ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
DƯƠNG QUANG ĐIỆN
(Thích Thanh Điện)
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN VĂN HOÁ
DÂN GIAN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI – 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
DƯƠNG QUANG ĐIỆN
(Thích Thanh Điện)
ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN VĂN HOÁ
DÂN GIAN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 62.22.90
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Giáo viên hướng dẫn
PGS.TS. DƯƠNG VĂN THỊNH
HÀ NỘI – 2010
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp của luận văn 5
7. Ý nghĩa của luận văn 5
8. Kết cấu của luận văn 5
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẬT GIÁO VÀ
VĂN HÓA DÂN GIAN VIỆT NAM 6
1.1. Khái lược chung về Phật giáo và văn hóa dân gian Việt Nam . 6
1.1.1. Tổng quan chung về Phật giáo 6
1.1.2. Khái lược chung về văn hóa dân gian Việt Nam 16
1.2. Sự tác động của Phật giáo đến văn hóa dân gian Việt Nam 21
Chương 2: MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN VĂN HÓA
DÂN GIAN VIỆT NAM 36
2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn học dân gian Việt Nam 37
2.1.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến ca dao, tục ngữ 37
2.1.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến các tích truyện dân gian 45
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tín ngưỡng, lễ hội và nghệ thuật
biểu diễn dân gian Việt Nam 60
4
2.2.1. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tín ngưỡng, lễ hội dân gian . 60
2.2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến nghệ thuật biểu diễn dân gian 75
2.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế
ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đến văn hóa dân gian Việt Nam 87
KẾT LUẬN 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo du nhập và phát triển ở nước ta đã hơn 18 thế kỷ, một chiều
dài lịch sử khá đủ để Phật giáo dù truyền từ Ấn Độ vào hay từ Trung Hoa
sang được bản địa hóa, dân gian hóa tạo nên bản sắc riêng của Phật giáo Việt
Nam. Phật giáo đã thấm nhuần trong nếp sống, nếp nghĩ, tư duy và tình cảm
của người dân Việt Nam từ nhiều thế hệ và mọi tầng lớp.
Sự hội nhập của Phật giáo trong nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn
hóa dân gian – một mảng văn hóa bình dị, dân dã, mộc mạc và quần chúng
của người Việt một cách rất tự nhiên thể hiện đặc trưng cơ bản nhất của Phật
giáo Việt Nam. Nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Hinh cho rằng: “Đặc trưng cơ
bản của Phật giáo Việt Nam là tính dân gian là tính trội. Phật giáo được tiếp
nhận như một tôn giáo…Phật giáo Việt Nam tôn giáo hơn hệ tư tưởng, cho
nên thiên về bố thí cứu độ hơn là tìm giải thoát sinh tử…Vì là tôn giáo dân
gian, nên thâm nhập vào tâm hồn nhân dân sâu sắc khiến cho tựa hồ ai ai
cũng là tín đồ Phật giáo”[26;790].
Có thể nói rằng, Phật giáo là một tổ hợp văn hóa góp phần tạo nên một
lát cắt trong nền văn hóa đa diện của Việt Nam. Chính điều này đã khẳng
định được sức mạnh trường tồn của một nền văn hóa rất Việt Nam, một nền
văn hóa đa dạng, tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc luôn đồng hành cùng
thế kỷ và trường tồn mãi với thời gian.
Ngày nay, trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Trước
những luồng tư tưởng văn hóa ngoại lai, việc nghiên cứu sự tích hợp của các
yếu tố văn hóa tạo nên văn hóa dân tộc trong đó đặc biệt là tôn giáo rất quan
trọng nhằm khẳng định căn tính văn hóa Việt. Điều này được Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm. Báo cáo chính trị Văn kiện đại hội IX và X Đảng ta
2
đều khẳng định: “Phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa và đạo đức của
tôn giáo”. Vì vậy, việc nghiên cứu “Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa
dân gian Việt Nam” không chỉ góp phần làm sáng tỏ sự hội nhập của Phật
giáo vào nền văn hóa dân tộc nói chung mà cụ thể hơn là với văn hóa dân
gian nói riêng. Góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam đáp ứng nhu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về Phật giáo và sự hội nhập của Phật giáo đối với văn hóa
Việt Nam trong lịch sử và hiện tại có khá nhiều công trình nghiên cứu khác
nhau. Có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như:
Nghiên cứu về lịch sử Phật giáo và Phật giáo Việt Nam có thể kể đến
một số công trình điển hình sau đây: Phật học khái lược của Lưu Vô Tâm,
Nxb. Tôn giáo, năm 2002; Kimura Taiken với Nguyên Thủy Phật giáo tư
tưởng luận, Nxb. Tôn giáo, năm 2007; Việt Nam Phật giáo sử luận (2 tập)
của Nguyễn Lang, Nxb. Văn học, năm 2000; Lịch sử Phật giáo Việt Nam của
nhiều tác giả do Nguyên Tài Thư (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội, năm
1998; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb. Khoa học
xã hội, năm 1999; Lịch sử Phật giáo Việt Nam (2 tập) của Lê Mạnh Thát,
Nxb. TP. Hồ Chí Minh, năm 2001…. Xét ở góc độ khái quát chung nhất,
các công trình trên với nội dung đề cập đến những vấn đề về lịch sử Phật
giáo, và lịch sử Phật giáo Việt Nam, những tư tưởng và giáo lý cơ bản của
đạo Phật, quá trình truyền bá và các chặng đường phát triển của Phật giáo
Việt Nam, một số đặc điểm cơ bản của Phật giáo Việt Nam.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tôn giáo và văn hóa có thể kể đến
các tác phẩm: “Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam” của tác giả
Minh Chi, Nxb. Tôn giáo năm 2003; “Sự tác động qua lại giữa văn hóa và
tôn giáo” của Lê Văn Lợi, Nxb. Đại học Quốc gia, năm 1999; Tôn giáo
3
trong mối quan hệ với văn hóa và phát triển ở Việt Nam của Nguyễn Hồng
Dương, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2004; Tôn giáo và văn hóa của Trương
Sỹ Hùng, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2007…. Đây là những công trình đề
cập một cách tổng thể nhất mối quan hệ giữa tôn giáo và văn hóa Việt Nam,
trong đó có mối quan hệ giữa Phật giáo và văn hóa Việt Nam cũng được đề
cập nhưng ở góc độ tổng quan nhất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội như tư tưởng, văn hóa vật thể, phi vật thể… Và ảnh hưởng của Phật giáo
đến văn hóa dân gian cũng được đề cập nhưng chưa có sự bóc tách, phân tích
một cách chuyên sâu và hệ thống thành một vấn đề.
Ngoài ra trên một số tạp chí nghiên cứu mà điển hình là Tạp chí Triết
học, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo cũng có một số bài đề cập tới vấn đề Phật
giáo trong mối quan hệ với văn hóa Việt Nam, chẳng hạn như bài: “Tìm hiểu
những đặc trưng của Phật giáo trong quá trình hội nhập với văn hóa Việt
Nam” của Trần Văn Trình, Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 6, năm 1999;
“Triết học nghệ thuật Việt Nam trong quá trình tiếp thu tư tưởng Phật giáo”
của Vũ Khiêu, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5 năm 2006; “Vài suy nghĩ
về sự hội nhập của Phật giáo vào nền văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, số 4, năm 2004….
Tổng quan chung về tình hình có thể thấy, nhìn chung các tác phẩm
đều nghiên cứu hoặc có đề cập đến mối quan hệ giữa Phật giáo với văn hóa
dân tộc nhưng ở tầm bao quát rộng mà chưa có một công trình nào cụ thể,
chuyên sâu nghiên cứu về "Ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa dân gian
Việt Nam" một cách có hệ thống. Vì vậy, chúng tôi hy vọng với đề tài của
mình sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa
Việt Nam trên một số lĩnh vực cụ thể như văn học dân gian, tín ngưỡng và lễ
hội dân gian, âm nhạc, diễn xướng và sân khấu dân gian. Khẳng định tính
chất dân gian trong Phật giáo chính là khẳng định căn tính riêng biệt và độc
4
đáo của Phật giáo Việt Nam. Khẳng định nguồn cội hội nhập của Phật giáo
với văn hóa dân tộc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận mác xít về tôn giáo và
văn hóa, luận văn phân tích, làm sáng tỏ những ảnh hưởng của Phật giáo đến
văn hóa dân gian Việt Nam thông qua một số lĩnh vực biểu hiện cụ thể trong
ca dao, tục ngữ, tín ngưỡng, nghệ thuật sân khấu dân gian của người Việt
Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có
nhiệm vụ:
Thứ nhất: Trình bày tổng quan về Phật giáo và văn hóa dân gian.
Thứ hai: Phân tích những ảnh hưởng của Phật giáo đến một số loại
hình văn hóa dân gian Việt Nam. Qua đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm
phát huy những giá trị của Phật giáo trong văn hóa dân gian Việt Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Những ảnh hưởng của Phật giáo đối với
văn hóa Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:Luận văn chỉ nghiên cứu những ảnh hưởng
của Phật giáo đối với văn hóa dân gian Việt Nam trên một số lĩnh vực cụ thể
như: Văn học dân gian; Tín ngưỡng, lễ hội dân gian; âm nhạc, diễn xướng và
sân khấu dân gian.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn đựơc xây dựng trên cơ sở vận dụng các
nguyên lý, quan điểm mác xít như: quan điểm duy vật lịch sử về tôn giáo và
văn hóa.
5
Luận văn cũng tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước về Phật giáo và văn hóa Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp của
Tôn giáo học và Triết học, phương pháp lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng
hợp, đối chiếu và so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn phân tích một số ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa dân
gian Việt Nam biểu hiện trên một số lĩnh vực như: Văn học dân gian; Tín
ngưỡng, lễ hội dân gian; âm nhạc, diễn xướng và sân khấu dân gian Việt
Nam nhằm khẳng định tính chất riêng có của Phật giáo Việt Nam , vai trò
của Phật giáo đối với đời sống văn hóa của người Việt Nam.
7. Ý nghĩa của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần vào việc phân tích làm sáng tỏ
những ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa dân gian Việt Nam trên một
số lĩnh vực cụ thể như: Văn học dân gian; Tín ngưỡng, lễ hội dân gian; âm
nhạc, diễn xướng và sân khấu dân gian. .
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu và giảng dạy về tôn giáo nói chung, Phật giáo và văn hóa Việt
Nam nói riêng, cho việc hoạch định chính sách đối với tôn giáo của Đảng và
Nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
nội dung chính của luận văn gồm 02 chương 05 tiết.
6
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẬT GIÁO VÀ
VĂN HÓA DÂN GIAN VIỆT NAM
1.1. Khái lược chung về Phật giáo và văn hóa dân gian Việt Nam
1.1.1. Tổng quan chung về Phật giáo
Phật giáo là một trong ba tôn giáo thế giới ra đời vào khoảng thế kỷ thứ
VI, TCN ở Ấn Độ. Thế kỷ III, II TCN Phật giáo được coi là quốc giáo ở Ấn
Độ, sau đó được truyền bá, lan tỏa sang các nước lân cận và khu vực. Ngày
nay Phật giáo có mặt ở nhiều nước trên thế giới.
Phật giáo ra đời trong điều kiện kinh tế xã hội Ấn Độ có sự chuyển
biến sâu sắc. Ấn Độ là một quốc gia có lịch sử lâu đời và nền văn minh phát
triển sớm, từ thiên niên kỷ thứ III TCN, đó là nền văn minh tiền Vêda. Từ
khoảng 1500 năm TCN, do những biến động xã hội Ấn Độ đã chuyển sang
một nền văn minh mới là nền văn minh Vêda. Phật giáo ra đời trong nền văn
minh này.
Phật giáo ra đời trong bối cảnh nền kinh tế Ấn Độ có sự phát triển
mạnh mẽ, tạo nên những biến động lớn về mặt xã hội.
Về kinh tế: Thế kỷ VI (TCN) Ấn Độ đã là quốc gia phát triển. Công cụ
sản xuất bằng sắt phổ biến. Xã hội đã có sự phân công lao động giữa nông
nghiệp, thủ công và thương nghiệp. Sự phát triển của sản xuất, sự xuất hiện
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là nguyên nhân khiến cho sự phân hóa và
mâu thuẫn giai cấp ở Ấn Độ trở nên sâu sắc.
Chế độ đẳng cấp, sự phân hóa giai cấp, đẳng cấp khắc nghiệt là một
đặc điểm của xã hội Ấn Độ. Xã hội tồn tại 4 đẳng cấp:
Tăng lữ (Brahma) hay còn gọi là đẳng cấp Bà la môn. Đây là đẳng cấp
cao nhất, thống trị đời sống tinh thần xã hội, có đặc quyền chính trị xã hội,
7
đồng thời được coi là “Thần của nhân gian”. Đẳng cấp này vừa thực hiện
chức năng thần quyền và một phần chức năng thế quyền.
Quý tộc (Kshatrya): tầng lớp võ sỹ, quý tộc, những người thực hiện
chức năng thế quyền, luôn chấp hành quyền lực thế tục, được coi là người
bảo hộ của nhân dân. Tuy nhiên đẳng cấp này luôn bị đẳng cấp Bà la môn
lấn át.
Dân tự do (Vaisya): gồm nông dân, thợ thủ công, nhà buôn là lực
lượng chính tạo ra của cải vật chất cho xã hội, có nghĩa vụ phải nộp thuế.
Nô lệ (Shudra): nô lệ có nghĩa vụ phục tùng các đẳng cấp trên. Khác
với phương Tây, họ chủ yếu là nô lệ gia đình, làm công việc hầu hạ, phục
dịch cho các đẳng cấp trên.
Sự phân hóa đẳng cấp trên tạo ra mâu thuẫn xã hội gay gắt và là
nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc đấu tranh chống lại sự phân hóa đó,
chống lại đẳng cấp cao nhất. Tuy nhiên những cuộc đấu tranh đó không đạt
được kết quả. Trên cơ sở đó Phật giáo ra đời với mong muốn đem lại sự bình
đẳng cho con người, song đó là sự bình đẳng về tinh thần.
Phật giáo ra đời trong thời kỳ văn minh Vêda có sự phát triển mạnh
mẽ về văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo.
Về văn hóa: Thời kỳ này có những phát minh quan trọng về toán học,
thiên văn học và đặc biệt là triết học. Sự phát triển của triết học Ấn độ tạo
tiền đề tư tưởng và lý luận cho Phật giáo ra đời. Phật giáo đã tiếp thu tư
tưởng của các trào lưu triết học Ấn Độ: Luận về quan hệ Nhân – Quả của
phái Sam khuya; Thuyết nguyên tử của phái Vaisêsika; Tư tưởng của đạo
Bàlamôn quan niệm có tính thần bí như luân hồi, nghiệp báo; Đặc biệt là
truyền thống tư duy trừu tượng đã đạt đến trình độ cao của tư duy Ấn Độ khi
bàn đến các phạm trù Không – Hữu…
Về tín ngưỡng tôn giáo, thời kỳ này ở Ấn Độ đạo Bàlamôn giữ vai trò
thống trị. Đạo Bàlamôn đề cao vai trò của đấng tối cao, hạ thấp vai trò con
8
người, đặc biệt là tầng lớp thấp hèn. Đây là một tôn giáo đề cao tuyệt đối hóa
sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp. Đạo Phật ra đời là sự phản bác lại sự bất
bình đẳng của Balamôn nhưng lại tiếp thu những quan niệm của Bàlamôn
như: Nghiệp, kiếp, luân hồi…
Người sáng lập Phật giáo là Thái tử Tất Đạt Đa (624 – 544. TCN –
hình 1), con vua Tịnh Phạn, trị vì nước Ca tỳ la vệ (Nê Pan ngày nay). Ông
sống trong cuộc sống giàu sang nơi cung đình nên không biết những khổ
cực, bất hạnh ngoài xã hội. Nhưng sau 4 lần trực tiếp ra ngoài thành, tận mắt
chứng kiến nỗi khổ của con người và quyết tâm noi theo gương các đạo sĩ đi
tìm đường cứu khổ cho dân chúng.
Năm 19 tuổi, ông bỏ nhà ra đi để trở thành một ẩn tu. Sau 11 năm học
đạo và khổ tu, ông nhận thấy lối tu đó không thể giải thoát cho con người
khỏi nỗi đau sinh, lão, bệnh, tử. Bằng sự kiên trì ông đã phát hiện ra con
đường “trung đạo” có thể dẫn con người tới giải thoát. Sau 49 ngày tư duy,
ông tuyên bố đạt đến chân lý và hiểu được bản chất sự tồn tại của nhân sinh.
Từ đó ông được gọi là Thích Ca Mâu Ni- người giác ngộ chân lý đầu tiên.
Và ông bắt đầu sự nghiệp hoằng bá của mình, thu nạp đệ tử, thành lập các
tăng đoàn Phật giáo.
Những giáo lý mà Phật Thích Ca và các đệ tử của Ngài truyền bá đến
quần chúng nhân dân có nội dung đề cập đến các vấn đề về: “Tứ diệu đế” và
“Niết bàn”…Đó là quá trình lý giải vấn đề về khổ và sự diệt khổ đế đạt đến
“Niết bàn”.
Về “Tứ diệu đế: “Tứ diệu đế” cắt nghĩa bản chất và nguyên nhân gây
ra đau khổ và con đường khắc phục sự đau khổ. Bao gồm 4 nguyên nhân
chính sau:
Khổ đế: Bản chất của nhân sinh là khổ, nỗi khổ do con người tự gây
nên. Gồm “Bát khổ”: Sinh khổ; Lão khổ; Bệnh khổ; Tử khổ; Sở cầu bất đắc
khổ; Ái thụ biệt khổ; Oán tăng hội khổ; Ngũ uẩn khổ. Tám cái khổ trên thuộc
9
về quy luật sinh tồn và quan hệ hiện thực của con người do vậy, thoát khổ
chính là thoát khỏi quy luật sinh tồn và quan hệ hiện thực đó.
Tập đế: Giải thích nguyên nhân đau khổ do sự ngu dốt (vô minh) và
lòng khát ái (ái dục) của con người. Do vậy, con người sống, suy nghĩ và
hành động không đứng đắn nên không thấy được thực tướng của vạn vật là
giả, là huyễn…Từ nhận thức sai lầm, con người hành động sai lầm và lời nói
sai lầm nên sinh ra đau khổ. Tập đế gồm 10 nguyên nhân: Tham lam, giận
dữ, si mê; kiêu mạn, nghi ngờ; biên kiến; tà kiến; kiến thủ; thân kiến; giới
cấm. Trong mười nguyên nhân trên có những nguyên nhân thuộc về quan hệ
hiện thực, nhận thức và giới luật.
Diệt đế: là kết quả hạnh phúc, giải thoát và an lạc. Diệt hết những
nguyên nhân đau khổ trên, diệt khổ từ gốc, sống hạnh phúc và an vui. Tức là
ngộ Phật pháp sẽ đạt đến sự giải thoát khỏi đau khổ. Những nguyên nhân gây
đau khổ đều do chính con người tạo ra, do vậy, chính con người là chủ thể
của sự diệt khổ. Phật giáo đề cao con người trong việc quyết định số phận
của mình. Tuy nhiên, hạn chế trong quan niệm này là cho rằng cái khổ của
con người ở kiếp này có thể do kiếp trước gây nên, do đó tạo nên tính chất
duy tâm trong Phật giáo.
Đạo Đế: là con đường tu dưỡng để trở thành đạo (được giải thoát).
Gồm tám con đường lớn gọi là “Bát chánh đạo” (hay “Tam học”) gồm: Tuệ
(Chính kiến, chính tư duy); Giới (chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh);
Định (Chính tinh tấn,chính niệm, chính định).
Niết bàn: là trạng thái vắng lặng, tịch diệt, nếu con người đạt tới thì sẽ
sống an nhiên tự tại, vô ngã vị tha. Đây là trạng thái lý tưởng, được hiểu theo
hai cách:
Niết bàn tồn tại ở nơi sau khi con người chết, nếu tu hành đắc đạo linh
hồn sẽ được siêu thoát về thế giới Niết bàn. Niết bàn cũng có nhiều bậc khác
nhau. Hướng con người tới thế giới siêu nhiên.
10
Niết bàn có thể tồn tại ngay trong thế giới trần tục, con người có thể
đạt tới khi loại bỏ được “tham, sân, si”, thoát khỏi vô minh, sống an nhiên tự
tạo, vô ngã vị tha. Hướng con người vào đời sống trần thế.
Đối lập với “Niết bàn” là “Địa ngục”. Sự tồn tại của “Niết bàn” và “Địa
ngục” có giá trị chủ yếu về mặt hướng thiện, giáo dục đạo đức con người.
Với tư tưởng từ bi hỉ xả, vô ngã vị tha, giáo lý hướng thiện, giàu tính
nhân bản, Phật giáo đã nhanh chóng lan tỏa ra nhiều nước trên phạm vi toàn
thế giới.
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ I, thứ II sau CN
thông qua sự giao lưu buôn bán của người Ấn và người Trung Hoa với người
Việt. Phật giáo được du nhập vào nước ta thời Bắc Thuộc theo hai con
đường: Đường thuỷ và đường bộ. Qua đường bộ người Việt tiếp nhận Phật
giáo một cách gián tiếp, qua đường thủy tiếp nhận một cách trực tiếp.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam là một quá trình liên tục từ thế kỷ I
đến thế kỷ thứ VI. Sau này, thế kỷ X, XI và XVI, XVII Phật giáo còn được
tiếp tục du nhập vào Việt Nam và có mặt trên khắp đất nước Việt. Ở phía
Bắc, Phật giáo du nhập vào trung tâm Luy Lâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) và
lan tỏa, phát triển dần sang các khu vực khác.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam trong bối cảnh các tín ngưỡng bản
địa như thờ thần tự nhiên, thờ tổ tiên…phát triển khá mạnh, do vậy có sự
tương tác, cùng chung sống giữa Phật giáo với các tín ngưỡng tôn giáo này,
có sự hội nhập giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa, Phật giáo đã được
người Việt chấp nhận. Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam thời kỳ đầu du
nhập đồng nhất giữa Trời với Thần với Phật, đề cao Phật Quan Thế Âm…
Phật giáo du nhập vào Việt Nam thời kỳ đầu gồm các giáo phái chính:
Thiền tông: là một tông phái Phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ Đề Đạt
Ma (Boddidharma) sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ 6. "Thiền"
là cách gọi tắt của "Thiền na" (Dhyana), có nghĩa là "Tĩnh tâm", chủ trương
11
tập trung trí tuệ để quán định (thiền) nhằm đạt đến chân lý giác ngộ của đạo
Phật. Theo Thiền tông, "thiền" không phải là "suy nghĩ" vì suy nghĩ là "tâm
vọng tưởng", làm phân tâm và mầm mống của sinh tử luân hồi. Cách tu theo
Thiền tông đòi hỏi phải tập trung toàn bộ công sức và thời gian cộng với
phải có khả năng đốn ngộ. Yêu cầu đó chỉ có những kẻ căn cơ cao mới có
được nên người tu thiền thì nhiều nhưng người chứng ngộ quả thật rất là
hiếm hoi. Tuy nhiên lịch sử Thiền tông ở Việt Nam cũng có một lịch sử rõ
ràng hơn cả.
Dòng thiền tu thứ nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam do nhà sư Tỳ
Ni Đa Lưu Chi lập ra. Ông là người Ấn Độ, qua Trung Quốc rồi đến Việt
Nam vào năm 580, tu tại chùa Pháp Vân (hay chùa Dâu), thuộc huyện Thuận
Thành tỉnh Bắc Ninh và truyền cho tổ thứ hai là Pháp Hiền. Dòng thiền này
truyền được đến 19 thế hệ.
Dòng thiền tu thứ hai do Vô Ngôn Thông, người Trung Quốc lập ra
vào năm 820, tu tại chùa Kiến Sơ, thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà
Nội. Dòng thiền này truyền được đến 17 đời.
Dòng thiền thứ ba do Thảo Đường, người Trung Quốc, vốn là tù binh
bị bắt tại Chiêm Thành và được vua Lý Thánh Tông giải phóng khỏi kiếp nô
lệ và cho mở đạo tại chùa Khai Quốc vào năm 1069. Dòng thiền này truyền
được đến 6 đời. Năm 1299, vua Trần Nhân Tông, dưới sự hướng dẫn của
thiền sư Tuệ Trung Thượng Sỹ, xuất gia và lên tu ở núi Yên Tử, thuộc huyện
Uông Bí, Quảng Ninh, thống nhất các thiền phái tồn tại trước đó và lập nên
Thiền phái Trúc Lâm. Sau này, một số thiền phái khác xuất hiện như phái
Tào Động dưới thời Trịnh-Nguyễn, phái Liên Tôn vào thế kỷ 16-19 (có trụ
sở tại chùa Bà Đá và chùa Liên Phái, Hà Nội), phái Liễu Quán (Liễu Quán là
tên một vị tổ thuộc dòng Lâm Tế) vào thế kỷ 18 (miền Trung), phái Lâm Tế
dưới thời nhà Nguyễn (miền Trung, và sau này phát triển ở miền Nam). Thiền
tông Việt Nam đề cao cái "tâm", "Phật ở tại tâm", tâm là Niết Bàn, hay Phật.
12
Tịnh độ tông: là một tông phái Phật giáo, chủ trương tu dựa trên tha
lực của Phật A Di Đà. Tha lực này rất quan trọng đối với căn cơ con người
thời nay. Phật Thích Ca Mầu Ni có lần thuyết giảng: "Một viên đá dù nhỏ
đến mấy mà ném xuống nước thì nó cũng chìm, nhưng nếu một hòn đá dù to
đến mấy mà đặt trên bè thì nó cũng nổi".
Trong Tịnh Độ tông, có tồn tại một cõi Phật cụ thể, gọi là Thế giới
Cực Lạc do đức Phật A Di Đà (tiếng Phạn: Amitabha) làm giáo chủ. Việc tu
hành được mở rộng ra những hành động đơn giản như đi thăm chùa, tụng
danh Phật A Di Đà. Nhờ cách như vậy mà Tịnh Độ tông là tông phái phổ
biến khắp cõi Việt Nam. Đi đến đâu ta cũng gặp người dân tụng niệm câu
"Nam mô A Di Đà Phật" (có nghĩa là "Nguyện quy theo đức Phật A Di Đà").
Tượng Phật A Di Đà là tượng có mặt ở khắp mọi nơi và có mặt từ rất lâu đời.
Mật tông: là một tông phái Phật giáo chủ trương sử dụng những phép
tu tụng niệm các mật chú để đạt đến chân lý giác ngộ. Cũng còn gọi là Lạt
Ma tông, Mật tông là sự hợp nhất giới luật của thuyết nhất thiết hữu bộ và
nghi thức tác pháp của Kim Cương thừa. Bước quyết định trong nghi thức
này là lễ Quán Đỉnh do một vị sư cả (hay "lạt ma") ban phép cho người đệ tử
được nhập thiền định tâm vào một vị Phật cụ thể bằng cách đọc chân âm, suy
niệm đồ hình Man- đà- la và thực thi ấn quyết để đạt đến độ thăng hoa loại
bỏ ý niệm nhị nguyên đặng nhập vào Chân Như, vào cõi Không. Trạng thái
đó được biểu tượng bằng Kim cương chử. Để làm chủ được các nghi thức tác
pháp của Mật tông (còn gọi là Kim Cương thừa) thì điều tiên quyết là phải
thấu hiểu giáo nghĩa của Bát-nhã-ba-la-mật-đa của Long Thọ và Vô Trước.
Giáo nghĩa Bát-nhã-ba-la-mật-đa được gọi là "Nhân thừa", và giáo nghĩa
Kim Cương thừa được gọi là "Quả thừa". Tương truyền rằng Mật tông do
đức Phật Đại Nhật khởi xướng. Mật tông có hai bộ kinh cơ bản là Đại Nhật
kinh và Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh. Như vậy, từ thế kỉ thứ 3 đến
thế kỉ thứ 7, Thiền tông Việt Nam mang đậm giáo nghĩa Tam Luận tông của
13
Long Thọ, mà đặc biệt là tư tưởng Bát-nhã-ba-la-mật-đa của Long Thọ và
Vô Trước. Các thiền sư thuộc Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi không chỉ uyên
thâm về Phật pháp mà nhiều vị rất có uy tín với triều đình và biểu thị rõ ý
thức độc lập tự chủ của đất nước. Các thiền sư Pháp Thuận, Ma Ha (thế kỉ
thứ 10), Sùng Phạm (thế kỉ 12), đều làm cố vấn cho nhà vua không chỉ việc
đạo mà cả việc đời, việc ngoại giao.
Dòng Tì Ni Đa Lưu Chi còn kéo dài mãi đến thế kỉ 19. Đặc biệt, các
thiền sư dòng Tì Ni Đa Lưu Chi thường có hình thức tu tập "Tổng Trì Tam
Muội", một hình thức tu tập phổ biến của Mật giáo, dùng chân âm kết hợp
với ấn quyết trong trạng thái đại định để giữ được thân, khẩu, ý. Ở Hoa Lư
(Ninh Bình), một cột kinh Phật bằng đá vào thế kỉ thứ 10 có khắc bài thần
chú Phật Đỉnh Tối Thắng Đà La Ni, một thần chú phổ biến của Mật tông, đã
được phát hiện. Khi vào Việt Nam, Mật tông không tồn tại độc lập như một
tông phái riêng mà nhanh chóng hòa lẫn vào dòng tín ngưỡng dân gian với
những truyền thống cầu đồng, pháp thuật, yểm bùa, trị tà ma, chữa bệnh,
Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng
thực hiện hai điều đó là khế lý và khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố
này Phật giáo sẽ chẳng còn là Phật giáo nữa. Duy trì và phát triển hai yếu tố
này, Phật giáo được truyền vào Việt Nam và các nước khác.
Khế lý là nói về mặt tư tưởng nhờ khế lý nên dù ở thời gian và không
gian nào, giáo lý Phật-đà vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn luôn luôn phong
phú, sâu sắc mà vẫn giữ được bản chất của mình và chỉ có một vị đó là vị
giải thoát.
Khế cơ thiên trọng về mặt lịch sử nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh
và quốc độ nào thì sự sinh hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng.
Tùy theo phong tục tập quán của mỗi quốc gia mà vẫn không hề mất gốc
(Phật giáo). Nói một cách khác thì có thể tùy nghi phương tiện theo từng
14
vùng miền để truyền bá giáo lý Phật-đà nhưng không làm mất đi bản sắc của
Phật giáo là ứng hợp với mọi tầng lớp và căn cơ chúng sinh.
Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một nên gọi là khế lý, dù
một mà không phải một, nên có lắm tên Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây
Tạng, Phật giáo Thái Lan, v.v. tất cả đều có tên chung là Phật giáo, bảo rằng
giống cũng được nhưng bảo rằng không thì là sai. Đây gọi là khế cơ là bản
địa hóa, hay sắc thái Phật giáo của từng vùng miền.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư
người Việt bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên
một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Phật giáo đã cùng sinh tồn với dân
tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những thời đại hưng thịnh của đất
nước như Đinh, Lê, Lý - Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành
hưng thịnh và các vị thiền sư có vị trí quan trọng trong các triều đại đó. Dù
được bản địa hóa để quyện mình vào lòng dân tộc nhưng tam tạng kinh điển
Phật giáo Việt Nam vẫn được truyền thừa trong suốt hơn 2000 năm lịch sử
Phật giáo Việt Nam.
Thứ nhất, tính tổng hợp: Tổng hợp là một trong những đặc tính của
lối tư duy nông nghiệp, chính vì thế tổng hợp là đặc tính nổi bật nhất của
Phật giáo Việt Nam.
Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống: Phật giáo thờ
Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và
thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa-
Sấm-Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật hóa". Các pho tượng
này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và
Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu
chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẻ đẹp,
mà một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn, và
khuôn mặt đầy lòng từ mẫn v.v. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau
15
tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người
Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân
tộc vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho
các linh hồn đã khuất.
Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo: Các tông phái Phật giáo Đại
thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa
Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ
Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, đều giỏi pháp thuật và có tài thần thông
biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc tụng
niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Các điện thờ ở chùa miền Bắc vô cùng phong phú các loại tượng Phật,
bồ tát, la hán của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu
hướng kết hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa
(thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại
thừa; bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên
cạnh áo vàng còn có áo nâu, áo lam.
Tổng hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác: Tín ngưỡng truyền
thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó Phật giáo
cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận
Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" và "Tam giáo đồng quy". Ba
tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác
con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều thế
kỷ, hình ảnh "Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão Tử ở bên
trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt. Ngoài ra
Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất cả các tôn giáo khác để hình
thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên nhân hợp
nhất" và "Vạn giáo nhất lý".
16
Thứ hai, Tính hài hòa âm dương: Sau tính tổng hợp, hài hòa âm dương
là một trong những đặc tính khác của lối tư duy nông nghiệp, nó ảnh hưởng
rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm cho Phật giáo Việt Nam có phần thiên về
nữ tính.
Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt Nam bị biến
thành "Phật ông - Phật bà". Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quán Thế Âm
Bồ Tát) là vị thần hộ mệnh của vùng Nam Á nên còn được gọi là Quan Âm
Nam Hải. Ngoài ra người Việt còn có những vị Phật riêng của mình như
Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác:
Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương,
Bà chúa Ba).
Thứ ba, Tính linh hoạt: Phật giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất
linh hoạt, mà nhà Phật thường gọi là "tùy duyên bất biến, bất biến mà vẫn
thường tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể mà người ta có
thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau. Nhưng vẫn không xa rời
giáo lý cơ bản của nhà Phật. Ví dụ: Các vị bồ tát, các vị hòa thượng đều
được gọi chung là Phật, Phật Bà Quan Âm (vốn là bồ tát), Phật Di Lặc (vốn
là hòa thượng), Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa và dân
dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc (chỉ Thích Ca
Tuyết Sơn), Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất
truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Những đặc điểm đó cho thấy sự hỗn dung
giữa Phật giáo với văn hóa dân gian Việt Nam rất sâu sắc và phong phú.
1.1.2. Khái lược chung về văn hóa dân gian Việt Nam
Văn hoá (Culture) xuất hiện cùng với loài người, là đối tượng được
quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội. Có rất nhiều cách
hiểu khác nhau về văn hóa, tùy theo góc độ tiếp cận và nghiên cứu, nhưng
tựu chung lại có thể hiểu văn hóa theo nghĩa sau: Văn hoá là toàn bộ những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong thực tiễn xã hội - lịch
17
sử và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội. Theo nghĩa
hẹp hơn, người ta vẫn quen nói về văn hoá vật chất (kỹ thuật, kinh nghiệm
sản xuất, giá trị vật chất) và văn hoá tinh thần (khoa học, nghệ thuật, văn
học, triết học, đạo đức, giáo dục…). Văn hoá là một hiện tượng lịch sử, phát
triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội [42;10].
Như vậy, văn hóa phải do con người tạo ra, nhưng vẫn có những thứ
không do con người trực tiếp sáng tạo ra nhưng con người cảm nhận dưới
giác độ văn hóa, gắn cho nó một giá trị văn hóa.
Ngoài ra, văn hóa còn có những cách hiểu khác: “Văn hóa có những
hiện tượng được gọi là vật thể. Một quả núi, một ngôi đền, một sản phẩm
nông công kĩ huật, sờ mó được, quan sát hình dáng cụ thể được, thì được gọi
là văn hóa vật thể. Nhưng một câu ca, một điệu hát, một khúc đàn…có thể
tiếp cận được dễ dàng, nhưng lại không nắm được (dù là in thành văn bản
hay ghi âm), thì lại là văn hóa phi vật thể”. [30;7].
Mặt khác căn cứ vào những sáng tạo văn hóa của con người thì văn
hóa có thể được chia thành văn hóa bác học và văn hóa dân gian.
Văn hóa bác học là chỉ những sáng tạo của các nhà văn, nhà thơ, nhà
nghệ sĩ, nhà phát minh, nhà khoa học…Những sáng tạo văn hóa có tính bác
học, có nghĩa là “chỉ vào tính cách chuyên môn, chuyên nghiệp, chỉ vào sự
sáng tạo phải căn cứ vào kiến thức sách vở (trong hoặc ngoài nhà trường)”
[30;8].
Văn hóa dân gian (Folklore): “Văn hóa dân gian là sáng tạo của dân,
từ dân mà ra và phục vụ cho cuộc sống của nhân dân”[30;11] Văn hóa dân
gian trong tiếng Anh được dịch là Folklore, từ này gồm hai chữ: Folk là quần
chúng, lore là trí tuệ. Do đó văn hóa dân gian còn được hiểu là những sáng
tác mang tính bình dân, trí tuệ của quần chúng nhân dân.
Văn hóa dân gian có một số tính chất cơ bản sau:
18
Tính nguyên hợp: là sự sáng tạo dân gian sử dụng tất cả các hình thức
văn, nhạc, múa, diễn,… dựa trên những phương tiện ngôn từ, âm thanh, hình
ảnh, động tác một cách tự nhiên, tổng hòa, không phân biệt tỉ lệ cao thấp
khác nhau, không thiên hẳn về một phương tiện, biện pháp nào. Nghĩa là
buổi đầu con người dân gian vừa là nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, kịch sĩ. Tất cả
những khả năng cảm thông, thể hiện, phản ánh ấy cùng một lúc hòa với
nhau, vì thế nên gọi là nguyên hợp.
Tính trôi: Do thuộc tính quan trọng là truyền miệng, truyền lan, văn
hóa dân gian đi từ nơi này, thế hệ này đến nơi khác, thế hệ khác. Hiện tượng
truyền lan ấy được gọi là trôi.
Sở dĩ văn hóa dân gian có thuộc tính trôi vì văn hóa dân gian có mấy
đặc điểm như sau:
Phi thời gian: Văn bản, ngôn ngữ, tranh vẽ, điệu múa dân
gian…không thể phát hiện được thời điểm ra đời một cách chính xác, tuy có
thể đóan ra dấu vết. Văn hóa dân gian luôn đáp ứng được yêu cầu thẩm mĩ,
nghệ thuật hiện đại.
Phi không gian: Nhiều mô típ văn hóa dân gian có tính chất quốc tế.
Khẳng định quê hương của một hiện tượng văn hóa dân gian là việc khó
khăn, mà chỉ có thể tìm ra sắc thái địa phương (có khi là địa phương hóa) của
nó. Kể cả những hiện tượng văn hóa dân gian biết rõ xuất xứ, một khi đã
truyền lan thì không còn nguyên mẫu trọn vẹn.
Phi cá tính: Tác giả văn hóa dân gian là tập thể, không có quá trình
thai nghén cá nhân.
Một đặc điểm khác của văn hóa dân gian là nhiều tác giả. Tác giả văn
hóa dân gian là đa tác giả. Những người tiếp nhận và những người sáng tác
ban đầu, có thể ở những không gian khác nhau, thời gian khác nhau những
vẫn hòa làm một, để chồng chất lên tác phẩm ấy nhiều tầng, nhiều lớp khác
19
nhau. Ngoài ra văn hóa dân gian còn có các đặc điểm khác như có nhiều dị
bản, có nhiều chức năng, tính dân gian, tính dân tộc và tính tập thể.
Văn hóa dân gian Việt Nam rất đa dạng và phong phú, bao gồm nhiều
phạm trù và thành tố liên kết với nhau thành một chỉnh thể thống nhất. Theo
nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh, có thể phân loại như sau:
Thứ nhất, Folklore ngôn từ: gồm hai phạm trù văn học và ngôn ngữ và
thường vận dụng các loại hình tự sự, trữ tình để thể hiện. Từng thể loại ở
trong những phạm trù ấy đều dồi dào khối lượng và phong phú nội dung. Có
thể phân loại như sau:
Ở phạm trù văn học bao gồm các thể loại:
Sáng tác dân gian văn xuôi gồm có: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích,
ngụ ngôn, truyện cười, v.v.
Sáng tác dân gian văn vần gồm có: trường ca, truyện thơ, vè, ca dao,
đồng ca thơ ca dân gian v.v.
Ở phạm trù ngôn ngữ bao gồm các thể loại: tục ngữ, phương ngôn,
thành ngữ, khẩu ngữ, tiếng lóng…v.v.
Thứ hai, Folklore tạo hình hay còn gọi là Nghệ thuật tạo hình dân
gian. Thành tố này bao gồm nhiều thể loại: Hội họa dân gian (Tranh dân
gian), điêu khắc, kiến trúc và thủ công mĩ nghệ dân gian.
Thứ ba, Folklore biểu diễn hay còn gọi là Nghệ thuật biểu diễn dân
gian. Thành tố này bao gồm nhiều thể loại như: Múa dân gian, nhạc dân
gian, trò diễn (sân khấu) dân gian.
Thứ tư, Những phạm tù khác như: Phong tục dân gian, tri thức dân
gian, lễ hội dân gian.
Có thể hệ thống hóa cách phân loại, nội dung của văn hóa dân gian
theo bảng sau:
I. Cách chia của dân:
Đối chiếu với cách gọi quen thuộc
20
Văn hóa dân gian tự nó
Nói, kể……………………
Ví, vè, hát, hò (ca nhạc)…
Trò, múa (Vũ)……………
(Họa)……………………….
Văn học dân gian: tục ngữ, cổ tích, tiếu lâm.
Văn học dân gian: ca dao, dân ca, vè, nhạc.
Sân khấu dân gian: trò diễn, chèo, múa.
Mĩ thuật dân gian: tranh, tượng, điêu khắc.
II. Cách phân loại khoa học
(thành tố, phạm trù)
Thành tố: Folklore ngôn từ
(ngữ văn dân gian)
Folklore biểu diễn…………
Folklore tạo hình………….
Phạm trù: Tri thức dân gian
Phong tục dân gian
Lễ hội dân gian……
Văn học dân gian (các loại như trên)
Văn học diễn xướng – Nhạc dân gian, sân
khấu dân gian – Múa dân gian
Mĩ thuật dân gian (tranh): - Kiến trúc điêu
khắc dân gian.
Nhiều vấn đề khác: kiến thức, tập tục, trò
chơi, cây cảnh v.v.
(Xem Vũ Ngọc Khánh (2003): Văn hóa dân gian, Nxb. Nghệ An,
tr.30)
Văn hóa dân gian đã xuất hiện lâu đời. Có nhân dân, có cuộc sống là
có văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian là một thành tố quan trọng cấu thành
chỉnh thể của văn hóa dân tộc. Nhìn tổng thể, văn hóa dân gian là một bức
tranh tự nhiên bao gồm tất cả mọi sự vật, người bình dân đã nhìn nhận theo
cảm quan của mình, và mặc nhiên đã biểu lộ một thế giới quan, nhân sinh
quan nhất định. Không có sự viện trợ nào của khoa học thực nghiệm, không
theo một lí thuyết nào, triết lí Folklore cắt nghĩa tự nhiên bằng những quan
sát cụ thể, và bổ sung bằng các tưởng tượng hồn nhiên, thường không giải
21
thích đúng bản chất sự vật, nhưng lại có một số trường hợp có những dự
đoán thiên tài. Nhiều vấn đề trong thần thoại, cổ tích liên quan đến khoa học
vẫn chưa được giải mã.
Về nhân sinh quan, triết lí Việt Nam đậm đà tính nhân bản, nêu cao
đạo làm người, tính khoan dung văn hóa, văn hóa dân gian Việt Nam luôn có
những ứng xử mềm dẻo với các thành tố văn hóa khác trong tổng thể văn hóa
Việt Nam. Chẳng hạn như về mặt tín ngưỡng tôn giáo ta thấy rõ các đạo Việt
Nam đều từ ngoài vào đã nhanh chóng có sự hòa nhập với văn hóa dân gian,
tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa dân gian để nhanh chóng đi sâu vào
đời sống, sinh hoạt của nhân dân. Điều này được thể hiện rõ nhất trong Phật
giáo, Phật giáo và văn hóa dân gian luôn được đặt trong mối quan hệ tổng
thể của văn hóa với tôn giáo. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa chúng ngoài
những đặc trưng riêng của quan hệ tôn giáo và văn hóa Việt còn mang
những đặc điểm riêng biệt, khá phong phú và sâu sắc trên mọi bình diện của
tổng thể văn hóa người Việt.
1.2. Sự tác động của Phật giáo đến văn hóa dân gian Việt Nam
Trải suốt hơn 2000 năm từ khi du nhập, Phật giáo đã bắt rễ sâu rộng
trên mảnh đất Việt Nam, cùng với dân tộc trải qua những thăng trầm lịch sử.
Ảnh hưởng của Phật Giáo đối với dân tộc thật sâu đậm. Từ trong tư duy, tình
cảm, thể hiện ra trong ngôn ngữ và trong mọi sinh hoạt của cuộc sống. Ở đây
chúng tôi muốn nói riêng đến ca dao, tục ngữ, một mảng văn học rất phong
phú vô cùng quan trọng, định hình cho văn hóa Việt Nam.
Với tư cách là một thành tố cấu thành nên văn hóa. Phật giáo có tác động
không nhỏ đếnvăn hóa dân gian.
Phật giáo là một trong những tôn giáo thế giới, là hiện tượng xã hội, là
một hình thức sinh hoạt về đức tin, về tâm linh, đồng thời, nó cũng là một