Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Khảo sát lễ hội Xên bản xên mường của dân tộc Thái Tây Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 152 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







HOÀNG THỊ LINH








KHẢO SÁT LỄ HỘI XÊN BẢN XÊN MƢỜNG
CỦA DÂN TỘC THÁI TÂY BẮC







LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học dân gian












Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







HOÀNG THỊ LINH






KHẢO SÁT LỄ HỘI XÊN BẢN XÊN MƢỜNG
CỦA DÂN TỘC THÁI TÂY BẮC







Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 60 22 36







Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Nguyệt








Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các đoạn trích dẫn sử dụng trong luận văn đều được trích nguồn và có độ
chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.

Tác giả






Hoàng Thị Linh


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS.TS. Nguyễn Thị Nguyệt đã tận
tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm luận văn. Mặc dù ở xa, nhưng tinh
thần làm việc nghiêm túc của cô luôn là độnglực giúp tôi hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đặc biệt với người
bạn đời và con gái bé bỏng. Họ luôn là động lực tinh thần to lớn giúp tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tác giả

Hoàng Thị Linh

1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
4. Phương pháp nghiên cứu 9
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn 10

6. Cấu trúc nội dung của luận văn 10
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TỘC NGƢỜI THÁI VÀ KHÔNG GIAN
VĂN HÓA THÁI VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM 11
1.1. Về tộc ngƣời Thái 11
1.2. Không gian văn hóa Thái vùng Tây Bắc 14
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội 14
1.2.2. Về đặc điểm lịch sử - xã hội: 18
1.2.3. Đặc điểm văn hóa 21
1.2.3.1.Văn hóa vật chất 21
1.2.3.2.Văn hoá tinh thần 24
1.3. Thế nào là lễ hội Xên bản xên mƣờng của ngƣời Thái Tây Bắc 28
CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT LỄ HỘI XÊN BẢN XÊN MƢỜNG Ở
MỘT SỐ VÙNG 30
2.1. Khảo sát lễ hội Xên bản Xên Mường của người Thái Mường Lò 30
2.1.1. Thời gian tổ chức 31
2.1.2. Tổng quan về lễ hội 31
2.2. Khảo sát lễ hội xên bản xên mường của người Thái Mường La 34
2.2.1. Thời gian mở hội 34
2.2.2. Tổng quan về lễ hội 34
2.3. Khảo sát lễ hội Xên bản Xên Mường của người Thái Mường Thanh 43
2.3.1. Thời gian mở hội 43
2.3.2. Tổng quan lễ hội 43


2
2.4. Lễ hội xên bản xên mƣờng của ngƣời Thái Mai Châu - Hoà Bình 49
2.4.1. Thời gian mở hội 49
2.4.2. Tổng quan lễ hội 49
CHƢƠNG 3: NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ THƠ CA VÀ CÁC
TRUYỆN KỂ TRONG LỄ HỘI XÊN BẢN XÊN MƢỜNG 54

3.1. Truyện kể gắn với “đông xên” – khu rừng cúng bản, nơi linh
thiêng diễn ra lễ hội 54
3.2. Truyện kể về truyền thuyết Hoa ban 56
3.3. Truyện kể, truyện thơ liên quan đến các vị anh hùng 60
3.3.1. Về truyện kể 60
3.3.2. Truyện thơ 65
3.4. Truyện kể liên quan đến các nhân vật phụng thờ 67
3.4.1. Thuồng luồng 67
3.4.2. Gia bôm gia bái 71
3.4.3. Các vị thần nông nghiệp: thần nước, thần sấm, thần mưa 81
3.5. Diễn xƣớng dân gian trong lễ hội 85
KẾT LUẬN 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
PHỤ LỤC 99




3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Người Thái - tộc người chủ thể của vùng văn hóa Tây Bắc là một
trong những tộc người còn lưu lại tương đối nguyên vẹn những đặc trưng văn
hóa tộc người. Nghiên cứu văn hóa Thái để tìm ra những đặc trưng văn hóa
tiêu biểu của vùng văn hóa Tây Bắc đã và đang thu hút sự quan tâm chú ý của
nhiều nhà nghiên cứu. Văn hóa dân gian Thái và văn học dân gian Thái luôn
có mối liên hệ mật thiết với nhau. Lễ hội dân gian Thái, đặc biệt là lễ hội Xên
bản xên mường có ý nghĩa và vai trò to lớn trong đời sống tộc người Thái.
Qua lễ hội, người ta có thể thấy được bản chất, ý nghĩa của tự nhiên và những
cái siêu nhiên; thấy được phong tục và các huyền thoại; hiện thực và truyền

thống đan xen cũng như những cơ sở để cố kết cộng đồng. Vì nhiều lí do khác
nhau, nên việc tìm hiểu, nghiên cứu các lớp văn hóa lưu giữ, ẩn sâu bên trong
trong lễ hội Xên bản xên mường của người Thái Tây Bắc vẫn chưa được đầy
đủ, sáng rõ. Chúng tôi nhận thấy lễ hội Xên bản xên mường thể hiện và lưu
giữ khá đầy đủ những giá trị văn hóa tộc người Thái. Từ việc làm rõ các lớp
nghĩa, các biểu tượng văn hóa trong lễ hội, chúng tôi mong muốn nghiên cứu
những đặc trưng văn hóa tinh thần của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp của
tộc người Thái; đồng thời qua đó có thể tìm ra những mối liên quan mật thiết
giữa các thành tố lễ hội, tín ngưỡng, phong tục, các huyền thoại hay các dạng
thể văn hóa khác.
1.2. Lễ hội của dân tộc Thái gắn liền với những đặc điểm cụ thể của
điều kiện địa lí, tự nhiên và đời sống xã hội của các cộng đồng cư dân vốn đã
tồn tại từ lâu đời. Cộng đồng người Thái đã từng có một nền văn hoá khá
phong phú, nhiều sắc thái còn lưu giữ được cho đến ngày nay như: hệ thống
các lễ hội truyền thống của người Thái trong đó lễ hội quan trọng nhất phải kể
đến lễ hội Xên bản xên mường.
Lễ hội Xên bản xên mường hay lễ hội cầu an là lễ hội truyền thống của
đồng bào dân tộc Thái cúng người lập nên bản làng, tưởng nhớ đến các vị thần

4
linh đã khai sáng ra Mường - cách gọi tên vùng đất nơi người Thái đang sinh
sống và cầu mong cho người Thái được ấm no, hạnh phúc. Lễ hội Xên bản
xên mường của dân tộc Thái chứa đựng rất nhiều các di sản văn hóa dân gian
và các thành tố văn học, đặc biệt là cách thức thực hiện và các nghi thức quan
trọng trong lễ hội. Do vậy, việc nghiên cứu lễ hội xên bản xên mường có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc bảo lưu và phục dựng các lễ hội truyền thống.
1.3. Lễ hội và văn học dân gian có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi
chúng cùng nằm trong văn hóa dân gian và bởi truyện kể hay huyền thoại về
nhân vật phụng thờ cũng là một yếu tố cấu thành lễ hội. Vì vậy, khi nghiên
cứu về lễ hội đương nhiên phải nghiên cứu cả văn học dân gian. Văn học dân

gian cụ thể là các thành tố của nó là cơ sở quan trọng, là cái sườn, cái khung
làm nảy nở để ổn định và cố định hoá lễ hội. Đối với lễ hội, các truyện kể,
truyền thuyết đóng vai trò là xương sống dẫn dắt tiến trình lễ hội, là sự minh
giải cho lễ hội (mở hội ngày nào, sau bao nhiêu năm mở lại một lần, kéo dài
bao nhiêu ngày, rước lễ từ đâu, lễ vật dâng cúng gồm những gì, kiêng kị
những gì…). Truyện kể là cái có trước. Chính truyền thuyết đã bồi đắp cáclớp
ý nghĩa cho các lễ hội nông nghiệp, giúp hình thành nhiều lễ hội trong năm.
Trong quá trình phát triển của lễ hội, nội dung của truyện kể lại góp phần ổn
định, cố định hóa tính tổ chức của lễ hội. Đến lượt mình, lễ hội với các trình
tự nghi thức, sự kiêng kị, vật phẩm dâng cúng, các cảnh diễn xướng lại giúp
cho việc khắc sâu truyện kể vào tâm trí quần chúng dự hội được rõ nét và sinh
động hơn, thu hút sự gắn bó và đồng cảm của cả tập thể. Lễ hội giúp lưu giữ
truyện kể và hiện thực hóa niềm tin về các vị anh hùng, các sự kiện lịch sử
trong truyện kể.
Việc tìm hiểu và nghiên cứu lễ hội trong mối tương quan với văn học
dân gian sẽ tạo ra cái nhìn trọn vẹn về một chỉnh thể văn hóa trong vùng văn
hóa dân gian của người Thái ở Tây Bắc. Trong chỉnh thể văn hóa dân gian ấy,
chúng tôi quan tâm đến các thành tố văn học có liên quan đến lễ hội Xên bản
xên mường và coi đây là nền tảng của đề tài này. Vì thế, khi tìm hiểu đề tài

5
này chúng tôi vừa có cơ hội nghiên cứu về lễ hội Xên bản xên mường lại vừa
được tìm hiểu về các thành tố văn học chứa đựng trong lễ hội.
Khi tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy rằng lễ hội Xên bản xên mường, xét
trên phương diện nghiên cứu lễ hội đã được nhiều người đề cập, nhưng đến
nay vẫn chưa có cái nhìn toàn diện, chúng tôi mong muốn được góp một phần
nhỏ bé trong công việc này. Hơn nữa, chúng tôi cũng muốn bày tỏ sự tâm đắc,
niềm thích thú và quan tâm về một vấn đề văn hóa, văn học của đồng bào dân
tộc Thái vùng Tây Bắc Việt Nam.
Chọn đề tài Lễ hội Xên bản xên mường của người Thái Tây Bắc Việt

Nam chúng tôi hy vọng sẽ có được cái nhìn hệ thống về lễ hội Xên bản xên
mường trong tương quan với văn học dân gian (lời ca, truyện kể…) và góp
phần nào đó trong việc làm đầy đặn hơn, sáng rõ hơn diện mạo của lễ hội Xên
bản xên mường.
2. Lịch sử vấn đề
- Lịch sử nghiên cứu về ngƣời Thái Tây Bắc nói chung
Tây Bắc là quê hương của những đỉnh núi cao quanh năm sương trắng,
những cánh rừng gìa xanh tốt ngút ngàn và những thiên tình ca bất hủ. Từ cổ
xưa, chủ nhân của vùng đất hoang sơ, hùng vĩ này là hơn 20 dân tộc anh em
Thái, Mông, Kháng, Xinh Mun, Lào Lự,… cùng nhau sinh sống. Trong cộng
đồng các dân tộc Tây Bắc, người Thái (Thăy, Tăy, Táy…) có khoảng trên một
triệu người. Tộc người này cư trú ở khắp các tỉnh thuộc miền Tây Bắc Việt
Nam (Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái).
Các công trình nghiên cứu tổng quan về dân tộc Thái gồm có: Tư liệu
về lịch sử và xã hội dân tộc Thái [75], Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam [69],
Văn hóa Thái Việt Nam [71], Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam [72],
Mấy vấn đề cơ bản về lịch sử - kinh tế - xã hội cổ đại của người Thái Tây Bắc
Việt Nam [73], Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt
Nam [38]… Những công trình nghiên cứu này đã khảo sát, nghiên cứu về lịch
sử tộc người Thái và nhiều thành tố văn hóa như sinh hoạt văn nghệ múa xòe,

6
phong trào vui chơi hạn khuống, các làn điệu khắp, khắp xư, các lễ hội như:
xên bản, xên mường, xên đông, kin chiêng boóc mạy,…
Nghiên cứu về lịch sử người Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam không
thể không kể đến nhà nghiên cứu Cầm Trọng. Hơn 50 năm nghiên cứu về
chính dân tộc mình, Cầm Trọng đã trở thành một nhà Thái học uy tín ở
trong cũng như ngoài nước. Ông có rất nhiều tác phẩm viết về mảnh đất và
cộng đồng người Thái Tây Bắc, các công trình của ông như: Tư liệu về lịch
sử và dân tộc Thái [75],Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam (viết chung với

Đặng Nghiêm Vạn, Khà Văn Tiến, Tòng Kim Ân) [69], Văn hóa Thái Việt
Nam [71] viết chung với Phan Hữu Dật, Luật tục Thái ở Việt Nam (?) viết
chung với Nguyễn Đức Thịnh, Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam
[72]…đã tập trung nghiên cứu về cộng đồng người Thái nói chung trên tất
cả các lĩnh vực như: lịch sử tộc người, văn hóa xã hội, sinh hoạt văn hóa,
kinh tế, tín ngưỡng văn hóa, văn học… Các cuốn sách trên là nơi tác giả
gửi gắm tâm tư, tình cảm với dân tộc Thái bằng những tổng kết rất cô
đọng, súc tích. Có thế nói, công trình Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam là
một trong những công trình nghiên cứu công phu và quan trọng bậc nhất
giúp những thế hệ sau có cái nhìn tổng quan về dân tộc Thái.
Hoàng Lương cũng là người dày công nghiên cứu văn hóa Thái khi
chuyển tải cho người đọc hiểu thêm về cộng đồng người Thái ở Tây Bắc Việt
Nam qua hàng loạt các công trình nghiên cứu như: Luật tục với việc bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa truyền thống của một số dân tộc ở Tây Bắc Việt
Nam (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc Việt Nam (2005),Lễ hội truyền
thống của các dân tộc Việt Nam khu vực phía Bắc (2002), Lễ hội truyền thống
của các dân tộc thiểu số ở Miền Bắc Việt Nam (2002)… Các công tình trên đã
giới thiệu những nét văn hóa tiêu biểu của người Thái ở vùng Tây Bắc, các lễ
hội truyền thống, văn hoá của các dân tộc vùng Tây Bắc Việt Nam.
Năm 1987, Viện Dân tộc học xuất bản cuốn sách Các dân tộc ít người
ở Việt Nam: Các tỉnh phía Bắc do Lê Bá Thảo, Bế Viết Đẳng, Đặng Nghiêm

7
Vạn viết bằng phương pháp giới thiệu từng dân tộc theo nhóm ngôn ngữ. Đây
là công trình nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, lịch sử tộc người, các đặc
điểm về kinh tế, văn hóa, xã hội của các dân tộc ít người ở khu vực phía Bắc
Việt Nam trong đó có những nghiên cứu về người Thái.
Ngoài ra, nhiều tác phẩm văn học dân gian Thái được sưu tầm, dịch
thuật và xuất bản bằng tiếng Việt, được nghiên cứu một cách khá sâu sắc và
toàn diện về những giá trị nội dung và nghệ thuật. Truyện dân gian Thái (Cầm

Cường (1986), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Cầm Cường, Cầm Kỷ, Hà Thị
Thiệc (1987), Truyện dân gian Thái, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn
Văn Hòa (2001), Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội bao gồm nhiều truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích…
được xuất bản chứa đựng nội dung phản ánh quá trình hình thành và phát
triển của mường bản, tộc người Thái; phản ánh đời sống xã hội Thái, ca ngợi
những nhân vật tốt bụng, có tài; phê phán những nhân vật độc ác, xấu bụng,
ngu dốt. Trong đó có những truyện tiêu biểu như: Ý Ưởi Ý Nọng, Nàng Khao
nàng Đăm, Chàng Voi con, Chín con ếch, Ý Đăm Ý Đón Những truyện thơ
dài về đề tài lịch sử đấu tranh, xây dựng Mường bản như sử thi Chương Han,
sử thi Ẳm ệt luông, Cầm Hánh đánh giặc Cờ Vàng… Những truyện thơ dài về
đề tài tình yêu – số phận con người như Xống chụ xon xao, Khun Lú nàng Ủa,
Hiến Hom Cầm Đôi
Có thể khẳng định, những công trình nghiên cứu về người Thái rất đa
dạng, phong phú dưới nhiều góc độ và nội dung khác nhau, là những đóng
góp rất quan trọng trong việc nghiên cứu về mọi mặt trong đời sống văn hóa -
xã hội của người Thái.
- Lịch sử nghiên cứu về lễ hội Xên bản xên mƣờng
Lễ hội Xên bản xên mường của người Thái vùng Tây Bắc đã được một
số nhà nghiên cứu nói đến. Trần Vân Hạc trong cuốn Nhân sinh quan dưới
bóng đại ngàn [17] có bài “Xên bản xên mường của người Thái Mường Lò”,
đây là bài viết mang tính chất giới thiệu một cách tổng quát nhất về lễ hội, về

8
đối tượng thờ cúng, về các trò chơi dân dân gian trong lễ hội truyền thống của
người Thái. Trong đó, ông đã cắt nghĩa từ “xên” - tiếng Thái có nghĩa là cúng,
là lễ cúng trời đất, thần linh, tổ tiên, cầu mong một năm mới tốt lành. Đối với
những người chưa từng biết đến lễ hội xên bản xên mường thì đây là một bài
viết khá bổ ích, giúp cho người đọc có hình dung tổng quan nhất về ý nghĩa
của lễ hội trong đời sống tinh thần của người Thái vùng Tây Bắc.

Ngoài ra, nhà nghiên cứu Trần Vân Hạc còn có bài viết giới thiệu về truyện thơ
Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng được đăng trên website .
Cầm Hánh là một nhân vật lịch sử - là người có công trong cuộc khởi nghĩa chống giặc
khăn vàng từ phương bắc xâm lược - là người được thờ cúng trong lễ Xên bản xên
mường của người Thái. Trong bài viết của mình, Trần Vân Hạc khẳng định: sử thi Cầm
Hánh đánh giặc cờ vàng vừa là niềm tự hào của người Thái, vừa là sự thật lịch sử, lại
vừa có giá trị văn học.
Trong cuốn Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam [14] có giới thiệu về
các lễ hội của người Thái, lễ hội xên bản xên mường được coi là Lễ hội cầu
an bản mường - lễ hội quan trọng nhất trong năm. Lễ hội xên bản xên mường
được giới thiệu một cách khá chi tiết về ý nghĩa lễ hội, các nghi lễ, các trò
chơi dân gian trong lễ hội.
Năm 2013 tác giả Lương Thị Đại có cho xuất bản một công trình
nghiên cứu về lễ Xên mường của người Thái đen mang tên Lễ xên mường của
người Thái đen ở Mường Then [10], công trình đã trình bày những nét cơ bản
về lễ hội Xên mường của người Thái vùng Mường Then về mục đích, ý nghĩa
của lễ Xên mường trong cộng đồng nhóm Thái Đen Điện Biên; tìm hiểu tiến
trình, cách thức của từng hoạt động trong lễ Xên mường cũng như lịch sử
hình thành lễ Xên mường ở Mường Then xưa, Điện Biên ngày nay.
Ngoài ra, chúng ta có thể tìm thấy tư liệu về lễ hội xên bản xên mường
ở các địa phương trên internet, ở một số công trình, bài viết mang tính chất
sưu tầm và giới thiệu một cách nhỏ lẻ ở các cuốn sách giới thiệu về lễ hội của
địa phương, lịch sử địa phương, các bài báo và tạp chí tuy nhiên, các tư liệu
chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, mà chưa được mô tả một cách cụ thể, chi tiết. Qua

9
tìm hiểu, nghiên cứu, chúng tôi thấy các kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại
ở việc sưu tầm và miêu tả lễ hội một cách đơn giản mà chưa xứng tầm với ý
nghĩa thực của nó. Trong khuôn khổ và mục đích của luận văn, chúng tôi sẽ
khảo sát ý nghĩa, nội dung diễn biến của lễ hội Xên bản xên mường của người

Thái vùng Tây Bắc Việt Nam một cách tổng thể, làm rõ ý nghĩa, vai trò, nội
dung của các thành tố văn học trong mối tương quan với lễ hội.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Khảo sát Lễ hội Xên bản xên mường của người Thái Tây
Bắc một cách cụ thể (vì cộng đồng dân tộc Thái chủ yếu sinh sống và sinh
hoạt văn hóa ở vùng Tây Bắc của tổ quốc).
+ Các truyền thuyết (hoặc truyện kể), sử thi có liên quan.
+ Khảo sát cách thức tổ chức lễ hội.
- Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát lễ hội trong phạm vi do người Thái tổ chức:
+ Lịch sử, (nguồn gốc)
+ Diễn trình
+ Ý nghĩa và những vấn đề liên quan đến lễ hội này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên một số phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp tư liệu (gồm tư liệu văn học, những tài
liệu chưa xuất bản ). Trên cơ sở tìm hiểu, thu thập, tổng hợp các tư liệu chúng
tôi đã tiến hành phân tích, so sánh, đối chiếu, xác minh, xử lý các tư liệu.
- Phương pháp hệ thống, thống kê, phân loại: Chúng tôi sẽ tiến hành tập
hợp đến mức tối đa các bản kể về lễ hội lưu truyền ở các vùng.
- Phương pháp điều tra thực địa: Đây là phương pháp quan trọng mà
chúng tôi tiến hành khi thực hiện luận án. Chúng tôi đã dành thời gian tìm
hiểu không gian văn hóa Thái qua tiếp xúc, gặp gỡ, trao đổi thảo luận với
nhiều nghệ nhân, nhà nghiên cứu Thái học và cư dân Thái sinh sống ở một số
tiểu vùng văn hóa Thái. Qua đó, chúng tôi đã có dịp khảo sát, nghiên cứu
những phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa, lễ hội, lối sống…của người
Thái Tây Bắc. Nhưng vì thời gian có hạn, chúng tôi không thể tiến hành điền

10
dã ở bất cứ nơi nào tổ chức lễ hội ở vùng Tây Bắc Việt Nam mà chỉ lựa chọn
những địa điểm tiêu biểu nhất.

- Phương pháp liên ngành: Lễ hội có mối quan hệ chắc chẽ với văn học
dân gian, các phong tục tập quán, tín ngưỡng…Vì vậy, chúng tôi sẽ sử dụng
phương pháp liên ngành để xem xét lễ hội dưới nhiều góc độ để có được một
cái nhìn tổng thể và toàn diện về lễ hội Xên bản xên mường trong tương quan
với văn học của người Thái ở Tây Bắc.
- Phương pháp phân tích: Phương pháp này được chúng tôi sử dụng
thường xuyên để phân tích các truyện kể, các motif theo đặc trưng thể loại,
nhằm chứng minh cho các luận điểm mà luận văn nêu ra.
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn
- Sưu tầm, tập hợp một cách đầy đủ hệ thống các nghi thức trong lễ hội
Xên bản xên mường; các thành tố văn học liên quan đến lễ hội.
- Miêu tả, phân tích lễ hội cổ truyền của cộng đồng dân tộc thái; mối
quan hệ giữa các thành tố văn học – văn hóa trong lễ hội.
- Góp phần giới thiệu Lễ hội xên bản xên mường của người Thái, giúp
mọi người hiểu được phong tục, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc Thái.
- Thông qua đó rút ra những nhận định khoa học có tính thuyết phục
cao về vai trò của lễ hội trong đời sống tinh thần con người. Từ đó, có phương
hướng để giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa lễ hội cổ truyền của dân tộc.
6. Cấu trúc nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thơ và ảnh,
phần nội dung của luận văn dự kiến được chia làm 3 chương:
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan về tộc người Thái và không gian văn hóa Thái
vùng Tây Bắc Việt Nam
Chương 2: Khảo sát lễ hội Xên bản xên mường ở một số khu vực
Chương 3: Nghiên cứu những yếu tố thơ ca dân gian và truyện kể dân
gian trong lễ hội Xên bản xên mường.


11

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TỘC NGƢỜI THÁI VÀ
KHÔNG GIAN VĂN HÓA THÁI VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM

1.1. Về tộc ngƣời Thái (về lịch sử và cƣ dân)
Người Thái là dân tộc chiếm số đông trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam.Theo tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 1999 của Tổng
cục thống kê thì dân số Thái là 1.328.725 người, chiếm 1,6% dân số cả nước
và 12,2% dân tộc thiểu số, đứng thứ 3 sau người Kinh và người Tày. Người
Thái có tên tự là Táy, phân chia thành 2 ngành Táy đăm (Thái đen) và Táy
khao (Thái trắng). Sự phân chia này bao hàm trong đó ý nghĩa lịch sử và văn
hóa của cộng đồng Thái cổ. Người Thái cư trú ở nhiều nơi trên đất nước ta
nhưng tập trung nhất là ở Tây Bắc, chiếm 98% số người Thái ở Việt Nam
(riêng ở Sơn La chiếm 36%, miền núi Nghệ An 20%, Thanh Hóa 17%, Lai
Châu 15%, Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình 10%)
Người Thái cư trú ở nhiều quốc gia, trong đó “các nhóm Thái ở Lào và
người Thái ở Việt Nam kể cả các nhóm Shan ở Mianma, Thay Khăm ti và
Ahom ở Atssam Đông Bắc Ấn Độ và Thái Lan đều có nguồn gốc từ phía Tây
Nam tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Từ thế kỷ VIII sau công nguyên trở đi, các
cuộc thiên di của người Thái từ vùng Vân Nam (Trung Quốc) xuống phía Nam
diễn ra liên tục. Trong các cuộc thiên di đó, có nhánh đi vào vùng Tây Bắc Việt
Nam, có nhánh di cư vào đất Lào vốn trước đó là vùng đất thuộc các vương
quốc Môn Khơ Me cổ”[69, tr 69]. Khi đến Việt Nam, Mường Theng (Mường
Thanh - tức Điện Biên Phủ ngày nay) trở thành trung tâm của người Thái.
Trong các tài liệu ghi chép, mặc dù không đủ để ta đoán định cụ thể về
thời gian có mặt của một bộ phận người Thái đầu tiên gọi là Lự ở Điện Biên
và các nhóm Thái lẻ tẻ khác ở xen lần với người Xá khắp vùng Tây Bắc,
nhưng chắc chắn họ đã có mặt ở đây vào những thế kỉ thuộc thiên niên kỷ thứ
I sau công nguyên như nhận xét của nhà nghiên cứu Cầm Trọng “Có thể nói


12
chắc chắn hơn, đợt thiên di của người Thái từ bắc xuống Nam được bắt đầu
tiến hành từ khoảng các thế kỷ đầu thiên niên kỷ I sang đầu thiên niên kỷ II
công nguyên. Đợt thiên di này đã được ghi chép tương đối đầy đủ trong các
nguồn tư liệu bằng chữ Thái cổ và đặc biệt chính xác khi nguồn tư liệu này lại
ăn khớp với những câu chuyện truyền miệng của nhiều tộc người có tổ tiên
từng tiếp xúc với tổ tiên người Thái” [69, tr.70].
Các cuốn sách cổ của người Thái như Kể chuyện bản Mường (Quắm tố
mướng) và Những bước đường chinh chiến của ông cha (Tăy pú xớc) cũng
nói tới tổ tiên của người Thái trong những ngày đầu đặt chân tới nước ta: Vào
khoảng thế kỷ XI - XIII, các thủ lĩnh Thái đen như Tạo Ngần, Tạo Xuông đã
dẫn đầu các nhóm Thái đi từ Mường Ôm, Mường Ai qua Mường Lò Luông
(Mường La, Vân Nam ngày nay) vào Tây Bắc nước ta. Điểm dừng chân đầu
tiên của họ là Mường Lò (Nghĩa Lộ), sau đó theo các triền sông và thung lũng
ra khắp miền Tây Bắc và xuống miền núi Thanh Nghệ. Người Thái đen ngày
nay vẫn còn những câu miêu tả về quê tổ xưa nhất của nhóm nói tiếng Thái,
xem như lớp tổ tiên chung, được ghi ngay ở phần mở đầu tập Kể chuyện bản
Mường (Quắm tố mướng).
Quê tổ của người Thái là đất Mường Lò. Từ đó họ mở rộng dần thế lực
sang vùng Mường Then huyền thoại. Đất Mường Then thuộc ngọn nguồn của
ba con sông Nặm Rôm, Nặm Núa, Nặm U (là một nhánh của Nặm Khong –
sông Mê Kông) thuộc vùng lưu vực 2. Người Thái từ đây vượt sang phía đông
tới lưu vực sông Mã, rồi tiến hành những cuộc chinh phạt mở rộng địa giới của
mình sang tận đất Lào, hình thành nên những vùng Chiềng Đông, Chiềng Tòng
(tức Xiêng Đông, Xiêng Thong - nơi trung tâm của Luông Prabăng bây giờ).
Do địa bàn cư trú và những cuộc di dân lớn trong lịch sử, dân tộc Thái
chịu những ảnh hưởng bởi nhiều nền văn hóa và nhân chủng của các cư dân địa
phương nơi họ đi qua, nói một cách khác thì người Thái - dân tộc chủ nhân của
Tây Bắc, trong lịch sử đã có quá trình hỗn dung và tiếp biến văn hóa bởi các dân
tộc anh em để tạo nên sắc thái văn hóa riêng biệt của cả vùng Tây Bắc.


13
Miền Tây Bắc là nơi sinh sống của hơn 20 dân tộc anh em như: Thái,
Mường, Mông, Dao, Si La, Khơmú, La Ha, Xinh Mun, Mảng, Kháng, Lào, Lự,
Bố Y, Cống, Tày, Nùng, Giáy, Phù Lá, Hà Nhì, Hoa, La Chí, La Hủ, Lô Lô,
Kinh… Trừ người Kinh đầu tiên vốn là những người nông dân từ miền xuôi lên
tham gia khởi nghĩa ở Điện Biên do Hoàng Công Chất lãnh đạo vào thế kỷ
XVIII và con cháu của họ ở lại đây, còn phần lớn các dân tộc là những cư dân
xa xưa của Tây Bắc, một vài dân tộc đến Tây Bắc cách đây 200 - 300 năm.
Từ sau năm 1954, người Thái hầu như đã sinh sống ổn định trên các
vùng đất mà cha ông dày công khai phá và gây dựng. Họ duy trì những luật
tục riêng, những sắc thái văn hóa - xã hội riêng theo từng nhóm.
Theo vùng địa lý, các nhóm Thái sống đan cài với nhau và với cộng
đồng dân cư của các dân tộc khác. Họ coi quê tổ của mình là đất Mường Lò,
phía Bắc tỉnh Yên Bái (nay là thị xã Nghĩa Lộ và ba huyện Văn Chấn, Mù
Cang Chải, Trạm Tấu thuộc tỉnh Yên Bái). Ngoài ra, phần lớn người Thái
sống ở các tỉnh thuộc phía Tây và phía Nam đất Tổ gồm các tỉnh Lai Châu,
Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An (và một số lượng không
đáng kể sống rải rác trong các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên mà chủ yếu là ở
huyện Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng) [45. tr.15 - 16]. Trong những điều tự nhiên
- xã hội (điều kiện thiên di, điều kiện địa lý, sinh hoạt…) nhất định, người
Thái sinh sống lâu đời và dần gắn kết thành những vùng văn hóa.
Hiện nay, sự phân hóa hai ngành Thái Đen và Thái Trắng thành 6 nhóm
như trên “là kết quả của một quá trình thiên di, xáo động, trên những diễn
biến lịch sử lâu dài và phức tạp (…) từ một nhóm Thái (Tày) cổ xưa nhất mà
thiên di đi mỗi người một ngả. Rồi đến địa vực cư trú mới của mình, từng
nhóm một tiếp xúc với điều kiện tự nhiên và đặc biệt chịu ảnh hưởng của các
dân tộc xung quanh để rồi xa dần cái nguyên gốc của mình. Và cũng từ đó
xuất hiện các nhóm Thái ở mỗi một địa phương khác nhau” [45, tr.28].
Mặc dù có sự phân hóa như vậy, nhưng về cơ bản người Thái vẫn là

một tộc người có sự thống nhất trên cả ba khía cạnh - ý thức về người đồng

14
tộc hay ý thức tộc người qua một tên gọi chung nhất là Phủ Thăy (người Thái)
- ngôn ngữ chung (tiếng Thái) - và nền văn hóa chung.
1.2. Không gian văn hóa Thái vùng Tây Bắc
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội
Tây Bắc là vùng núi cao hiểm trở bậc nhất ở nước ta, những đứt gẫy
của kiến tạo địa chất tạo nên hệ thống núi và sông ngòi chạy theo hướng Tây
bắc - Đông nam, hệ thống núi giáp với biên giới Việt - Lào ở phía Tây và dãy
Hoàng Liên Sơn kề sát với bờ phải sông Hồng ở phía đông mà người Thái
mệnh danh là Khau Phạ (Sừng Trời) tạo cho Tây Bắc một vùng địa lý tự
nhiên và khí hậu riêng biệt.
Từ dòng Nặm Tao, người Thái tạt vào bên phải, chiếm lấy đất Nghĩa
Lộ làm bàn đạp để rồi tiến mãi đến tận Điện Biên Phủ, giáp Lào. Đất ấy, tên
Thái là Mường Theng tức Mường Trời và trở thành "cố đô" của nhiều đời tù
trưởng. Vậy nên, dòng Nặm Tao hiển nhiên là địa đầu phía Đông và biên giới
Lào là địa đầu phía Tây của vùng văn hóa Tây Bắc. Giữa hai điểm đó con
sông Đà phát nguyên từ phía Bắc kẻ một đường chéo Tây Bắc - Đông Nam,
đi qua đất Hòa Bình rồi hợp lưu với dòng Nặm Tao ở ngã ba Việt Trì để làm
nên sông Cái - sông Hồng của châu thổ phì nhiêu. Trên đường đi, sông Đà -
tên Thái là Nặm Tè - tiếp nhận lượng nước của biết bao suối nhỏ và cả một
dòng sông Nặm Na hợp lưu với nó ở ngay tỉnh lị Lai Châu. Sát với biên giới
Lào là dòng sông Mã chảy từ Điện Biên xuống đến phía Tây tỉnh Sơn La thì
quặt sang đất Lào và trở về miền Tây Thanh Hóa để xuôi về biển. Vậy nên,
đất Tây Bắc còn được đồng bào gọi là đất "ba con sông", tạo nên ba dải "nước
màu: trắng, xanh, đỏ". Bởi vì sông Mã lắm thác ghềnh nên nhiều sóng bạc
đầu. Lại còn có truyền thuyết dòng sông là nữ thần canh giữ mỏ bạc mà xưa
kia người Thái - La Ha thường khai thác. Dòng Nặm Tè (sông Đà) chảy giữa
các triền núi đá grannít, sâu thẳm xanh đen một màu. Còn dòng Nặm Tao

mang nặng phù sa thì chính người Kinh cũng gọi là sông Hồng. Ba con sông
tự nhiên nhưng trở thành biểu tượng riêng của vùng đất. Chúng lại có ba màu

15
của nắng, của cây và của đất. Chúng biến thành những tín hiệu văn hóa vùng
mà người dân bản địa lấy đó làm tự hào, để phân biệt với người vùng muối
(Kinh), người vùng sông Lô, sông Chảy (Tày, Nùng).
Tây Bắc là miền núi cao hiểm trở, hùng vĩ, các dãy núi chạy theo
hướng tây bắc - đông nam trong đó có dãy Hoàng Liên Sơn dài đến 180km,
rộng 30km, cao từ 1500m trở lên, các đỉnh cao nhất như Phanxipăng 3142m,
Yam Phình 3096m, Pu Luông 2.983m, dãy Hoàng Liên Sơn được người Thái
gọi là “sừng trời” (khau phạ) chính là bức tường thành. Nó nằm bên bờ phải
sông Hồng, con sông mà tổ tiên người Thái gọi là Nậm Tao, nên ngày nay
đoạn sông này còn có tên tiếng Kinh là sông Thao. Dòng Nậm Tao chiếm một
vị trí quan trọng trong lịch sử thiên di của người Thái đen vào Tây Bắc. Theo
sử huyền thoại Thái thì tổ tiên họ là Tạo Xuông - Tạo Ngần bay từ trên trời
xuống và phải vượt qua con sông rộng, lắm sóng dữ, ghềnh thác. Qua con
sông là đến địa phận của trần gian. Khó khăn là thế nên tên thần thoại của
dòng Nặm Tao là dòng "Sông Đắng - sông Xối" (Nặm ta Khôm - Nặm Ta
Khái), còn theo các nhà dân tộc học thì dòng sông là con đường mà theo đó tổ
tiên của người Thái thiên di vào Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV.
Vùng Tây Bắc Bắc Bộ với núi non trùng điệp, nhiều núi cao hiểm trở
trở thành một địa bàn trọng yếu về kinh tế và quốc phòng của Việt Nam,
"phên dậu thứ hai án ngữ phía Tây" (theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi). Miền
Tây Bắc được tạo thành bởi một khối núi cao vững chắc, sừng sững trong gió
lạnh và sương mù, tiếp giáp với miền Vân Nam (Trung Quốc) ở phía bắc và
Phong Xa Lỳ - Sầm Nưa (Lào) ở phía nam, chạy dài cho đến tận thung lũng
sông Cả ở địa đầu dãy Trường Sơn. Về địa bàn lãnh thổ, vùng này bao gồm
các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai và miền
núi Thanh Hóa, Nghệ An. Những người dân đồng bằng ngày trước theo

những đoàn thuyền buồm ngược sông Đà lên đến Chợ Bờ (Hòa Bình) để giao
lưu buôn bán với miền Tây Bắc mà không dám tiến xa hơn vào vùng đất đầy
gian nan thử thách “nước Sơn La, ma Hòa Bình”, “rừng thiêng nước độc” này.

16
Về sau, miền Tây Bắc phát triển, trở thành “hòn ngọc của Tổ quốc”, người từ
dưới xuôi đi lên miền Tây Bắc có thể theo các hướng: đi đường bộ qua đất Hòa
Bình, vượt qua nhiều đèo dốc để đến được cao nguyên Mộc Châu – cửa ngõ
miền Tây Bắc; đi đường sắt theo chuyến xe lửa từ Hà Nội lên Lào Cai dọc theo
thung lũng sông Hồng cũng đồng thời đi dọc theo phía đông của miền Tây Bắc;
đi đường sông theo sông Đà, sông Thao, sông Hồng lên Tây Bắc.
Núi rừng và cao nguyên miền Tây Bắc được che phủ bởi hệ thống thực
vật phong phú, nhưng có một loại cây trở thành biểu tượng cho xứ sở sương
mù, bám chặt rễ trên các sườn núi để bảo vệ đất màu, đó là cây ban và vào mùa
xuân thì hoa ban nở trắng rừng Tây Bắc. Địa hình từ thung lũng sông Hồng đến
biên giới Tây Bắc - Lào rất phức tạp, bị chia cắt bởi các dãy núi, dòng sông,
khe suối. Dãy núi Hoàng Liên Sơn đồ sộ, dài 180 km chạy từ biên giới Trung
Quốc đến Vạn Yên, rộng 30 km với các đỉnh núi cao từ 2.800m đến trên
3000m. Dãy núi Sông Mã ở biên giới phía tây dài đến 500 km có những đỉnh
núi cao 1800 m, một phần chạy sang cả Sầm Nưa (Lào) và lan đến miền
thượng du Thanh - Nghệ Tĩnh với những đỉnh núi cao từ 1200m đến 1500m.
Giữa hai mạch núi đồ sộ đó là những miền cao nguyên đá vôi chạy từ
Phong Thổ đến Thanh Hóa, dài chừng 400 km, cao từ 600m đến hơn 1000m.
các dãy núi và cao nguyên đó đều chạy song song với nhau và với thung lũng
sông Hồng, theo hướng tây bắc - đông nam. Con sông Hồng từ xưa người
Thái Tây Bắc gọi là sông Nặm Tao, nơi khởi nguồn và cũng là nơi địa đầu
phía đông và phía tây của vùng văn hóa Tây Bắc. Vùng từ sông Đà đến sông
Mã cũng rộng lớn và đồ sộ như vùng núi Hoàng Liên Sơn. Trong vùng có
nhiều cao nguyên. Có lẽ người ta biết đến Tây Bắc nhiều nhất là qua các cao
nguyên nổi tiếng. Cao nguyên Mộc Châu ở độ cao khoảng 1000 - 1050m,

rộng 25km, dài khoảng 300km bắt đầu từ Hòa Bình kéo dài đến biên giới Việt
-Trung, nằm trải dọc theo đường quốc lộ số 6 - con đường bộ dẫn vào miền
Tây Bắc đã gây ấn tượng đầu tiên về một miền đất Tây Bắc trù phú với cảnh
quan thiên nhiên thật tươi đẹp. Cao nguyên Sơn La kéo dài từ dải trũng Yên

17
Châu lên đến Tuần Giáo, dài khoảng hơn 400km, cao khoảng 600m, rộng
25km. Xưa kia, những cao nguyên này toàn cỏ tranh hoang vu và rừng rậm,
nhiều hang động, suối sâu và thú dữ. Tiếp theo cao nguyên Sơn la là các cao
nguyên Xin Chải, Tà Phình và Ma lu Thang. Cao nguyên Xin Chải cao trung
bình 1000m, dài 30km, rộng 10km trải ra từ Tuần Giáo cho đến ngã ba sông
Đà và sộng Nậm Na có sườn núi cao dựng đứng vòng theo khuỷu sông Đà,
bên dưới là những khu rừng trải rộng mênh mông. Cao nguyên Tà Phình hiện
ra sau đỉnh Pu Sam cao 1904m ở vùng núi Lai Châu chạy đến các vách núi
cao đổ xuống sông Nậm Na ở phía tây và sông Nậm Ma ở phía đông, cả hai
sông này đều là nhánh của Sông Đà. Cao nguyên Ma Lu Thang thấp và nhỏ
hơn chạy sát biên giới Việt - Trung chỉ còn là những khối đá vôi còn sót lại,
trên đó rừng cây thưa thớt.
Đối với vùng núi Thanh Hóa thì hệ thống sông Mã giữ vai trò chi phối
lưu lượng nước và hệ thống thông thương đường thủy. Dòng sông Mã từ Điện
Biên chảy qua Sầm Nưa (Lào), vào địa phận Thanh Hóa ở Mường Lát. Vùng
thượng du sông mã chảy qua các ghềnh thác lớn nên dân gian mới đặt tên cho
con sông nước chảy mạnh như ngựa phi. Còn sông Cả là hệ thống sông chính
của Nghệ An, chảy từ Lào qua Việt Nam dài gần 400 km.
Do sự phân hóa về địa hình, đặc biệt là hệ thống núi rừng trùng điệp và
sông ngòi dày đặc, cũng như sự phân bố dân cư từ xa xưa, nên từ lâu vùng
này đã hình thành ba dạng sinh thái tộc người điển hình. Đó là dạng sinh thái
tộc người thung lũng (nơi sinh sống của các tộc người Thái, Mường, Lào,
Lự); dạng sinh thái tộc người rẻo cao (đại diện là người Mông) và dạng sinh
thái tộc người rẻo giữa (nơi sinh sống của các tộc người Khơ mú, Xinh mun,

Kháng, Mảng, La Ha…).
Với đặc trưng miền núi và cao nguyên ở độ cao từ 800m đến 3000m
nên khí hậu miền Tây Bắc nhìn chung có tính chất á nhiệt đới. Tuy nhiên do
sự chia cắt về địa hình nên Tây Bắc còn có nhiều tiểu vùng khí hậu. Những
nơi cao như Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới. Vùng cao nguyên Mộc Châu cũng

18
có khí hậu giống với khí hậu vùng ôn đới, mùa đông trời lạnh, những ngày
lạnh nhất có nhiệt độ khoảng 3 - 5
0
C; mùa hè có khí hậu mát mẻ, nhiệt độ lý
tưởng 20
0
C, ban đêm trời hơi lạnh. Những vùng núi biên giới với Lào như
vùng đồi núi sông Mã mang nhiều tính chất của khí hậu Trung Lào: mùa hạ
nóng, nhất là trong các thung lũng kín. Gió Lào vượt qua các đỉnh núi khi thổi
xuống thấp vừa khô vừa nóng hầm hập.Vào mùa gió Lào từ tháng giêng đến
tháng tư, cả một vùng biên giới lá cây khô héo, cỏ tranh vàng úa, rừng cây
khô hanh rất dễ bùng cháy nếu con người sơ ý, còn những dòng suối thì khô
cạn. Nhưng trừ vùng đồi núi sông Mã, còn các vùng khác có khí hậu ẩm, mưa
nhiều. Mùa mưa miền Tây Bắc cũng rất lớn, lượng mưa có nơi lên đến
4692mm như ở Điện Biên. Vào mùa mưa, nước sông, suối dâng lên rất nhanh
gây ra lũ lụt, nhiều nơi còn có lũ quét.
1.2.2. Về đặc điểm lịch sử - xã hội:
Người Thái là tộc người chiếm đa số trong vùng (trên 1.400.000
người), giữ vai trò chủ thể trong lịch sử phát triển của vùng. Văn hóa Thái nổi
trội đại diện cho văn hóa Tây Bắc. Lịch sử của các mường Thái Việt Nam
(Quắm tố mương) được ghi chép bằng văn tự dân tộc khởi thủy từ thời Tạo
Xuông, Tạo Ngần đưa ngành Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai (Vân Nam
Trung Quốc hiện nay) đến mường Lò (Nghĩa Lộ) tính đã được một ngàn năm.

Đặc biệt theo Đại Việt sử ký toàn thư hay Việt sử thông giám Cương mục thì
bộ phận Thái đến vùng Mộc Châu vào khoảng thế kỷ XIV. Người Thái đã
sớm sinh tụ ở miền Tây Bắc của tổ quốc với cái tên tự gọi là Táy. Táy là tộc
danh đồng thời cũng có nghĩa là người, khi nói theo tộc danh trong tiếng Thái
thường phải đệm thêm chữ Phủ - Phủ Táy (người Thái). Người Thái có những
nhóm sau: Thái Đen cư trú chủ yếu ở tỉnh Yên Bái (Văn Chấn, Thị xã Nghĩa
Lộ) Điện Biên (Tuần Giáo), Lai Châu (Than Uyên), Sơn La (Mộc Châu,
Thuận Châu). Nhóm Thái Trắng cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, Sơn La
(Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên), Lào Cai (Văn Bàn).

19
Thời gian trên phù hợp với thời gian mà sách Quắm tố mương chép về
hoạt động của tù trưởng Thái ở đó tên là Nhọt Căm vào thời chúa Lò Lẹt (thế
kỷ XIV - XV). Sự kiện đó cũng được Lai lịch dòng họ Hà Công ghi rõ ông tổ
của ngành này vào khoảng thế kỷ XIV từ miền Bắc Hà vào Yên Bái xuống
khai phá vùng Mường Thượng, Mường Hạ rồi mở rộng dần đến mường Pa.
Một chi ngược lên Mộc Châu (Sơn La) một chi xuôi xuống Mường Khoòng
(Thanh Hóa). Ngay khi đến lập nghiệp ở Việt Nam, người Thái đã đoàn kết
với các dân tộc anh em bảo vệ quê hương và Tổ quốc Việt Nam. Sự góp sức
vào công cuộc chống ngoại xâm mạnh mẽ và rõ rệt của người Thái là những
bộ phận ở vùng ven sông Hồng trong công cuộc chống Nguyên Mông ở vùng
Thanh Hóa, Nghệ An, Hòa Bình, Mộc Châu (Sơn La), Lai Châu trong công
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi cầm đầu. Trong bản Quắm tố mương đã
ghi rõ những sự kiện trong việc các chúa đất ở đây phò Lê chống Mạc để bảo
vệ sự thống nhất đất nước, trong việc chống lại những đám giặc cỏ từ bên
ngoài đến quấy phá miền biên cương xa xôi này của Tổ quốc: Phẻ, Hỏ, Giẳng.
Đặc biệt ở đây là sự kiện liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật và
Hoàng Công Chất. Thế kỷ XVIII Hoàng Công Chất đã tập hợp nông dân để
chống chế độ phong kiến thối nát. Nhưng đến Tây Bắc người thủ lĩnh nông
dân này đã giúp nhân dân dẹp giặc Phẻ, Phong để giải phóng bản mường.

Cũng vì lẽ đó mà người Thái tiêu biểu là ông Ngãi, ông Khanh đã theo Hoàng
Công Chất giúp Hoàng Công Chất biến Tây Bắc thành cứ địa chống lại triều
đình Lê - Trịnh. Đến khoảng thế kỷ XIX thì giặc cờ vàng, quân cờ đen kéo
vào đất Tây Bắc. Bản Quắm tố mương có ghi lại rằng giặc cờ vàng do tướng
Dịp Tài chỉ huy kéo đến cướp phá bản mường. Cuối thế kỷ XIX, giặc Pháp
vào chiếm đất Thái, giai cấp phong kiến Thái đầu hàng Pháp. Mười sáu châu
Thái đều thuộc về Pháp. Đồng bào Thái yêu nước đã đứng trong phái kháng
chiến theo ngọn cờ Cần Vương của Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Quang Bích
đánh giặc đến cùng. Họ đã đánh những trận nổi tiếng như ở Cầu Giấy, Sơn
Tây, Tuyên Quang… Đến khi có Đảng lãnh đạo truyền thống đánh giặc cứu

20
nước của họ càng được phát huy mạnh mẽ hơn. Điện Biên Phủ oai hùng rồi
đến việc góp xương máu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước là đỉnh cao
truyền thống giữ nước của họ. Cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của đồng bào
Kinh đến đồng bào các dân tộc thiểu số trong đó có đồng bào Thái đã chứng
tỏ nhân dân các dân tộc Việt Nam với tinh thần quật cường bất khuất và
truyền thống lao động cần cù vẫn không ngừng đấu tranh để bảo vệ bản làng,
quê hương. Chính sức sống mạnh mẽ của cuộc đấu tranh bền bỉ là nhân tố
quyết định tạo ra những bước phát triển mới về kinh tế và văn hóa ở cả nước
nói chung và trên địa bàn miền núi phía Bắc nói riêng. Các tỉnh miền núi phía
Bắc ở thế kỷ XIX thủ công nghiệp phát triển, xuất hiện nhiều thành thị, sự
giao lưu văn hóa và thương mại giữa các dân tộc Tày - Thái, Kinh - Thái…
ngày càng diễn ra mạnh mẽ kéo theo sự phát triển của một nền văn hóa mới
mang đậm bản sắc văn hóa tộc người trong đó có cả một nền văn học dân gian
phong phú và đa dạng và đỉnh cao là thể loại truyện thơ.
Từ xưa, ngoài săn bắn (bắt), hái lượm, cư dân Thái Tây Bắc còn rất giỏi
làm nông nghiệp để sinh sống với hai loại hình: ruộng nước ở thung lũng,
ruộng bậc thang và nương rãy ở sườn núi trồng lúa, ngô, khoai, sắn… Ngoài
trồng lúa, ngô, khoai, sắn ra, họ còn trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, trồng

rừng và cây dược liệu. Ngoài trồng trọt ra họ còn chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà,
ngựa, dê…Ngoài làm nông nghiệp ra, họ còn phát triển nhiều nghề thủ công
như đan lát, dệt thổ cẩm, rèn sắt…Nguồn kinh tế phụ của các gia đình là khai
thác lâm thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, mật ong, quế,
tre, nứa, mây, song, gỗ…Từ xa xưa, những cư dân Thái miền Tây Bắc đã trải
qua những thời kỳ đầy cam go và gian khổ để khai phá miền rừng núi hoang
vu, chinh phục và đấu tranh với thiên nhiên hung dữ, từng bước xây dựng
cuộc sống và bảo vệ lãnh thổ của mình.
Trong quá trình định cư và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, người
Thái có quan hệ giao lưu kinh tế - văn hóa với những tộc người khác ở Tây
Bắc như người Mông, Tày, Mường, Dao… Các dân tộc cùng sinh sống trên

21
miền Tây Bắc rộng lớn chọn những địa bàn cư trú khác nhau, có những phong
tục tập quán, lối sống, cách ứng xử… khác nhau. Trong quá trình xây dựng
làng bản và làm ăn sinh sống, giữa các dân tộc cũng đã diễn ra quá trình giao
lưu văn hóa, kinh tế. Người Thái là tộc người đa số trong vùng thường cư trú
ở các thung lũng gần nguồn nước - ven các con sông, suối. Họ có tập quán
trồng lúa nước lâu đời, có nhiều kinh nghiệm đào mương, đắp phai, làm cọn
và máng dẫn nước vào ruộng. Nội dung truyện kể dân gian của người Thái
phản ánh truyền thống lao động sản xuất, diệt thú dữ để bảo vệ mùa màng,
làng bản và diệt chúa đất tàn ác để giải phóng dân bản khỏi ách áp bức, bóc
lột của chúng.
Các dân tộc Tây Bắc sinh sống trên vùng rừng núi và cao nguyên hay
trong các thung lũng xen giữa núi đồi từ xa xưa luôn biết đoàn kết, hợp sức
nhau lại để tạo thành sức mạnh tập thể cùng nhau chinh phục, khai phá thiên
nhiên, bảo vệ làng bản, mang lại ấm no cho dân làng.
1.2.3. Đặc điểm văn hóa
1.2.3.1.Văn hóa vật chất
Trong công trình nghiên cứu Văn hóa Thái Việt Nam, nhà nghiên cứu

Cầm Trọng và Phan Hữu Dật đã khẳng định “Trải qua hàng ngàn năm lịch sử
đến nay văn hóa Thái vẫn có bản sắc riêng. Bản sắc ấy là sự kết hợp hài hòa
giữa tư chất của nó với các yếu tố tiếp thu chọn lọc những nét văn hóa của
nhiều cộng đồng tộc người khác. Và khi hai mặt đó quện thành bản sắc thì
văn hóa của dân tộc này biến đổi trong lòng lịch sử phát triển của dân tộc
mình và đất nước. Mặt khác, trong quá trình đó, văn hóa Thái luôn phát tiết và
xâm nhập trở vào thành các bản sắc của nhiều dân tộc” [71 tr.16 - 17]. Rõ
ràng văn hóa Thái chính là văn hóa ban đầu của tộc người đã được làm giàu
thêm bởi sự kết hợp, tiếp xúc với các tộc người khác.
Nền kinh tế chủ yếu của người Thái là nền kinh tế nông nghiệp. Người
Thái đã sớm biết tận dụng yếu tố nước và đất để khai khẩn đất đai làm ruộng,
mở rộng diện tích canh tác trên các cánh đồng lớn nhỏ ở các thung lũng, lòng

×