Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tìm hiểu tư tưởng triết học trong tác phẩm Lút vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.32 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Một trong những cống hiến vĩ đại của Mác, Ăng-ghen là để lại cho nhân loại một di sản
lý luận đồ sộ. Mục tiêu của Đảng ta hiện nay là: nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác-Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho học thuyết này chiếm vị trí thống trị trong đời sống
văn hoá, tinh thần của xã hội ta, làm cho chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
thật sự là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cách mạng Việt
Nam. Cho nên sự thắng lợi của Cách mạng Việt nam, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta tuỳ thuộc vào việc triển khai và thực hiện lý luận Khoa học của chủ nghĩa
Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tác phẩm “Lút vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” là một tác
phẩm nhằm tổng kết lại toàn bộ triết học và chủ nghĩa Mác. Đánh giá lại những đóng
góp và hạn chế của Phoi-ơ-bắc. Tác phẩm được viết trong giai đoạn Ăng-ghen bảo vệ,
phát triển và hoàn thiện chủ nghĩa Mác. Do đó nó có một vai trò quan trọng trong việc
trang bị cho giai cấp công nhân cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh giai cấp chống lại triết
học tư sản.
Bài tiểu luận: Tìm hiểu tư tưởng triết học trong tác phẩm Lút vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo
chung của triết học cổ điển Đứctập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
• Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
• Những nội dung tư tưởng triết học trong tác phẩm.
• Giá trị, ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng tư tưởng triết học trong tác
phẩm đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Về phương pháp nghiên cứu: trên cơ sở các kiến thức đã được nghiên cứu về lịch sử
triết học, hệ thống các quan điểm, học thuyết trước Mác và cơ sở lý luận của phép biện
chứng duy vật tìm hiểu về nội dung của tác phẩm, từ đó rút ra các tư tưởng triết học, ý
nghĩa phương pháp luận và vận dụng trong thực tiễn Cách mạng ở Việt nam.
1
Tiểu luận được chia thành 4 phần chính như sau:
I. Hoàn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm.
II. Nội dung tư tưởng triết học trong tác phẩm
III. Ý nghĩa của tác phẩm
IV. Kết luận


Trong quá trình thực hiện nghiên cứu chuyên đề này, dù đã rất cố gắng, nhưng chắc
chắn rằng sẽ còn những sai sót, cần bổ sung. Kính mong nhận được sự chỉ bảo, sửa
chữa, góp ý từ các thầy và các bạn.
2
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Cùng với các tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, “Chống Đuyrinh”, tác phẩm “Lút
vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” ra đời vào thời kỳ sau
Công xã Pari (1871). Đây là thời kỳ trì trệ của phong trào công nhân. Lúc này, chủ
nghĩa cơ hội phát triển mạnh và lũng đoạn trong phong trào công nhân. Hơn nữa, hoảng
sợ trước phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản, trong hệ tư tưởng tư sản đã nảy sinh
một số khuynh hướng triết học, xã hội học phản động, ví dụ như học thuyết duy tâm của
Sôpenhauơ, Hát-man, chủ nghĩa Cantơ mới; chủ nghĩa Hium mới v.v… Trước tình hình
đó, đòi hỏi các nhà kinh điển phải tập trung tất cả hoạt động lý luận và chính trị để
chống lại chủ nghĩa cơ hội với mọi biến tướng của nó; chống lại hệ tư tưởng tư sản để
bảo vệ và phát triển những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác. Cùng với tác phẩm
“Chống Đuy-rinh”, tác phẩm “Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức” ra đời nhằm thực hiện ý định đã có từ lâu của Mác và Ăng-ghen là đề xuất
các quan điểm đối lập với những quan điểm tư tưởng của triết học cổ điển Đức. Ba năm
sau khi Mác qua đời, Ăng-ghen cho rằng cần phải trình bày quan điểm của hai ông về
chủ nghĩa duy tâm của Hê-ghen, chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc và chỉ rõ bước ngoặt
cách mạng trong lịch sử phát triển tư tưởng triết học do Mác và Ăng-ghen thực hiện.
Việc đánh giá toàn diện triết học cổ điển Đức (tập trung vào Hê-ghen, Phoi-ơ-bắc) được
Ăng-ghen coi là một món nợ danh dự phải trả.
Tác phẩm này được viết năm 1886, được Ăng-ghen dành nhiều cho vấn đề lịch sử triết
học. Ông đã nghiên cứu hàng loạt các vấn đề cơ bản của lịch sử triết học, trong đó nổi
bật là vấn đề đối tượng nghiên cứu của lịch sử triết học; phương pháp luận mác-xít về
lịch sử triết học; động lực phát triển của tư tưởng triết học v.v…
2. Kết cấu của tác phẩm
Tác phẩm gồm có Lời tựa và 4 phần:

Trong lời tựa viết năm 1888, Ăng-ghen trình bày lý do của việc viết tác phẩm này.
3
Phần I: Ăng-ghen đánh giá lại triết học của Hêghen. Ông coi triết học Hêghen là đỉnh
cao của triết học cổ điển Đức và là một trong những nguồn gốc lý luận của triết học
Mác. Trong khi đánh giá vai trò to lớn của phép biện chứng trong triết học Hêghen,
Ăng-ghen đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản trong triết học này là mâu thuẫn giữa phương
pháp biện chứng và hệ thống duy tâm siêu hình.
Phần II: Trên cơ sở phân tích vấn đề cơ bản của triết học, Ăng-ghen đã chỉ ra đối
tượng của lịch sử triết học mác xít là nghiên cứu cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm, chỉ ra sự phụ thuộc của tư tưởng triết học vào thực tiễn xã hội và
nhận thức khoa học tự nhiên. Đồng thời, ông cũng chỉ ra những hạn chế của chủ nghĩa
duy vật trước Mác, kể cả Phoi-ơ-bắc.
Phần III: Ăng-ghen tập trung phê phán tính chất không triệt để của triết học Phoi-ơ-
bắc, thể hiện ở quan điểm duy tâm về vấn đề tôn giáo và đạo đức, đồng thờ ông cũng
chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó.
Phần IV: Tác phẩm đề cập một cách khái quát và hệ thống những quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa duy vật biện biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời ông
khẳng định rằng sự ra đời của triết học Mác là một bước ngoặt trong sự phát triển của
lịch sử triết học.
Như vậy, qua kết cấu tác phẩm, Ăng-ghen cũng muốn chỉ ra rằng, triết học Mác có tiền
đề lý luận là triết học của Hêghen và triết học của Phoi-ơ-bắc, trong đó chủ nghĩa duy
vật của Phoi-ơ-bắc là khâu trung gian giữa triết học của Hêghen và triết học Mác. Do kế
thừa những giá trị triết học trước đó và do khái quát thực tiễn xã hội và nhận thức khoa
hoc, triết học Mác là hình thức phát triển cao của lịch sử triết học.
II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRONG TÁC PHẨM
Trong tác phẩm “Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”,
Ăng-ghen đã trình bày các vấn đề cơ bản như sau:
1. Vấn đề cơ bản của triết học
4
Trong tác phẩm này, Ăng-ghen đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vấn đề cơ bản của

triết học, từ đó đi đến xác định một cách khoa học đối tượng nghiên cứu của lịch sử triết
học và quy luật phát triển của triết học. Khái quát lịch sử triết học, Ăng-ghen viết: “Vấn
đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là cả triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa
tư duy và tồn tại”
1
.
Theo Ăng-ghen, vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại, giữa tinh thần với tự nhiên cũng
giống như bất cứ tôn giáo nào, có gốc rễ trong các quan niệm thiển cận và ngu dốt của
thời kỳ mông muội, thời kỳ mà con người không thể giải thích được bản chất của giấc
mơ, nên đã có qan niệm về quan hệ của linh hồn với thể xác. Đây chính là cơ sở nhận
thức luận của vấn đề cơ bản của triết học.
Ăng-ghen cũng chỉ ra hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học. Chính việc giải quyết mặt
thứ nhất - giữa tư duy và tồn tại, tinh thần và tự nhiên cái nào có trước, cái nào có sau,
đã phân các nhà triết học thành hai phe đối lập: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Mặt thứ hai, đó là “tư duy của chúng ta có thể nhận thức được gọi là thế giới hiện thực
không?... vấn đề đó được gọi là vấn đề tính đồng nhất giữa tư duy và tồn tại”. Khi khái
quát lịch sử triết học, Ăng-ghen thấy rằng đa số các nhà triết học thừa nhận con người
có khả năng nhận thức được thế giới. Song còn một số nhà triết học khác như Hium và
Cantơ lại phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người. Ăng-ghen phê phán
khuynh hướng bất khả tri luận đó và của cả phái Cantơ mới, phái Hium mới, ông viết:
“Sự bác bỏ một cách hết sức đanh thép ý ngông triết học ấy, cũng như tất cả những triết
học khác là thực tiễn, tức thực nghiệm và công nghiệp”. Ăng-ghen đã đưa ra những phát
minh khoa học để bác bỏ bất khả tri luận và cho rằng khi người ta nhận thức được “vật
tự nó” và áp dụng một cách có hiệu quả thì “vật tự nó” sẽ chuyển thàh vật cho ta.
Trên cơ sở của việc phân tích vấn đề cơ bản của triết học, Ăng-ghen xác định đối tượng
nghiên cứu của lịch sử triết học là cuộc đấu tranh giữ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm diễn ra xoay
quanh vấn đề cơ bản của triết học.
1
Các Mác, Phri đíchĂngghen: Tuyển tập, NXB Sự thật, Hà nội, 1984, tập VI, trang 372.

5
Ăng-ghen cũng phê phán quan điểm duy tâm coi lịch sử triết học như là lịch sử phát
triển kinh tế, xã hội; là sản phẩm của tư duy thuần tuý của nhà triết học. Trái lại, Ăng-
ghen chỉ ra rằng: “cái thúc đẩy các nhà triết học tiến lên, hoàn toàn không phải chỉ là
sức mạnh của tư duy thuần tuý, như họ tưởng tượng. Cái thật ra đã thúc đẩy họ tiến lên
thì chủ yếu là bước tiến mạnh mẽ, ngày càng nhanh chóng và ngày càng mãnh liệt của
khoa học tự nhiên và của công nghiệp”. Như vậy, Ăng-ghen đã nhấn mạnh đến vai trò
của khoa học và công nghiệp trong sự phát triển của tư tưởng triết học. Khi khẳng định
nội dung của triết học chịu sự quyết định của quá trình phát triển các quan hệ kinh tế -
xã hội, Ăng-ghen cũng coi triết học là một trong những phương tiện quan trọng trong
cuộc đấu tranh tư tưởng của các giai cấp trong xã hội.
2. Đánh giá triết học Hêghen
Khi cho rằng Phoi-ơ-bắc bắt đầu từ triết học của Hêghen, sau đó đoạn tuyệt với nó, phục
hồi và phát triển chủ nghĩa duy vật, Ăng-ghen đã đánh giá một cách khoa học triết học
Hêghen. Trước hết, Ăng-ghen đã chỉ ra mâu thuẫn cơ bản của triết học Hêghen, đó
chính là mâu thuẫn giữa phép biện chứng với hệ thống triết học. Nếu phép biện chứng là
hạt nhân hợp lý, là mặt tiến bộ của triết học Hêghen, thì ngược lại, hệ thống triết học
của Hêghen lại duy tâm, siêu hình. Chính yêu cầu của hệ thống đã dẫn Hêghen đến việc
thừa nhận điểm cuối cùng trong nhận thức triết học và thực tiễn lịch sử. Ăng-ghen viết:
“Tuyên bố rằng toàn bộ nội dung giáo điều của hệ thống Hêghen đều là chân lý tuyệt
đối, vậ là trái với phương pháp biện chứng của ông ta, phương pháp đã phá bỏ mọi cái
có tính chất giáo điều. Như thế nghĩa là mặt cách mạng của học thuyết Hêghen đã bị đè
bẹp bởi sự trưởng thành quá khổ của mặt bảo thủ của nó. Và điều mà đúng với nhận
thức triết học thì cũng lại đúng với cả thực tiễn lịch sử nữa”. Theo Ăng-ghen, đặc điểm
đó của triết học Hêghen phản ánh sự thoả hiệp của giai cấp tư sản Đức nhỏ bé, yếu hèn
về kinh tế và chính trị không đủ sức làm cuộc cách mạng tư sản như cuộc cách mạng tư
sản Pháp (1789), mà chỉ mong muốn có những cải cách ôn hoà của giai cấp thống trị.
Song, Ăng-ghen cũng chỉ ra đóng góp to lớn của Hêghen trong sự phát triển tư tưởng
triết học của nhân loại như sau: “Nhưng tất cả những điều đó không ngăn trở hệ thống
Hêghen bao trùm một lĩnh vức hết sức rộng hơn lĩnh vực của bất cứ hệ thống nào trước

6

×