Tải bản đầy đủ (.pdf) (187 trang)

Khảo sát chỉnh thể nghệ thuật dân ca đám cưới của người Mường Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 187 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***


NGUYỄN THỊ QUẾ



KHẢO SÁT CHỈNH THỂ
NGHỆ THUẬT DÂN CA ĐÁM CƯỚI
CỦA NGƯỜI MƯỜNG THANH HOÁ





LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC













Hà Nội, năm 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***




NGUYỄN THỊ QUẾ



KHẢO SÁT CHỈNH THỂ NGHỆ THUẬT DÂN CA
ĐÁM CƯỚI CỦA NGƯỜI MƯỜNG THANH HOÁ



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC


Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số : 60 22 36




Người hướng dẫn khoa học: TS Mai Thị Hồng Hải







Hà Nội, năm 2009
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Phạm vi nghiên cứu 7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 8
6. Những đóng góp của luận văn 8
7. Cấu trúc luận văn 9

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: Dân ca đám cƣới trong quan hệ với tập tục hôn nhân của ngƣời Mƣờng
Thanh Hoá 10
1.1. Một vài nét khái quát về ngƣời Mƣờng ở Thanh Hoá 10
1.1.1. Địa vực cƣ trú, dân cƣ, dân số 10
1.1.2. Tổ chức xã hội 11
1.1.3. Văn hoá truyền thống của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá 12
1.2. Dân ca đám cƣới trong trong tập tục hôn của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá 16
1.2.1. Hình thức thể loại của dân ca đám cƣới ngƣời Mƣờng Thanh Hoá 16
1.2.2. Tập tục hôn nhân của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá 17
1.2.2.1. Dò ý và đi dạm 18
1.2.2.2. Lễ ăn hỏi 19
1.2.2.3. Lễ ra mắt rể 21
1.2.2.4. Lễ cƣới 25
1.3. Một vài nét so sánh tập tục hôn nhân cổ truyền của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá

với một số dân tộc khác 30
1.3.1. So sánh tập tục hôn nhân cổ truyền của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá với ngƣời
Kinh 30
1.3.2. So sánh tập tục hôn nhân cổ truyền của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá với một số

1
dân tộc thiểu số ở Việt Nam 31

Chƣơng 2: Một số phƣơng diện nghệ thuật dân ca đám cƣới của ngƣời Mƣờng
Thanh Hoá 35
2.1. Kết cấu và đặc điểm chung 35
2.1.1. Hình thức kết cấu của dân ca đám cƣới 39
2.1.1.1. Kết cấu đối đáp 39
2.1.1.2. Kết cấu một chiều 41
2.1.2. Một số thủ pháp kết cấu 43
2.1.2.1. Thủ pháp kết cấu đối chiếu 43
2.1.2.2. Thủ pháp kết cấu trùng điệp 45
2.2. Thể thơ, ngôn ngữ 49
3.2.1. Thể thơ 49
3.2.2. Ngôn ngữ 53
2.3. Một số phƣơng tiện diễn tả biểu hiện trong dân ca đám cƣới ngƣời Mƣờng
Thanh Hoá 54
2.3.1. So sánh và một số biện pháp khác 54
2.3.2. Tín hiệu văn hoá - nghệ thuật mang đậm chất miền núi của ngƣời Mƣờng
Thanh Hoá 57
2.3.3. Những tích Sử thi, truyện cổ Mƣờng, những mảnh đoạn truyện thơ Mƣờng,
thành ngữ, tục ngữ Mƣờng trong dân ca đám cƣới 59
2.3.3.1. Những tích Sử thi, truyện cổ Mƣờng trong dân ca đám cƣới 59
2.3.3.2. Những mảnh đoạn truyện thơ Mƣờng trong dân ca đám cƣới 65
2.3.3.3. Thành ngữ, tục ngữ Mƣờng trong dân ca đám cƣới 68

2.3.4. Biểu tƣợng 69
2.3.4.1. Cây si 70
2.3.4.2. Ông mối 71
2.3.4.3. Nhà sàn 73

Chƣơng 3: Dân ca đám cƣới trong sinh hoạt nghi lễ hôn nhân của ngƣời Mƣờng

2
Thanh Hoá 77
3.1. Cách thức tổ chức và trình tự diễn xƣớng dân ca đám cƣới trong sinh hoạt nghi
lễ hôn nhân của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá 77
3.2. Một vài nét so sánh về hình thức thức diễn xƣớng cổ truyền của dân ca
đám cƣới ngƣời Mƣờng Thanh Hoá với một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam 86
3.3 Một vài nét biến đổi về thức diễn xƣớng dân ca đám cƣới trong sinh hoạt
nghi lễ hôn nhân của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá 95
3.3.1. Những biến đổi về tập tục cƣới xin của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá 95
3.3.2. Những thay đổi về phƣơng thức diễn xƣớng dân ca đám cƣới ngƣời Mƣờng
Thanh Hoá trong đám cƣới ngày nay 98

PHẦN KẾT LUẬN 100
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104





















3
PHẦN MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài
1.1.Trong số các dân tộc thiểu số ở Thanh Hoá, dân tộc Mường có dân số đông nhất.
Đồng thời, giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - văn hoá xã hội và an
ninh quốc phòng ở miền núi Thanh Hoá. Cư dân Mường thường cư trú ở vùng thung lũng
chân núi, làm ăn sinh tồn chủ yếu dựa vào các tài nguyên rừng. Địa bàn cư trú của người
Mường Thanh Hoá tiếp giáp người Kinh, đồng thời cũng là vùng giao lưu, tiếp xúc văn hoá
với nhiều tộc người khác như Dao, Thái, Mông, Thổ, Khơ Mú… Dưới góc độ địa lý học,
dân tộc học có thể nhận thấy rằng: Người Mường ở Việt Nam là một dân tộc thống nhất
nhưng cũng có sự khác biệt mang tính địa phương khá rõ nét. Người Mường Thanh Hoá
trong quá trình phát triển của lịch sử đã tạo nên những nét đặc sắc văn hoá của riêng mình.
Trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc Mường, dân ca chiếm một số lượng đáng kể
bởi hầu hết các phong tục tập quán, lễ hội của người Mường đều có sự tham gia góp mặt của
dân ca. Dân ca đám cưới là một hiện tượng độc đáo gắn với phong tục và nghi lễ cưới xin
của người Mường. Tìm hiểu dân ca đám cưới không những nhận thức được các giá trị văn
hoá, văn học độc đáo của người Mường mà còn góp phần thực hiện chủ trương bảo tồn,
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và gìn giữ di sản văn hoá dân tộc.

1.2. Dân ca đám cưới một hiện tượng văn học dân gian đậm đà bản sắc dân tộc, là tiếng
nói của tâm hồn được người Mường Thanh Hoá sáng tạo, ấp ủ, gìn giữ qua nhiều thế hệ.
Người Mường đã dùng hình tượng con ve ly, ve láng để nói lên điều tất yếu của tình yêu,
hôn nhân trong cuộc đời mỗi con người:
Năm nào năm chẳng có tiếng ve láng
Tháng nào tháng chẳng có tiếng ve ly
Đời nào chẳng có ngƣời đi lấy chồng hỏi vợ
Tìm hiểu dân ca đám cưới, chúng tôi muốn tìm hiểu thế giới tâm hồn, tình cảm của
người Mường và hiểu sâu sắc hơn những giá trị nghệ thuật của nó trong kho tàng dân ca dân
tộc Mường.
1.3. Dân ca đám cưới là một loại hình tổng hợp của nghệ thuật ngôn từ và phương thức
diễn xướng dân gian gắn với phong tục nghi lễ hôn nhân của người Mường, trong đó thành

4
tố đóng vai trò quan trọng là nghệ thuật ngôn từ. Là một giáo viên dạy môn Văn và có khá
nhiều chuyến thực tế tại những vùng Mường Thanh Hoá nên khi thực hiện đề tài này, chúng
tôi hy vọng sẽ có ý nghĩa thiết thực đối với việc giảng dạy và nghiên cứu văn học dân gian
các dân tộc ít người ở Việt Nam nói chung và góp phần bảo tồn những bài ca đám cưới của
người Mường Thanh Hoá nói riêng.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Khảo sát chỉnh thể nghệ thuật của dân ca
đám cƣới của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu dân ca đám cưới của người Mường Thanh Hoá trong phong tục hôn nhân
của họ có liên quan đến nhiều vấn đề; nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn
chỉ trình bày lịch sử của hai vấn đề sau:
Một là: Vấn đề nghiên cứu về tập tục hôn nhân của người Mường nói chung và người
Mường ở Thanh Hoá nói riêng.
Hai là: Vấn đề nghiên cứu dân ca đám cưới của người Mường Thanh Hoá.
2.1. Về tập tục hôn nhân của người Mường có một số bài viết trên sách, báo, Tạp chí
Văn hoá dân gian như sau:

Bài viết Tục lệ cƣới xin của ngƣời Mƣờng ở huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình của tác giả
Nguyễn Ngọc Thanh đã khảo tả lại tập tục cưới xin của người Mường ở Kim Bôi một cách
chi tiết từ bước chọn mai mối đến các bước trong lễ cưới: Hỏi thăm (Mờ miệng), Kháo
tiếng (Đặt vấn đề), Ti nòm (ăn hỏi), Ti cháu (Lễ cưới). Bài viết giúp người đọc nắm được
một số phong tục, tập quán hôn nhân từ lễ cưới của người Mường, tác giả cũng khẳng định
“Lễ cƣới của ngƣời Mƣờng ở Kim Bôi vừa có những đặc điểm chung, giống nhƣ nhiều vùng
Mƣờng khác ở Hoà Bình vừa mang những sắc thái địa phƣơng chính điều đó làm cho văn
hoá Mƣờng thêm đa dạng, phong phú” [70, tr 64].
Tác giả Phùng Quỳnh với bài viết Nghi lễ cƣới xin của ngƣời Mƣờng tuy không giới
thiệu cụ thể đây là đám cưới của người Mường ở vùng nào nhưng cũng giới thiệu một cách
tổ chức đám cưới khác của người Mường trải qua bốn giai đoạn: Đi dạm, Ăn hỏi (Ăn
noòm), Sắp gánh, Lễ đón dâu.
Trong cuốn Ngƣời Mƣờng với văn hoá cổ truyền Mƣờng Bi [11], có bài viết về Lễ cƣới
[11, tr 107, 115] của tác giả Đinh Công Chẩy. Bài viết đã giới thiệu tập tục cưới xin của

5
người Mường Bi với các bước như sau: Đi thăm dò ướm hỏi, Ti nôm bánh (Lễ bỏ trầu), Lễ
cưới lần thứ nhất (Ti cháu), Lễ đón dâu (Ti du); trong đó khá nhiều tục lệ của người Mường
được thể hiện sinh động.
Hai tác giả Bùi Xuân Mỹ, Phạm Minh Thảo trong cuốn Tục cƣới hỏi của ngƣời Việt [53]
cũng có bài giới thiệu về Tục cƣới hỏi của ngƣời Mƣờng ở tỉnh Vĩnh Phú [53, tr 83, 85]. Bài
viết giới thiệu ngắn gọn nhưng khá đầy đủ về các nghi lễ trong đám cưới qua hai bước sau:
Lễ hỏi và Lễ mở trầu, Lễ cưới.
Các bài viết về tập tục cưới xin của người Mường Thanh Hoá được tập trung thể hiện
trong cuốn Những bài ca đám cƣới ngƣời Mƣờng Thanh Hoá [27] của nhà nghiên cứu Cao
Sơn Hải. Tác giả Cao Sơn Hải đã khảo tả rất chi tiết tập tục cưới xin của người Mường
Thanh Hoá qua năm bước sau: Dò ý, Đi dạm, Lễ ăn hỏi (Ti poi), Lễ ra mắt rể (Pao chầu),
Ngày cưới (Rởc du). Đặc biệt, tác giả đã công bố một hệ thống những bài đám cưới được
diễn xướng trong tục hôn nhân của người Mường Thanh Hoá. Cuốn sách này là tư liệu quý
trong quá trình người viết thực hiện luận văn.

Trong cuốn Văn hoá dân gian làng Muốt [32] của tác giả Mai Thị Hồng Hải có bài
giới thiệu về tục cưới xin của người Mường ở làng Muốt - Cẩm Thuỷ - Thanh Hoá. Làng
Muốt là một làng Mường còn tiềm ẩn nhiều phong tục, tập quán mang nhiều giá trị văn học
truyền thống mà tục cưới hỏi là một ví dụ. Qua tục cưới hỏi, tác giả Mai Thị Hồng Hải giới
thiệu tới người đọc về tục cưới xin của người Mường nơi đây được thực hiện qua hai bước:
Ngày “Kheẻch” (Ngày ra mắt rể) và Ngày rước dâu. Trong các bước này, tác giả đã giới
thiệu chi tiết các phong tục, nghi lễ cưới xin của người Mường giúp người đọc cảm nhận
được cái đẹp trong văn hoá cưới xin của người Mường làng Muốt (Qua khảo sát tục lệ cưới
xin ở làng Muốt, xã Cẩm Thành, huyện Cẩm Thuỷ, tỉnh Thanh Hoá).
2.2. Vấn đề nghiên cứu dân ca đám cưới của người Mường Thanh Hoá
Công trình Đặc điểm ngôn ngữ trong những bài ca đám cƣới của ngƣời Mƣờng Thanh
Hoá [26] của tác giả Trịnh Thị Hà, đã đặt vấn đề tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ của những bài
ca đám cưới Mường Thanh Hoá về mặt hình thức và ngữ nghĩa. Tuy nhiên, ở nhiều phương
diện từ góc độ chỉnh thể, công trình này chưa có điều kiện khảo cứu.
Qua việc tìm hiểu lịch sử sưu tầm, nghiên cứu dân ca đám cưới Mường Thanh Hoá,
chúng tôi nhận thấy rằng: Số lượng bài viết, công trình đề cập tới dân ca đám cưới Mường

6
Thanh Hoá còn ít. Có một số công trình đã sưu tầm, biên dịch giới thiệu, nghiên cứu về ngữ
nghĩa, ngôn từ của những bài ca đám cưới trên một số phương diện nội dung, hình thức…
Vì thế, chúng tôi xác định hướng nghiên cứu của luận văn sẽ là:
Đi sâu vào các vấn đề cụ thể của phương thức diễn xướng dân ca đám cưới trong phong
tục nghi lễ cưới xin của người Mường Thanh Hoá. Tổng quan và sắp xếp trình tự những bài
ca đám cưới trong các công trình nghiên cứu trước thành một hệ thống khoa học và hợp lý;
đi sâu tìm hiểu những nét nổi bật về nghệ thuật của dân ca đám cưới và lý giải nó dựa trên
cơ sở những phong tục tập quán, tín ngưỡng, điều kiện sống, văn hoá truyền thống dân tộc
Mường để có được cái nhìn toàn diện dân ca đám cưới người Mường Thanh Hoá.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Nghiên cứu dân ca đám cưới của người Mường Thanh Hoá nhằm hướng tới các mục

đích sau đây:
Thứ nhất, chỉ ra những giá trị văn hoá, nghệ thuật của dân ca đám cưới cũng như toàn
bộ nét đặc trưng về diễn xướng dân ca đám cưới trong tập tục hôn nhân của người Mường ở
Thanh Hoá.
Thứ hai, góp phần vào việc bảo tồn, lưu giữ các giá trị của dân ca đám cưới - một di sản
văn hoá truyền thống của dân tộc Mường.
3.2. Nhiệm vụ
Tìm hiểu vai trò của dân ca đám cưới trong tập tục hôn nhân của người Mường Thanh
Hoá.
Khảo tả cách thức tổ chức và hình thức diễn xướng cơ bản các bài dân ca đám cưới
trong nghi lễ hôn nhân cổ truyền của người Mường Thanh Hoá.
Vận dụng các phương pháp nghiên cứu để chỉ ra giá trị, ý nghĩa của từng bài ca đám
cưới. Sau đó, tổng hợp để thấy được giá trị ý nghĩa tổng thể của dân ca đám cưới trong
phong tục hôn nhân của người Mường Thanh Hoá.
4. Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu
Những bài ca đám cưới đã xuất hiện, phát triển và tồn tại từ rất xưa trong phong tục
cưới xin của người Mường Thanh Hoá và so với nhiều loại dân ca Mường khác nhưng đã
dần dần không còn hiện tồn. Các bài ca đám cưới đến nay chỉ còn được diễn xướng ở một số

7
vùng xa xôi hẻo lánh khi có lễ cưới diễn ra. Phạm vi tư liệu khảo sát, nghiên cứu chính là
cuốn Những bài ca đám cƣới ngƣời Mƣờng Thanh Hoá, Nxb Văn hoá dân tộc, 2003 của tác
giả Cao Sơn Hải sưu tầm, biên dịch và giới thiệu.
Bên cạnh đó là tư liệu điền dã, sưu tầm của tác giả luận văn tại một số vùng Mường
Thanh Hoá.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phối kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
Phƣơng pháp điền dã:
Sinh hoạt dân ca đám cưới được diễn ra trong tập tục cưới xin của người Mường Thanh
Hoá. Nghiên cứu dân ca đám cưới là nghiên cứu một tiểu loại văn học dân gian đã, đang tồn

tại trong môi trường diễn xướng. Do vậy, chúng tôi sử dụng phương pháp điền dã đi đến
một số vùng mường ở Thanh Hoá: Cẩm Thuỷ, Bá Thước, Ngọc Lặc để tìm hiểu tập tục hôn
nhân và vai trò, ý nghĩa của dân ca đám cưới trong các nghi lễ đó.
Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành:
Dân ca đám cưới là một thành tố hợp thành nghi lễ cưới xin của người Mường Thanh
Hoá bởi gắn liền với tập tục hôn nhân, gắn liền với điều kiện lịch sử, văn hoá, xã hội của
người Mường. Nên, luận văn chú trọng tới việc sử dụng phương pháp nghiên cứu văn học
với một hiện tượng văn học nói chung: Lịch sử, phong tục, tập quán, tín ngưỡng
Phƣơng pháp khảo sát, thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp:
Để hiểu được những giá trị nghệ thuật, đặc điểm diễn xướng của dân ca đám cưới một
cách sâu sắc và để nhận diện rõ hơn các thủ pháp nghệ thuật trong tác phẩm, chúng tôi sử
dụng phương pháp khảo sát, thống kê. Luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh để thấy
được sự giống và khác nhau giữa tập tục hôn nhân và cách thức tổ chức diễn xướng dân ca
đám cưới người Mường Thanh Hoá với người Kinh và một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam:
Người Mường ở Hoà Bình, Tây Bắc, Tày Nùng, H’mông, Cờtu, Thái ; dùng phương pháp
phân tích và tổng hơp để lý giải những nguyên nhân, dụng ý của tác giả trong việc sử dụng
các thủ pháp nghệ thuật.
6. Những đóng góp của Luận văn

8
- Lần đầu tiên dân ca đám cưới Mường Thanh Hoá được nghiên cứu một cách hệ thống
trong tính nguyên hợp của nó trên một số phương diện: Diễn xướng, giá trị nội dung và
nghệ thuật.
- Luận văn làm sáng rõ một số nét độc đáo của dân ca đám cưới Mường Thanh Hoá
trong sự gắn bó với đặc điểm tâm lý dân tộc, những phong tục tập quán, tín ngưỡng, điều
kiện sống, văn hoá truyền thống, góp phần khẳng định một cách sâu sắc thuyết phục hơn giá
trị của dân ca đám cưới Mường.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tài liệu tham khảo; Luận văn được cấu trúc
thành ba chương:

Chƣơng 1: Dân ca đám cƣới trong quan hệ với tập tục hôn nhân của ngƣời Mƣờng
Thanh Hoá
Chƣơng 2: Một số phƣơng diện nghệ thuật của dân ca đám cƣới Mƣờng Thanh Hoá
Chƣơng 3: Dân ca đám cƣới trong sinh hoạt nghi lễ hôn nhân của ngƣời Mƣờng Thanh
Hoá
















9



Chƣơng 1
DÂN CA ĐÁM CƢỚI TRONG QUAN HỆ VỚI TẬP TỤC HÔN NHÂN
CỦA NGƢỜI MƢỜNG THANH HOÁ

1.1. Một vài nét khái quát về ngƣời Mƣờng ở Thanh Hoá

1.1.1. Địa vực cƣ trú, dân cƣ, dân số
Trong lời giới thiệu cuốn “Tỉnh Thanh Hoá” của H. Lơ-bơ-rơ-tông, ông Toàn quyền
Pa-xki-ê, đã viết: “Thanh Hoá không phải là một khu hành chính đơn thuần: nó là một xứ.
Cũng muôn màu muôn vẻ nhƣ toàn bộ Bắc Kỳ - là một hình ảnh thu nhỏ lại, Thanh Hoá có
miền đồng bằng màu mỡ phì nhiêu, miền Trung rậm cỏ, gợn sóng, miền núi náo nhiệt đƣợc
khu rừng độc tôn che phủ bằng những chùm lá lộng lẫy” [13; tr 49]. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng
đủ để ta có thể nhận thấy một cách rõ nét về địa hình Thanh Hoá: Phức tạp nhưng phong
phú, đa dạng: Có núi rừng hiểm trở mà hùng vĩ, có miền thung lũng trung du tươi tốt; có
đồng bằng phì nhiêu, màu mỡ trù phú đồng thời lại có vùng biển cả rộng lớn bao la. Miền
đất ấy hẳn là nơi cư trú của nhiều dân tộc anh em. Trong đó, theo sự phân công của Thần
Đất thì người út (tức ngƣời Kinh) vì lưng không chịu cõng gùi nên được đưa về ở dưới vùng
đất bằng màu mỡ, ở đó có con sông rộng không thấy bờ để người bắt cá, có nhiều đất cao
thấp, nơi khô nơi ướt để gieo hết các loại giống cây. Còn có những người thích thoáng mát
thì lên đỉnh núi mà ở, ai là người ăn cây lúa thì ở vùng đất bằng phẳng. Kẻ thích săn bắn thì
ở rừng sâu… Đây chính là địa bàn cư trú của các dân tộc ít người với nhiều đặc trưng văn
hoá khác nhau, trong đó có người Mường.
Người Mường là một trong số 54 dân tộc anh em trên dải đất Việt Nam, là dân tộc có
một chiều dài lịch sử; sinh sống rải rác khắp nơi trong cả nước nhưng chủ yếu tập trung ở
Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ, Hà Tây, Sơn La
Ở Thanh Hoá, người Mường phân bố tại các huyện miền núi phía Tây: Ngọc lặc, Như
Xuân, Như Thanh, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Sơn, Quan Hoá, Mường Lát, Cẩm Thuỷ,
Thường Xuân, Thạch Thành và rải rác ở một số xã ở vùng thấp, miền xuôi: Vĩnh Lộc, Thọ

10
Xuân, Tĩnh Gia, Hà Trung, Triệu Sơn, Yên Định và Thị xã Bỉm Sơn; tập trung đông nhất ở
các huyện Cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Bá Thước, Ngọc Lặc. Đó là tập đoàn những Mường
lớn. Hầu hết người Mường đến sát thung lũng sông Mã, sông Bưởi và sông Âm, sông Cầu
Chày, sông Chu, sông Mực. Phải nói rằng cư dân Mường thích ứng với loại địa hình gần
như trung du. Sống ở cao nguyên nhưng lại gần nguồn nước, sống ở vùng đồi núi nhưng lại
có sông rộng và có những có những ruộng lúa tốt tươi.

Theo nhà nghiên cứu Cao Sơn Hải, ngày xưa, người Mường chủ yếu sống ở các vùng
mường cổ, mường lớn như: Mƣờng Ống Ký, Mƣờng Khô, Mƣờng Ai, Mƣờng Khôông,
Mƣờng Phấm, Mƣờng Vong, Mƣờng Vống, Mƣờng Kìm, Mƣờng Kợi, Mƣờng Mèn, Mƣờng
Chánh, Mƣờng Đủ, Ó, Đẹ, La Sơn…[27; tr 6]. Sau này, do ảnh hưởng của luồng di dân tự
nhiên nên vùng cư trú trong cơ cấu của người Mường Thanh Hoá có sự thay đổi và phân
xuất thành hai ngành Mường: Mường Trong và Mường Ngoài. Người Mường Trong là
người Mường bản địa cư trú chủ yếu ở các huyện Bá Thước, Lang Chánh, Ngọc Lặc và hữu
ngạn sông Mã của huyện Cẩm Thuỷ. Người Mường Ngoài là người Mường di cư từ tỉnh
Hoà Bình vào (sống chủ yếu ở Thạch Thành và Như Thanh) và người Mường ở phía bắc
sông Mã của Thanh Hoá. Ngoài ra, phân biệt giữa hai ngành Mường này căn cứ vào y phục
của phụ nữ và cách phát âm của một số từ vựng. Sự cộng hưởng này đã tạo nên nét đa dạng
trong văn hoá của người Mường Thanh Hoá.
Dân số người Mường ở Thanh Hoá qua các thời kỳ như sau:
Theo tài liệu thống kê trong cuốn Ngƣời Mƣờng của Cuisiner [10]: Người Mường ở
Thanh Hoá trước năm 1945 là 50.000 người.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê thì người Mường ở Thanh Hoá năm
1960 là 113.000 người, năm 1966 là 30 vạn người.
Tính đến ngày 1/4/1999, tổng số người Mường ở Thanh Hoá là: 322.869 người.
1.1.2. Tổ chức xã hội
Xã hội cổ truyền của người Mường Thanh Hoá có sự phân chia thành tầng lớp thống trị
và bị trị. Đứng đầu mỗi mường là các Lang, Cun: Đứng đầu mỗi Mường lớn là Cun; đứng
đầu Mường vừa và nhỏ là Lang; còn đứng đầu mỗi làng, chòm là đạo Chế độ xã hội bấy giờ
gọi là chế độ Lang đạo. Vì tầng lớp thống trị là cha truyền con nối có đặc quyền, đặc trị bóc
lột bằng hình thức cống nạp và phục dịch. Còn những người dân là tầng lớp bị trị. Họ

11
không chỉ bị bóc lột về kinh tế mà còn phải chịu những áp bức về tinh thần và phải chịu
những hình phạt nặng nề hà khắc. Chế độ này đến sau Cách mạng tháng Tám mới được xoá
bỏ nhưng những ảnh hưởng văn hoá ít nhiều còn tồn tại đến tận ngày nay. Sở dĩ nói như vậy
là trong chế độ lang đạo, nhân dân đã tạo dựng và gìn giữ được một nền văn hoá bản địa. Đó

là nền văn hoá Việt - Mường. Đến nay ta còn thấy một hệ thống phong tục tập quán giàu
tính nhân văn và một nền văn hoá dân gian giàu bản sắc. Sử thi Đẻ đất đẻ nƣớc, các truyện
thơ, các loại dân ca xường rang, lễ hội pồn pôông, xéc bùa, các loại nhạc cụ, cồng chiêng,
những sản phẩm thổ cẩm của nghề dệt đến nay vẫn còn giá trị.
Làng bản của người Mường xưa kia vừa là đơn vị hành chính vừa là nơi diễn ra những
hình thức sinh hoạt văn hoá tinh thần; nhất là những dịp tết đến xuân về, những ngày lễ,
ngày hội đình đám… Do tính cộng đồng làng xã bền chặt nên con người nơi đây lại càng
gắn kết với nhau và có lẽ cũng từ đây mà nhiều vốn văn hoá dân gian đã ra đời và được nuôi
dưỡng, lưu truyền cho đến tận ngày nay.
Đến với xứ Mường, người ta thường được nghe câu: “Cơm đồ, nhà gác, nƣớc vác, lợn
thui, ngày lui, tháng tiến”. Với từng ấy chữ đã khái quát nên cảnh sinh hoạt rất đặc trưng của
người Mường; nghĩa là: Cơm ăn thì đồ là chính, nấu là phụ; nhà ở nhà sàn làm theo lời chỉ
dẫn của con rùa được mô tả cụ thể trong Sử thi Đẻ đất đẻ nƣớc; nước được vác và đựng
trong ống bương, ống luồng; giết lợn phải thui qua lửa cho sạch lông chứ không dùng nước
sôi và dao để cạo lông; ngày lui là tính ngày chỉ tính từ mồng 4 đến 28 hàng tháng và tính
trở lui; tháng tiến là tính từ tháng 3, không tính từ tháng giêng.
Kinh tế của người Mường chủ yếu là nông nghiệp tự cung tự cấp; được phát triển dưới
hai hình thức là trồng trọt, chăn nuôi, song dựa vào tự nhiên là chính. Người Mường trồng
trọt trên nương rẫy bằng cách chọc lỗ tra hạt, hoặc tận dụng những nơi có ruộng nước thì
dùng sức trâu bò để cày bừa, người ta gọi là kinh tế lúa nước pha nương rẫy; chăn nuôi của
người Mường chủ yếu là chăn thả.
Nghề thủ công truyền thống là dệt vải, nhà nào cũng có khung cửi để dệt vải. Sự khéo
léo và cả văn hoá thẩm mĩ của các thiếu nữ Mường được thể hiện khi họ làm ra những sản
phẩm: Vỏ chăn, vỏ gối, vỏ đệm, đặc biệt là váy áo… để chờ ngày bước chân về nhà chồng.
Hoa văn trong các sản phẩm dệt của người Mường vừa mang tính truyền thống lại vừa ẩn
chứa nét riêng tâm hồn của người dệt gửi gắm vào đó.

12
1.1.3. Văn hoá truyền thống của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá
Không chỉ có chiều dài lịch sử, dân tộc Mường còn có một chiều sâu văn hoá. Tuy

không có chữ viết, song người Mường bằng những cách khác nhau đã lưu giữ được vốn văn
hoá quý giá của dân tộc mình. Văn hoá dân gian của người Mường là một phạm trù rộng
lớn. Do vậy, luận văn không có điều kiện khai thác một cách đầy đủ mọi khía cạnh của văn
hoá mà chỉ xin nêu khái quát trên một số bình diện văn hoá phi vật thể: Văn học, phong tục
tín ngưỡng, lễ hội…
Cũng như các dân tộc anh em khác, trong tâm thức người Mường, tín ngưỡng dân gian
khá đậm nét, nó là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của đồng bào
Mường với nhiều hình thức: Làm vía, xéc bùa, thờ cúng tổ tiên, cúng Thành hoàng làng, thờ
thần núi, thần sông… Trong đó, tục thờ cúng tổ tiên được người Mường coi trọng bởi nó thể
hiện sự tiếp nối truyền thống tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn” từ ngàn đời nay của cha ông
để lại. Trong ngôi nhà của người Mường, bàn thờ tổ tiên được đặt ở Voòng tôông (gian
giữa) - vị trí trang trọng nhất. Vào những ngày lễ tết hoặc khi gia đình có việc đại sự: Cưới
xin, tang ma, mừng nhà mới… con cháu thường có mâm cỗ cúng tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên là
nơi giao cảm tâm linh giữa mường Người với lực lượng siêu nhiên. Cũng chính từ đây,
người Mường đã sáng tác ra những bài dân ca nghi lễ cưới xin cầu mong tổ tiên phù hộ cho
đôi trẻ trong ngày vui hạnh phúc.
Bên cạnh tục thờ cúng tổ tiên, đồng bào Mường còn thờ các vị thần như: thần núi, thần
đất, thành hoàng làng và cả những người có công với bản làng. Đó là niềm tin, là sự tôn thờ
một thế giới siêu nhiên bên ngoài cõi trần tục trong đời sống tâm linh của mình; họ giao cảm
với thế giới này bằng “Cảo” - cách gieo quẻ rất đặc trưng của dân tộc Mường. Từ xưa,
người Mường đã có chùa thờ Phật như: Chùa Móng, chùa Mèo, chùa Mèn, chùa Rồng, chùa
Trặng… Tuy nhiên người Mường lại tu Phật giữa cuộc đời - Phật tại tâm chứ không chú ý
nhiều đến những ngày sóc vọng để cầu kinh niệm Phật theo tư tưởng, giáo lí nhà Phật. Hiểu
và thờ Phật của người Mường được bắt nguồn từ chính cuộc sống, từ cách ứng xử của họ.
Lễ hội của người Mường là nơi kết tinh những tinh hoa văn hoá của dân tộc. Ở đây, nét
đặc sắc riêng biệt trong quan niệm, phong tục, tập quán và trong nền nghệ thuật truyền
thống được biểu hiện một cách rõ nét và tinh tế dưới nhiều hình thức hết sức cụ thể, giản dị,

13
thiêng liêng nhưng thuần khiết. Tín ngưỡng và lễ hội của người Mường thường song hành

cùng nhau.
Nói đến lễ hội, lễ tục của người Mường, người ta không thể không nhắc tới lễ hội Pồn
pôông, Xéc bùa… Xéc bùa thường diễn ra vào dịp đầu xuân năm mới; “phường bùa”
khoảng 20-25 người với một dàn cồng chiêng gồm 12 cái to nhỏ, âm lượng khác nhau đi
chúc tết các gia đình trong mường bản. Lễ hội Pồn pôông (chơi hoa) cũng thường được diễn
ra vào cuối xuân hoặc vào ngày rằm tháng 7 âm lịch. Đây là một tục lệ của người Mường,
cũng như nhiều trò diễn dân gian khác; nó được gắn với một nghi lễ có yếu tố tâm linh.
Trong lễ hội Pồn pôông, người ta thường làm cây bông hoa đồ sộ có nhiều nhánh, nhiều
bông sặc sỡ sắc màu được cắm ở nhiều tầng trên thân cây bông. Trò diễn lễ hội Pồn pôông
thường do ông ậu hoặc bà máy chủ trì để thờ các vị vua ở núi Tản Viên, Ba Vì (Pồn pôông
ma vua), hay thờ các chàng trai trong các bản tình ca của người Mường như: Hai Mối, Hồ
Liêu, Bông Hương (Pồn pôông ma chenh) và họ diễn các tích của các truyện thơ trên và
muốn giải oan tình cho bao người xưa. Có thể nói, Pồn pôông là hình thức sân khấu sơ khai
của người Mường mang giá trị tinh thần lớn:“Dẫu có khoác áo tâm linh song nó đề cập tới
một vấn đề rất nhân văn: Khát vọng yêu đƣơng và hôn nhân tự do, một mối tình đẹp, chung
thuỷ mà ở xã hội Mƣờng thời đó không có đƣợc” [28; tr 175]. Lễ hội Pồn pôông cũng là nơi
sinh thành những làn điệu xường rang, những bài ca nghi lễ của người Mường. Không chỉ
vậy, “lễ Pồn pôông còn gắn với phong tục liên quan đến việc chữa bệnh và tín ngƣỡng dân
gian của ngƣời Mƣờng. Từ một tục lệ mang tính tín ngƣỡng, lễ Pồn pôông đã tích hợp trong
nó nhiều lớp văn hoá khá hấp dẫn” [ 32; tr 65]. Có lẽ, vì thế mà nó lôi cuốn được nhiều
người xem và lưu truyền tận ngày nay.
Có thể nói, lễ hội của người Mường hội tụ những nét sinh động mà sâu sắc của văn
hoá Mường. Nó góp phần tạo nên bản sắc riêng biệt, khẳng định giá trị, vị thế văn hoá
Mường trong tổng thể văn hoá Việt Nam.
Trong vốn văn hoá phong phú của mình, người Mường còn có những làn điệu dân ca
độc đáo như: Xường, rang, bọ mẹng, hát ru, dân ca đám cưới… mang đậm chất trữ tình.
Người Mường ở Thanh Hoá đã cho rằng mụ Dạ Dần sau khi sáng tạo ra các Mường đã tiếp
tục sáng tạo ra các làn điệu : Xường, mo, rang… và mang gánh giống ấy để đi gieo trên
khắp đất Mường; đến vùng Mường Thanh Hoá vì mải ngắm cảnh đẹp nên Dạ Dần bị vấp


14
làm “Đứt gánh Mƣờng Ai, đứt quai Mƣờng Ống” nên bao nhiêu xường gốc trút cả vào đây.
Đó là một lí giải hấp dẫn, đầy sức thuyết phục cho sự phát triển phong phú đa dạng của thể
loại xường. Trong những đêm lễ hội, tiếng xường tiếng rang đan xen vào nhau. Những làn
điệu dân ca ấy là những tiếng hát giao duyên, tâm tình của những đôi trai gái đã ăn sâu vào
tâm thức, khắc sâu trong đời sống sinh hoạt của của người Mường.
Đã từ lâu, người Mường có một vốn văn học dân gian khá phong phú, đa dạng và đặc
sắc, nó cũng là thành tố quan trọng không thể thiếu trong vốn văn hoá của họ. Tiếp cận văn
học dân gian của dân tộc mình, người Mường Thanh Hoá rất đỗi tự hào khi nhắc tới Sử thi
Đẻ đất đẻ nƣớc. Đây là tác phẩm lớn, đồ sộ, có giá trị không chỉ của người Mường mà còn
của cả văn hoá dân tộc Việt Nam; nó đã cho chúng ta biết và hiểu được quan niệm của
người Mường về nguồn gốc sự hình thành vũ trụ từ khi chưa có loài người. Mọi vật đều
được sinh ra từ cây si, phần tiếp theo sáng tạo ra các giá trị văn hoá của người Mường là Mụ
Dạ Dần (mú Dá Dấn) chính lẽ đó mà cây si luôn là một biểu tượng, là cây thiêng; còn mụ
Dạ Dần trở thành bà Tổ, thành nữ thần sáng tạo trong văn học dân gian, cũng như trong tâm
thức của người Mường. Đẻ đất đẻ nƣớc lan toả, ăn sâu vào nhiều tác phẩm văn học khác của
dân tộc Mường; nó được tồn tại, phát triển, biến hoá xâm nhập vào nhiều bài ca nghi lễ dân
gian Mường và trở thành nguồn tư liệu, chất liệu quý giá cho sự phát triển của văn học
Mường về sau. Đẻ đất đẻ nƣớc không chỉ có giá trị văn học mà còn có giá trị rất lớn trong
đời sống tinh thần, đời sống tâm linh của người Mường.
Các truyện thơ: Nàng Nga - Đạo Hai Mối, Öt Lót - Hồ Liêu, Nàng Ờm - Chàng Bông
Hƣơng…đều được lưu truyền rộng rãi ở các vùng Mường xứ Thanh. Những truyện thơ này
được kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố tự sự và trữ tình nên không chỉ sống trong lòng người
bằng cách kể chuyện mà còn sống trong môi trường diễn xướng bằng các bài hát ru - hát kể
chuyện thơ, được phát huy trong những bài ca đám cưới. Không chỉ vậy, nó còn ảnh hưởng
đến sinh hoạt văn hoá, tập quán ứng xử của người dân xứ Mường. Trong tâm trí của người
Mường xứ Thanh, các truyện thơ trên đều bắt nguồn từ những câu chuyện có thật trong cuộc
đời bằng cách gắn nội dung cốt truyện với những địa danh và hiện tượng tự nhiên có trên
miền đất của mình: Người ta có thể được ngắm nhìn một loài hoa đẹp nở vào tháng ba; đổi
màu từ trắng sang đỏ chỉ trong một ngày và có mùi hương dịu ngọt có tên là Bông Trăng.

Tương truyền đó là loài hoa tượng trưng cho tình yêu trong trắng và nồng thắm, thuỷ chung

15
của Nàng Ờm và chàng Bông Hương; màu đỏ chính là máu của Ờm sau khi bị cha mẹ đánh
và Bông Hương bế nàng chạy đi lên núi Làn Ai (thuộc huyện Bá Thước ngày nay). Tại đây,
họ đã cùng nhau ăn lá ngón và mãi mãi được bên nhau ở thế giới bên kia; đồng thời trên núi
cũng mọc lên một loại cây rất đặc biệt gọi là cây tương tư mà con người không thể lấy được
lá cây này.
Các cụ già người Mường Thanh Hoá còn kể lại rằng: Con cầy cun hiện nay là do hồn
lang đạo Cun Cun trong Út Lót- Hồ Liêu nhập vào. Cầy cun béo tốt vào tiết tháng chín mùa
lúa trổ, và tháng chín cũng là tháng đạo Cun Cun ngày xưa tràn trề hy vọng vì đi hỏi nàng
Út Lót được nàng nhận lời. Đến tháng ba, cầy cun nằm trên cây rã cổ xuống, thè lưỡi thở dài
và gầy rạc đi. Đồng bào Mường cho rằng đó là đạo Cun Cun phiền tiếc nàng Út Lót. Và ở
vùng miền núi ngày nay; về tiết tháng ba, bướm vàng bướm trắng nở thành đàn, hàng vạn
con, bay rập rờn khắp các lối đi trong rừng. Người ta bảo đó là những cô gái non đi đám
cưới nàng Út Lót biến thành; còn bà mối khi thấy Út Lót chui vào mộ Hồ Liêu cũng vội chui
theo để giữ nàng nhưng Út Lót đậy nắp săng chặn phải ngang lưng bà mối biến thành con tò
vò ngằng lưng [35; tr 70].
Truyện thơ Nàng Nga - Đạo Hai Mối cũng để lại cho người Mường một chứng tích đó
là đền thờ Nàng Nga ở Thạch Bình - Thạch Thành ngày nay, gần đó có ruộng dâu nơi Nàng
Nga và chàng Hai Mối trao vật đính ước cho nhau và hai cây đa mọc gần nhau đan cành vào
nhau người ta bảo rằng đó là hồn của Nàng Nga, Hai Mối biến thành.
Như vậy ta có thể thấy cái hồn của những truyện thơ Mường còn là cơ sở để người dân
Mường giải thích những hiện tượng tự nhiên, những sinh hoạt trong đời sống văn hoá của
họ.
Trên đây, người viết giới thiệu khái quát một số giá trị văn hoá của người Mường
Thanh Hoá. Văn hoá truyền thống của người Mường là mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn
người dân, song hành cùng cuộc sống con người, là niềm tự hào của dân tộc. Trong đó, dân
ca đám cưới - một thể tài dân ca nghi lễ - phong tục được diễn xướng trong môi trường đám
cưới mang nhiều nét văn hoá độc đáo.

1.2. Dân ca đám cƣới trong tập tục hôn nhân của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá
1.2.1. Hình thức thể loại dân ca đám cƣới

16
Thơ ca dân gian của các dân tộc thiểu số nói chung và người Mường nói riêng “với
những đặc sắc trong kết cấu ngôn ngữ, sử dụng hình tƣợng, nhạc điệu đi kèm lời ca lại thiên
về thể hiện tính độc đáo dân tộc” [60; tr 162] đã làm cho nó mang đậm phong cách màu sắc
đa dạng của văn hoá dân tộc thiểu số. Thơ ca dân gian của các dân tộc thiểu số được chia
làm ba tiểu loại: Dân ca lao động, Dân ca nghi lễ - phong tục, Dân ca sinh hoạt. Trong đó,
dân ca phong tục nghi lễ là mảng có giá trị quan trọng trong đời sống tâm linh của các dân
tộc này, mà người Mường không là một ngoại lệ với những tác phẩm khá đặc sắc: Đang tồn
nhà (Bài ca hát mừng nhà mới), các áng mo Dân ca nghi lễ - phong tục là loại dân ca cổ
nhất, vừa được bảo tồn vừa được các thế hệ đi sau kế thừa và sáng tạo bổ sung thêm. Do đó,
nó vừa đậm đà bản sắc dân tộc, lại có những nét mới nhưng không hề mai một đi chất dân ca
nên có nhiều giá trị về văn học, dân tộc học, ngôn ngữ học.
Nét đặc trưng, tiêu biểu cho thể loại dân ca nghi lễ - phong tục của người Mường ở
Thanh Hoá là hệ thống mo. Nếu như loại hình dân ca xường, rang, bọ mẹng, hát đúm…
người dân nào cũng hiểu biết và có một vốn dân ca nhất định nên họ có thể sử dụng trong
các buổi giao duyên đối đáp nam nữ, thì các bài ca nghi lễ mang tính tâm linh này lại gắn
với các nghi lễ dân gian phần lớn do những ông mo, ông ậu có nòi đảm nhiệm. Điều này cho
chúng ta thấy được môi trường, quá trình diễn xướng của dân ca nghi lễ - phong tục có sự
chuẩn bị khá cầu kỳ, chu đáo, trang trọng đúng như tên gọi của nó. Nhà nghiên cứu Cao Sơn
Hải khi khảo cứu về dân ca nghi lễ - phong tục của người Mường ở Thanh Hoá đã chia
thành các chủng như sau:
Bài ca nghi lễ trong nông nghiệp: Loại này người Mường gọi là Lởi, trong lễ gieo cấy,
vãi mạ, săn bắn, cơm mới, cầu mưa…
Bài ca nghi lễ cầu yên, cầu vía; tạ thần linh, trời đất…Loại này thường gọi là Khần
(khần vài) trong lễ cầu yên (khôống) cầu năm mới, cầu vía cho trẻ em, người già cả.
Bài ca hôn lễ: Loại này có nơi gọi là Lởi hoặc Mo du, Pảo cơm sết trong: Lễ rửa chân
(Mời nhà gái và cô dâu lên sàn), Lễ vắt khăn áo lên sào, Lễ trải chiếu (trong buồng cô dâu),

Lễ cúng cáo tổ tiên…
Bài ca tang lễ: Loại này thường phổ biến là Mo và có nhiều loại khác nhau: Kể cuông,
mo nhìn, mo nhắn, mo lên trời…[28; tr 7,8].

17
Trong số các chủng trên, nhóm Bài ca hôn lễ là hệ thống dân ca được diễn xướng gắn
với tập tục hôn nhân của người Mường Thanh Hoá và là phương diện hợp thành nghi lễ cưới
của họ.
1.2.2. Tập tục hôn nhân của ngƣời Mƣờng Thanh Hoá
Người Mường Thanh Hoá có những quy định khá chặt chẽ về phong tục cưới xin khi
con cái của mình phương trưởng thành gia thất. Xã hội Mường trước Cách mạng tháng Tám
có sự phân chia giai cấp tuy chưa sâu sắc nhưng nó cũng là nhân tố góp phần tạo nên những
quy định, đặc trưng trong nghi lễ cưới xin của họ. Đối với người Mường, việc dựng vợ gả
chồng chon con cái đều do cha mẹ quyết định. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đó có thành công
hay không lại phụ thuộc vào nhà trai có thể đáp ứng được yêu cầu sính lễ thách cưới của nhà
gái không. Tập tục hôn nhân của người Mường còn lưu giữ nhiều giá trị văn hoá cổ xưa.
Theo nhà nghiên cứu Cao Sơn Hải trong Những bài ca đám cƣới ngƣời Mƣờng Thanh Hoá
[27]; đám cưới của người Mường Thanh Hoá diễn ra theo các trình tự như sau:
1.2.2.1. Dò ý và đi dạm
* Dò ý
Trong gia đình người Mường, khi con cái đến tuổi dựng vợ gả chồng, các ông bố, bà
mẹ nhà chàng trai đã nhằm sẵn một cô gái nào đó thấy ưng ý phù hợp với điều kiện nhà
mình hoặc tự thấy con trai mình đã đẹp đôi vừa lứa với một cô gái nào đó thì đánh tiếng xa
gần để thăm dò ý tứ của nhà cô gái. Thận trọng hơn, họ khéo léo tìm hiểu qua những người
thân, xóm giềng của cô gái để tác động, ướm hỏi. Nếu thấy cô gái và bên gia đình ấy có
những phản ứng tốt, thuận buồm xuôi gió thì coi như nhà trai đã nắm được cơ hội thành
công. Bước này theo tục lệ thì không cần phải có quà cáp gì.
* Đi dạm (Thăm tảng moảch khà)
Đây là bước nhà trai bắt đầu chính thức phải sắm lễ vật theo quy định của mường mình.
Người đi “Thăm tảng moảch khà” (Thăm đường, thăm lối) là một người quen của nhà

gái nên nhà trai phải đến đặt vấn đề nhờ bà này đến nhà gái để hỏi ý kiến, tiếng Mường gọi
là “Mú trảch, Mú trèo” (gần như bà mối). Bà này sẽ đến nhà gái hai lần: Lần đầu đến nhà
gái: bà này đi người không để thăm hỏi ý kiến bố mẹ bên nhà gái có đồng ý hay không? Lần
hai khi bà này đến nhà gái; nhà trai sắm cho một túi bánh chưng và một vò rượu khoảng hai
chai. Nếu nhà gái không trả lại quà tức là biểu hiện của sự đồng ý, ra chiều ưng thuận cho

18
các con kết tóc xe duyên; nên việc đầu tiên nhà trai phải làm là chính thức tìm người làm
mai mối. Bởi người làm mối là nhân vật rất quan trọng trong quá trình đi đến hôn nhân của
cô gái và chàng trai. Do vậy, trong đám cưới của người Mường người làm mối được lựa
chọn rất kĩ càng cẩn thận; người ấy có thể là đàn ông (ông mối, ông mơ) hoặc là phụ nữ (bà
mờ, bà mối) nhưng phải đáp ứng được sự đòi hỏi khá cầu kỳ của người Mường là ông mối
mà nhà trai lựa chọn phải được sự đồng ý của nhà gái. Ông mối phải là người đứng tuổi, am
hiểu phong tục, văn hoá của dân tộc mình, là người có uy tín cộng đồng, được nhiều người
tin yêu quý mến, là người đông con nhiều cháu, nói chuyện khéo léo, có tài ứng đối, có cách
truyền lời để hai họ hiểu nhau. Vì thế mà người Mường có câu thành ngữ “Cơm léénh ví
niềng, tổt xiềng ví mơ” (Cơm lành vì niếng, tiếng tốt vì mơ). Từ đây, ông mối bắt đầu thực
hiện nhiệm vụ của mình cho đến khi cô dâu về nhà chồng.
Ông mối nghe những lễ vật mà nhà gái yêu cầu và truyền đạt lại cho nhà trai. Trong lễ
dạm ngõ, lễ vật gồm: Một đôi cá gáy còn tƣơi (loại từ 1,5 kg trở lên); một chai rƣợu; một
buồng cau tƣơi; một đùm trầu không (khoảng 100 lá); một đùm chè xanh [27; tr 9].
Trong lễ dạm ngõ, số người nhà trai đi đến nhà gái rất hạn chế chỉ có một số thiếu niên
trong họ đi gánh quà; vì đây mới chỉ là giai đoạn đầu của cuộc hôn nhân nên chưa cho người
ngoài được biết. Một điều lưu ý là trong lễ này, chú rể chưa được phép xuất hiện ở nhà cô
dâu; còn cô dâu được gọi ra để cha mẹ hỏi ý kiến nhưng chỉ mang tính chất hình thức. Để
đón tiếp nhà trai, phía nhà gái tổ chức cũng không linh đình, ồn ào mà chỉ mời hai người cốt
cán là ông chú và ông bác để tiếp chuyện. Bởi trong quan niệm của người Mường, con cái
do cha mẹ sinh ra nhưng khi còn nhỏ mới là của bố mẹ; còn khi con cái lớn lên đặt trong
mối quan hệ với cộng đồng thì họ trở thành “con cun, con lang” (ý muốn nói cuộc sống của
họ phụ thuộc nhiều ở các nhà lang), trong gia tộc, anh em thì họ là “con chú, con bác”. Nên

vai trò của chú, bác trong chuyện dựng vợ gả chồng cho con cháu là rất quan trọng.
Hôm đó, nhà gái làm cơm rượu để thết mời ông mối. Công việc chính của ông mối là
thưa chuyện về việc thay mặt nhà trai đi dạm ngõ, khi được sự đồng ý của nhà gái thì đặt
vấn đề xin phép cho nhà trai được tiếp tục lễ ăn hỏi. Cuối buổi dạm, sau khi được nhà gái
đồng ý lễ ăn hỏi, ông mối về báo lại với nhà trai để họ có kế hoạch chọn ngày và hẹn cho
nhà gái được biết để chuẩn bị tiếp đón.
1.2.2.2. Lễ ăn hỏi (Ti poi)

19
“Đất có lề, quê có thói”, để mọi việc diễn ra có kết quả tốt đẹp theo ý muốn, người
Mường luôn có khái niệm chọn ngày tốt theo lịch Mường, chọn “Cân sa ngày hong, cân
trong ngày lành”, những ngày đầu tháng vì “ngày rộng, tháng dài”.
Cũng như người Kinh, người Mường kiêng dựng vợ gả chồng vào tháng bảy âm lịch vì
đó là tháng xá tội vong nhân và là tháng ngâu, mưa nhiều lại liên quan đến chuyện Ngưu
Lang - Chức Nữ. Với người Mường, tháng ba là tháng giáp hạt, tháng năm tháng sáu tiết trời
oi bức nên ít được chọn làm tháng cưới. Người Mường cũng rất kị chọn ngày ăn hỏi hoặc
ngày cưới vào cuối tháng vì quan niệm những “ngày cùng, tháng tận”, kiêng cả tiếng kêu
tục tác của con gà dưới sân, kiêng con cá dưới nước bơi lăng xăng, kiêng con mang trên đồi
nó hộc… nếu tổ chức ăn hỏi, cưới xin sẽ mang lại những điều không tốt. Để tổ chức một
đám cưới, người Mường thường chọn những tháng có ngày mát mẻ, khi mùa màng đã xong
và cũng là lúc cau đã đến kì thu hoạch. Do đó, người Mường có câu:
Tháng một, chạp có buồng cau mới
Truyền cho mờ già, mờ trẻ tới thăm
Khi nhà trai chọn được ngày đẹp theo lịch mường làm ngày lễ ăn hỏi, họ lại mời ông
mối đến để chuẩn bị lễ vật đến nhà gái. Lễ ăn hỏi (Ti poi) của người Mường được thực hiện
qua 4 lần:
Ti poi lần 1: Gồm 1 gánh bánh trắng (bánh chưng không nhân, vì quan niệm của người
Mường nếu mang bánh chưng có nhân làm lễ vật là tỏ ý chê cô dâu không còn trinh tiết), 1
vò rượu, 1 giỏ trầu cau.
Lần ăn hỏi này, cùng ông mối đến nhà gái chỉ có người đi gánh bánh gọi là quà. Lần

này hai bên chưa thành thông gia cách xưng hô còn giữ kẽ là bác bá. Nếu được sự đồng ý
của nhà gái, ông mối về báo lại với nhà trai để chuẩn bị lễ ăn hỏi lần hai.
Ti poi lần 2: Nhà trai sắm ba gánh bánh, gồm: 1 gánh bánh mật, 2 gánh bánh chưng.
Đi ăn hỏi lần này, khi gặp nhau thì xưng hô là ông bà nội ngoại (ôông mú, cú môống),
con dâu, con rể (du, chầu). Ông mối và nhà gái bàn bạc đi đến lễ ăn hỏi lần ba.
Ti poi lần 3: Số lễ vật đã được tăng lên 5 gánh, gồm: 3 gánh bánh chưng, 1 gánh bánh
dì, 1 gánh bánh mật.
Đến lễ ăn hỏi lần ba, nhà gái cho mời anh em gần gũi bên nội, cành trên, cành dưới đến
dự lễ. Nhà gái cũng bàn bạc lễ vật cho lễ ăn hỏi lần thứ tư.

20
Ti poi lần 4: Lễ vật lần này đã tăng lên đến bảy gánh, gồm: Một khiêng bánh dì xếp đủ
100 cái gọi là bánh trăm; bốn gánh bánh chưng; hai gánh bánh mật. Ngoài ra, còn có thêm
một liếp cá tươi và một giỏ trầu cau.
Thành phần tham gia lễ ăn hỏi lần bốn của nhà trai cũng rất đơn giản ngoài ông mối và
những người gánh lễ vật có thêm người chú hay người bác của chàng rể. Nhà gái làm cơm
rượu mời nhà trai. Tiếp chuyện nhà trai lúc này có bố, chú, bác của cô gái và một số người
thân khác trong họ tộc. Như vậy, đến lễ ăn hỏi, nhà trai và nhà gái đã có sự giao lưu mở
rộng hơn về mối quan hệ anh em, họ mạc; cũng từ đây, sự đi lại giữa nhà trai và nhà gái có
sự thân mật hơn.
Tuy đã ngồi vào mâm cơm khách, xong đại diện hai bên vẫn còn bàn bạc về chuyện
cưới xin cho đôi trẻ nên chưa vội ăn. Lúc này, ông mối lại tiếp tục phận sự của mình là thay
mặt nhà trai đặt vấn đề về chuyện ăn hỏi, sính lễ cho ngày ra mắt rể. Thông thường khi
thách cưới, nhà gái thường hay thách cao để chứng tỏ con gái mình có giá trị lớn. Nhưng khi
nhà trai xin được giảm bớt lễ thì nhà gái cũng sẽ đồng ý nếu thấy hợp lý. Ông mối ghi nhận
lễ vật mà nhà gái đưa ra và về bàn bạc lại với nhà trai và có những đề xuất với nhà gái sau.
Ở một số địa phương lễ ăn hỏi cũng là lễ thách cưới luôn bởi họ nhận ra rằng nếu thách cưới
cao quá thì sẽ ảnh hưởng đến lễ ra mắt rể bởi lý do nhà trai không lo được sính lễ; hoặc họ
phải khất đi, khất lại nhiều lần sẽ mất hay.
Lễ ăn hỏi đánh dấu mốc quan trọng trong cuộc đời chàng trai, cô gái, vì đây là lễ chính

thức người con gái có chồng. Do đó, lễ vật ăn hỏi sẽ được biếu anh em, họ hàng nội ngoại
và bà con lối xóm của cô dâu.
Do định ra nhiều lần ăn hỏi như vậy nên lễ vật mà nhà trai mang đến nhà gái là rất
nhiều; không chỉ vậy từ thời điểm này cho đến lễ ra mắt rể phía nhà trai còn phải chu đáo
đầy đủ với bên nhà gái trong những dịp lễ tết. Vì thế mà với những gia đình nghèo khó thì
đây quả là một việc đầy thử thách, nên người Mường có câu: “Lo ăn con du, chề khu mặt
dá” (Lo được con dâu thì sâu mắt mẹ chồng).
1.2.2.3. Lễ ra mắt rể ( Khẻenh chầu, pao chầu)
Đây là lễ chính thức chàng rể đến nhà vợ trình lạy tổ tiên, ra mắt bố mẹ, họ hàng và
làng xóm bên vợ (tính từ khi cha mẹ đi hỏi vợ cho đến ngày hôm nay). Tục lệ này đã tạo nên
nét độc đáo trong nghi lễ cưới xin của người Mường Thanh Hoá. Bởi thông thường ở các

21
dân tộc khác mà điển hình như dân tộc Kinh hay Tày thì chú rể xuất hiện ở nhà gái ngay từ
lễ đi dạm. Nhà trai sắm đủ các lễ vật đã định ở lần ăn hỏi thứ tư. Trước khi đến nhà gái, nhà
trai phải chuẩn bị một gánh bánh, một gói trầu để ông mối đến nhà gái hỏi ngày quyết định
tổ chức lễ ra mắt rể.
* Về lễ vật
Lễ xin ra mắt rể được tổ chức long trọng sau khi hai nhà đã chọn được ngày lành,
tháng tốt, năm hợp với tuổi của chàng trai, cô gái và khi đã bàn bạc, thống nhất được lễ
thách cưới. Theo tài liệu Văn hoá dân gian làng Muốt [32], ngày ra mắt rể, nhà trai
mang theo các lễ vật như sau:
 Quà xin con dâu về và liên hoan hai họ, gồm: Một con lợn (khoảng 80-100 kg), một
khiêng xôi, một chĩnh rượu (13-15 chai), một khiêng bánh chưng, một khiêng trầu
cau.
 Quà môộng, gồm: Một khiêng gạo (50 kg), một xanh đồng (xanh ba), một con lợn
đóng rọ còn sống khoảng 10 kg.
Lễ vật này mang đến nhà gái và sau khi ra mắt rể được ba ngày thì đưa đến nhà bà
ngoại của cô dâu gọi là nộp môộng. Có những gia đình người ta đòi nhà trai nộp môồng
bằng bò đực (thay cho lợn) có sừng dài bằng nắm tay.

 Noom họ, gồm: Một khiêng gạo 50 kg, một con lợn sống 30-50 kg, một vò rượu (5
chai).
Nếu nhà gái là dòng họ lang đạo thì nhà trai phải có thêm một khiêng gạo, một xanh ba,
một con bò đực gọi là quà màn (màn táo). Nếu đã sắm Màn Táo thì không phải sắm quà
môộng nữa.
 Quà cho ông mối (xạ mơ), gồm: Một khiêng gạo 30-50 kg, một vò rượu
Nếu nhà trai đã sắm xạ mơ thì lễ tết hàng năm không phải đi lễ tết cho ông mối nữa.
Nếu không sắm xạ mơ thì vào tết nguyên đán hằng năm phải đi tết ông mối cho tới khi ông
mối này qua đời mới thôi. Còn nếu bố chàng trai qua đời thì nhà gái phải đi “Mội”, tức là lễ
vật mà nhà trai đã sắm đi hỏi vợ; lúc này ông mối được phần là một vai trước của con lợn.
Đến khi đó là hết mơ.
 Quà mở cổng (Vở xảac), gồm: Một khiêng xôi (1/3 sọt cơm), một con lợn được làm
chín đặt lên cơm, một vò rượu khoảng 3 chai

22
Khiêng xôi mở cổng này được đặt tại cổng nhà gái để trả công cho con cháu nhỏ đến
ném đuổi ma pồn nghèn đi để nó không đến quấy rầy đám khách nữa và để cuộc sống của
vợ chồng sau này không bị trục trặc.
 Rượu cần (Ráo toòng): Để hai họ cùng uống mừng hạnh phúc hai cháu trong ngày
đủ mặt nội ngoại.
 Quà con rể (Nom chầu):Khi ra mắt con rể, dù các thủ tục khác có thể không sắm
được đầy đủ nhưng không thể thiếu quà con rể (con rể buộc phải sắm): Cơm xôi 1/3
sọt, một con lợn luộc chín khoảng 30 kg, một vò rượu khoảng 3 chai.
Khi đã xếp cơm, thịt lợn và vò rượu buộc vào khiêng trên nắp khiêng phải có thêm một
nồi đồng và một con dao sáu mới có nắp cẩn thận, đẹp. Một nồi đồng: Nếu nồi đồng là nồi
ba thì đặt kèm một theo một tấm vải, nếu nồi đồng là nồi bốn thì kèm theo tấm lụa, nếu nồi
đồng là nồi năm thì kèm theo tấm thổ cẩm đẹp.
Một con trâu: Phải là trâu đực, sừng bằng tai (4 tuổi) gọi là Tru trôổc, kèm với con trâu
là một xanh đồng: Xanh tám hoặc xanh bảy.
Qua các lễ vật của ngày ra mặt rể, chúng ta có thể thấy có một số lễ vật mang tính biểu

tượng: Con dao theo tín ngưỡng của người Mường “Dao phát sá, thuổng chả cơm”, là vật
giúp con người lao động được dễ dàng ở vùng rừng núi và làm ăn no đủ; đồng thời cũng
muốn nói rằng cho con về nhà mộng làm con cái thì phải có dụng cụ để sản xuất. Con dao
có nắp được đặt dưới chân giường thờ để cúng ma. Sau bảy ngày, nhà trai cho con trở lại
nhà gái mới được thắt con dao về nhà mình để sử dụng. Còn “Nồi đồng và vải là của con rể
trả công bố mẹ, ông bà dưỡng dục con gái bây giờ thành vợ của mình. Lễ vật này gọi là:
“Nối răm, tầm phà, trả côông tẻ, côông ruôi”. Nồi đồng và thổ cẩm được đặt trang trọng
trên giường thờ ông bà ông vải. [32; tr 40]. Ý nghĩa của lễ vật này gần giống với ý nghĩa và
tục lệ nộp vải Slằm khấu trong đám cưới của người Thái.
Người Mường đánh giá kinh tế của các gia đình qua số lượng trâu; gia đình nào có
nhiều trâu thì là nhà giàu có. Đồng thời khẳng định vai trò của con trâu là đầu cơ nghiệp
trong kinh tế gia đình. Vì vậy mà đám cưới của người Mường con trâu là lễ vật bắt buộc
phải có “Chƣa có trâu đừng hỏi dâu, dạm vợ”. Tuy vậy, con trâu lại không phải là tiêu chí
để đánh giá đám cưới to hay nhỏ nhưng lễ vật xanh đồng mới là tiêu chuẩn để đánh giá sự
long trọng của đám cưới. Phải chăng lễ vật này có nguồn gốc, liên quan từ thuyết Tráng

×