Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của nho giáo đến văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.06 KB, 27 trang )

Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
Mục lục
Lời nói đầu.
I. Khái quát về Nho Giáo nói chung.
1. Khái niệm Nho Giáo.
2. Quá trình hình thành và phát triển của Nho Giáo.
a) Nho Giáo nguyên thuỷ.
b) Hán Nho.
c) Tống Nho.
3. Giáo lý của Nho Giáo
1. Tứ thư.
2. Ngũ kinh.
II. Sự du nhập và phát triển của Nho Giáo ở Việt Nam.
III. Vai trò của Nho Giáo trong văn hoá Việt Nam . `
1. Đóng góp về mặt hữu thế.
a) Cơ sở tạo dựng công trình, kiến trúc mỹ thuật như đình, chùa, thể
hiện trong kiến trúc của Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
b) Ảnh hưởng của Nho Giáo trong trang phục Việt Nam, đặc biệt là
trang phục vua chúa.
2. Đóng góp về mặt vô thể
a) Vai trò của Nho Giáo trong tư tưởng của người dân Việt Nam.
+ Nho Giáo và gia đình.
+ Nho Giáo và mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội (ngũ luân).
+ Nho Giáo và những phẩm chất cơ bản của con người (ngũ
thường).
b) Vai trò của Nho Giáo trong ngôn ngữ.
c) Vai trò của Nho Giáo trong văn học, nghệ thuật.
IV. Mặt ảnh hưởng tiêu cực của Nho Giáo tới văn hoá Việt Nam.
V. Kết luận
Võ Nam Thanh 1
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam


Lời nói đầu
Trong thập kỷ vừa qua, Nho giáo bỗng nổi lên như một trong những vấn
đề có tính hấp dẫn đối với toàn thể nhân loại. Khổng tử không những trở lại vị
trí được tôn kính nhất trong nền văn hoá rực rỡ và lâu đời của Trung Quốc, mà
cũn được coi như một trong những bộ mặt quang vinh nhất của toàn thể nhân
loại.
Việt Nam là một nước từ lâu đời chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Nho
giáo. Nho giáo từ trên một ngàn năm được giới thống trị ở Việt Nam sử dụng
như tư tưởng chủ đạo trong kiến trúc thượng tầng của xó hội. Trong suốt thời kỳ
phong kiến ở Việt Nam toàn thể giới tri thức, dù khác nhau về quan điểm chính
trị và văn hoá đều tự coi mình là những đệ tử của Nho giáo, đều lấy tiêu chuẩn
đạo đức của Nho giáo làm phương châm suy nghĩa và hành động.
Ngày nay, nhiều cuộc hội thảo bàn về lịch sử và về vai trò của Nho giáo
đều được liên tiếp tổ chức ở Trung Quốc , Nhật Bản, Triều Tiên, Singapore và
ở Việt Nam. Trên phạm vi thế giới, ở nhiều nước như Mỹ, Anh, Nga, Pháp, cũng
có rất nhiều cuộc hội thảo được tổ chức và rất nhiều sách báo được phát hành
nhằm nghiên cứu về Khổng Tử và đánh giá lại vai trò của ông đối với quá trình
phát triển chung của nhân loại, cả hôm nay và ngày mai. Phải chăng Nho giáo
sau hơn một ngàn năm phát huy ảnh hưởng của nó vẫn còn có một sức mạnh
tiềm ẩn? Nho giáo đó hết thời rồi hay Nho giáo còn sống mãi?
Từ cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam coi như tự mình đã
giải quyết xong vấn đề mà Nho giáo để lại: Những gì cần gạt bỏ, những gì cần
giữ lại và phát huy từ di sản của Nho giáo?
Gần đây, trong tình hình đổi mới của đất nước , trong quỏ trình phát
triển nền kinh tế thị trường và mở cửa, đất nước lại chứng kiến những diễn biến
phức tạp trên mọi lĩnh vực của đời sống. Nhiều vấn đề lại được đặt ra. Phải
chăng là Việt Nam đã có một thời kỳ quá coi nhẹ vai trò tích cực của Nho giáo
và gạt bỏ đi nhiều nhân tố tốt đẹp có thể góp phần củng cố cuộc sống gia đình,
hoàn thiện các quan hệ xã hội, phát huy thêm sức mạnh của cộng đồng trong sự
nghiệp xây dựng đất nước và tiến tới một xã hội tốt đẹp trong tương lai? Phải

chăng những thành công của việc vận dụng Nho giáo ở nhiều nước phương
Đông cũng đang trở thành những bài học quý giá đối với mọi người hôm nay?
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và mở cửa, Việt Nam đã từng
tuyên bố muốn làm bạn với tất cả cỏc nước, được cổ vũ bởi tư tưởng Nho giáo
coi “bốn bể đều là anh em”, và lấy tinh thần khoan dung để đối xử với mọi
người.
Võ Nam Thanh 2
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
I. KHÁI QUÁT VỀ NHO GIÁO NÓI CHUNG.
1. Khái niệm Nho Giáo.
Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý
và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị.
2. Quá trình hình thành và phát triển của Nho Giáo.
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự
đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu là thời
kỳ loạn lạc. Lúc đó, Trung Quốc bị xé nhỏ thành hàng trăm tiểu quốc, tranh
giành quyền lực với nhau, mà chủ yếu là “phong trào Ngũ bá” giữa Tấn, Tần,
Tống, Tề, Sở. Đây cũng là thời kỳ ở Trung Quốc mở ra cảnh xương phơi trắng
đồng, chết chóc bi thương.Trước hoàn cảnh đó, một câu hỏi lịch sử được đặt ra
cho thời kỳ này, đó là: Làm thế nào để
ổn định xã hội? Nhằm cứu vãn trật tự xã
hội, Khổng Tử (sinh năm 551, trước
công nguyên) dựa trên các tư tưởng của
Chu Công xác lập nên Nho Giáo, xác lập
lại trật tự xã hội có đẳng cấp, đặt con
người vào các giai tầng khác nhau chặt
chẽ, để tôn vinh và khẳng định địa vị của
giai cấp thống trị. Chính vì thế mà người
đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho
giáo.

Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng
khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni,
Giê-xu, người đời sau không thể nắm
bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách
trực tiếp mà chỉ được biết các tư tưởng
của ông bằng các ghi chép do các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa là thời
kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần, hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời
khiến việc tìm hiểu tư tưởng gốc của Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các
nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc
đời của ông.
a. Nho Giáo nguyên thuỷ.
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục
kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh
Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là
Ngũ kinh.
Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra
cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là
Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học.
Võ Nam Thanh 3
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra
cuốn Trung Dung.
Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò
của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên
Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo
hay "Tư tưởng Khổng - Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo
và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho
học; cũn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh
đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà
Nho cần phải thực hành.

b. Hán Nho.
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế
đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước
về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế
độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được
gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao
quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy
"pháp trị".
c. Tống Nho.
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách
gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Tống nho,
với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở
Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là
"Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt
của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy
từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào
tạo quan lại và cai trị.
3.Giáo lý.
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo
nguyên thủy. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh
điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết
về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về
đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
a. Ngũ kinh.
1. Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử,
nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo
dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh, cách thức diễn đạt rõ ràng và
trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả
lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao"

(sách Luận ngữ).
Võ Nam Thanh 4
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
2. Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có
trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương
các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
3. Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại
mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói:
"Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận ngữ).
4. Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa
cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái, Đời Chu, Chu Văn Vương
đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải
thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời
Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho dễ
hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
5. Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của
Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích
trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời
thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh
Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh
Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói
những sự việc xảy ra.)
6. Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ
còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục
kinh chỉ còn lại ngũ kinh
b.Tứ thư.
1. Luận Ngữ: ghi lại lời dạy của Khổng Tử do học trò của ông ghi
chép lại sau khi ông mất (Luận ngữ = các lời bình luận).
2. Đại Học: dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử. Sách
này do Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, dựa

trên lời dạy của ông soạn ra (Đại học = sự học lớn).
3. Trung Dung: dạy người ta cách sống dung hòa, không thiên
lệch. Sách này do người cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng
Tử, còn gọi là Tử Tư soạn ra (Trung = ý muốn nói cái Tâm không lệch bên này
hay bên kia, Dung = có nghĩa dung dưỡng, giữ mãi ở mức như vậy).
4. Mạnh Tử: ghi lại lời dạy của Mạnh Tử. Mạnh Tử tên thật là Mạnh
Kha, là người tiêu biểu nhất sau Khổng Tử, phát triển tư tưởng của Khổng Tử ở thời
Chiến Quốc (390-305 trước công nguyên).
II. SỰ DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHO
GIÁO Ở VIỆT NAM.
Võ Nam Thanh 5
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
Tìm hiểu đặc trưng của quá trình du nhập và phát triển Nho giáo ở Việt
Nam là một vấn đề vừa có ý nghĩa lịch sử, vừa có ý nghĩa hiện tại. Bởi vì nếu
làm sáng tỏ vấn đề này thì mới có điều kiện phân biệt Nho giáo ở Việt Nam với
Nho giáo ở các nước Á – Đông khác, mới hiểu thêm được những nét riêng của
con người Việt Nam trong quá khứ, qua đó có thể biết được khả năng hiện tại và
triển vọng tương lai của họ. Vì con người xét về mặt phát triển trong thời gian
thì ở bất kỳ một điểm nào đó, nó đều là kết quả của quá khứ và là mầm mống
của tương lai.
Nho giáo là học thuyết triết học và chính trị - xã hội của Trung Quốc, ra
đời ở thế kỷ VI trước Công nguyên và lần lượt được truyền sang các nước Á –
Đông khác. Ở Triều Tiên lần đầu thế kỷ I sau Công nguyên, ở Nhật Bản là thế
kỷ V sau Công nguyên. Ở Việt Nam là vào khoảng trước sau Công nguyên. Như
vậy, Nho giáo truyền sang Việt Nam là tương đối sớm.
Hoàn cảnh du nhập của Nho giáo ở Việt Nam có khác với các nước khác.
Nếu với Nhật Bản sự du nhập là gián tiếp, từ Triều Tiên truyền sang và sau đó là
sự tiếp thu trực tiếp, các lưu học sinh Nhật Bản sang Trung Quốc học Nho học
và truyền bá, lúc đầu mang tính áp đặt. Người Hán xâm lược Việt Nam, đưa
Nho học vào để tăng cường sự thống trị. Vì vậy, thái độ đầu tiên của người Việt

Nam là phản ứng, chống lại. Thái độ trên có sự chuyển biến là mãi về sau, khi
nền kinh tế xã hội Việt Nam có nét giống với nền kinh tế - xã hội phong kiến
Trung Quốc, khi người Việt có sự quen thuộc ít nhiều với Nho học.
Thái độ đối với Nho học của người Việt Nam có bước ngoặt khi người
Việt giành được độc lập dân tộc từ tay người Hán ở thế kỷ X, lúc này, người ta
thấy học thuyết này là một lý luận và một nghệ thuật của đạo trị nước, cần thiết
phải nắm lấy để xây dựng đất nước mình. Các triều đại phong kiến Việt Nam tự
mình thấy phải du nhập và phát triển Nho học. Các vua của triều Lý ở thế kỷ XI
đó xây dựng văn miếu để tế lễ Khổng Tử và các tiên hiền nhà Nho, mở trường
Quốc Tử Giám cho con hoàng tộc và con cái các nhà quyền quý vào học tập
Nho học, tổ chức ra các kỳ thi Nho học để chọn ra các nhân tài kiểu nhà Nho.
Khi nói đến vấn đề sự du nhập Nho học vào Việt Nam, nhiều người chỉ
thấy hoạt động đó ở giai đoạn đầu, giai đoạn đầu Bắc thuộc. Thực ra, sự du nhập
đó diễn ra nhiều lần và ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau. Ngoài sự diễn ra ở
đầu công nguyên, Nho học còn được tiếp tục truyền vào Việt Nam ở các giai
đoạn sau. Có thể nói, thời nào cũng có hiện tượng du nhập, giai đoạn nào của
Nho học Trung Quốc cũng muốn truyền sang Việt Nam. Thời Bắc thuộc là Hán
Nho, thời Đinh, Lê, Lý, Trần, là Đường Nho, thời Lê Sơ là Tống Nho, thời Lê
Mạt và Nguyễn là Thanh Nho.Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia liền
nhau, việc giao lưu không gì cản trở, hơn nữa, tư tưởng và học thuật thì không
có biên giới ngăn cách.
Nhưng không phải cái gì của Nho học Trung Quốc cũng đều được bén rễ,
sinh sôi nảy nở ở Việt Nam. Huyền học ở thời kỳ Nguỵ Tấn, Nam Bắc Triều,
Tâm học ở thời kỳ nhà Minh, Thực học ở cuối thời Minh và sang thời Thanh
không có dấu ấn ở Việt Nam. Nho học ở đất nước này chỉ mang những nét của
Võ Nam Thanh 6
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
Hán Nho và Tống Nho. Ngay như Tống Nho cũng không phát triển đến mức
phải phân ngành tách phái. Nếu như ở Triều Tiên xuất hiện các phái của Tống
Nho khác nhau, như có phái quan niệm “khí bất diệt luận”, có phái chủ trương

“Tứ đoan, thất tình lý khí chi tranh”, cho “Tứ đoan” (nhân, nghĩa, lễ, trí) là do
“lý” sinh ra, “thất tình” (yêu, ghét, mừng, giận dữ, vui, buồn, dục vọng) là do
“khí” sinh ra, nếu như ở Nhật Bản có các phái chịu chủ trương lý khí hợp nhất,
có phái cho lý có trước khí, có phái thừa nhận lý nguyên, thì ở Việt Nam không
có các hiện tượng đó.
Nói về Tống Nho thì có các nhân vật tiêu biểu như Châu Đôn Di (thế kỷ
X – XI) người khởi xướng ra Lý học, Nhị Trình (Trình Hạo và Trình Di) là
những người đặt cơ sở cho Lý học và Chu Hy là người tập đại thành của Lý học.
Trong hệ thống Tống Nho ở Trung Quốc thì Chu Hy là người quan trọng hơn cả.
Ở Triều Tiên và Nhật Bản, Chu Hy cũng đứng ở vị trí hàng đầu. Ở hai nước này
đều có phái “Chu tử học”. Còn ở Việt Nam thì vai trò của Nhị Trình lớn hơn vai
trò của Chu Hy. Người Việt Nam quen nói đạo Nho là đạo “Cửa khổng sân
trình”, gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà Nho Việt Nam lớn nhất ở TK XVI là
“Trạng Trình” (có nghĩa là gốc từ học thuật của hai anh em họ Trình). Ngay một
sử gia Trung Quốc cũng nói: “An lý học hữu Trình tuyền” (tiêu biểu cho lý học
ở Việt Nam là từ suối Trình mà ra). Cách nhận định này có lý do của nó. Người
Việt Nam nói nhiều tới “lý”, “thiên lý”, là những khái niệm do Nhị Trình đặt cơ
sở ít nói đến mối quan hệ “lý – khí”, mối quan hệ mà Chu Hy thường đề cập.
Nho chỉ là một học thuyết, bản thân nó không thể hiện lên lập trường triết
học nào. Trong các giai đoạn phát triển của Nho học Trung Quốc, thời kỳ nào
cũng có các nhà duy vật và duy tâm khác nhau, đối lập nhau trên vấn đề cơ bản
của triết học. Thời trước Tần, bên cạnh Mạnh Tử là nhà duy tâm thì có Tuân Tử
là nhà duy vật. Thời Hán, bên cạnh Đổng Trọng Thư là nhà duy tâm thời có
Vương Sung là nhà duy vật; thời Tống, bên cạnh Nhị Trình, Chu Hy là những
nhà duy tâm thì có các nhà duy vật là Trương Tải, Vương Đình Tướng. Ở Việt
Nam thì hiện tượng đó không rõ. Thường là chỉ tiếp thu tư tưởng của các nhà
Nho duy tâm. Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư, Nhị Trình,… là những nhà Nho duy
tâm có vai trò rất lớn trong lịch sử Nho học ở Việt Nam.
Nho học là từ Trung Quốc truyền vào Việt Nam, vì vậy có người cho rằng
Nho học không phải là của Việt Nam, Nho học là cái “ngoại sinh”,Nho học

không thể được đối xử như các “học thuyết” vốn có của Việt Nam, những cái
được gọi là “nội sinh”. Thực ra, Nho học được truyền vào Việt Nam đã trải qua
một quá trình, đã có sự chuyển hoá, từ “ngoại sinh” trở thành “nội sinh”, từ cái
của người đã trở thành cái của mình. Nguyễn Trãi đã từng nói: “Người có Bắc,
Nam, Đạo không kia khác”. Đạo đây là đạo Nho. Có nghĩa là cả Việt Nam và
Trung Quốc đều chung một đạo Nho. Lời nói của Nguyễn Trãi là có cơ sở.
Không thừa nhận Nho học đã là cái của mình thì không thể giải thích được các
hiện tượng khác trong lịch sử dân tộc.
Nét đặc sắc của Nho học Việt Nam không những chỉ thể hiện trong quá
trình du nhập mà còn thể hiện trong quá trình phát triển. Điều này có thể thấy
Võ Nam Thanh 7
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
được khi đặt Nho học Việt Nam bên cạnh các nền Nho học khác, khi quan sát
đối tượng mà nó chú ý, chiều hướng mà nó vận động, bộ phận mà nó hợp thành
Trong quá trình phát triển, Nho học Việt Nam chú trọng đến những vấn
đề thực dụng hơn là những vấn đề lý thuyết. Các vấn đề về mối quan hệ giữa
“hữu” và “vô”, giữa “tâm” và “vật”, giữa “lý” và “khí” là những vấn đề gắn liền
với nền Nho học Trung Quốc trong các thời kỳ và luôn có sự giải thích khác
nhau, nhưng không được Nho học Việt Nam nhiệt tâm bàn bạc, không được
xem xét để giải quyết cái nào có trước, cái nào có sau trong các mối quan hệ
giữa lý và khí thì mãi đến thế kỷ XVIII mới được Lê Quý Đôn để tâm sưu tầm
và biên chép vào mục “lý khí” trong “Vân đài loại ngữ”, còn bàn bạc về nó thì
mãi đến Phan Bội Châu ở đầu thế kỷ XX mới được phát biểu rõ ràng. Ở đây
không phải là do người Việt không có khả năng tư duy trừu tượng mà là do hoàn
cảnh lịch sử và địa lý tạo nên. Trên đất nước này, các cuộc chiến tranh bảo vệ
độc lập dân tộc luôn xảy ra, các đợt thiên tai khắc nghiệt trong năm luôn ập tới,
khiến con người phải dồn sức đối phó, cứ thế đó choán hết thì giờ và sức lực của
họ.
Nho học ở quê hương của nó vốn bao gồm cả nhân sinh quan, xã hội quan
và vũ trụ quan, nhưng Nho học Việt Nam thì chú ý nhiều đến nhân sinh quan và

xã hội quan. Nó chú ý đến các tác phẩm kinh điển nào của nhà Nho nói nhiều về
nhân sinh quan, về đạo đức. Nó chú trọng đến các tác phẩm trong “Tứ thư”
(Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học, Trung dung), “trung kinh”, “Hiếu kinh” hơn là
các tác phẩm “Kinh dịch”, “Kinh Xuân Thu”, những tác phẩm bàn nhiều đến sự
vận động của thế giới, xã hội và con người. Sự chú ý cũng có sớm muộn khác
nhau. “Tứ thư” thì ngay từ thế kỷ XIV đã được giảng giải. Chu Văn An ở thế kỷ
này đã có cuốn “Tứ thư thuật ước”, còn về “Kinh dịch”, “Kinh Xuân Thu” thì
mãi đến thế kỷ XVIII mới được bàn bạc. Thế kỷ XVIII mới xuất hiện cuốn
“Dịch kinh phu thuyết” của Lê Quý Đôn, “Dịch nghĩa tồn nghi” của Nguyễn
Nhạc, “Xuân thu quản kiến” của Ngô Thì Nhậm,…Sự chậm trễ này có lẽ là do
nhu cầu của quần chúng cần cái gì thiết thực hơn, gần gũi với cuộc sống hàng
ngày của họ hơn.
Nho học không phải là một học thuyết toàn diện, nó không đáp ứng được
mọi mặt yêu cầu của con người trong xã hội phong kiến phương Đông. Mặt
thiếu của nó thường được Phật, Lão bổ sung. Từ đó tạo nên lý thuyết “Tam giáo
nhất nguyên”. Hiện tượng này ở Nho học Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản
đều có. Nhưng ở các nước trên để xác lập nên cục diện “nhất nguyên”, đã trải
qua một quá trình đấu tranh rồi mới tiến dung hợp. Còn ở Việt Nam thì từ đầu
đã xuất hiện sự dung hợp. Ngay từ thời kỳ Bắc thuộc, ở cuối thế kỷ II đầu thế kỷ
III, Mâu Bác đã nêu lên sự cần thiết phải dung hợp ba đạo trong tác phẩm “Lý
hoặc luận”. Đến thời kỳ độc lập thì hầu như triều đại nào cũng nói đến nhu cầu
dung hợp. Đặc biệt là ở các triều đại Lý, Trần (thế kỷ XI, XII, XIII) và Triều Lê
- Trịnh (thế kỷ XVIII), lý thuyết về dung hợp trình bày rất rõ rệt. Tuy rằng ở
Việt Nam có lúc Nho học phê phán Phật giáo như ở thế kỷ XIV và cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX, nhưng đó chỉ là phê phán vai trò xã hội của Phật giáo,
Võ Nam Thanh 8
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
chứ không phải là vạch ra những hạn chế về mặt lý thuyết của nó, và đó cũng là
hiện tượng tạm thời. Không lâu, khi vai trò thống trị của Nho học được xác lập
thì hiện tượng phê phán trên cũng theo đó mà mất đi. Một điều đáng chú ý là

Nho học ở Việt Nam không xuất hiện các trường phái, không làm nảy sinh các
nhà học thuật lớn, không có những tác phẩm đồ sộ về lý thuyết. Tác phẩm mang
tính chất học thuật của các nhà nho Việt Nam thường chỉ được thể hiện dưới
dạng tóm tắt đơn giản, dạng ước lược, toát yếu, như: “Tứ thư thuyết ước” của
Chu Văn An, “Dịch kinh phi thuyết” của Lê Quý Đôn, “Tính lý tiết yếu” của
Bùi Huy Bích”,v.v…Các tác phẩm loại này là cần thiết, có thể giúp người đọc
nhanh chóng nắm được nội dung cơ bản của học thuyết. Nhưng chỉ dừng lại ở
đấy mà không có tác phẩm đi sâu hơn, thể hiện quan điểm của mình rõ rệt hơn
đó là một hạn chế của tư duy. Người Việt Nam vốn thông minh, có khả năng
khám phá các đối tượng hữu hình và vô hình. Quá khứ và hiện tại đều chứng tỏ
như vậy. Nhưng vì sao lại xảy ra hiện tượng trên? Có phải là do đời sống vật
chất nghèo nàn, không đủ điều kiện để đi vào những vấn đề lý thuyết cao siêu?
Do sự định huớng giá trị của triều đình? Do quan niệm đơn giản về học thuật
phục vụ chính trị? Hay là do một lý do khác chưa biết tới? Có lẽ tất cả các lý do
trên đều có phần trách nhiệm.
Một hiện tượng đột xuất trong lịch sử Nho học ở Việt Nam là ở thế kỷ
XIV đó xuất hiện hiện tượng phê phán Tống Nho. Người tạo nên hiện tượng đó
là Hồ Quý Ly. Một loạt nhân vật tiêu biểu của Tống Nho đều bị ông lên án bác
bỏ. Tác phẩm “Minh Đạo” 14 thiên của ông thể hiện lên quan điểm này. Tác
phẩm trên tuy đã mất, song tư tưởng chính của nó vẫn còn được lưu lại. Cuốn
“Đại Việt sử ký toàn thư” của sử quan triều Lê ghi rằng, Hồ Quý Ly “cho Hàn
Dũ là “đạo Nho” (ăn cắp Nho), cho bọn Châu Mậu Thúc (Châu Đôn Di), Trình
Hạo, Trình Di, Dương Thì, La Trọng Tố, Lý Diên Bình, Chu Tử (Chu Hy), tuy
học rộng nhưng tài ít, không sát với việc, chỉ thạo cóp nhặt văn chương người
xưa” . Đây là hiện tượng hiếm có. Tiếc rằng sự xâm lược của nhà Minh đã cắt
ngang chiều hướng phát triển của tư duy đó. Đến thời Lê sơ, người ta phê phán
Hồ Quý Ly là “dám khinh suất”, là không biết lượng sức mình” . Tư tưởng của
Hồ Quý Ly về sau không được tái diễn.
Có người cho rằng hiện tượng Hồ Quý Ly cũng chỉ là bắt chước một trào
lưu tư tưởng nào đấy của Trung Quốc ở vùng Giang Triết. Thực ra không phải

như vậy. Lúc bấy giờ ở Trung Quốc không có một trào lưu tư tưởng nào như
thế. Có chăng chỉ đến cuối thế kỷ XVII sang thế kỷ XVIII trong phong trào
“thực học” của Trung Quốc mới xuất hiện hiện tượng tương tự. Đó chỉ là sản
phảm độc đáo của Hồ Quý Ly, một con người Việt Nam cuối thế kỷ XIV dám
nhìn vào thực tế, dám phát biểu ý kiến riêng của mình.
III. VAI TRÒ CỦA NHO GIÁO TRONG VĂN
HOÁ VIỆT NAM .
1. Đóng góp về mặt hữu thể.
Võ Nam Thanh 9
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
a)Cơ sở để tạo dựng công trình kiến trúc mỹ thuật như đình, chùa,
thể hiện kiến trúc cùa Văn miếu – Quốc tử giám.
Nho giáo vận dụng thuật Phong thủy, Ngũ hành để tạo dựng công trình
kiến trúc. Trải qua mấy ngàn năm bồi đắp, tích lũy, từ Cổ Loa huyền thoại đến
Hoa Lư, Thăng Long-Đông Đô và cuối cùng là Phú Xuân-Huế, kỹ thuật xây
dựng thành trì cung điện đã không ngừng được tích lũy, bồi đắp để rồi nâng lên
thành một nghệ thuật. Để hiểu sâu hơn, chúng ta hãy nghiên cứu về kiến trúc
của Văn Miếu - Quốc Tử Giám, một điển hình của sự ảnh hưởng Nho Giáo
trong kiến trúc mỹ thuật.
Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070 đến 1076 (thời Lý) mở rộng và
xây dựng thêm nhà Quốc Tử Giám ở phía sau. Đó là nơi học tập của các hoàng
tử và những học trò giỏi được chọn lọc trên khắp cả nước. Quần thể kiến trúc
được quy tụ trong một khuôn viên rộng rãi với năm khu chính nối tiếp nhau chủ
yếu trên trục dọc: từ Văn Miếu môn đến Đại Trung môn, Khuê Văn các, Thiên
Quang tỉnh, Vườn bia, khu Đại Thành điện, Đại Bái đường, Hậu cung và khu
nhà Thái học.
Có thể nói, kiến trúc Văn Miếu
- Quốc Tử Giám là một khu di
tích đặc biệt của thủ đô Hà Nội,
được bao quanh bởi những viên

gạch vồ cỡ lớn. Tổng thể công
trình ẩn hiện dưới những vòm
cây toát lên một không khí thâm
nghiêm cổ kính, huyền bí. Lối
vào chính khu Văn Miếu là Văn
Miếu môn (cổng phía Nam) có
dạng cổng tam quan cao hai
tầng, có cổng chính và hai cổng
phụ, một tổng thể kiến trúc uy nghi nhưng không kém phần thanh thoát. Hai
phía trước cổng có bia hạ mã (xuống ngựa), nhắc nhở người quân tử và những
người qua lại không ngồi trên ngựa hoặc trên xe để tỏ lòng thành kính nơi tôn
thờ.
Trên bức tường hoa ở cuối lớp không gian thứ nhất (từ Văn Miếu môn
đến Đại Trung môn) có ba cửa đi: cửa Đại Trung (lấy tên đầu hai bộ sách quan
trọng của Khổng tử: Đại học, Trung dung) là cửa giữa. Hai bên là cửa Thành
Đức (trở nên đạo đức), cửa Đạt Tài (trở nên tài giỏi). Cửa Đại Trung có cấu trúc
khung gỗ, mái ngói, bậc thềm bó đá. Lấp ló phía sau là Khuê Văn các in hình
trong Thiền Quang - ánh sáng của trời. Sự tuyệt diệu của Khuê Văn các chính là
bởi ý nghĩa biểu trưng: Các là lầu; Khuê là sao Khuê, là biểu tượng của vị thần
phụ trách; Văn là cái đẹp, cũng có nghĩa là văn hóa. Văn hóa là thành tựu mà
con người mô phỏng. Nhìn nhận một cách hữu hình, có thể hiểu: Khuê Văn các
(ở phía Nam) là đứng ở trên lầu nhìn ra 4 phương 8 hướng. Hình tròn và hình
vuông với 8 tiếp điểm thể hiện sự gắn bó giữa quy luật và thực tế nhằm phục vụ
Võ Nam Thanh 10
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
con người. Có thể coi đây là tượng đài ca ngợi vẻ đẹp của văn chương, một nét
đẹp rực rỡ toả sáng soi bóng dưới “mặt gương lớn”. Với đường nét kiến trúc cân
đối, hài hòa giữa các tỉ lệ và bộ phận cấu thành, Khuê Văn các đã được chọn làm
biểu trưng cho văn hiến Hà Nội, ban ngày thì cao sang tuyệt đẹp, ban đêm dưới
ánh đèn chiếu sáng, gác Khuê Văn trở nên lung linh huyền diệu, soi bóng xuống

mặt hồ Thiên Quang tỉnh (Giếng trời trong sáng). Gương nước lớn có khả năng
soi bóng hình ảnh tuyệt đẹp của Khuê Văn các, chính là cách tiếp cận Văn Miếu
- Quốc Tử Giám dưới tính đa diện và sự phân tích nguồn gốc căn nguyên của
nguyên tắc hình thể: “Gương nước” ở giữa phản chiếu ánh sáng bầu trời, là sự
hàm ý thu nhận văn hóa khai thác để khống chế ánh sáng của trời nhằm phục vụ
cho đạo học của con người. Nằm ở giữa trung tâm khu Văn Miếu, tấm gương
nước có thể soi bóng tổng thể công trình kiến trúc với hiệu quả thẩm mĩ cao
nhất, bộc lộc một nét đẹp độc đáo của kiến trúc hòa quyện với trời mây trong
sáng. Khuê Văn các, Đại Thành môn, Vườn bia… đều in hình trong đó như
thách thức với thời gian, như gợi mời những nhân tài đất Việt tạo thêm nét
duyên dáng vốn có của kiến trúc Văn Miếu.
Người xưa đã xây dựng công trình Văn Miếu - Quốc Tử Giám thuận theo
lẽ âm - dương - trời - đất và tự khẳng định chính là nơi hội tụ nhân tài, là một
quần thể kiến trúc độc đáo nơi địa linh nhân kiệt. Khởi nguồn từ địa thế: (đứng
trên cao) mở rộng tầm nhìn ra 4 phương 8 hướng, từ ci hư vô suy xét khai thác
ánh sáng vẻ đẹp của trời đất mà phục vụ cho sự học của con người - học làm
người, tinh luyện văn hóa vật chất mà gây dựng văn hóa tinh thần nhằm tiến tới
thành tựu tuyệt diệu cuối cùng của sự tu luyện học vấn một cách đạt thành.
Ý nghĩa của công trình Khuê Văn các và các mối quan hệ với Thiên
Quang tỉnh và Đại Thành môn đã thuận theo quan điểm tứ trụ, không nằm ngoài
ý nghĩa hướng đạo người quân tử. Con người phải đem trí tuệ để hài hòa thiên -
địa - nhân, đem tri thức để giúp đời mới là người có tri thức. Tư tưởng Nho giáo
do Khổng tử tập hợp những tư tưởng triết lý, luân lý đạo đức mà cái phép lớn
nhất là phép ứng xử: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… Các khoa thi, các vị Tiến sĩ của
nền giáo dục xưa được ghi danh lại nơi những văn bia; những câu đối, những
mô típ trang trí không chỉ đơn thuần làm đẹp mà còn là sự nhắc nhở những điều
hay lẽ phải. Tất cả đều là đạo đức cổ nhân. Vườn bia có 82 bia nằm thành hai
dãy cân đối hai bên Thiền Quang tỉnh, với lối kiến trúc thấp, giản dị nhưng lại
hài hòa với tổng thể. Việc chạm khắc trên bia là một công trình nghệ thuật đặc
sắc. Trán bia cong thường có hình hai rồng chầu mặt nguyệt, rồng được cách

điệu rất tinh tế trở thành những đám mây uyển chuyển, sinh động. Diềm bia
được trang trí hoa văn hình hoa lá cách điệu kết hợp với chữ triện. Đế bia hình
rùa tạo hình vững chải, bền chắc mang ý nghĩa trường thọ, vĩnh cửu. Hình tượng
con rùa biểu thị cho sự trường tồn vĩnh cửu, 82 rùa đội bia, trên 82 tấm bia có
ghi những người đỗ đầu, đậu Tiến sĩ trong các khoa thi từ năm 1442 đến 1780,
những bài văn ca ngợi công đức các vua anh minh chăm lo việc giáo dục nhân
tài, như minh chứng lịch sử của đạo học người Việt ta từ trước đến nay. Nhắc
nhở cháu con đời đời tạc lòng ghi ơn.
Võ Nam Thanh 11
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
Mỗi công trình kiến trúc trong tổng thể kiến trúc Văn Miếu đều mang
đậm ý nghĩa nhân văn, dù công trình nhỏ hay lớn, chính hay phụ đều toát lên
những ý nghĩa sâu xa. Trong đó, phần không nhỏ trong ý nghĩa rất nhân văn,
triết lý được gửi gắm trong kiến trúc Văn Miếu, chúng ta thấy Đại Thành môn (ở
phía bắc), cổng vào khu đền chính của Văn Miếu, nhìn qua, thấp thoáng hình
bóng trang nghiêm của Đại Thành điện. Đại Thành môn có thể được coi là cái
tiếp thu Khuê Văn (văn hóa) và ánh sáng trời (Thiên Quang), là kết quả cuối
cùng (là cửa vào viên mãn của sự rèn luyện học vấn), nghĩa là Thành Đạt lớn
hay có nghĩa cổng vào của sự Thành đạt… ở đây người xưa muốn khuyên con
người hãy nhớ tới môi trường học vấn, trường học chính là nơi hội tụ giữa xã
hội và con người với tính tự nhiên trong vũ trụ và tuân theo quy luật vận động
của trời đất. Khuê Văn các, Thiên Quang tỉnh và Đại Thành môn được đặt trong
một kết cấu kiến trúc hết sức hợp lý, khác nào văn hóa của loài người được hun
đúc, chắt lọc từ ánh sáng tuyệt diệu của trời và đơm hoa nảy trái ở đất, mà con
người là trung tâm giao hòa. Nhiệm vụ của con người là đem ánh sáng, đem tri
thức mà rọi đường cho cổng vào tương lai mới có thể đạt thành viên mãn. Học là
học suốt đời, học lấy cái cốt, cái tinh của người xưa mà phát triển phù hợp với
thời nay…
Qua Văn Miếu, tiếp đến với lớp không gian thứ tư, là thành phần chính
của Văn Miếu với cấu trúc gồm hai lớp nhà: phía trước là Bái đường - nơi hành

lễ, hai cánh nhà phụ Tả Vu và Hữu Vu nằm ngay cạnh sân Đại bái. Phía sau là
Thượng điện - nơi thờ Khổng tử và các bậc hiền triết Nho giáo. Các gian nhà
chuông, nhà trống gợi không khí trường thi kết hợp với những cây cổ thụ cổ
kính tạo cho tổng thể kiến trúc một phối cảnh hài hòa tuyệt vời, mang đậm tính
nhân văn, yếu tố triết lý và những thâm ý mang đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc
Việt.
Tòa Phương đình nối tiếp Bái đường với Thượng điện. Phía sau Đại
Thành điện có cổng đi vào khu Thái học, với cấu trúc gần giống Đại Thành môn
nhưng quy mô nhỏ hơn. Đây được gọi là khu Quốc Tử Giám, từ thời Lê là nơi
giảng dạy và học tập dành cho các Thái tử. Đến đời Nguyễn, Quốc Tử Giám
chuyển vào Huế và là nơi thờ các vị phụ mẫu của Khổng tử gọi là đền Khải
Thánh. Năm 1946 bị thực dân Pháp đốt phá nhưng đến nay được trùng tu, tôn
tạo lại theo phong cách truyền thống.
Giá trị thẩm mỹ của kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám không chỉ được
tạo bởi không gian kiến trúc đột phá nhưng lại hòa quyện với không gian xung
quanh nó mà hơn nữa là sự kết hợp hài hòa giữa đạo và đời, là thành phẩm của
công trình kiến trúc vĩnh cửu trước thời gian. Đó là một hệ thống văn hóa tinh
thần bao quanh kiến trúc, là sự kết hợp trọn vẹn của văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần.
Bên cạnh đó, biểu hiện rõ nhất của Nho Giáo ở Việt nam được thể hiện
trong kiến trúc đình làng. Đình làng xưa kia vốn được xem là đại diện của chính
quyền phong kiến, một dạng thức tiểu triều đình với những định chế Nho giáo
khắt khe ở làng xã Việt Nam. Hình thức kiến trúc này phát triển và thịnh hành
Võ Nam Thanh 12
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
vào thời Lê (thế kỷ XVI – XIX), khi đạo Nho ở giai đoạn hưng vượng nhất. Có
một nghịch lý là nơi này thường cấm phụ nữ bén mảng đến, nhưng hình tượng
của những người phụ nữ lại được khắc tạc một cách thừa thãi và táo bạo trên
hầu khắp các thành phần kiến trúc.
Người ta có thể nhìn thấy ở đấy muôn mặt cuộc sống đời thường và cuộc

sống tâm linh với những hình tượng người phụ nữ. Họ kiến tạo nên các giá trị
khác nhau của cuộc sống, niềm vui, nỗi buồn, niềm hạnh phúc, và các giá trị
sinh tồn trong tín ngưỡng phồn thực. Người ta đồng thời cũng nhìn thấy được
tính chất hai mặt trong các giáo lý và phong tục xã hội của Việt Nam. Một mặt
người phụ nữ được đặt trong những chế định của lễ giáo phong kiến như: “công,
dung, ngôn, hạnh”, “tam tòng tứ đức”, hay đặt chữ trinh tiết lên hàng đầu
trong khi đặc quyền của đàn ông là “năm thê, bảy thiếp”. Nhưng mặt khác lại có
những luật định cho sự phá rào, và điều này đã mở đường cho các giá trị phồn
thực ở các chạm khắc đình làng được tồn tại và phát triển một cách rực rỡ.
Nho giáo vốn coi thường phụ nữ: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”,
nhưng trong cái mạch nguồn của cuộc sống làng xã, thì người ta cũng lại có câu
“Tam nam bất phú, tứ nữ bất bần” cho thấy vai trò không thể thiếu của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam. Người Việt vốn thực dụng, bởi cuộc
sống của họ quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời, chỉ mong đủ ăn, đủ
mặc đó là điều may mắn. Do vậy các giáo lý Nho giáo kia nếu quá cao siêu, mà
không thích ứng được với các giá trị thực dụng của làng xã và của người dân, thì
cũng không có giá trị gì. Nó sẽ bị chặn lại ngoài lũy tre làng.
Cái lý thuyết “trọng nam khinh nữ” của Nho giáo sở dĩ ăn sâu bắt rễ được
vào nông thôn Việt Nam là do nó đã bắt nhập được với tín ngưỡng thờ tổ tiên
của người Việt – tín ngưỡng bản địa có giá trị dung hòa mọi tôn giáo du nhập và
phát triển. Trọng Nam cũng là trọng người duy trì nòi giống tổ tiên. Nhưng đồng
thời cũng không quá khinh nữ theo quan điểm Nho học chính thống. Do vậy mới
có câu “Ba đồng một mớ đàn ông, ta thả vào lồng ta xách đi chơi, ba trăm một
mụ đàn bà, mua về mà trải chiếu hoa mời ngồi”. Điều này chứng tỏ giá trị của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Tất cả các hiện tượng kể trên đó
phần nào giải thích cho các chạm khắc nơi đình làng, tuy là nơi cấm phụ nữ
không được bén mảng tới nhưng các hình tượng nữ như cưỡi rồng, phượng,
thậm chí cả những cô gái khoả thân được mô tả tràn ngập.
Đình làng vốn là bộ mặt của làng xã, là nơi tâm linh và ảnh hưởng đến
vận mệnh của cả một làng. Do vậy, không có chuyện họ được tạc một cách ngẫu

nhiên, hoặc do sở thích của các hiệp thợ tùy tiện mà muốn chạm khắc thế nào
cũng được. Vốn là nơi thờ tự tôn nghiêm, do vậy các chạm khắc ở đây phải thể
hiện được lý tưởng, khát vọng của cả cộng đồng. Với sự thực dụng của người
Việt nền văn hoá Việt Nam trong suốt quá trình lịch sử phát triển của mình
thường mang giá trị cộng nhập hơn là bài xích các yếu tố văn hóa ngoại lai. Nó
luôn tìm được những yếu tố tương đồng để dung hợp lẫn nhau. Do vậy, hình ảnh
của các cô gái, nàng tiên trong đình làng ở đây hoàn toàn mang một giá trị khác.
Họ được xem là biểu tượng đại diện cho tín ngưỡng phồn thực - một tín ngưỡng
Võ Nam Thanh 13
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
tối cổ của người Việt hơn là quan niệm giáo điều khắt khe của Nho giáo. Tuy
nhiên điều thú vị là tín ngưỡng phồn thực đó trong giai đoạn Nho giáo thịnh
hành đã tìm được một giá trị hoà nhập với lý tưởng đông con nhiều cháu và
quan niệm về phúc, thọ. Các lý thuyết của Nho gia về gia đình dòng tộc, về sự
nối dõi tông đường đã trở thành ước vọng của xã hội phong kiến xưa, và thậm
chí còn tiếp tục được phát triển duy trì trong xã hội hiện nay. Do vậy để diễn đạt
ước vọng này, người ta đã hình tượng hóa những người đàn bà để đưa lên các
chạm khắc. Thậm chí nếu có đưa vào đó cả những hình ảnh khoả thân - hình ảnh
trái ngược hoàn toàn với chữ “công dung ngôn hạnh” của phụ nữ trong Nho
giáo. Và đương nhiên để khởi sự cho các hình tượng táo bạo đó, dân gian lại bắt
đầu từ các truyền thuyết về “Con rồng cháu tiên” với những hoạt cảnh: “Tiên
cưỡi rồng”, rồi theo đó những hình tượng người phụ nữ tràn vào đình làng như
một biểu tượng không thể thay thế cho sự sinh sôi phát triển. Người ta tìm thấy
rất ít các biểu tượng khoả thân nữ trong đình làng thế kỷ XVI, kể cả trên hình
tượng của các cô tiên. Nhưng chỉ sang thế kỷ XVII, khi nghệ thuật điêu khắc
đình làng phát triển đạt đến đỉnh cao mới, các hình tượng khoả thân đó mới xuất
hiện một cách phong phú.
Về biểu tượng tiên cưỡi rồng – phượng, có lẽ không phải đợi đến khi có lý
thuyết về Nho giáo mới tràn ngập đình làng. Ban đầu nó đã hiện hữu khá đa
dạng trong các kiến trúc chùa Việt, như các chạm khắc ở chùa Thái Lạc là một

điển hình. Các cô tiên nữ dâng hoa, thổi sáo, đánh đàn để ca ngợi các giáo lý của
Phật giáo đã trở thành một hình ảnh quen thuộc. Khi đình làng phát triển nở rộ
sau thế kỷ XVI, dường như đã có sự hoán đổi ý nghĩa nào đó cho một tâm thức
mới là ca ngợi công đức của vị thánh tổ của làng xã là Thành Hoàng, mà các cô
tiên nữ cưỡi rồng phượng, thổi tiêu, sáo đã xuất hiện trở lại. Hình ảnh của họ đã
khiến cho khung cảnh ở đây trở nên linh thiêng. Sau này chỉ cần có sự hiện diện
của các cô tiên nữ múa hát trong bối cảnh xum vầy tiên rồng cũng đã đủ để nói
lên ước vọng phồn thịnh của cư dân nông nghiệp. Như vậy cũng có thể nói các
chạm khắc đình làng là địa hạt để các giáo lý tôn giáo tìm được những giá trị
hòa hợp nhất định.
Từ các cô tiên nữ cưỡi rồng, đến sự xuất hiện của các cô thôn nữ chỉ là
một bước ngắn để hợp thức hóa giá trị phồn thực trong tín ngưỡng cổ truyền với
các giá trị Nho giáo. Ta có thể thấy tính chất đa dạng và mật độ xuất hiện cũng
dày hơn. Có những cô táo tợn đến mức nắm râu rồng, hay cưỡi lên đầu rồng, mà
biểu tượng rồng trong nghệ thuật tạo hình phong kiến thường đại diện cho vua
chúa. Trong đình làng, trên một trường ý nghĩa khác, con rồng với tâm thức của
cư dân nông nghiệp làm lúa nước được xem là biểu tượng của yếu tố dương. Do
vậy các cô gái nắm râu rồng, hay vui đùa trên mình rồng được giải thích theo ý
nghĩa là sự hoà hợp âm dương, là minh họa đặc trưng cho tính chất sinh sôi nảy
nở. Tính chất ẩn dụ và tính chất biểu tượng vốn là một đặc trưng của mỹ thuật
cổ của người Việt, do vậy trong một số bức chạm khắc, yếu tố dương này còn
được thay thế bằng các biểu tượng khác. Như bức chạm ở đình Hưng Lộc - Nam
Định (thế kỷ XVII) là một điển hình, những cô thôn nữ khoẻ mạnh bán khoả
Võ Nam Thanh 14
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
thân với những đôi tay như đang múa, được chạm ngồi xen lẫn giữa những cụm
măng tre đang mọc lên tua tủa, cũng cho thấy tính chất hòa điệu của yếu tố âm
và yếu tố dương.
Tính chất phồn thực và các biểu tượng của sự hoà hợp âm dương trên các
chạm khắc đình làng này khiến chúng ta nhớ đến những trò diễn mang tớnh chất

nghi lễ như “nừ nường” trong lễ hội đầu năm ở Phú Thọ. Trò diễn này thường
được diễn ra vào lúc nửa đêm sau khi cụ chủ tế khấn và lui ra, từng đôi nam nữ
bước vào chiếu, Nam cầm dùi gỗ tượng trưng cho sinh thực khí nam, Nữ cầm
vật biểu tượng sinh thực khí nữ vừa múa vừa biểu hiện hành động tính giao cấu,
sau mỗi tiếng trống, hai vật này lại được lồng vào nhau một lần. Ngoài ra, người
ta còn để thóc lúa giống dưới gầm giường của các đôi vợ chồng mới cưới, để
mong rằng những hạt lúa gạo học theo, bắt chước hành động của con người mà
sinh sôi nảy nở. Từ những trò diễn trong những phong tục, tập quán của người
Việt, thì việc xuất hiện của các biểu tượng trên trong các chạm khắc ở chốn linh
thiêng đình làng chỉ là một cách lưu giữ hình ảnh về những phong tục mà thôi.
Chúng thể hiện một niềm tin rằng quanh năm các thần linh sẽ chứng giám mà
phù hộ cho mùa màng tươi tốt và bội thu đem lại sự no ấm cho dân làng.
Một bức khác rất dễ nhận thấy là bức chạm lễ hội ở đình Ngọc Canh
(Vĩnh Phúc). Trong khung cảnh nhộn nhịp, nép vào một góc của cốn xà nách là
một đôi trai gái đang đạt đến cực điểm khoái lạc. Có lẽ bức chạm khắc này đã
mô tả sinh động nhất hiện tượng tháo khoán ở các lễ hội. Như hiện tượng “tắt
đèn” trong lễ hội làng La Cả (Hà Tây), hay trò chơi “bắt trạch trong chum”
(Vĩnh Phúc). Bình thường, trong sự hạn định của giáo lý Nho giáo với phụ nữ
phải đặt chữ tiết nghĩa lên hàng đầu trong xã hội phong kiến. Nên con gái chửa
hoang thường phải chịu phạt vạ ở giữa đình làng, gọt đầu bôi vôi, thậm chí thả
trôi sông. Điều này cũng tìm thấy trên một hoạt cảnh gần như tương phản của
chính ngôi đình được xem là có nhiều các cảnh hoan lạc nhất – Đình Phự Lóo đã
được nhắc đến ở trên. Cảnh phạt vạ một cô gái chửa hoang khiến người ta phải
rùng mình về thân phận thực tế của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
Hoạt cảnh này cũng cho thấy, cái khuôn khổ của Nho giáo vẫn là cái khung
chính của các định lệ của đình làng và nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên trong
tính mềm dẻo của văn hóa Việt, thì những cô gái sau những lần tháo khoán như
vậy mà có chửa, lại là điềm may mắn của cả làng. Các đứa trẻ đó theo quan
niệm của người dân lại là những đứa con do thần linh ban tặng. (Và tất nhiên
quan niệm này sẽ còn có giá trị gỡ rối cho các cô gái “chót dại” vào các khoảng

thời gian gần trùng với điểm tháo khoán này). Điều này chứng tỏ giá trị nhân
bản của các phong tục Việt. Sự tiếp nhận Nho giáo trong dân gian là sự tiếp
nhận có chọn lọc các giá trị ứng xử xã hội. Nó một mặt giữ cho đời sống của
người dân được tuân theo các phép tắc nhằm có được một xã hội ổn định, nhưng
đồng thời nó cũng không xóa nhoà đi các giá trị truyền thống mở ra những luật
định để cho con người có được những lối thoát.
Song song và cùng mạch với các đề tài đã được thiêng hoá kể trên, thì đề
tài tình yêu cũng được phát triển mạnh mẽ đáng kể. Mặc cho xã hội Nho giáo là
Võ Nam Thanh 15
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
“nam nữ thụ thụ bất thân”, các mảng chạm khắc như: “trai gái vui đùa”, “tình
tự” “tắm sen” cũng không khác bao xa với các cảnh có tính chất tháo khoán ở
trên. Nó cho thấy một mảng khác của đời sống tinh thần. Tính chất vui tươi dí
dỏm được thể hiện ra trong các trò chơi và sinh hoạt dân gian Lúc này những
cảnh khoả thân có lẽ đã trở nên thường thấy trong các chạm khắc đình làng cuối
thế kỷ XVII đầu XVIII, nên việc có mặt của các hoạt cảnh này dường như
không cần đến sự hợp thức hóa của các giá trị phồn thực mới có thể xuất hiện.
Như vậy ta thấy rằng trong nghệ thuật ở đình làng, biểu tượng nữ chiếm
một vị trí đáng kể. Nó tạo nên những giá trị cân bằng giữa đời sống tinh thần và
đời sống vật chất, giữa mong ước và hiện thực. Sự tôn vinh người phụ nữ trong
các chạm khắc đình làng đề cao những giá trị không thể thay thế của họ trong xã
hội và bù đắp phần nào cho sự cực nhọc của thân phận người phụ nữ những giáo
điều phong kiến khắt khe. Nó đồng thời cho thấy giữa cái thiết chế Nho giáo về
tổ chức xã hội để đạt được sự ổn định hài hòa, thì các giá trị của văn hóa cổ
truyền, tín ngưỡng phồn thực vẫn được duy trì và phát triển như một nhân tố
thiết yếu của cư dân trồng lúa nước.
b)Ảnh hưởng của Nho Giáo trong trang phục Việt Nam, đặc biệt là
trang phục vua chúa.
Nho Giáo tôn thờ long, ly, quy, phượng là
tứ linh, bốn con vật mạnh nhất, quyền uy nhất. Vì

thế vật dụng hàng ngày của vua, con của Trời,
người có quyền lực cao nhất thường mang hình
ảnh của những con vật này. Điều đó thể hiện ngay
trong cả tên gọi những vật mà vua chúa sử dụng:
long bào (áo vua), long sàng (giường vua), …
Đặc biệt, các y phục của vua quan là nền
vải đều dệt và thêu các hoa văn với nhiều ý nghĩa
tượng trưng khác nhau, trong đó trang trí phổ biến
là:
a. Long (con rồng): độc tôn của nhà vua,
tượng trưng cho vương quyền. Trong
trang trí, nó có thể biểu hiện nguyên
con hoặc có lúc cách điệu như rồng hóa
mây, rồng ổ, cửu long
b. Lân (kỳ lân): con vật biểu tượng cho sự tôn trọng với tư cách giám sát
sự trung thành của các quan lại đối với nhà vua.
c. Phụng (phượng hoàng): tượng trưng cho sự giàu đẹp, thịnh vượng. Nó
thường gắn với nữ giới.
d. Quy (con rùa): biểu tượng của sự trường tồn và bền vững.
e. Bát bửu: là những đồ quý tượng trưng cho nhiều ý nghĩa khác nhau
như hạnh phúc, giàu có, sức khỏe hoặc sự cầu mong mọi sự tốt đẹp.
Nhìn trên phương diện mỹ thuật mỗi một bộ trang phục chính là các tác
phẩm nghệ thuật. Đó là sự kết hợp của nghệ thuật may thêu, hội họa với nền kim
Võ Nam Thanh 16
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
hoàn. Phong cách trang trí từ các họa tiết rồng mây đến hồi văn thủy ba, chữ
thọ Những mô tuýp ấy đã xuất hiện rất nhiều trong trang trí cung đình Huế
trên các chất liệu gỗ, đồng, vôi vữa, gốm sứ cũng như việc trang trí trên các
chất liệu khác, trang trí trên vải cũng có sự chuyển qua từng thời đại và mỗi giai
đoạn lịch sử đã để lại những dấu ấn khó phai mờ trên các tác phẩm ấy. Trên ý

nghĩa đó, trang phục của vua chúa hiện tồn không chỉ đơn thuần là những bộ
quần áo quý báu, những cổ vật vô giá mà còn là những tác phẩm nghệ thuật,
những sử liệu bất thành văn rất cần thiết cho việc nghiên cứu lịch sử văn hóa
Việt Nam.
2. Đóng góp của Nho Giáo về mặt vô thể.
a) Vai trò của Nho Giáo trong hệ tư tưởng Việt Nam.
 Nho Giáo và gia đình.
Ở những nước châu Á theo Nho giáo, chúng ta thấy những đóng góp lớn
đối với quá trình phát triển của đất nước. Gia đình đào tạo ra những người mà xã
hội đòi hỏi. Gia đình nuôi dưỡng một cuộc sống tình cảm giữa các thành viên và
giữa gia đình với xã hội. Các nước nói trên đã giữ lại mối quan hệ cổ truyền
trong gia đình để ràng buộc con người vào trật tự xã hội. Nó đã củng cố thêm
mối quan hệ tính chất giữa Nhà nước và công dân, giữa chủ và thợ. Người chủ
và lợi ích của bản thân đã nhân danh gia đình chăm lo đến lợi ích của công nhân,
người công nhân cũng với tình cảm của gia đình, coi xí nghiệp như gia đình của
mình, coi chủ xí nghiệp như chủ gia đình. Họ chăm lo đến lợi ích của xí nghiệp
và lợi ích của họ phụ thuộc vào mức độ họ đóng góp với xí nghiệp. Truyền
thống Nho giáo trong gia đình ở các nước nói trên có tác dụng tích cực trong
việc ổn định và phát triển xã hội như thế.
Ở Việt Nam, vai trò của gia đình trong sự nghiệp phát triển của đất nước
và cũng có những quan điểm riêng về di sản Nho giáo trong gia đình Việt Nam.
Được ví như một quốc gia thu nhỏ, Nho giáo cho rằng, gia đình có vị trí
quan trọng trong sự ổn định của xã hội. Vì vậy, những hành vi ứng xử và giao
tiếp của mỗi thành viên trong gia đình được Nho giáo quy định chặt chẽ, phụ
thuộc vào danh phận mỗi người. Những quy định này, nếu loại bỏ những yếu tố
bảo thủ, mất dân chủ thì cho đến nay, vẫn còn có giá trị. Do đó, kế thừa những
tư tưởng tích cực của Nho giáo về gia đình trong việc xây dựng gia đình mới ở
Việt Nam hiện nay nhằm thực hiện thành công xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, là việc làm cần thiết.
Khác với các học thuyết triết học Phương Tây, triết học phương Đông nói

chung và đặc biệt là Nho giáo nói riêng, luôn xem xét con người trong tổng hòa
các mối quan hệ xã hội. Ở Nho giáo, chúng ta thấy, không tồn tại một con người
cá nhân, một cái tôi tách khỏi xã hội. Chính việc nhìn nhận con người trong các
mối quan hệ xã hội đó giúp Nho giáo đề ra được những giải pháp bình ổn xã hội.
Theo quan niệm Nho giáo, mọi người trong xã hội đều bị trói buộc bởi
năm mối quan hệ tự nhiên. Đó là quan hệ cha - con, vợ - chồng, anh - em, vua -
tôi, bạn - bè. Năm mối quan hệ này phản ánh hai mặt của cuộc sống hiện thực là
quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong xã hội phong kiến, mối quan hệ gia
Võ Nam Thanh 17
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
đình được củng cố bằng chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng, còn các quan hệ
xã hội thì được duy trì bởi chế độ chính trị đẳng cấp. Đi cùng với các mối quan
hệ đó là những yêu cầu giao tiếp bắt buộc mà mỗi thành viên trong xã hội phải
thực hiện.
Tương ứng với mỗi quan hệ, Nho giáo đặt ra những yêu cầu mang tính
quy phạm đạo đức và được pháp luật ngầm bảo trợ. Tất cả những mối quan hệ
trên và các phương thức ứng xử hội tương ứng với nó, theo Nho giáo, là cái trời
đã định sẵn cho con người. Đã là gia đình thì phải có vợ - chồng, cha - con, anh
- em. Trong gia đình thì vợ - chồng phải hòa thuận, phu xướng thì vợ phải tùy, là
cha - con thì cha phải hiền từ biết thương yêu và nuôi dạy con cái, biết làm
gương cho con cái học tập. Ngược lại, phận làm con phải biết ghi nhớ công ơn
sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, biết hiếu thuận với cha mẹ. Đã là anh em thì
phải biết đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, là anh chị thì phải biết nhường
nhịn, thương yêu, là em thì phải biết nghe lời và lễ phép với anh chị. Trong quan
hệ xã hội, Nho giáo đòi hỏi trước hết phải có lòng trung thành trong quan hệ vua
tôi và trên dưới. Người dưới phục vụ người trên phải lấy chữ trung làm đầu. Kẻ
trên đối xử với kẻ dưới phải lấy chữ nhân làm đầu, phải biết giữ lễ và phải có
lòng tín thật. Xét chung trong mọi mối quan hệ, Nho giáo yêu cầu mỗi cá nhân
phải lấy mình làm mốc mà yêu cầu đối với người. Cái gì mình muốn thì cũng
làm hết lòng cho người khác và ngược lại, cái gì mình ghét thì cũng đừng đem

lại cho người khác.
Bên cạnh đó, Nho giáo còn quan niệm rằng, mọi sự bất ổn trong xã hội
đều có nguyên nhân từ việc ứng xử không tốt các mối quan hệ xã hội. Để bảo
đảm sự ứng xử được đúng, Nho giáo yêu cầu mỗi người phải làm tốt vai trò của
mình. Vai trò đó được xác định bởi danh phận của mỗi người do xã hội quy
định. Đó là phận làm vua, phận làm tôi, phận làm cha, phận làm con Danh
phận của mỗi người quy định cách ứng xử của họ. Cách ứng xử theo danh phận
Nho giáo gọi là lễ. Theo Nho giáo, nếu trong xã hội mỗi người đều làm tốt bổn
phận của mình thì xã hội sẽ thái bình. Nếu xã hội thái bình thì mọi người ai cũng
được an cư lạc nghiệp. Khi đó tất cả những người già cả, trẻ nhỏ và những người
cô quả sẽ được mọi thành viên trong xã hội quan tâm giúp đỡ. Cảnh tranh giành
và chém giết nhau vì cái lợi sẽ không còn. Để làm được điều đó, Nho giáo đặc
biệt nhấn mạnh tới vai trò của gia đình.
Nho giáo cho rằng, gia đình chình là một cõi nước nhỏ. Vì thế, nếu "một
nhà nhân hậu thì cả nước nhân hậu. Một nhà lễ nhượng thì cả nước ăn ở đều có
lễ nhượng. Một người tham lam thì cả nước bị rối loạn" (Đại học, chương IX).
Do đó, một xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần phải có những gia đình hòa
thuận. Gia đình hòa thuận là gia đình mà mọi thành viên luôn quan tâm đến
nhau, chăm lo cho nhau. Trong gia đình đó, vợ chồng sống hòa thuận thương
yêu nhau, cùng nhau chăm lo nuôi dưỡng dạy dỗ con cái nên người. Cha mẹ
phải luôn giữ gìn lời ăn tiếng nói cũng như tác phong làm việc của mình để làm
tấm gương cho con cái noi theo. Ngược lại, con cái phải luôn hiếu kính với ông
bà, cha mẹ, biết phụng dưỡng chăm sóc ông bà, cha mẹ, biết làm cho ông bà,
Võ Nam Thanh 18
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
cha mẹ được rạng rỡ và không làm việc gì khiến cho ông bà, cha mẹ phải tủi hổ
với hàng xóm láng giềng. Một gia đình hoà thuận còn là một gia đình mà anh
em biết bảo ban nhau cùng tiến bộ, biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau, biết em
ngã thì chị nâng.
Để làm được điều đó, Nho giáo đòi hỏi mỗi người trong gia đình phải biết

giữ gìn và tuân theo lễ, bởi cho rằng, chỉ có lễ con người mới trở thành con
người trong xã hội: "Chim anh vũ có thể biết nói nhưng vẫn thuộc loài chim,
con tinh tinh có thể biết nói nhưng vẫn thuộc loài cầm thú. Làm người mà không
có lễ thì tuy biết nói đấy nhưng có khác gì loài cầm thú? Chỉ có loài cầm thú là
không có lễ, cho nên cha con ở lẫn lộn với nhau. Vì vậy việc làm của bậc thánh
nhân là lấy lễ dạy người khiến người ta ai cũng biết lễ để tự phân biệt mình với
cầm thú" (Kinh Lễ, Khúc lễ thượng). Nhờ có lễ, con người mới có thể biết được
như thế nào là có hiếu với cha mẹ, là kính với người trên, là từ đễ với anh em
thân thích, là bạn hiền của bằng hữu, là nhân với người chung quanh, là tín thực
với thân thuộc. Theo lễ, người con có hiếu và biết lễ phép thì "Khi ở trước mặt
cha mẹ ruột hoặc cha mẹ chồng, nếu có lệnh phải vâng dạ kính cẩn, tiến thoái
phải chu toàn thận trọng, lên xuống ra vào phải cung kính, không dám ho hoẹ,
đằng hắng hay ngáp dài, không được đứng dựa nghiêng ngả liếc ngang liếc
dọc, không dám phun nước bọt chùi nước mũi… Nếu như cha mẹ có lỗi lầm gì,
mình vẫn phải vui vẻ hoà nhã dùng lời nói ôn hoà mà can gián. Nếu can mà
(cha mẹ) không nghe lại càng phải giữ thái độ hoà nhã cung kính hơn, đợi cha
mẹ nguôi ngoai rồi lại can gián. Nếu cha mẹ không nghe để đến nổi phạm lỗi
lầm có tội với bạn bè hàng xóm, ta vẫn phải ôn hòa khuyên can. Nếu cha mẹ
nóng giận đánh ta đến chảy máu, ta vẫn không dám giận oán mà vẫn phải kính
trọng hiếu thuận với cha mẹ" (Kinh Lễ, Chương XII, tiết 2). Ngược lại, ngay từ
khi con cái đến tuổi biết ăn cơm, cha mẹ "cần thiết phải dạy nó biết sử dụng tay
phải, con trai phải biết thưa dạ, con gái phải biết nhu hòa… Khi con lên sáu
tuổi, hãy dạy chúng về số học và đếm số… Tám tuổi, dạy chúng khi ra vào hay
khi ngồi vào bàn ăn, nhất nhất phải theo sau bậc trưởng thượng, bắt đầu dạy
cho chúng biết nhường nhịn Mười tuổi, cho ra ngoài học thêm sách vở khác…
bắt đầu hướng dẫn chúng về lễ, sớm tối tuân theo nghi thức của trẻ nhỏ… Hai
mươi tuổi là làm lễ đội mũ, bắt đầu học lễ… dạy chúng thuần hậu về hiếu lễ"
(Kinh Lễ, Chương XII, tiết 3). Nho giáo khẳng định, nếu xây dựng được một gia
đình hoà thuận, con cái biết hiếu đễ cha mẹ biết từ nhượng thì đó cũng là làm
chính trị rồi. Bởi nước cũng chỉ là một cái nhà to. Các căn nhà nhỏ - gia đình mà

hòa thuận thì căn nhà to cũng sẽ hòa thuận. Vì thế, làm chính trị không cứ là
phải ra làm quan.
Gia đình mới chính là nền tảng của sự ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự
phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc, là nơi phòng chống có hiệu quả nhất mọi tệ
nạn xã hội đang làm phương hại đời sống tinh thần của con người. Gia đình mới
còn là nơi có khả năng nhất trong việc bảo lưu giữ gìn những bản sắc truyền
thống văn hoá của dân tộc. Ngoài ra, đây còn là nơi cung cấp những công dân
mới có đức, có tài cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Mô hình gia đình vợ
Võ Nam Thanh 19
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
chồng hoà thuận, cha từ con hiếu, anh em thương yêu đùm bọc nhau chính là
thành trì để ngăn cản sự xâm hại những tư tưởng thực dụng, vị kỷ, lối sống gấp
chỉ biết hôm nay mà không cần biết ngày mai. Như vậy, có thể nói rằng, nếu loại
bỏ những tư tưởng bảo thủ, mất dân chủ thì việc kế thừa những giá trị luân lý
tích cực của Nho giáo về gia đình để xây dựng gia đình mới nhằm đáp ứng được
sự phát triển đất nước là điều nên làm. Gia đình mới chính là nơi kế thừa những
tinh hoa của gia đình cũ kết hợp với những chuẩn mực đạo đức mới của xã hội
mới. Những tinh hoa đó, trước hết, là tư tưởng vợ chồng hoà thuận, cha từ con
hiếu, anh em thương yêu đùm bọc nhau… của Nho giáo.
Thực tế những lý tưởng nhân đạo, khát vọng hoà bình của Nho giáo cũng
là lý tưởng và khát vọng của chúng ta hiện nay. Mặc dù bị hạn chế do lịch sử,
song một số tư tưởng cũng như biện pháp mà Nho giáo đề ra cho đến nay vẫn
còn nguyên giá trị. Cũng giống như Nho giáo, hiện nay chúng ta đã và đang ra
sức phấn đấu cho một thế giới hoà bình, cho sự bình đẳng của mọi dân tộc trên
toàn thế giới. Vì vậy, chúng ta cần ngăn chặn các tệ nạn xã hội, mọi thảm hoạ
chiến tranh, chống lại nạn khủng bố trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, kế thừa
các tư tưởng nhân văn trong ứng xử và giao tiếp giữa người với người của Nho
giáo là một việc làm hết sức cần thiết.
 Nho Giáo trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Nho giáo đòi hỏi con người trước hết phải có quan hệ đúng đắn trong các

quan hệ xã hội. Trước hết, là 5 mối quan hệ gọi là Ngũ luân: Vua tôi, cha con,
chồng vợ, anh em, bạn bè.
Những nước châu Á theo Nho giáo đã khai thác những quan điểm trong
Ngũ luân để nâng cao tình cảm và trách nhiệm của mỗi con người đối với gia
đình, đối với xí nghiệp, đối với nơi công tác, đối với tổ quốc và xã hội. Sự khai
thác Nho giáo như thế đã có tác dụng lớn là nâng cao tình cảm và ý chí của mọi
người trên cương vị và trách nhiệm cụ thể của mình.
Nhưng những nhu cầu về quyền tự do của cá nhân và đời sống riêng tư,
về ý thức dân chủ của con người đang trở thành những vấn đề mà chúng tôi nghĩ
rằng các nước theo Nho giáo cần vượt qua quan hệ Ngũ luân để giải quyết. Ở
Việt Nam, sự nghiệp cách mạng đưa con người vượt ra khỏi phạm vi của gia
đình để cùng lo lắng chung đến công việc của tổ quốc, với nhiều tình cảm rộng
lớn đối với cả nhân loại bị áp bức. Qua hai cuộc kháng chiến , nhân dân Việt
Nam đó đặt lợi ích của tổ quốc lên trên hết, sẳn sàng hy sinh cả tính mạng và
hạnh phúc. Nhưng con người vẫn là mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động xã
hội, của mỗi tập thể cũng như của mỗi cá nhân. Quan hệ giữa người và người ở
Việt Nam không thể chỉ giới hạn trong Ngũ luân. Vấn đề của chúng ta là xây
dựng mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội. “Một người lo cho tất cả,
tất cả lo cho một người”. Câu nói đó vẫn là mục tiêu phấn đấu trên con đường
xây dựng một xã hội công bằng và văn minh.
 Nho Giáo và những phẩm chất cơ bản của con người (ngũ
thường).
Võ Nam Thanh 20
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
Ngũ thường trong Nho giáo bao gồm 5 đức hạnh nhằm phục vụ 5 mối
quan hệ là Ngũ luân. Ngũ luân và Ngũ thường gọi tắt là Luân thường, đó là lý
tưởng đạo đức của người theo Nho giáo. Ngày nay, lý tưởng đạo đức của nhân
dân Việt Nam là: Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Thay cho Ngũ thường của Nho giáo là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Hồ Chí
Minh cũng nêu lên “Ngũ thường” ở Việt Nam là: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.

Ngũ thường này phản ánh tình cảm, nghĩa vụ, nhận thức, khí phách và đạo đức
của nhân dân Việt Nam trên con đường bảo vệ và xây dựng tổ quốc. Nó tiếp tục
cổ vũ tinh thần của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hôm nay.
Nho giáo đã từng đóng góp một vai trò to lớn trong lịch sử Việt Nam và
chưa hết tác dụng của nó.
Chúng ta tiếp tục học tập thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với việc
vừa khai thác những nhân tố hợp lý của Nho giáo, vừa lên án những nét tiêu cực
của nó. Người đã nhanh chóng cải biến nhiều khái niệm của Nho giáo để những
khái niệm ấy chứa đựng một nội dung mới trong hình thức cũ. Trong quá trình
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần xác định những quan
điểm lý luận đúng đắn trong việc xây dựng một nền đạo đức mới, trong gia đình
và xã hội, cùng những phương hướng tu dưỡng cá nhân trên cơ sở phát huy và
đổi mới truyền thống dân tộc trong đó có những nhân tố tích cực của Nho giáo.
b) Vai trò của Nho Giáo trong ngôn ngữ.
Vai trò của Nho Giáo trong ngôn ngữ trước hết thể hiện ở vai trò của chữ
Hán, sau nữa là việc dựa trên truyền thống văn hóa có sẵn, Hán học tiếp sức cho
người Việt hình thành nền văn học độc lập của dân tộc và là nền tảng, cơ sở để
sáng tạo ra chữ viết đầu tiên: chữ Nôm.
Người Việt Nam sử dụng chính những con chữ Hán để ghi chép lại các
kinh nghiệm trong tập quán lao động, sinh hoạt được hình thành từ xa xưa. Cứ
như vậy, chữ Hán vô tình trở thành một người bạn đồng hành với đời sống lao
động, sinh hoạt văn hoá của người dân nước Việt. Thời gian về sau, chữ Hán
không chỉ có vai trò trong những văn bản chính thức, trong những ghi chép thư
tịch mà hệ thống văn tự này đã trở nên gần gũi với đời sống các cư dân hơn, khi
nó được dùng để ghi gia phả dòng họ hay những sự kiện của một khu vực nhỏ.
Tại nhiều ngôi đình ở Việt Nam, bên cạnh những đồ thờ, bức tượng, đồ vật
mang tính chất tín ngưỡng thì những bức hoành phi, đại tự hay những câu đối
chữ Hán là không thể thiếu. Và chữ Hán lúc này đối với cư dân Việt không đơn
thuần chỉ là hệ thống văn tự.
Xu thế tách rời âm Hán gốc ở Việt Nam thời gian này không chỉ là kết

quả của sự độc lập trong văn hoá người Việt, mà nó còn là tiền đề cho sự ra đời
của một hệ thống chữ viết mới ở Việt Nam, đây cũng là một sáng tạo văn hoá
lớn của những học sĩ phong kiến người Việt. Lúc này, tuy chữ Hán là hệ thống
chữ viết duy nhất ở Việt Nam, nhưng nó vẫn chưa đủ để ghi chép tất cả những
âm của tiếng Việt. Đó chính là hạn chế lớn của chữ Hán, bởi văn hoá truyền
thống của người Việt có một quá trình hình thành và phát triển từ lâu đời với
những giá trị không thể phủ nhận. Ví dụ như trong âm Hán chữ huyết (nghĩa là
Võ Nam Thanh 21
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
máu) ghép lại với chữ khẩu, được đọc là hoét, một âm không có trong hệ thống
chữ Hán mà chỉ người Việt mới có. Cứ như vậy, những con chữ Nôm được các
học sĩ Việt Nam sáng tạo ra trên cơ sở chữ Hán, để có thể ghi được những âm
mà tiếng Hán không tồn tại. Thành tựu ấy được các tầng lớp Nho sĩ người Việt
sáng tạo từ những con chữ Hán gốc. Có thể nói, chữ Nôm không chỉ là một
thành tựu trong học thuật từ xưa của người Vệt Nam. Chữ Nôm còn là một biểu
tượng bất diệt cho tinh thần dân tộc được hình thành từ muôn đời, được hun đúc
qua nhiều thế hệ và kết tinh trong tâm hồn của giới trí thức Việt Nam. Nhưng
cũng không thể phủ nhận vai trò của hệ thống chữ Hán trong việc tạo lập ra chữ
Nôm. Ngoài việc đóng vai trò là nguyên liệu cho kết cấu của chữ Nôm. Văn tự
Hán còn tạo cho những tầng lớp Nho sĩ người Việt một nền tảng sơ khai về quan
niệm chữ viết, điều kiện quan trọng cho quá trình hình thành chữ Nôm. Còn chữ
Nôm, sau thời gian đầu chập chững với những quy tắc, kết cấu, dần dần đó đạt
được một sự thống nhất nhất định và trở thành phương tiện ghi chép mới.
Với nền tảng là một kho tàng văn hoá vốn phong phú, lại thêm quá trình
giao lưu với những nền văn minh bên ngoài, chữ Nôm có được một môi trường
hết sức thuận lợi cho việc hoàn thiện và phổ biến rộng rãi. Lúc này, bên cạnh
những trước tác nổi tiếng được ghi bằng chữ Hán, những thư tịch của Việt Nam
lại có sự góp mặt của các tác phẩm chữ Nôm, và chỉ trong một thời gian không
dài, chữ Nôm đã xác định được chỗ đứng vững chắc trong đời sống sinh hoạt và
hoạt động văn hoá của người dân nước Việt. Thời gian trôi đi, loại văn tự này

cũng có số phận với những biến đổi trong quá trình tồn tại, và đó cũng chính là
một trong những biểu hiện của văn hoá nước nhà.
c) Vai trò của Nho Giáo trong văn học nghệ thuật.
Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, văn học chữ Hán chiếm một vị
trí đáng kể. Trong văn học chữ Hán, thơ chữ Hán là một bộ phận quan trọng
nhất, phát triển mạnh nhất.
Văn học chữ Hán đã đóng góp cho nền văn học nước nhà một số lượng
tác phẩm đồ sộ.Trong đó phải kể đến “Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh với 133 bài thơ viết bằng chữ Hán Từ bài mở đầu cho đến bài thơ cuối,
mỗi bài khắc hoạ một tâm trạng, một hoàn cảnh sáng tác khác nhau, tập thơ đó
mang đến cho người đọc những cảm nhận về hành trình vô cùng gian nan, cực
khổ qua các nhà tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
IV. MẶT TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA NHO
GIÁO TỚI VĂN HOÁ VIỆT NAM.
Võ Nam Thanh 22
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
Nho giáo kể từ khi du nhập vào Việt Nam đã ăn sâu bám rễ vào đời sống
tinh thần của dân tộc Việt Nam, đặc biệt nó ngự trị suốt thời gian dài của xã hội
phong kiến Việt Nam. Tuy ngày nay cơ sở kinh tế - xã hội của Nho giáo đã bị
xoá bỏ nhưng không có nghĩa là những tư tưởng của Nho giáo đã biến mất, mà
những yếu tố trong tư tưởng của Nho giáo vẫn tồn tại, và đang ảnh hưởng, tác
động đến nhiều mặt của xã hội ta. Những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ của nó đã
gây những tác hại xấu đến nhiều mặt và để lại nhiều hậu quả nặng nề trong đời
sống xã hội, gây nhiều trở ngại cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở ta.
Do hình thành cuối thời kỳ chiếm hữu nô lệ, Khổng Tử muốn vực dậy
một nhà nước kiểu đó nhưng đối xử với nhau bằng đạo đức, ông đã đề ra tam
cương và ngũ thường. Tuy vậy việc quá đề cao vua, coi vua là mệnh trời dẫn
đến thời kỳ quân chủ chuyên chế khắc nghiệt sau này.
Sau nhiều lần bổ sung, Nho gia tới chỗ cực đoan xem phụ nữ và dân đen
là những người bình thường, dễ sai khiến. Đổng Trọng Thư đưa Tam cương ngũ

thường đến độ khắc nghiệt khiến nảy sinh ra câu: "Quân xử thần tử, thần bất tử
bất trung. Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu".
Trước đây, trong điều kiện xã hội phong kiến, nhiều người quan niệm học
để làm quan, có cuộc sống an nhàn sung sướng, nên đã tạo ra tâm lý chạy theo
danh vọng, bổng lộc. Các bậc cha mẹ cố gắng nuôi con ăn học mong con thi đỗ
được làm quan và hưởng lộc. Từ đó nảy sinh thái độ coi nhẹ lao động chân tay,
coi việc cày cuốc là việc của những kẻ tiểu nhân, chỉ có kẻ sĩ, người quân tử mới
là hạng thanh cao, họ đọc sách và dạy người.
Tinh thần học không biết chán, dạy không biết mỏi hơn bao giờ hết đang
là những truyền thống đạo đức tốt đẹp cần tiếp tục khơi dậy và phát huy trên
toàn xã hội trong điều kiện hoàn cảnh mới. Đảng và Nhà nước ta đã chủ chương
“giáo dục là quốc sách hàng đầu”, đẩy mạnh giáo dục để nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Cần tạo điều kiện để khuyến khích cả người
dạy và người học, để việc học trở thành nhu cầu tất yếu của tất cả mọi người,
nhưng cũng tránh kiểu học “khoa bảng” học để “làm quan” dẫn đến tình trạng
chạy bằng cấp, gian lận, tiêu cực trong thi cử. Trong xã hội phong kiến trước
đây, người đi học phải tự tìm thầy dạy, và việc đầu tiên phải làm lễ nhập môn.
Trong quá trình học cứ phải răm rắp nghe theo và thực thi lời dạy của thầy mà
không được phản đối. Tư tưởng ấy đó phần nào kìm hãm sự vươn lên, sức sáng
tạo của người học. Nó nhằm đào tạo ra những con người suốt đời chỉ biết phụng
sự, phục tùng, tuân thủ theo kiểu một chiều. Ngày nay ở ta, nhìn chung quan hệ
thầy trò không còn là quan hệ một chiều nữa, mà thay vào đó là thái độ tôn
trọng, cùng trao đổi và biết lắng nghe, giúp cho học sinh có điều kiện phát huy
hết tài năng và sức sáng tạo của mình. Tuy nhiên, vẫn còn đâu đó trong đời sống
xã hội có những người thầy bị mặt trái của cơ chế thị trường tác động đến nhân
phẩm, họ vẫn là biểu hiện của sự quyền uy, trách phạt học trò khi bị phật lòng,
sẵn sàng bạt tai, trù dập, những học trò nào không làm theo ý của thầy, có cô
Võ Nam Thanh 23
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
giáo vì bêu xấu học trò khi chúng phạm lỗi đã đẩy học sinh tới chỗ tự vẫn.

Ngược lại cũng còn đâu đó những học sinh thiếu lễ độ, dùng vật chất để nhờ vả
xin điểm thầy cô, nói xấu thầy cô, cư xử thiếu văn hoá, lăng mạ, hành hung,
thậm chí giết thầy.
Chính vì lẽ đó, một trong nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trên mặt trận văn
hoá tư tưởng, đó là chúng ta biết kế thừa những yếu tố tốt đẹp, tích cực, phù hợp
của Nho giáo, đồng thời khơi dậy trong xã hội nói chung, trong nhà trường nói
riêng những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Các nhà Nho đã tìm ra một nguyên nhân của tình trạng xã hội rối loạn là
“cha không ra cha, con không ra con" , tức là họ coi một trong những nguồn gốc
làm cho xã hội rối loạn là sự rối loạn từ trong gia đình. Do đó, các nhà Nho đều
cho rằng muốn cho xã hội có trật tự, kỷ cương, thì trước hết và cơ bản là gia
đình phải có trật tự, kỷ cương, sao cho "cha ra cha, con ra con, vợ ra vợ, chồng
ra chồng". Các nhà Nho chủ trương giáo dục, giáo hoá mọi người trong xã hội
theo những nguyên lý đạo đức Chính danh, Tam cương, Ngũ thường, trước hết
và chủ yếu là nhằm mục đích trên. Cho nên cũng dễ hiểu tại sao Nho giáo chú
trọng, đề cao giáo dục, giáo hoá với phương châm "Hữu giáo vô loại", "Phú nhi
hậu giáo”, coi giáo dục, giáo hoá là biện pháp căn bản nhất để duy trì trật tự, kỷ
cương trong gia đình - tiền đề và điều kiện bảo đảm trật tự, kỷ cương, ổn định xã
hội.
Song những chủ trương ấy của các nhà Nho không phải là nhằm đem lại
một gia đình mà trong đó, mọi người đều bình đẳng hoàn toàn. Trong cái gia
đình ấy, người cha luôn có uy quyền cao nhất, người chồng có quyền lớn hơn
vợ. Có như vậy, gia đình ấy mới được xem là gia đình có kỷ cương, trật tự và có
giáo dục. Đến Đống Trọng Thư thì quan niệm về một gia đình có trật tự, kỷ
cương lại càng trở nên chặt chẽ hơn, khắc nghiệt hơn, trong đó quyền hành của
người cha, người chồng là tuyệt đối: “Cha bắt con chết con phải chết, con không
chết là bất hiếu, vợ phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của chồng". Và khi coi
gia đình là tế bào của xã hội, nhà là gốc của nước, trật tự, kỷ cương trong gia
đình là tiền đề, điều kiện để duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, rốt cuộc các nhà
Nho đều chủ trương bảo vệ, duy trì vĩnh viễn địa vị thống trị tuyệt đối của ông

vua (Thiên tử), cố định hoá trật tự và cơ cấu giai cấp của xã hội phong kiến. Rõ
ràng, cái xã hội lý tưởng, theo quan niệm của các nhà Nho, phải là một xã hội
mà ở đó, đứng đầu nhà nước là Thiên tử và Thiên Tử là người có uy quyền cao
nhất, dưới Thiên Tử là vua chư hầu, dưới vua chư hầu là các quan đại phu, dưới
quan đại phu là thần dân trong thiên hạ. Nói cách khác, cái xã hội đó phải luôn
đặt trong vũng trật tự có lợi cho giai cấp thống trị và vì vậy, kẻ nào phá hoại
"trật tự" đó sẽ bị Thiên Tử trừng phạt - đúng như các nhà Nho luôn luôn chủ
trương: Lễ nhạc, chinh phạt đều từ Thiên Tử mà ra.
Khi đưa ra quan niệm về một xã hội lý tưởng, các nhà Nho đều mong
muốn rằng trong xã hội đó, bằng mọi cách, phải duy trì được nguyên tắc: giai
cấp địa chủ phong kiến mãi mãi là giai cấp "cai trị người" và được người phụng
dưỡng, còn các giai cấp, tầng lớp khác mãi mãi ‘bị người cai trị" và phải nuôi
Võ Nam Thanh 24
Tìm hiểu sự du nhập, phát triển và những ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hóa Việt nam
dưỡng người. Đôi khi, trước một thực trạng xã hội mà trong đó, mâu thuẫn giữa
các giai cấp và mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị diễn ra gay gắt, hầu
như không thể điều hòa được, cũng như tình trạng rối loạn xã hội hầu như không
chấm dứt, các nhà Nho phải viện tới "ý trời", “mệnh trời". Theo đó, cái trật tự
đẳng cấp, phân vị ấy là do trời sắp đặt, là ý trời và không thể đảo ngược được.
Và những hành vi hành động nào làm nguy hại đến trật tự đó là “có tội với trời
và dù có cầu đảo thì trời cũng không tha thứ" (Khổng Tử). Như vậy, dù Nho
giáo có đưa ra quan niệm về một xã hội đại đồng lý tưởng thì chẳng qua cũng
chỉ nhằm tô vẽ, bảo vệ sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ phong kiến cũng như
quyền lợi và địa vị thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến, nhằm duy trì vĩnh
viễn sự bất công, bất bình đẳng. Xét đến cùng, quan niệm của Nho giáo về một
xã hội lý tưởng - thái bình, ổn định, có trật tự, kỷ cương là hết sức nghiệt ngã,
hết sức hình thức và thù địch với cuộc sống, với con người, với nhân dân, là cản
trở và đi ngược lại xu thế phát triển tất yếu của lịch sử.
Mặc dự quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng có những điểm hạn
chế, song nó vẫn có một ý nghĩa nhất định đối với chúng ta trong việc nhận thức

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và xác định những mục tiêu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay, nhất là mục tiêu xây dựng một
xã hội dân giàu, nước mạnh, có văn hoá, có trật tự, kỷ cương.
Võ Nam Thanh 25

×