậy. Nhưng càng về sau chính các vùng đất học truyền thống đó lại trở thành
trung tâm của sự chống đối, truyền thống đó lại càng không được các Nho sĩ
duy tân hưởng ứng, hoan nghêng, trái lại đã bị lực lượng Nho sĩ yêu nước
thức thời ra sức ty chay, phản đối. Đến giữa cuộc đại chiến thế giới lần thứ
nhất, thực dân Pháp đã buộc phải “Cải cách” nền giáo dục quá ư cổ hủ này.
Chúng bãi bỏ mọi chế độ thi cử theo hệ thống Nho học cũ và thay vào đó một
hệ thống giáo dục lai căng, què quặt, gọi là “giáo dục Pháp - Việt” đóng
khung trong bậc tiểu học, dạy bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp, nhằm tiếp tục
đào tạo một số người giúp việc có “trình độ tây học” để tuyển chọn những
nhân viên thừa hành r tiền cho bộ máy chính quyền thuộc địa. Nền giáo dục
cải cách này cũng là để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa với quy
mô lớn để tăng cường nô dịch nhân dân ta về mặt tư tưởng, ý thức, về văn hóa

16
giáo dục. Những thủ đoạn bịp bợm ngu dân đó, đã bị Phan Bội Châu vạch
trần trước dư luận như sau: “Sau khi bỏ lối học khoa cử rồi những người hơi
tiêu biểu trong chúng tôi đều nghển cổ chờ xem nền giáo dục mới mình mong
mỏi thế nào. Không ngờ, nền giáo dục mới mà người Pháp đem ra thi hành,
làm cho chúng tôi thất vọng vô cùng. Bởi vì cái gọi là nền giáo dục mới chỉ

làm cho người Việt Nam trở thành những con trâu, con ngựa cực kỳ ngoan
ngoãn, những tên nô lệ mắt mù, tai điếc, chân tay tê liệt mà thôi” [9, tr.281].
Và thực chất, nội dung của chương trình giáo dục mới ấy là: “Sách
giáo khoa chỉ ca tụng công đức người Pháp, khoe khoang sức mạnh quân
đội Pháp, ngoài ra chng có gì hay ho cả. Còn như tổ tiên người Việt Nam
dựng nước ra làm sao, đều cấm không cho dạy. Tr em, sáu tuổi một khi
vào trường, đọc sách giáo khoa là đã quyên khuấy mình là người Việt Nam
rồi!” [9, tr.281-282].
Tóm lại, thực dân pháp đã lập nên một nền giáo dục mà không bao giờ
đi lệch tôn chỉ chúng đã quy định từ đầu rằng: “Trước tiên, giáo dục có kết
quả tăng cường dồi dào giá trị sản xuất của thuộc địa. Ngoài ra, nó phải chọn
lọc và đào tạo những tay hợp tác, những công chức bản xứ lương trả ít tốn
hơn cho ngân sách thuộc địa, phải huấn luyện quen việc các nhà “cầm quyền
bản xứ” mà các hiệp ước bảo hộ và sự sáng suốt của một chính sách chính trị
sơ đng bắt chúng ta có bổn phận duy trì làm trung gian giữa chúng ta và dân
tộc bản xứ” [23, tr.43].
Trước yêu cầu sống còn của dân tộc và xu hướng phát triển của thời
đại, đòi hỏi chúng ta phải mở mang dân trí, chấn hưng dân khí, vun trồng
nhân tài. Tình hình này, đã giúp cho Phan Bội Châu nhận thức rõ hơn sức
mạnh của tri thức, vai trò và vị trí của giáo dục và đào tạo đối với sinh mệnh
của đất nước.
Đối với tôn giáo, bước sang đầu thế kỷ XX tình hình có những biến
chuyển to lớn. Đó là hệ quả tất yếu của những thay đổi của tình hình kinh tế -
chính trị và những chính sách cai trị của thực dân Pháp.

17
Một loạt các phong trào yêu nước dưới màu sắc tôn giáo như phong
trào Kỳ Đồng - Mạc Đĩnh Phúc, khởi nghĩa của nhà sư Vương Quốc Chính,
khởi nghĩa của Phan Xích Long, phong trào phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương,
phong trào Thiên Địa Hội đã nổ ra liên tiếp khiến cho thực dân Pháp lo sợ,

đối phó.
Sang những năm 20 của thế kỷ XX, có sự xuất hiện của phong trào
Chấn hưng Phật giáo, của “hiện tượng tôn giáo mới”. Năm 1926, đạo Cao Đài
ra đời, tiếp ngay sau đó 1939, Phật giáo Hòa Hảo cũng được hình thành và
phát triểt rất nhanh. Rồi hàng chục các “ông đạo” ra đời, điều đó phản ánh
nhu cầu của nhân dân về đời sống tinh thần, mà các tôn giáo mới phần nào
đền bù, đáp ứng được những mong mỏi của họ.
Thời kỳ này hệ thống “Tam giáo đồng nguyên” bị suy thoái, các tôn
giáo, tín ngưỡng cũ và mới khác có mặt tại Việt Nam đều có những thay đổi
cho phù hợp với tình hình mới. Nho giáo mất đi vị trí độc tôn của nó, trong
khi Phật giáo suy thoái cùng các tệ nạn kéo theo cũng đang có nguy cơ mất tín
đồ. Đứng trước hiện thực ấy, đầu thế kỷ XX những người đứng đầu Phật giáo
đã kêu gọi Chấn hưng Phật giáo trên toàn quốc.
Phong trào Chấn hưng Phật giáo trong những năm 30 và 40 diễn ra khá
phức tạp, một mặt do sự nhúng tay của thực dân Pháp, mặt khác do đáp ứng
nhu cầu nội tại Phật giáo được các tri thức Phật tử nhận thức, muốn cách tân
chấn hưng tôn giáo truyền thống này. Tuy vậy, bất chấp sự can thiệp của nhà
cầm quyền Pháp phong trào cũng đạt được một số kết quả tích cực nhất là ở
Trung Kỳ và Nam Kỳ. Lúc này, Phan Bội Châu đang sống ở Huế, ảnh hưởng
của phong trào cũng có tác động đến ông. Phan Bội Châu tận tâm tuyên
truyền những yếu tố của Phật giáo còn tương đồng có thuận lợi cho cách
mạng, những điểm có lợi cho công việc tuyên truyền lòng yêu nước đều được
ông khai thác một cách sâu sắc.
Cũng trong giai đoạn này, được Thực dân o bế, nâng đỡ Thiên Chúa
giáo trở thành vấn đề bức xúc. Đạo Thiên Chúa truyền vào nước ta từ thế kỷ

18
XVI qua thế kỷ XVII, XVIII. Đến thế kỷ XIX, quá trình truyền đạo vào Việt
Nam có tình hình đặc biệt, nó gắn liền với quá trình xâm chiếm và thôn tính
nước ta của thực dân Pháp. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử

truyền Đạo Thiên chúa đã trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng, trở thành đối
tượng của cuộc đấu tranh về mặt ý thức hệ tôn giáo n sâu trong phong trào
đấu tranh chống thực dân Pháp của dân tộc. Là hệ lụy lịch sử để lại nhiều thế
hệ Việt Nam phải liên đới giải quyết.
Từ sau 1930, khác với giai đoạn trước, lúc này cùng với tính chất mới
của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, cuộc đấu tranh tư tưởng duy vật
và duy tâm, vô thần và hữu thần diễn ra gay gắt, nó không chỉ thể hiện ở mặt
tư tưởng mà nó còn gắn với vấn đề phong hóa và chủ quyền của dân tộc.
Cuộc đấu tranh đó sẽ là mảng chính trong bức tranh sinh hoạt tôn giáo Việt
Nam giai đoạn này và về sau nữa. Vì thế, tư tưởng của Phan Bội Châu về tôn
giáo chiếm một vị trí quan trọng trong việc xây dựng đường lối cứu nước của
ông, không chỉ thời kỳ còn tự do hoạt động mà kể cả lúc ông bị bắt về an trí ở
Huế nữa. Đặt vào bối cảnh lịch sử đó chúng ta mới có thể đánh giá được một
cách khách quan tư tưởng về tôn giáo, tín ngưỡng của Phan Bội Châu với tính
nhiều chiều.
d. Sự biến đổi cơ cấu giai cấp và vai trò của các giai cấp trong xã hội
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Những điều kiện chính trị - xã hội, kinh tế, văn hóa - giáo dục - tôn
giáo đã gây tác động mạnh mẽ trong xã hội làm cho sự phân hóa giai cấp
trở nên sâu sắc hơn. Việt Nam trước khi pháp xâm lược là một xã hội
phong kiến Phương Đông đóng cửa, lạc hậu, nhưng lại là một chính thể độc
lập, thống nhất, từ nay trở thành một nước bị tước đoạt chủ quyền chia cắt,
đô hộ, thành một xã hội thực dân - nửa phong kiến, có “đổi mới” nhưng
không phải thực sự tiến bộ và khai phóng, mà là cái đuôi phụ thuộc nặng nề
chủ nghĩa đế quốc Pháp.

19
Giai cấp địa chủ phong kiến, lực lượng thống trị cũ của xã hội, trước
tình hình đất nước bị ngoại xâm, do quyền lợi cụ thể của từng bộ phận trong
giai cấp này có chỗ khác nhau nên thái độ của họ trước k thù dân tộc cũng

khác nhau. Một bộ phận giai cấp này khuất phục thỏa hiệp, đầu hàng thực dân
Pháp để duy trì và bảo vệ quyền lợi ích kỷ của mình, họ đã liên minh, câu kết
với thực dân Pháp để đàn áp, bóc lột nhân dân ta ngày càng thậm tệ hơn “sự
câu kết giữa hai lực lượng thực dân và phong kiến đã tạo ra một lực cản hết
sức lớn đối với sự phát triển xã hội, nó kìm hãm các yếu tố mới” [45, tr.151].
Bộ phận còn lại có thái độ bất hợp tác với thực dân Pháp, quay lưng với
thực tế, bi quan trước thời cuộc, sống n dật. Tuy nhiên, cũng có một số
người trong bộ máy này, do hoàn cảnh bắt buộc, phải ra làm quan nhưng là
để chờ thời cơ, che mắt k địch. Đây là lớp người có tinh thần yêu nước,
chịu chung số phận với nổi khổ nhục của nhân dân, nhưng họ chưa tìm thấy
con đường đi mới.
Tầng lớp sĩ phu, mặc dù họ bị tác động bởi các chính sách giáo dục của
thực dân Pháp, nhưng gần cuối thế kỷ XIX, họ vẫn đứng hàng đầu trong “tứ
dân”. Trước diễn biến phức tạp của thời cuộc, tầng lớp sĩ phu cũng có sự phân
hóa. Một số tỏ ra bế tắc, chán nản trở về với cuộc sống điền viên, để vừa giữ
được chữ “danh” lại vừa giữ được chữ mệnh. Một số lấy chiêu bài “tùy thời”,
“tùy thế” để ngụy biện cho hành động cúi đầu, ôm chân liếm gót thực dân.
Nhưng trái lại, đứng trước cảnh nước mất nhà tan, một số sĩ phu yêu nước
tiến bộ trong đó có Phan Bội Châu, vẫn luôn nêu cao tinh thần yêu nước tiến
bộ, kiên quyết chống xâm lăng, xứng đáng với truyền thống quật cường của
dân tộc. Thông qua hoạt động thực tiễn và bằng sự nhạy cảm của mình, tầng
lớp sĩ phu yêu nước này đã nhìn thấy sự hạn chế bất lực của hệ tư tưởng
phong kiến vào việc giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc, họ đã biết kế thừa
tinh hoa truyền thống của dân tộc, hăm hở tiếp xúc với trào lưu tư tưởng mới
qua “tân thư”, “tân văn” và qua hình mẫu của các xã hội Nhật Bản, Pháp. “Họ
đã bền bỉ kiên trì để đưa những tư tưởng mới này đến cho nhân dân. Tuy có

20
những hạn chế về lịch sử nhưng họ thực sự là những chiếc cầu nối cho sự
chuyển đổi tìm hướng đi lên của dân tộc” [32, tr.34]. Họ có vị trí xứng đáng

trong sự phát triển tư tưởng của dân tộc. Phan Bội Châu là một trong những
người tiêu biểu đó. Ông là người đã góp nhiều tư tưởng xuất sắc tiến bộ về
lĩnh vực chính trị - tôn giáo…
Nông dân là thành phần chiếm đa số trong nhân dân, trước kia dưới chế
độ phong kiến, họ đã từng bị áp bức bóc lột nặng nề đến lúc này họ lại thêm
một tầng áp bức mới nữa của đế quốc xâm lược, do đó sức phản kháng của họ
càng mạnh, ý chí chiến đấu của họ càng cao. Họ là đội quân chủ lực của mọi
cuộc khởi nghĩa chống Pháp và chống bè lũ phong kiến tay sai đầu hàng giặc
suốt từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Và còn lâu về sau nữa, nông dân vẫn
là đại đa số nhân dân trong nước, là đối tượng bóc lột của phong kiến và thực
dân, cho nên nông dân vẫn là đội quân hùng hậu của cách mạng giải phóng
dân tộc. Tuy nhiên, họ không có khả năng lãnh đạo cách mạng, bởi vì họ
không đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến. Lực lượng hùng hậu
này chỉ trở thành đội quân chủ lực đông đảo của cách mạng và tìm ra ánh
sáng soi đường cho mình đi đến thắng lợi khi đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản. “Có đi với giai cấp công nhân thì nông dân mới trở thành một lực
lượng vĩ đại” [17, tr.25].
Song song với kế hoạch khai thác thuộc địa và sự củng cố, kiện toàn bộ
máy hành chính sự nghiệp của bọn thống trị, một tầng lớp tiểu tư sản thành thị
cũng ra đời và trưởng thành. Họ là những tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên, trí
thức sống chủ yếu ở thành thị…Họ chính là một tầng lớp trung gian trong kết
cấu mới của xã hội.
Sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân Pháp vào Việt Nam đầu thế kỷ
XX đã làm sản sinh một giai cấp mới, giai cấp tư sản Việt Nam, họ phân hóa
thành hai bộ phận: tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Trước chiến tranh thế
giới lần thứ nhất (1914 - 1918) họ chỉ là một tầng lớp nhỏ bé. Sau chiến tranh,
họ đã chuyển thành giai cấp xã hội và bắt đầu bước lên vũ đài chính trị, góp

21
phần vào phong trào đấu tranh của dân tộc. Nhưng, do địa vị kinh tế của giai

cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ bé và thấp kém so với tư bản nước ngoài, cũng
như so với hệ thống sản xuất xã hội đương thời, nên thái độ chính trị giai cấp
tư sản Việt Nam rất bạc nhược. Họ không đủ sức nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Khác với giai cấp tư sản, đầu thế kỷ XX, giai cấp vô sản Việt Nam đã
ra đời, trước giai cấp tư sản cùng với sự khai thác tài nguyên, xây dựng đường
sá, cầu cống của thực dân Pháp ở Việt Nam. Đồng thời, với chính sách áp bức
bóc lột, chiếm đoạt đất đai của cải một cách tàn bạo của thực dân Pháp đối
với nhân dân ta, đã phá hủy nền kinh tế tự cấp, tự túc và do đó, làm cho một
số khá đông nông dân, thợ thủ công bị phá sản, đời sống vô cùng cực khổ.
Cũng như vậy, song song với việc kinh doanh công thương nghiệp của tư bản
Pháp, đã thu hút một số không ít người bị phá sản, thất nghiệp vào làm phu
mỏ, phu đồn điền, phu khuôn vác, phu cầu đường… Lớp người này ngày một
đông và hình thành nên một giai cấp mới. Khác với những người thợ trong
công trường thủ công thời phong kiến, họ bị bóc lột theo kiểu tư bản chủ
nghĩa, đó là giai cấp những người vô sản, một lực lượng mới và rất quan trọng
trong cách mạng Việt Nam.
Giai cấp vô sản Việt Nam trong giai đoạn này đang là giai cấp “tự nó”.
Nó sẽ lớn lên nhanh chóng sau cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất và nhất là
từ những năm 20 trở về sau. Từ 1930 khi có chính Đảng Cộng sản nó sẽ trở
thành giai cấp “vì nó” và phất cao ngọn cờ lãnh đạo cách mạng giải phóng
dân tộc Việt Nam đi đến toàn thắng sau này.
Sự phân hóa giai cấp trong xã hội ta những năm cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX như đã trình bày ở trên sẽ là một tiền đề rất quan trọng đối với việc
tìm hiểu tính chất phong trào yêu nước chống Pháp đầu thể kỷ XX. Tình hình
đó cũng đã ảnh hưởng rất nhiều đến tư tưởng của Phan Bội Châu là người tiếp
nhận hệ tư tưởng dân chủ tư sản để soi sáng cho nhân dân trong những năm
đầu thế kỷ XX, từ sau năm 1930 tư tưởng của ông không còn đứng ở vị trí

22

tiên phong nữa nhưng không phải chỉ là lực cản mà có nhiều yếu tố tác động
thuận chiều cho cách mạng vô sản.
1.1.2. Sự tác động của tình hình thế giới vào Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX các nước tư bản chính trên thế giới đã
dần dần phát triển thành đế quốc chủ nghĩa đi xâm chiếm thị trường. Trong
những nước này, mâu thuẫn giai cấp do chủ nghĩa đế quốc sản sinh ngày càng
trở nên sâu sắc, nhờ được giác ngộ trang bị vũ khí lý luận chủ nghĩa Mác, giai
cấp công nhân đã chuyển mình mạnh mẽ và đã tiến hơn một bước trong công
việc: “đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản” [41, tr.605]. Trong khi đó, ở các
nước phương Đông chậm tiến hơn, những tư tưởng cách mạng - những tư
tưởng đã sớm phát sinh ở phương Tây từ thế kỷ trước - từ đây mới phát triển
mạnh mẽ và tác động đến các nước phương Đông thuộc địa và nửa thuộc địa.
Do vậy, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ. Vấn đề dân
tộc trở thành vấn đền liên quan đến nhiều quốc gia, thành vấn đề đấu tranh
giải phóng của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc. Cũng chính
trong bối cảnh đó, các trào lưu, tư tưởng phương Tây bắt đầu có điều kiện
xâm nhập tác động một cách mạnh mẽ đến các nước phương Đông. Trước
tiên là những tư tưởng dân chủ tư sản được các sĩ phu yêu nước tiếp nhận một
cách gián tiếp qua sách báo, Hán văn, Nhật văn của Trung Quốc, Nhật Bản và
về sau đó sẽ là ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng các con đường
khác nhau, mà Trung Quốc, Nga, Pháp là những ngả chính.
Đầu thế kỷ XX, với thắng lợi của công cuộc Duy Tân, Nhật Bản đã tiến
sang con đường tư bản chủ nghĩa với tốc độ nhanh và trở thành một cường
quốc. Đặc biệt, việc Nhật Bản đại thắng trong cuộc chiến tranh với Nga (1904
- 1905) có tiếng vang lớn trên thế giới, nhất là đối với các dân tộc ở Châu Á.
Nhật từ nay được coi như cứu tinh của các dân tộc da vàng. Một xu hướng
thân Nhật phát triển ở Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Ấn
Độ… xu hướng này ít nhiều có tác động đến tinh thần chống đế quốc ở các
nước thuộc địa và bán thuộc địa ở Á Châu. Không phải ngẫu nhiên mà Phan


23
Bội Châu đã chọn hướng Đông Du (đi Nhật Bản) để cầu viện, xem xét, học
hỏi và hi vọng tìm thấy con đường cứu nước. Phan Bội Châu viết: “Trận Nga
- Nhật chiến tranh mà Nhật đại thắng thật có chỗ hay cho chúng tôi rất lớn.
Trong óc chúng tôi đến đây có một thế giới mới lạ mở ra” [7, tr.171]. Phong
trào Đông Du là kết quả ảnh hưởng của những tư tưởng dân chủ tư sản đến
Việt Nam rất sôi nổi kéo dài từ 1904 - 1908, đã có một vị trí trọng yếu trong
lịch sử cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Ở Trung Quốc, sau chiến tranh Trung - Nhật (1895) cuộc đấu tranh của
nhân dân Trung Quốc tiến lên một bước mới, sĩ phu tiến bộ và tầng lớp tri
thức tư sản mạnh dạn đòi cải cách. Sự kiện “Mậu Tuất chính biến”(1898) và
cùng với “Tân thư”, “Tân văn” mang tư tưởng tư sản và văn minh phương
Tây (thông qua sách báo Trung Quốc) tràn vào nước ta gây nên những phân
hóa về tư tưởng ở trong nước, tạo điều kiện cho phong trào Duy Tân của các
sĩ phu yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ XX. Đánh giá về ảnh hưởng tích cực của
những sự kiện trên, Phan Bội Châu viết: “nếu mà không có cuộc chánh biến
bên Tàu (1898), cùng cuộc Nga - Nhật chiến tranh (1904), sách mới Khương
Lương truyền sang, thì giấc mộng bát cổ của sĩ phu ta, e đến ngày nay cũng
chưa nguôi” [14, tr.432].
Năm 1911, cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thành công và nước
Trung Hoa dân quốc ra đời đã làm cho “Châu Á thức tỉnh” và nhân dân Trung
Hoa vô cùng phấn khởi. Sự kiện này đã có tác dụng tích cực đối với sự tiến
triển trong tư tưởng, tình cảm Phan Bội Châu trên con đường dân chủ tư sản
và tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của Việt Nam Quang Phục Hội (1912)
trong đó có in dấu ấn nhận thức mới của Phan Bội Châu về vấn đề tôn giáo.
Năm 1920, sau bao lần thất bại trên con đường hoạt động cách mạng,
Phan Bội Châu lâm vào tình trạng bế tắc về mặt tư tưởng. Cùng lúc đó thắng
lợi của cách mạng tháng Mười Nga ảnh hưởng đến Trung Quốc rất lớn đã
đem lại cho Phan Bội Châu luồng sinh khí mới và một niềm tin vào con
đường giành độc lập dân tộc. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười đã làm


24
cho điều kiện lịch sử và tương quan lực lượng trên thế giới thay đổi. Bọn đế
quốc và các thế lực phản động không thể làm mưa làm gió như trước nữa:
“cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Châu Á mặc dù còn phải trải qua một
thời kỳ đầy khó khăn nhưng những tiền đề lịch sử cho khả năng thắng lợi đã
trở thành khả năng hiện thực” [30, tr.12]. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng
tháng Mười đã tạo nên những chuyển biến mới trong tư tưởng Phan Bội Châu
theo hướng ngày càng tiệm cận với chủ nghĩa Mác - Lênin. Phan Bội Châu đã
hướng theo cách mạng tháng Mười với một niềm hi vọng là tìm thấy trong đó
lối thoát cho sự bế tắc về tư tưởng của mình và con đường cứu nước giải
phóng dân tộc. Ba năm sau cách mạng tháng Mười (1920), Nguyễn Ái Quốc
đã bắt gặp “sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa” của Lênin, bắt gặp cái cm nang cần thiết cho cách mạng Việt
Nam, con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Năm 1925, người về đến
Quảng Châu tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Ở
Trung Quốc tuy chưa được gặp trực tiếp với Nguyễn Ái Quốc nhưng Phan
Bội Châu đã có sự tiếp xúc gián tiếp với Nguyễn Ái Quốc, lúc này ông chịu
nhiều ảnh hưởng của Nguyễn Ái Quốc, của chủ nghĩa Mác - Lênin và có ý
định cải tổ tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng cho phù hợp với xu thế cách
mạng mới. Song ông chưa kịp thực hiện thì tháng 6/1925, ông bị thực dân
pháp bắt giải về Việt Nam. Chúng xử án nặng nhưng bị làn sóng đấu tranh
của nhân dân phản đối. Chúng buộc phải giảm án, giam lỏng ông ở Huế.
Trong hoàn cảnh “cá chậu, chim lồng” ở Huế, tư tưởng Phan Bội Châu không
còn trực tiếp đứng ở vị trí tiên phong, song ông vẫn kiên trì ý chí bất hợp tác,
viết nhiều thơ văn nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và ý chí khôi phục độc lập
dân tộc. Cho đến ngày phải từ giã cuộc đời, Phan Bội Châu trước sau vẫn là
người chân thành yêu nước, vẫn một lòng căm thù giặc Pháp. Ông rất xa lạ
với tư tưởng đối địch với quần chúng, xa lạ với tư tưởng chống cộng, xa lạ
với khát vọng nhỏ nhen, chạy theo quyền lợi ích kỷ, hoặc bất cứ một cái gì đi

ngược lại với quyền lợi của dân tộc.

25
Lúc này, sự xuất hiện của giai cấp công nhân Việt Nam là một sự kiện
lịch sử hết sức quan trọng, quyết định tiến trình và bản chất của phong trào
cách mạng sau này. Đặc biệt, sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đánh
dấu một mốc lớn, từ nay cách mạng Việt Nam đã có người lãnh đạo soi
đường để đấu tranh giành độc lập đất nước. Đối với Phan Bội Châu, ông
không còn tự do hoạt động và từ nay không còn là nhân vật trung tâm của
cách mạng nữa nhưng ông vẫn luôn hướng theo cổ vũ cho phong trào cách
mạng mới. Cái mà giờ đây ông có thể làm được đó là hướng vào hoạt động tư
tưởng, tuyên truyền lòng yêu nước cho nhân dân, tư tưởng về tôn giáo của
ông lúc này vẫn còn chứa đựng những nội dung có giá trị, qua chương 2
chúng ta sẽ làm rõ hơn về tư tưởng này của Phan Bội Châu
Tất cả những tình hình trên đây đã dội vào Việt Nam và ảnh hưởng sâu
sắc đến sự hình thành, phát triển tư tưởng của Phan Bội Châu.
1.1.3. Nhiệm vụ lịch sử mới và hai xu hướng giải quyết
Tiếp theo sau sự “bình định” đất nước ta bằng quân sự thắng lợi, thực
dân Pháp liền đy mạnh thực hiện chính sách khai thác thuộc địa, cùng với
những chính sách chính trị - xã hội, kinh tế, văn hóa - giáo dục, đã làm cho
mâu thuẫn giữa đế quốc và nhân dân ta vốn đã sâu sắc lại càng sâu sắc thêm.
Đó chính là nguyên nhân, động lực chủ yếu thúc đy quá trình cách mạng hóa
nhân dân ta nhanh chóng hơn.
Mặt khác, bước sang đầu thế kỷ XX cùng với chế độ thực dân - nửa
phong kiến ra đời và thay thế chế độ phong kiến vốn đã tàn lụi, một trạng thái
ý thức xã hội cũ cũng chuyển biến theo và nó cũng phù hợp với trào lưu
chung của thế giới, tức là xu thế hướng theo hệ dân chủ tư sản. Sự có mặt của
hệ tư tưởng tư sản là một nhân tố mới có vai trò khá quan trọng trong đời
sống tinh thần của xã hội Việt Nam.
Lúc này, lịch sử đặt ra hai nhiệm vụ cần phải giải quyết đó là: “đánh đổ

đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc và canh tân xã hội để đưa đất nước Việt

26
Nam tiến kịp các nước văn minh tiến bộ trên thế giới” [53, tr.32]. Hai nhiệm
vụ này có quan hệ mật thiết với nhau và hỗ trợ cho nhau.
Thực ra thì từ giữa thế kỷ XIX hai nhiệm vụ đó một phần nào được đặt
ra nhưng còn thiếu hụt sự kết hợp chặt chẽ. Những người văn thân Cần
Vương chống Pháp như Phan Đình Phùng, Tôn Thất Thuyết thì hầu như chỉ
biết tập trung ý chí và sức mạnh cho việc đánh giặc ngoại xâm. Ngược lại
những người muốn tiến hành cải cách duy tân đất nước như Nguyễn Trường
Tộ, Phạm Phú Thứ thì ý thức trực tiếp chống Pháp lại lu mờ, rất hiếm có
trường hợp như Đặng Huy Trứ, vừa chủ trương cải cách, vừa chống Pháp.
Đến khi phong trào Cần Vương thất bại, bài học thực tế rút ra là: Với một k
thù có trình độ văn minh, có khoa học kỹ thuật tiên tiến, nếu chỉ dùng vũ khí
thô sơ và nhiệt tình không thôi để đối phó thì không thể được. Vì vậy, muốn
đánh thắng thực dân xâm lược và củng cố xây dựng đất nước, thì phải làm sao
cho dân giàu nước mạnh, phải thực hành cải cách đổi mới xã hội theo hướng
tư bản chủ nghĩa. Thời đại mới quy định những nhiệm vụ mới và phải có một
giai cấp tiên tiến đảm nhiệm. Nhưng xã hội Việt Nam lúc này đang phân hóa
sâu sắc. Nông dân là nạn nhân chính của chế độ thực dân, nhưng nông dân lại
không đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến, cho nên không thể tự
xây dựng được một hệ tư tưởng độc lập. Tầng lớp tiểu tư sản thành thị quá bé
nhỏ, trước sau vẫn là một tầng lớp trung gian, cũng như nông dân nó cũng chỉ
là bạn đồng minh của cách mạng chứ không thể lãnh đạo cách mạng. Giai cấp
tư sản đang trong quá trình hình thành, lại rất yếu ớt, phụ thuộc tư sản nước
ngoài và mang tính chất thỏa hiệp với đế quốc để mưu sự lợi cho mình. Còn
giai cấp công nhân, bắt đầu hình thành từ kế hoạch khai thác thuộc địa lần thứ
nhất nhưng số lượng chưa nhiều, còn đang là một giai cấp “tự nó”, chưa trở
thành một giai cấp đấu tranh tự giác và có Đảng tiên phong lãnh đạo.
Như vậy, một trong những đặc điểm chủ yếu của buổi giao thời thế kỷ

XX là: Trong thời gian vài chục năm ấy, cách mạng Việt Nam không được
bất kỳ giai cấp nào lãnh đạo. Nó ở vào tình trạng “khủng hoảng giai cấp lãnh

×