Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Tìm hiểu tư tưởng đạo đức trong kinh Qur'an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 105 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





VŨ VĂN HIẾU




TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
TRONG KINH QUR'AN




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC






HÀ NỘI - 2012



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




VŨ VĂN HIẾU



TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
TRONG KINH QUR'AN

Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60.22.90


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học:
TS.TRẦN THỊ KIM OANH


HÀ NỘI - 2012


100

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN 3
LỜI CẢM ƠN 4
CHÚ DẪN 5
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1 8
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ KINH QUR’AN 8
1.1. Nguồn gốc, quá trình hình thành và cấu trúc của Kinh Qur'an 8
1.1.1. Nguồn gốc của Kinh Qur'an 8
1.1.2. Quá trình hình thành và cấu trúc của Kinh Qur'an 19
1.2. Nội dung cơ bản của Kinh Qur'an 22
1.2.1. Vũ trụ quan trong Kinh Qur'an 22
1.2.2. Nhân sinh quan trong Kinh Qur'an 26
CHƢƠNG 2 30
MỘT SỐ QUAN NIỆM ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN TRONG KINH QUR’AN 30
2.1. Quan niệm về giá trị đạo đức trong Kinh Qur'an 30
2.1.1.Nguyên tắc xác định thiện và ác trong Kinh Qur'an 30
2.1.2. Quan niệm về hạnh phúc trong Kinh Qur'an 39
2.1.3. Quan niệm về lương tâm trong Kinh Qur'an 47
2.1.4. Quan niệm về công bằng trong Kinh Qur'an 53
2.1.5. Quan niệm về lao động và của cải trong Kinh Qur'an 61
2.2. Một số chuẩn mực đạo đức trong Kinh Qur'an 68
2.2.1. Một số chuẩn mực đạo đức áp dụng cho đời sống gia đình 68
2.2.2. Một số nguyên tắc cho đời sống xã hội 78
2.2.3. Mốt số luật ngăn cấm trong Kinh Qur'an 84
KẾT LUẬN 96











1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong những biến động lớn của tình hình thế giới những năm gần đây,
không ít thì nhiều, đều có liên quan tới Islam và thế giới Ả-rập. Những biến
động ấy không phải chỉ khu trú trong vùng Trung Cận Đông; cũng không đơn
giản chỉ là những mâu thuẫn về kinh tế, chính trị, xã hội mà còn phản ánh sự
xung đột về văn hoá, ý thức hệ. Bối cảnh đó đã và đang tác động đến đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội toàn thế giới, trong đó có khu vực Đông Nam Á của
chúng ta.
Các hành động quá khích của một số nhóm tín đồ Islam đã ảnh hưởng
tiêu cực đến cách nhìn của nhiều người đối với Islam và thế giới Ả-rập. Sự
giới hạn về hiểu biết, cộng thêm vào các thông tin tiêu cực, một chiều, có định
hướng mà họ nhận được đã tạo nên những thành kiến khó lòng gột rửa hết.
Xoá bỏ thành kiến là bước đi đầu tiên để có thể tiến tới hoà bình, đối thoại và
hợp tác giữa các quốc gia cũng như các nền văn hoá.
Người Việt Nam chúng ta tuy ít tiếp xúc với thế giới Ả-rập nhưng từ
trước đến nay vẫn có ít nhiều thiện cảm đối với các cuộc đấu tranh của họ,
xem đây là một bộ phận của phong trào đòi hoà bình và độc lập của nhân dân
thế giới. Mặc dầu trên đất nước ta có một bộ phận đồng bào theo đạo Islam
nhưng dấu ấn của nền văn minh Islam không lớn lắm. Nhưng trong bối cảnh

hiện nay, khi chúng ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào dòng chảy của thế
giới, thì sự tác động của tình hình thế giới đến ta sẽ lớn hơn, và nhiều vấn đề
nảy sinh từ chúng ta rất có thể không chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia. Hơn
nữa, sau một thời gian “lép vế” trước sức mạnh của phương Tây, thế giới
Islam đang nỗ lực phục hưng để tìm lại thời hoàng kim của mình, và kỳ vọng
này có thể tạo ra những biến động to lớn, khó lường trên thế giới. Mặc dầu

2
vậy, sự hiểu biết của chúng ta về đạo Islam còn rất khiêm tốn. Nhiều nhà
nghiên cứu đã đi đến kết luận là sự ít hiểu biết thường dẫn tới sự ít thông cảm
(vô tri bất mộ).
Cũng như với các tôn giáo khác, sự hiểu biết đúng đắn về Islam đòi hỏi
chúng ta phải có cái nhìn tổng thể, khách quan; tránh tiếp cận một chiều cũng
như không được dừng lại ở một số biểu hiện đơn lẻ. Tuy nhiên để hiểu cách
tổng thể về Islam, chúng ta không chỉ nghiên cứu cả quá trình lịch sử của nó,
mà còn phải hiểu các yếu tố cấu thành, trong đó có hệ tư tưởng. Làm nền tảng
cho hệ tư tưởng Islam là Kinh Qur’an.
Kinh Qur’an chứa đựng nội dung rất phong phú về nhiều lĩnh vực,
nhưng tham gia trực tiếp vào việc tạo nên đời sống đức tin của tín đồ đạo
Islam là tư tưởng đạo đức. Đời sống đức tin đó thể hiện qua hai phương diện
cũng là hai mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau là quan hệ của tín đồ với
Allah và quan hệ với tha nhân. Tìm hiểu tư tưởng đạo đức trong Kinh Qur’an
không chỉ giúp chúng ta hiểu một trong những nội dung cốt yếu của hệ tư
tưởng Islam mà còn góp phần lý giải nhiều vấn đề trong hành trình trần gian
của cộng đồng Muslims (cộng đồng những người tuân phục Allah).
Việc tìm hiểu tư tưởng đạo đức trong Kinh Qur’an nói riêng và đạo đức
tôn giáo nói chung thể hiện sự trân trọng giá trị nhân văn nơi các tôn giáo, và
nó có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng đời sống tinh thần của cộng đồng,
dân tộc. Ý thức điều đó, Đảng ta khẳng định: “Đạo đức tôn giáo có nhiều
điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”.

Từ những điều trình bày trên, mặc dù gặp nhiều khó khăn về tư liệu,
nhưng tôi dã mạnh dạn chọn đề tài: “Tìm hiểu tư tưởng đạo đức trong Kinh
Qur’an” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ nhiều thế kỷ nay, Kinh Qur’an luôn là đối tượng nghiên cứu của các
học giả đạo Islam với hai lĩnh vực chủ yếu là giáo nghĩa và giáo pháp. Giáo

3
nghĩa chủ yếu là những vấn đề tín ngưỡng, đề cập tới mối quan hệ giữa con
người và vị Chúa Tể Chí Thượng; giáo pháp là lĩnh vực lớn, trong đó chứa
đựng những qui định, những chuẩn tắc điều chỉnh hành vi của tín đồ trong đời
sống cá nhân, gia đình và xã hội, có tính chất luân lý tôn giáo. Những tư
tưởng đạo đức trong Kinh Qur'an là một bộ phận của việc nghiên cứu và xây
dựng giáo pháp Islam - lĩnh vực thu hút được nhiều học giả Islam chuyên tâm
nghiên cứu.
Công việc xây dựng hệ thống những quan niệm đạo đức trên cơ sở
Kinh Qur'an được tiến hành khi Kinh Qur'an được hoàn thành không lâu,
nhưng đến cuối thế kỷ X mới có những định hình sau cùng. Nó bao hàm
những nguyên tắc đạo đức sơ khởi có tác dụng điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội, góp phần đảm bảo cho trật tự xã hội mới. Có công trong lĩnh vực này
phải kể đến Umar (699 - 769) thuộc “Phái ý kiến”, Malik (715 - 795) thuộc
“Phái Thánh huấn”, bốn phái Giáo pháp học dưới triều Abbsi (750 - 1058):
phái pháp học Hanefi do Abbu Hanifa sáng lập, phái Malik do Malik bu
Ainas sáng lập, phái pháp học Shafi’i - yah do Shafi’i lập, phái pháp học
Henabilah do Ibn Hanbal sáng lập; phái Sunni, phái Thập Diệp… Tuy các
phái này có những cách tiếp cận và quan điểm khác nhau nhưng đều thống
nhất lấy Kinh Qur'an làm cơ sở để xây dựng giáo pháp của mình.
Từ thế kỷ X - XIII, thế giới Islam bước vào giai đoạn hưng thịnh của
mình, sự hưng thịnh thể hiện trên mọi phương diện trong đó có lĩnh vực thần
học. Giai đoạn này nổi lên nhiều nhà thần học xuất chúng mà tư tưởng của họ

không dừng lại ở thế giới Islam. Thời kỳ này ghi nhận sự đóng góp to lớn
không chỉ trên lĩnh vực thần học mà cả triết học của Al-Farabi (870 - 950),
Ibn Sina (980 - 1037), Al-Ghazali (1058 - 1111), Ibn Rushd (1126 - 1198).
Những đại biểu này đã cố gắng tìm kiếm sự dung hoà giữa thần học và triết
học, đức tin và lý trí, trong đó nhiều nguyên tắc đạo đức trong Kinh Qur'an
cũng được tìm hiểu và luận giải ít nhiều mang tính duy lý.

4
Thần học chính thống sau Al Ghazali dần có xu hướng chững lại, mất
sinh khí. Giáo pháp phần lớn bắt chước tiền nhân hoặc tiến hành chú giải
phiền toái, ít tìm tòi, lý luận dường như đi vào đường cụt. Mặc dầu vậy,
những nỗ lực nghiên cứu và hoàn thiện giáo pháp Islam vẫn được thực hiện.
Đặc biệt bước vào thời cận đại, do những biến động lớn về kinh tế, xã hội đã
thúc đẩy việc nghiên cứu giáo pháp Islam có những thay đổi lớn.
Trong bối cảnh đó, giữa thế kỷ XVIII xuất hiện “Phong trào làm trong
sạch Đạo” do Mohammed B.Aduta Wahhad (1703 - 1787) đứng đầu, nêu cao
khẩu hiệu đưa giáo pháp (Islam) trở về với Kinh Qur'an; “Phong trào Sanusi”
do Mohammed Mu Ali Sanusi (1791 - 1859) lãnh đạo, đòi xây dựng giáo
pháp Islam trên cơ sở tuyệt đối tuân theo Kinh Qur'an. Đến thế kỷ XX xuất
hiện “Hội huynh đệ Muslim” do Hassan Danna (1906 - 1947), “Hội xúc tiến
Islam” do Damuramadudi (1903 - 1979), trào lưu “Tư tưởng xã hội chủ nghĩa
Islam”…, đã dấy lên một phong trào phục hưng Islam rất mạnh mẽ. Trong
tinh thần ấy, Kinh Qur'an được đặt ở vị trí trung tâm cho mọi việc tìm kiếm và
xây dựng giáo pháp Islam nhằm đáp ứng yêu cầu thời đại. Quá trình nghiên
cứu và xây dựng giáo pháp Islam trên cơ sở Kinh Qur'an phản ánh sự vận
động trong đời sống kinh tế - xã hội của thế giới Islam.
Gần đây, việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức trong Kinh Qur'an đã ghi
nhận nhiều dấu ấn mới như Adul Karim-Karachi trong “Islam: the
basic”(2004), đã đề cập đến hệ thống giá trị đạo đức Islam giáo, và coi nó như
những giá trị cơ bản, vĩnh viễn của nhân loại; Ismail Raji với “Islam and

culture”(1980), đã chỉ ra sự hoà quyện giữa những tư tưởng đạo đức trong
Kinh Qur'an với đời sống văn hoá Islam…
Thế giới Islam cũng đang thu hút sự quan tâm của nhiều học giả ngoài
Islam. Will Durant trong cuốn toát yếu “Lịch sử văn minh Ả rập” đã không
chỉ mô tả tư tưởng đạo đức cơ bản trong Kinh Qur'an mà còn nhìn nhận, đánh
giá nó dưới góc độ triết học tôn giáo. Dominique Sourdel trong “Hồi

5
giáo”(1995) chú ý nhiều đến cơ sở kinh tế, xã hội, văn hoá, địa lý… của
những quan niệm đạo đức trong Kinh Qur'an. Nhiều vấn đề về căn cứ và sự
thực hành đời sống đức tin của tín đồ Islam đã được Th.Van Baaren trình bày
trong “Hồi giáo”(1999); với cái nhìn thiện cảm của một người phương Tây
với Islam, ông đã chỉ ra mặt hợp lý của nhiều quan niệm đạo đức trong Kinh
Qur'an, và nó được thể hiện sinh động nơi đời sống tín đồ. Hoàng Tâm Xuyên
trong “Mười tôn giáo lớn trên thế giới”(2000), khi trình bày giáo pháp Islam
đã nhấn mạnh bước chuyển có tính tích cực của những quan niệm đạo đức
thời tiền Islam đến những quan niệm đạo đức trong Kinh Qur'an. Dưới nhãn
quan của một người Công giáo, Nguyễn Ước trong “Giáo lý mới thời đại
mới”(2005) đã chú ý đến khía cạnh tự do cá nhân trong việc thực hiện những
nghĩa vụ đạo đức của tín đồ Islam, tác giả cho rằng, tự do cá nhân đích thực
nơi tín đồ Islam chưa thực sự được chú trọng.
Qua sự trình bày trên, chúng ta thấy rằng tư tưởng đạo đức trong Kinh
Qur'an đã thu hút được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Nhưng nghiên cứu
vấn đề này dưới nhãn quan chủ nghĩa Mác xem ra còn là một vấn đề mới ở
Việt Nam. Lênin từng nói: “Ủng hộ tính lịch sử nghiêm khắc trong lịch sử
triết học để khỏi gán cho người thời cổ một sự “phát triển” nào đó của các ý
niệm của họ dễ hiểu với chúng ta nhưng trên thực tế chưa thể có ở họ”. Will
Durant - một trong những nhà sử học lớn nhất trong thời đại chúng ta trong
“Lịch sử văn minh Ả rập” viết: “Sử gia không cần tự hỏi một thần học nào đó
đúng hay không - dựa theo một khoa toàn trí toàn thức nào mà phán đoán điều

đó được - mà chỉ tìm hiểu xem những yếu tố xã hội và tâm lý nào kết hợp với
nhau để phát sinh ra một tôn giáo; rồi tôn giáo đó làm cách nào để biến đổi
những sinh vật có thú tính thành những con người, những dân tộc dã man
thành văn minh, những trái tim vô tình, vô tư lự thành những tâm hồn can
đảm, tràn trề hy vọng; và tôn giáo còn giữ lại chút tự do nào để phát triển tinh

6
thần con người không, ảnh hưởng của nó ra sao tới lịch sử?” Đây là những lời
nhắn nhủ quý báu tôi luôn mang theo trong quá trình nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Luận văn góp phần làm rõ một số nguyên tắc đạo đức cơ
bản trong Kinh Qur'an, đánh giá mặt tích cực cũng như khía cạnh hạn chế của
nó, góp phần vào việc hiểu biết hơn về Islam nói chung, cộng đồng Islam giáo
thế giới cũng như ở Việt Nam, qua đó cho thấy tính đúng đắn trong việc đánh
giá đạo đức tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
- Nhiệm vụ: để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện 2 nhiệm vụ cơ
bản:
+ Thứ nhất là làm rõ những vấn đề chung về Kinh Qur'an như nguồn gốc,
quá trình hình thành, nội dung cơ bản, kết cấu…
+ Thứ hai là làm rõ một số nguyên tắc đạo đức trong Kinh Qur'an; nhìn
nhận, đánh giá nó dưới góc độ đạo đức học Macxit.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: luận văn dựa trên cơ sở lý luận là Chủ nghĩa duy vật
biện chứng, Chủ nghĩa duy vật về lịch sử, các quan niệm của Tôn giáo học và
Đạo đức học Macxit, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo cùng chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta.
- Phương pháp nghiên cứu: ngoài phương pháp luận Macxit, chúng tôi
còn sử dụng phương pháp khảo cứu, phân tích, tổng hợp, so sánh…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng đạo đức trong Kinh

Qur'an - tác phẩm được cộng đồng Islam giáo trên thế giới thừa nhận. Nội
dung tư tưởng đạo đức trong Kinh Qur'an rất phong phú, là một hệ thống gồm
những quan niệm chi phối đời sống tâm linh và trần thế, nhưng trong phạm vi
của luận văn này, chúng tôi chỉ tìm hiểu một số quan niệm đạo đức trực tiếp
chi phối các quan hệ thế tục.

7
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã bước đầu phác thảo một cách tương đối hệ thống những
quan niệm về giá trị và chuẩn mực đạo đức áp dụng cho quan hệ con người
với con người trong Kinh Qur'an; đồng thời nhìn nhận, đánh giá những quan
niệm đạo đức đó dưới góc độ đạo đức học Macxit.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: luận văn góp phần vào việc xây dựng các quan niệm
tôn giáo học, triết học tôn giáo, đạo đức học…
- Ý nghĩa thực tiễn: luận văn góp phần vào việc nhận thức và ứng xử
phù hợp hơn với cộng đồng Muslims, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta,
làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu về tôn giáo nói chung và đạo Islam nói
riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 02
chương, 04 tiết.

8
CHƢƠNG 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ KINH QUR’AN

1.1. Nguồn gốc, quá trình hình thành và cấu trúc của Kinh Qur'an
1.1.1. Nguồn gốc của Kinh Qur'an

1.1.1.1. Bối cảnh ra đời Islam và Kinh Qur'an
Kinh Qur'an, cuốn kinh thánh của Islam, được viết bằng tiếng Ả-rập.
Trong tiếng Ả-rập, Qur’an nghĩa là “đọc lại” hay “tụng đọc”, được hình thành
từ những gì Mohammed tuyên đọc hay đọc lại những lời được coi là của
Thượng đế thần khải qua ông đến tín đồ, khi ông thuyết giảng về một tôn giáo
mới. Nghiên cứu nguồn gốc của Kinh Qur'an không thể tách rời bối cảnh ra
đời Islam. Islam được hình thành trên một khu vực địa lý với những điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và tôn giáo đặc thù.
Không có bán đảo nào lớn và khắc nghiệt bằng bán đảo Ả rập. Chiều
dài của bán đảo Ả-rập là 2200km, chiều rộng là 2000km. Về phương diện địa
chất, bán đảo đó tiếp tục sa mạc Sahara, là một phần của đai cát đi ngang qua
Ba Tư, tới tận sa mạc Gobi. Tiếng “Ả-rập” có nghĩa là khô khan. Về phương
diện địa lý, nó là một cao nguyên mênh mông thình lình dựng đứng lên tới ba
ngàn thước ở cách biển Hồng Hải năm chục cây số, rồi hạ thấp dần xuống ở
phía đông, qua những dãy núi hoang vu tới tận vịnh Ba Tư. Ở giữa bán đảo
nổi lên vài ốc đảo có cỏ, có làng mạc dưới bóng cây kè (thốt nốt, cọ, chà là,
dừa…) với một vài giếng nước, xung quanh đều là cát mênh mông. Bốn chục
năm tuyết mới đổ một lần, ban đêm lạnh tới không độ; ban ngày nắng cháy
da, máu muốn sôi lên. Trời gần như ngày nào cũng trong sáng, không khí thì
như “rượu vang có bọt”.
Bán đảo Ả-rập là một vùng đất không đồng nhất. Trong vùng đất rất
khác nhau này, khác biệt về khí hậu, địa hình và thổ nhưỡng tạo nên sự khác
biệt giữa các nước phía nam (Yêmen, Haddramaout), gần Ấn Độ Dương, có

9
cây trồng phong phú nhờ gió mùa. Phía Bắc và Trung là nơi có ít mưa, có nơi
người dân sống định cư, nơi khác dân Bedouin sống du mục. Ở miền Trung,
chỉ có các ốc đảo ở mặt Tây là được ưu đãi, các thành phố Yathrib, Taif,
Khaibar bao quanh thành phố buôn bán La Mekka, đó là trung tâm của bán
đảo Ả-rập. Do bán đảo Ả-rập nằm sát đường giao thông quan trọng giữa Châu

Âu, Á, Phi nên sự giao lưu, đặc biệt về văn hoá diễn ra tương đối mạnh mẽ.
Islam ra đời trong bối cảnh chính trị, xã hội trên bán đảo Ả-rập có
những biến động lớn. Trước kỷ nguyên Islam, tổ chức chính trị trên bán đảo
Ả-rập là một tổ chức gia tộc gồm thị tộc và bộ lạc. Mỗi bộ lạc mang tên một
ông tổ chung tưởng tượng nào đó, ví như bộ lạc Banu - Ghassan tự cho mình
là hậu duệ của Ghassan. Trước Mohammed, mặc dù người Hi Lạp gọi tất cả
dân chúng trong bán đảo là Sarakenoi nghĩa là phương Đông, nhưng thực sự
dân cư ở đó không thống nhất về chính trị. Giao thông khó khăn nên các bộ
lạc phải tự trị về mặt kinh tế, và giữ tính cách địa phương hoặc tính cách riêng
của bộ lạc. Người Ả-rập chỉ trung thành và có bổn phận với bộ lạc của mình.
Mỗi bộ lạc hoặc thị tộc do một vị Sheik thống trị, vị này được các đầu mục
bầu trong một gia đình đã có nhiều đời giàu có hơn, tài trí hơn hoặc chiến đấu
dũng cảm hơn các gia đình khác. Sự tương tranh giữa các bộ lạc trong quá
trình duy trì và phát triển của mình trở nên phổ biến. Mặt khác, cơ cấu xã hội
đã bắt đầu có sự phân hoá căn cứ trên tài sản: một cực là tầng lớp quý tộc có
nô lệ, gia súc, tiền tài; còn cực kia là tầng lớp bần nông và nô lệ ngày càng
nghèo khổ và mất hết sự bảo hộ hữu hiệu của bộ lạc. Tình hình đó càng đẩy
nhanh nhu cầu thiết lập một trật tự xã hội mới.
Sự tác động của tình hình chính trị bên ngoài đến bán đảo Ả-rập rất lớn.
Ba siêu cường cạnh đó là Byzantine, Ethiopia và Ba Tư luôn đối đầu nhau, đã
biến Ả-rập thành một vùng xoáy tranh giành ảnh hưởng giữa các thế lực ngoại
bang. Byzantine và Ba Tư vì tranh giành và khống chế con đường buôn bán
của Ả-rập, đã tiến hành cuộc chiến kéo dài mấy trăm năm. Bất ổn về mặt

10
chính trị đã thúc đẩy khao khát thổi bùng lên lòng tự tôn dân tộc, thực hiện
liên minh bộ tộc và xây dựng quốc gia thống nhất. Đây là yêu cầu khách quan
của tiến trình lịch sử.
Từ khi Ethiopia chiếm được Yêmen và thiết lập sự giám sát của mình
đối với việc buôn bán quá cảnh, chặn đứng các con đường dẫn từ Yêmen đến

Xyria, Palestin, và Ethiopia qua Hidjaz. Con đường tơ lụa không còn đi qua
tây Ả-rập nữa. Điều này cộng với sự tấn công của các quốc gia và bộ tộc lân
cận đã dẫn tới sự suy thoái kinh tế và khánh kiệt của nhiều bộ lạc Ả-rập, làm
tăng số người bần cùng, đẩy nhanh nguy cơ khủng hoảng của xã hội. Bối cảnh
này đã đặt cư dân trên mảnh đất này phải tìm kiếm con đường để tồn tại, vì
thực tế có nhiều cộng đồng trong lịch sử đã bị diệt vong khi gặp tình huống
đó.
Trong bối cảnh xã hội đó, bán đảo Ả-rập có một diện mạo văn hoá đặc
thù. Trong đó nổi cộm là cung cách ứng xử giữa con người với con người.
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã làm cho kẻ mạnh được tán dương, bản năng
bảo tồn sự sống của bản thân và bộ lạc đã lấn át sự tôn trọng sự sống của kẻ
khác. Ứng xử giữa con người với con người về mặt nhân tính bị băng hoại
ghê gớm. Sự cướp bóc, hãm hiếp diễn ra thường xuyên và dần được coi là
hành vi bình thường. Trong xã hội đó, địa vị người phụ nữ rất thấp kém. Trẻ
em gái có thể bị người cha chôn sống khi mới chào đời. Ở tuổi thanh xuân,
người phụ nữ được coi như một nữ thần, tuy nhiên họ cũng chỉ là một động
sản thuộc về cha, chồng hoặc con trai, và như mọi động sản khác, họ bị di
tặng lại cho đời sau. Luôn luôn họ là tôi tớ, rất ít khi được là bạn trăm năm
của đàn ông. Họ có chức năng chính là “sản xuất” chiến sĩ. Chồng họ có thể
đuổi họ đi lúc nào tuỳ ý.
Thực trạng văn hoá ứng xử giữa người với người này là một nguy cơ
lớn lao cho bán đảo Ả rập. Thực chất của văn hoá là sự thể hiện của nhân tính.
Khi nhân tính trong mỗi con người không được phát huy thì nhân phẩm của

11
người khác cũng không được tôn trọng. Giá trị thực của con người không
những không được xem trọng mà nó còn dẫn con người xa rời sự liên kết thực
sự với cộng đồng, và do đó làm suy đồi không chỉ về văn hoá mà cả khía cạnh
nhân chủng của cộng đồng. Điều này đòi hỏi phải dùng một biện pháp nào đó
thực sự hữu hiệu để khôi phục phẩm giá con người, tạo sự gắn kết cộng đồng

nhằm hướng tới những thay đổi to lớn.
Sự cát cứ về chính trị và kinh tế giữa các bộ lạc trên bán đảo Ả-rập tất
yếu dẫn đến đa thần giáo, là sự bộc lộ rõ nhất sự khủng hoảng hệ giá trị chung
trước đòi hỏi thống nhất của cộng đồng. Dân cư nơi đây sợ và thờ vô số thần:
thần tinh tú, thần mặt trăng và thần trong lòng đất; đôi khi họ cầu khấn trời
đừng phạt họ. Nhưng xét chung họ rất sợ bọn jinn (quỷ) rất đông ở xung
quanh họ, tìm mọi cách để làm dịu cơn giận của các jinn. Họ thừa nhận là
không hiểu được sự vô biên của vũ trụ. Họ ít khi nghĩ tới sự sống đời sau,
nhưng đôi khi họ buộc một con lạc đà bên cạnh mồ mả và không cho nó ăn,
để người chết có lạc đà mà cưỡi. Thỉnh thoảng họ giết người để tế thần, và có
nơi họ thờ những phiến đá thiêng.
Trung tâm của sự thờ phụng là La Mekka. Điện Kaaba ở La Mekka có
hơn 300 tượng thần. Một trong những vị thần này tên là Allah, là thần của bộ
lạc Qoraich, ba vị thần khác là con gái của Allah: Al-Uzza, Al-lat, Manah. Sự
thờ phụng đó của người Ả-rập đã có từ thời thượng cổ, và sử gia Hi Lạp là
Herodote (484 - 425 trước Công nguyên) đã xác nhận điều đó. Bộ lạc Qoraich
thờ Allah làm thần chính, như vậy là dọn đường cho tín ngưỡng nhất thần
giáo. Họ bảo dân chúng La Mekka rằng Allah là thần đất đai, vậy dân chúng
phải đóng thuế cho thần một phần mùa màng và những gia súc con so (con
đầu tiên).
Trong tín ngưỡng đa thần giáo, mỗi vị thần phản ánh một hệ giá trị, và
đáp ứng được nhu cầu của từng cộng đồng riêng rẽ. Nhưng khi các cộng đồng
nhỏ liên kết với nhau, hoà vào nhau để tạo nên một cộng đồng lớn thì nhu cầu

12
khách quan là phải có một hệ giá trị chung. Tín ngưỡng đa thần không đáp
ứng được nhu cầu đó. Sự khủng hoảng của hệ giá trị chung phát sinh từ nhu
cầu của cộng đồng. Việc xây dựng một hệ giá trị chung là một đòi hỏi khách
quan trong tiến trình phát triển của cộng đồng, dưới hình thức một tôn giáo
mới phản ánh được nhu cầu của cộng đồng. Trước Mohammed, một số người

đã ý thức được điều đó, và có những động thái nhất định nhưng kết quả không
đáng kể.
Ảnh hưởng của các tôn giáo bên ngoài vào bán đảo Ả-rập cũng không
nhỏ, đặc biệt là vai trò của Do Thái giáo và Kitô giáo. Dân Do Thái giáo và
dân Kitô giáo đã đến sống ở đây: dân Do Thái giáo ở Khaibar và Yathrib, dân
Kitô giáo ở Najran, về phía nam hơn. Trong vùng La Mekka, chỉ riêng người
Do Thái sống trong các cộng đồng có tổ chức. Người Kitô giáo vẫn sống tản
mát và không có thứ bậc, số lượng này rất ít ngay cả trong thành phố, nơi họ
chỉ là những người nô lệ người Abyssinie và thợ thủ công. Nhưng đôi khi có
những nhà buôn theo Kitô giáo đến từ Al Hira.
Do Thái giáo và Kitô giáo cũng là những tôn giáo của các siêu cường
nằm cạnh bán đảo Ả-rập. Trước khi đạo Islam ra đời, nhiều người Ả-rập đã
nhận thấy tôn giáo của các siêu cường này “ưu việt” hơn đa thần giáo của họ,
nó giúp đoàn kết dân tộc, xây dựng quốc gia hùng mạnh. Thời đó xuất hiện
phái Hanif có khuynh hướng nhất thần luận. Họ chỉ thừa nhận một thần duy
nhất, phản đối sùng bái thờ ngẫu tượng, nhưng bản thân họ không có giáo
nghĩa và nghi thức nghiêm cách, chỉ chú trọng tu luyện cá nhân, khắc kỷ cấm
dục. Vì thế cần phải có một tôn giáo độc thần đáp ứng được yêu cầu khách
quan trên bán đảo Ả-rập. Nhưng tôn giáo mới đó cần phải độc lập về chính trị
với các hệ tư tưởng kia. Cũng cần phải có một vị tiên tri là người Ả-rập, một
người có thể thể hiện những mối quan tâm về quốc gia cũng như về tinh thần
chung của người Ả-rập. Bối cảnh đó ảnh hưởng không nhỏ đến Mohammed.
1.1.1.2. Vai trò của Mohammed đối với sự ra đời Islam và Kinh Qur'an

13
Vai trò của Mohammed đối với sự ra đời Islam nói chung và Kinh
Qur'an nói riêng hết sức to lớn. Trước hết, với tư chất thiên bẩm của mình,
Mohammed là người nhận thức sâu sắc hơn ai hết sự khủng hoảng trên bán
đảo Ả rập cũng như những đòi hỏi khách quan trong quá trình vận động của
bán đảo Ả-rập. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (bán đảo phần lớn là sa mạc

khô và nóng) làm cho con người trở nên dã man. Sự tranh đoạt để bảo tồn sự
sống đã ngày càng đẩy những con người yếu thế đi vào đường cùng. Phúc lợi
xã hội không được chia cách công bằng. Mâu thuẫn về mặt lợi ích (cá nhân và
nhóm) đã đẩy con người đến chỗ tàn sát lẫn nhau. Sức mạnh và sự tồn tại của
cộng đồng bị đe dọa, kích thích sự thèm muốn của ngoại bang. Nguy cơ cộng
đồng bị tiêu diệt có nhiều khả năng xảy ra. Một đời sống kinh tế và xã hội như
vậy, tất yếu làm cho nhân tính của con người bị lu mờ. Lối sống đó không chỉ
tổn hại đến sự phát triển về mặt nhân chủng và nguy hại hơn đến sự phát triển
nhân cách, đến sự tồn vong của cộng đồng. Khi nhân tính còn bị thú tính đè
nén thì con người không đáng là con người. Cùng với đó, tinh thần tự tin của
cá nhân và cộng đồng không phát huy được sức mạnh đích thực. Tính đa thần
trong đời sống tín ngưỡng của bán đảo Ả-rập thể hiện rõ sự khủng hoảng về
hệ giá trị chung. Khi không có một hệ giá trị chung thì không thể có một ngọn
cờ tập hợp sức mạnh được, và kéo theo tình trạng là kẻ nào làm theo lẽ phải
của kẻ ấy.
Khi đã ý thức đầy đủ nguy cơ cũng như xu hướng vận động của bán
đảo Ả-rập, Mohammed đã suy tư trăn trở để tìm ra một biện pháp, một con
đường tối ưu nhất để giải quyết tình trạng khủng hoảng đó, và ông đã tìm ra.
Có nhiều người theo Kitô giáo sống ở Ả-rập, một số sống ở La Mekka;
Mohammed kết thân với một trong những người này tên là Warakah Ibn
Nawfal, con chú của Khadija (người vợ cả của Mohammed) biết các Thánh
kinh của người Do Thái và Kitô giáo. Mohammed thường tới Yathrib, nơi
thân phụ ông đã qua đời, và ở đây, ông gặp nhiều người Do Thái, vì dân

14
chúng ở Yathrib chủ yếu là Do Thái. Nhiều trang trong Kinh Qur'an chứng tỏ
ông tán thưởng luân lý của Kitô giáo, nhất thần giáo của người Do Thái; và
thấy Kitô giáo cùng Do Thái giáo có uy tín mạnh ra sao nhờ những Thánh
Kinh mà người ta tin là lời khải thị của Thượng đế.
So với những tôn giáo đó, ông thấy sự sùng bái ngẫu tượng có tính cách

đa thần, luân lý không nghiêm, chiến tranh thường xảy ra giữa các bộ lạc với
nhau, tình trạng chia rẽ về chính trị của dân tộc Ả-rập có vẻ lạc hậu, đáng xấu
hổ, và là một nguy cơ to lớn. Ông thấy cần phải có một tôn giáo mới - một tôn
giáo đoàn kết, hợp nhất các loạn đảng đó thành một quốc gia mạnh mẽ; một
tôn giáo đem lại cho họ một luân lý không thấp kém dựa theo luật chém giết
và trả thù của dân du mục Bedouin, mà cao thượng hơn, căn cứ vào giới luật
do Thượng đế khải thị, nhờ đó có được một sức mạnh chắc chắn. Nhiều người
cũng có ý nghĩ như ông, vì có nhiều nhà “tiên tri” (nên hiểu như các ông
“đạo” ở miền nam Việt Nam trước đây) xuất hiện ở Ả-rập vào khoảng đầu thế
kỷ VII. Nhiều người Ả-rập do ảnh hưởng của Do Thái giáo mà chờ một vị
Chúa cứu thế. Phái Hanef đã có chủ trương một thần. Cũng như mọi nhà
thuyết giáo thành công khác, Mohammed đã biểu lộ được đúng nhu cầu cùng
xu hướng đương thời, tạo cho những cái đó một tiếng nói và một hình thức
riêng.
Càng gần tuổi tứ tuần, ông càng suy tư về vấn đề tôn giáo. Trong tháng
trai giới Ramadan, ông vào một cái hang tại chân núi Hira, cách La Mekka
năm cây số, trầm tư tụng niệm. Một đêm năm 610, ông thấy một linh giác.
Muhammed Ibn Ishak, người chép sử kỹ nhất về ông cho biết sự việc xảy ra
như sau: “Trong khi tôi đang ngủ, chân đắp một tấm phủ bằng gấm thêu trên
có viết những chữ gì đó, thì thánh Gabriel hiện ra bảo: “Này đọc đi!”. Tôi
đáp: “Con không biết đọc”. Ngài dùng tấm phủ chân đè tôi nghẹt thở. Rồi
Ngài buông tôi ra, bảo: “Đọc đi!”… Thế là tôi đọc lớn tiếng, sau cùng, Ngài
bỏ đi. Rồi tôi tỉnh dậy, và những chữ đó như khắc trong tim tôi. Rồi tôi bước

15
ra ngoài hang, đi tới nửa đường trong núi, và nghe thấy có tiếng ở trên trời
bảo tôi: “Này Mohammed, con là sứ giả của Allah và ta là Gabriel đây””[dẫn
theo 47, 29]. Nhân đó, ông lập ra Islam.
Mohammed bắt đầu truyền giảng về một tôn giáo mới, những lời ông
truyền giảng với danh nghĩa lời khải thị của Thượng Đế, sau được tập hợp lại

thành Kinh Qur'an. Fernand Braudel đã hoàn toàn có lý khi cho rằng: “Nếu
không có Mohammed, thì bán đảo Ả-rập bị vỡ nát thành các bộ lạc và các
quần thể bộ lạc thù địch nhau, mở cửa cho những ảnh hưởng của ngoại bang,
cho những cố gắng thực dân hoá của Ba Tư, của Ethiopia theo đạo Cơ Đốc,
của Syria, của Ai Cập theo Đế quốc Byzantine, đã không thực hiện được
thống nhất và, ỷ vào sự thắng lợi đó, đã tung những tên kẻ cướp của nó lên
những biên giới dài ở phía bắc”[13, 101].
Nếu chúng ta xét vĩ nhân tuỳ theo ảnh hưởng của họ thì ta phải kể
Mohammed là một trong những vĩ nhân bậc nhất trong lịch sử. Ông cố gắng
nâng cao trình độ tinh thần và luân lý của một dân tộc bị khí hậu nóng nực và
đất đai khô cằn trong sa mạc làm cho con người dã man, và ông đã thành
công hơn tất cả các nhà cải cách khác; rất ít ai thực hiện được hoài bão của
mình một cách đầy đủ như vậy. Ông dùng tôn giáo để đạt mục tiêu đó một
phần vì chính ông có tinh thần tôn giáo, một phần nữa vì không còn một cách
nào khác để cảm hoá người Ả-rập đương thời. Ông kích thích óc tưởng tượng
của họ, dùng lời lẽ bình dị để họ hiểu được. Hồi ông mới bắt đầu thực hiện
hoài bão, bán đảo Ả-rập còn là một miền sa mạc xác xơ gồm những bộ lạc thờ
các ngẫu tượng; khi ông mất nó đã thành một quốc gia. Ông đàn áp thói
cuồng tín, dị đoan, nhưng ông lại lợi dụng nó. Ông dùng Do Thái giáo, Kitô
giáo và tín ngưỡng nguyên thuỷ của ông để dựng nên một tôn giáo giản dị,
sáng sủa, mạnh mẽ, và một nền luân lý trọng đức anh dũng bất khuất, hãnh
diện vì nòi giống của mình; và nhờ tôn giáo đó, dân tộc Ả-rập chỉ trong một

16
thế hệ thắng được cả trăm trận, trong một thế kỷ chiếm được một đế quốc,
hiện nay vẫn còn là một sức mạnh lớn trên thế giới.
1.1.1.3. Ảnh hưởng của Do Thái giáo và Kitô giáo đến tư tưởng trong
Kinh Qur'an
Giọng văn trong Kinh Qur'an bắt chước các vị tiên tri Do Thái, mà nội
dung cũng phỏng theo các giáo lễ, truyền thuyết và chủ đề Do Thái. Những ý

căn bản trong Kinh: nhất thần giáo, tiên tri, tín ngưỡng, xám hối, sự phán xét
cuối cùng, thiên đường, địa ngục, chịu ảnh hưởng trực tiếp của Do Thái giáo,
cả về hình thức. Mohammed thẳng thắn chép lại lời những người đương thời
chê rằng những lời khải thị của ông “là điều dối trá… toàn là những chuyện
cổ tích của người xưa mà Y đã cho viết lại và đã được đọc ra cho Y sáng và
chiều”[Q. 25:4-5].
Ông đã sẵn sàng chấp nhận rằng Kinh thánh của Do Thái giáo và Kitô
giáo là do Thượng đế khải thị cho loài người một trăm lẻ bốn lần trong Sách
Luật của Moise, trong các Thánh Thi của David, trong kinh Phúc âm của
Kitô, và trong Kinh Qur'an của Mohammed; kẻ nào chối bỏ một trong những
kinh đó thì bị ông coi là dị giáo. Nhưng theo ông, ba kinh trước đã sai lạc, bị
ngụy tạo nhiều, không thể tin hết được, bây giờ Kinh Qur'an thay thế. Ông
chấp nhận, đã có nhiều vị tiên tri được khải thị như Adam, Noe, Abraham,
Moise, Enoch, Kitô, nhưng vị Tiên tri cuối cùng, vĩ đại nhất là Mohammed.
Mohammed chấp nhận tất cả các truyện trong Thánh kinh từ thời ông Adam
(thuỷ tổ của loài người) tới Kitô, nhưng ông tuỳ chỗ sửa lại một chút để cứu
vãn danh dự của Thượng Đế, chẳng hạn ông cho rằng Thượng đế đã không để
cho Đức Kitô chết trên thánh giá (một hình thức của Ảo thân thuyết). Ông
khẳng định mình là thiên sứ của Thượng đế, chứng cớ là Kinh Qur'an hợp với
Thánh Kinh của Kitô giáo; ông dẫn nhiều đoạn trong Thánh kinh báo trước
ông sẽ ra đời để truyền đạo…

17
Ông dùng những ý của Do Thái để chép truyện từ thời khai thiên lập
địa cho tới ngày phán xét cuối cùng. Allah là danh xưng chỉ một vị thần cũ
trong điện Kaaba và được nhiều ngôn ngữ Semite dùng với nghĩa là Thần hay
Thượng đế. Mỗi ngôn ngữ gọi một cách khác, chẳng hạn người Do Thái gọi
Elohim, và Chúa Kitô trên Thánh giá gọi là Eli. Allah và Yahveh đều là
những vị thần nhân từ, nhưng cũng rất nghiêm và hiếu chiến, có nhiều đam
mê của loài người và cương quyết giữ thái độ “duy ngã độc tôn”. Điều thứ

nhất mà tín đồ Islam phải tin là: “Ngoài Allah ra không có vị thần nào khác”.
Điệp khúc: “Đấng chí nhân chí từ” cũng thường thấy trong kinh điển Talmud
Do Thái. Kinh điển Do Thái lập lại nhiều lần cụm từ “Cảm tạ Đấng Chí
Thánh”, thì Kinh Qur'an cũng viết: “Cảm tạ Allah (hoặc Mohammed)”.
Những lời dạy bảo trong Kinh Qur'an về các vị thiên thần, sự phục sinh và
thiên đường giống những lời trong kinh điển Do Thái hơn là giống kinh Tân
Ước. Một phần tư những truyện trong Kinh Qur'an bắt nguồn trong kinh điển
Do Thái.
Mohammed bắt chước người Do Thái cả trong nhiều nghi lễ, trong
những tiểu tiết cấm thực và vệ sinh, chẳng hạn phải tẩy uế trước khi cầu
nguyện - nếu không có nước thì dùng cát để rửa - cũng do một tục Do Thái.
Mohammed bắt chước lệ sabat - nghỉ ngày cuối tuần - của người Do Thái, chỉ
sửa đổi một chút: dùng ngày thứ sáu làm ngày tụng niệm. Kinh Qur'an cũng
như luật Moise cấm uống tiết, ăn thịt lợn, thịt chó, hoặc thịt bất kỳ một con
vật nào chết do bệnh, hay bị một con vật khác giết, bị người giết để tế thần,
nhưng Kinh Qur'an cho phép ăn thịt lạc đà mà Moise cấm (vì giữa sa mạc,
không có vật nào khác để ăn thịt). Cách thức nhịn ăn trong tháng trai giới
giống cách thức của người Do Thái. Tín đồ Do Thái giáo phải hướng về phía
Gierusalem và Đền thờ, phủ phục xuống, trán chạm đất để cầu nguyện mỗi
ngày ba lần; Mohammed cũng phỏng theo cách cầu nguyện đó. Chương đầu
của Kinh Qur'an là bài cầu nguyện căn bản của Islam, nguồn gốc cũng do một

18
bài cầu nguyện của Do Thái. Lời chúc cao đẹp: “Xin Thượng đế phù hộ cho
ông được an lạc” của tín đồ Islam giống hệt lời chúc nhã nhặn: “Sholom
Aleichem” của người Do Thái. Sau cùng thiên đường trong kinh điển Do Thái
cũng có những cảnh cực lạc vừa về thể chất vừa về tinh thần như thiên đường
trong Kinh Qur'an.
Một số tín điều và nghi lễ có lẽ là di sản chung của các dân tộc Semite;
một số khác - như thiên thần, quỷ sứ, quỷ Satan, thiên đường, địa ngục, Chúa

phục sinh, ngày phán xét cuối cùng - là do người Do Thái mượn của
Babylone hoặc của Ba Tư. Theo thuyết “Thế mạt” của Zoroastre mà
Mohammed dùng, người ta sau khi chết phải qua một chiếc cầu nguy hiểm
bắc trên một vực thẳm; kẻ ác rớt xuống địa ngục, người thiện thì lên thiên
đường, tại đó hưởng mọi lạc thú, ăn ngon, mặc đẹp, sống với các thiếu nữ
(houri) đẹp như tiên. Mohammed phỏng theo thần học, luân lý, lễ nghi Do
Thái, thuyết thế mạt Ba Tư và thêm vào thuyết ma quỷ Ả-rập, tục hành hương
và hành lễ ở điện Kaaba, mà tạo nên Islam.
Ông chịu ảnh hưởng của Kitô giáo ít hơn. Xét Kinh Qur'an thì ta thấy
ông biết rất sơ sài về Kitô giáo, không đọc nguyên văn Thánh kinh Kitô giáo,
mà chỉ biết phần thần học trong đạo đó qua hình thức Cảnh giáo của Ba Tư
(một phái của Kitô giáo cho Chúa Kitô là người thường). Lời ông khuyên tín
đồ phải ăn năn sám hối kẻo bị Chúa trừng phạt là tư tưởng có màu sắc Kitô
giáo. Ông lẫn lộn Thánh mẫu Maria với Miriam, bà chị của tiên tri Moise, và
thấy tín đồ Kitô giáo hồi đó bắt đầu thờ Thánh mẫu Maria, ông tưởng người
Kitô giáo coi bà là một nữ thánh hợp với Chúa Cha, Chúa Kitô thành Tam vị
nhất thể [x. Q. 5:116]. Ông tin nhiều truyền thuyết về Kitô và về sự trinh khiết
hoài thai của Thánh mẫu Maria [x. Q. 3:47; 21:91]. Ông nhận rằng Chúa Kitô
làm được những phép màu, và ông khiêm tốn không cho mình có tài đó [x. Q.
3:49; 5:110]. Như một số tín đồ Kitô giáo lạc giáo ở mấy thế kỷ đầu, ông tin
rằng Thượng Đế đã đặt một con ma lên cây thánh giá thay Chúa Kitô, còn

19
Chúa thì được vô sự đưa lên trời. Nhưng Mohammed không thừa nhận rằng
Chúa Kitô là con của Thượng Đế. “Allah là Thượng Đế duy nhất! Ngài thực
quang vinh! Làm sao Ngàu có con trai được!” [Q. 4:171]. Ông khuyên các
người Do Thái và Kitô giáo - mà ông gọi là “dân tộc theo Thánh Kinh” - nên
thoả hiệp với ông và cùng thờ chung Allah với ông [Q. 3:64].
1.1.2. Quá trình hình thành và cấu trúc của Kinh Qur'an
Trong hai mươi ba năm cuối đời, Mohammed ngày nào cũng đọc một

vài Thiên khải cho tín đồ chép trên da súc vật, trên lá kè hoặc trên những khúc
xương, rồi đọc lên cho đám đông nghe, sau cùng xếp trong những cái hộp đủ
loại cùng với những đoạn trước không theo một thứ tự nội dung hoặc thứ tự
thời gian gì cả. Thời ông còn sống, không có một bản sưu tập nào; nhưng
nhiều môn đồ thuộc lòng hết, được coi như Thánh Kinh sống; người ta gọi
những môn đồ đó là Kurra. Năm 633, những Kurra đó chết gần hết mà không
có người nào thay, và vị Calife (quốc vương, người thừa kế) đầu tiên là Abu
Bekr ra lệnh cho Zaid Ibn Thabit là viên thư ký giỏi nhất của Mohammed thu
thập các đoạn trong Kinh Qur'an. Tương truyền Zaid gom góp “trên những lá
chà là, những phiến đá trắng và trong lòng người”[43, 54]. Bản chép tay của
Zaid được bổ xung và chép lại làm nhiều bản, nhưng những bản này không
dùng mẫu tự (ví dụ chữ sheik được viết là shk, chữ Qur'an được viết là Qr’n).
Nên công chúng có thể đọc và hiểu mỗi tiếng theo nhiều cách, do dó có nhiều
dị bản của Kinh Qur'an ở các thị trấn khác nhau của các đế quốc mà đế quốc
mỗi ngày mở rộng ra.
Muốn chặn đứng tình trạng hỗn độn, thiếu nhất trí đó, vị Calife thứ ba
là Qhrman đã sai Zaid và ba học giả xem lại bản chép tay của Zaid, sửa lại
thành bản chính thức, rồi chép lại thành các bản gửi tới các thị trấn Damas,
Kufa, Bassora; từ đó bản chính thức được tôn trọng, thuần chính, không ai sửa
đổi nữa.

20
Vì bộ Kinh Qur'an được Mohammed tùy hứng, tùy hoàn cảnh mà đọc
ra, nên nó không tránh được hai khuyết điểm: lặp đi lặp lại và không có trật
tự. Tách riêng ra thì mỗi đoạn nhằm một mục tiêu rõ rệt: trình bày một thuyết,
bắt phải đọc một kinh cầu nguyện, tuyên bố một đạo luật, vạch mặt một kẻ
thù, chỉ một phương sách, kể một câu chuyện, gọi lính, bố cáo thắng trận, ký
kết một hiệp ước, hô hào quyên tiền, qui định lễ nghi, luân lý, chế định kỹ
nghệ… Nhiều đoạn bàn bạc về một nhân vật lịch sử nào đó, nếu không chú
thích hoặc không biết lịch sử, truyền thuyết thì không thể hiểu được.

Toàn bộ Kinh Qur'an gồm 114 chương, mỗi chương lại được chia thành
các tiết có độ dài ngắn rất khác nhau (chương 103, 108, 110 có 3 tiết, chương
2 có 286 tiết). Trình tự các chương không được sắp xếp theo thứ tự sáng tác,
vì không ai biết được thứ tự đó, nên cứ sắp xếp theo dài ngắn, dài đặt lên trên,
ngắn để xuống dưới. Xét chung, những lời Khải thị đầu tiên của Mohammed
ngắn hơn những lời Khải thị sau. Về phương diện lịch sử, Kinh Qur'an đảo
ngược lại, chuyện trước lại để ở sau. Đầu kinh là những chương viết ở Madina
(622 - 632) gồm 24 chương, chiếm 1/3 bộ kinh, có tính cách thực tế, đa phần
là giáo luật và chủ trương xã hội, chương dài mà rõ ràng, có tính cách thực tế,
văn phong không hào sảng. Những bản ban hành ở Mecca (610 - 622) gọi là
chương Mecca, gồm 90 chương, chiếm 2/3 bộ kinh, đa phần lấy giáo lý làm
chủ đề, ngắn nhỏ mà hào hùng, có thi vị.
Cũng xin nói thêm về phong cách ngôn ngữ trong Kinh Qur'an. Người
Ả-rập tiền Islam phần nhiều không học nhưng rất thích thơ. Họ không có
những nhà bác học, các sử gia, nhưng say mê lời hùng biện, những mỹ từ và
những câu thơ rất điêu luyện. Ngôn ngữ họ gần giống cổ ngữ Do Thái
(Hebơrơ), có những biến hoá rắc rối của mẫu âm, một dụng ngữ phong phú.
Người Ả rập tự hào về ngôn ngữ vừa cổ vừa phong phú của mình, trong khi
nói cũng như trong khi viết, thích dùng những âm du dương để tạo những mỹ

21
từ. Và Kinh Qur'an đã không chỉ kế thừa những đặc tính ngôn ngữ đó, mà nó
còn thăng hoa lên tầm cao mới.
Mohammed nhận thấy rằng, không có một bộ điển lệ nào buộc dân
chúng tin lời được, nếu họ không tin rằng điển lệ đó do Thượng đế ban; mà
dân chúng không tuân lời thì xã hội không có trật tự, không hùng cường được.
Phương pháp đó hợp với lối văn hùng đại, có nhiệt khí. Lời của Mohammed
nửa như thơ, nửa như văn xuôi, nhịp nhàng và có vần, nhưng cũng có lúc bỏ
điệu, bỏ vần; và trong những chương cổ viết ở La Mecca có một nhịp điệu
kêu và tao nhã, mà chỉ những người biết rõ ngôn ngữ Ả-rập, có thiện cảm với

đạo Islam mới cảm nổi. Lời văn trong bộ Qur'an rất thuần khiết, đầy hình ảnh
rực rỡ, hoa mỹ. Ai cũng phải thừa nhận rằng nó là tác phẩm đầu tiên và hay
nhất bằng văn xuôi của dân tộc Ả-rập. Chính sức mạnh ngôn từ trong Kinh
Qur'an đã làm cho Kinh Qur'an có thêm sức mạnh chinh phục và cuốn hút tín
đồ tự hào và tụng đọc không biết chán, từ đó nội dung trong Kinh Qur'an đến
với tín đồ tự nhiên hơn, ăn sâu vào tâm khảm họ, và biến thành sức mạnh
hành động.
Kinh Qur'an có vị trí đặc biệt đối với sự ra đời của đạo Islam, ảnh
hưởng to lớn đến lối sống của tín đồ và sự phát triển phong hoá Islam. Kinh
Qur'an là kinh điển thần thánh duy nhất của Islam, là nguồn gốc chế độ tín
ngưỡng và tôn giáo của Islam, là nguyên tắc căn bản pháp lý Islam, là chuẩn
mực tối cao chỉ đạo hành vi cá nhân và đời sống xã hội của tín đồ, cũng là
xuất phát điểm của các loại học thuyết và trào lưu tư tưởng cùng với cơ sở lý
luận của thế giới Islam. Kinh Qu’ran ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đến toàn bộ
nền văn hoá Islam, từ ngôn ngữ, văn học, triết học đến nghệ thuật. Về mặt
ngôn ngữ, Kinh Qur'an đã làm cho ngôn ngữ Ả-rập trở nên thống nhất, được
bảo tồn và truyền bá rộng rãi. Về mặt ngữ văn, để hiểu thấu Kinh, phải đi sâu
nghiên cứu ngôn ngữ, ngữ nghĩa, cú pháp, phép tu từ…, do đó thúc đẩy khoa
ngữ văn Ả-rập phát triển. Nhiều truyền thuyết, truyện kể trong Kinh Qur'an

22
trở thành nguồn cảm hứng, đề tài sáng tác của các nhà văn, nhà thơ Ả-rập
Islam giáo sau này. Hơn nữa, để thấu hiểu Kinh Qur'an, cần phải nghiên cứu,
bình giải, chú thích…, do đó các khoa Kinh học Islam phát triển, kéo theo sự
phát triển của các ngành triết học, thần học, lịch sử và văn hoá… Kinh Qur'an
còn hướng dẫn các hoạt động nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ phải
tuân thủ những qui định một cách nghiêm ngặt. Ảnh hưởng của Kinh Qur'an
đối với các nước Islam cũng sâu rộng như ảnh hưởng của Kinh thánh đối với
văn hoá phương Tây và của các Kinh Phật đối với các nước Đông Á, Đông
Nam Á.

1.2. Nội dung cơ bản của Kinh Qur'an
Nội dung của Kinh Qur'an rất phong phú, nhưng dưới góc độ triết học
có thể quy về hai nội dung cơ bản là: vũ trụ quan và nhân sinh quan. Vũ trụ
quan được hiểu là những quan niệm về vũ trụ, vạn vật từ nguồn gốc, cấu tạo,
quá trình vận động, mục đích… Nhân sinh quan được hiểu là những quan
niệm về cuộc sống của con người.
1.2.1. Vũ trụ quan trong Kinh Qur'an
Có một chương trong Kinh Qur'an khẳng định nhiệt liệt tinh thần “duy
ngã độc tôn” của Allah, đó là chương 112, chương mà các tu sĩ Islam ngày
nào cũng tụng từ trên cả trăm ngàn giáo đường ở khắp nơi. Chương đó vang
lên rằng: “Nhân danh Allah, Đấng Rất Mực Độ Lượng, Đấng Rất Mực Khoan
Dung. Hãy bảo họ: “Ngài, Allah, là Một (Duy Nhất). Allah là Đấng Tự Hữu,
Độc Lập, Đấng Cung Dưỡng mọi sinh vật, Đấng Không Ăn, Không Uống.
Ngài không sinh ai, cũng không do ai sinh ra. Và không thể một ai có thể so
sánh ngang bằng với Ngài được.”[Q. 112:1-4].
Islam tin rằng, Allah trước hết là nguồn gốc của sự sinh trưởng và mọi
ân huệ trên thế giới. Allah phán với Mohammed: “Và con thấy sông cạn đất
khô, nhưng khi ta làm cho mưa trên cao trút xuống thì mặt đất chuyển động,
phồng lên và tất cả những cây đẹp đẽ đâm chồi nẩy lộc”[Q. 12:5]. “Thế con

×