Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

giá trị nội dung và nghệ thuật lời ca trong hát đám cưới của người sán chỉ (khảo sát trên địa bàn tỉnh thái nguyên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.18 MB, 136 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

9

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM








NGÔ HƢƠNG LIÊN






I CA
TRONG
(KHẢO SÁT TRÊN ĐỊA BÀN T )







LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM








Thái Nguyên, 2014





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM








NGÔ HƢƠNG LIÊN








TRONG
(KHẢO SÁT TRÊN ĐỊA BÀN T )

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60.22.01.21



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Phƣơng Thái






Thái Nguyên, 2014





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu





chuyên môn




















i
LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn




Ngô Hương Liên








ii
LỜI CẢM ƠN


Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm – Đại
học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong
suốt quá trình học tập.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các cơ quan trên địa bàn tỉ :
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉ , phòng Văn hóa Thông tin
huyệ ; phòng Văn hóa Thông tin huyệ , thư viện tỉ
Nguyên.

Xin cả , Âu Văn Sinh cùng
gia đình đã nhiệt tình cung cấp thông tin và nhiều tư liệu quý báu.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn: TS. . Cô luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt
thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả.

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn


Ngô Hương Liên




iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn i
Lời cam đoan ii
Mục lục iii
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng nghiên cứu 7
7
7

6. Phạm vi nghiên cứu 7
7. Phương pháp nghiên cứu 8
8
ận văn 9
10
10
1.1. - Nguồn gốc, tên gọi tộc người 10
14
14
15
18
20
20
22
1.4. – 25
1.4.1. Hát giao duyên – cầu nối của tình yêu con người với 25
27
29
Chƣ 30
30


iv
33
33
2.2.2. Hát ứng đáp trong đám cưới 54
60
CA TRONG ĐÁM
CƢỚI 61
61

61
64
68
68
70
71
74
74
81
83
3.4.1. Thời gian nghệ thuật 83
3.4.2. Không gian nghệ thuật 87
: 91
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
PHỤ LỤC




1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về phƣơng diện khoa học
.
,
trưng. trung tâm
chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng Đông bắc nói chung,
cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa trung du miền núi với vùng đồng

bằng Bắc Bộ, tỉnh bao gồm 8 dân tộc anh em quần tụ như Dao, Tày, Nùng
trong đó có Sán Chỉ.
.
Trong .
n
.
Hiện nay, Sình ca trong đám cưới đã được một số nhà nghiên cứu dịch và sưu
tầm. Tuy nhiên, số lượng còn hạn chế và chưa có cái nhìn toàn diện về phương thức
nội dung, nghệ thuật gian .
Từ phương diện trên, chúng tôi đã tiến hành sưu tầm các bài hát
đám cưới và , . Từ đó
khái quát được bản sắc dân tộc và phong tục tập quán của đồng bào.


2
1.2. Về phƣơng diện thực tiễn
thống của dân tộc thiểu số. Với nét đẹp về văn hóa tinh thần, hát Sình ca
trong nghi lễ đám cưới đã tạo nên sức sống trường tồn, được lưu từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
. Đây cũng là điều kiện để gìn giữ,
bảo tồn những giá trị truyền thống của Sán Chỉ đang đứng trước nguy cơ tiếng
hát bị mai một, thất lạc do phương thức lưu truyền.
Qua quá trình thu thập thông tin và điền dã chúng tôi thấy việc lựa chọn
tìm hiểu đề tài “
)” sẽ
hơn qua việc tiếp cận loại hình văn nghệ dân gian - của dân tộc thiểu số
trên ,

.
2. Lịch sử vấn đề

Với quá trình lao động và sản xuất lâu đời,
1945 với chính
sách bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc, mới được quan tâm nghiên
cứu, bảo tồn, gìn giữ nay có công trình nghiên cứu Dân
tộc Sán Chay giới thiệu về đời sống tinh thần của
người Cao Lan và Sán Ch qua kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian. Đó là hát
Sình ca (theo tiếng Cao Lan) hoặc Xắng cọ (theo tiếng Sán Chỉ), tác giả nhấn
mạnh: “Ở người S ng cộ hoặc Sắng cộ khá
phổ biến, hầu như xưa kia làng nào cũng hát. Hội hát dân ca Kiên Lao diễn ra
vào ngày 18 tháng 2 âm lịch tại đình làng gọi là đình Cống. Trước một, hai


3
ngày vào hội đã có nhiều khách cũng là người Sán Chí từ Lạng Sơn đến, họ
cùng nhau bàn bạc công việc chuẩn bị cho ngày hội” [8, tr.394]
Dân tộc Cao Lan tập trung phân bố ở các tỉnh như Tuyên Quang, Quảng
Ninh trong đó hát Sình ca ở Bắc Giang đem đến một nét đặc trưng riêng qua
cuốn Dân ca Cao Lan ở Bắc Giang do Ngô Văn Trụ (chủ biên), nguồn gốc của
tiếng hát Sình ca “có từ rất lâu và nó trở thành một sinh hoạt văn hóa truyền
thống của dân tộc Cao Lan” [36, 109]. Ở đây tác giả đã sử dụng tên gọi là Sịnh
ca và phân chia các bài hát thành các loại khác nhau: “Sịnh ca Thsăn lèn (hát
năm mới), (hát đối đáp hay giao duyên), Sịnh ca tò tàn (hát
đố), Sịnh ca ý (hát chơi, hát trêu ghẹo nhau)” [46, tr.116 – 117]
Đây là lối hát đơn điệu với ca từ phong phú, đa dạng, phản ánh mọi mặt
của đời sống nhiều nhất là giao duyên và tình yêu đôi lứa. Hát Sình ca không đi
cùng âm nhạc và vũ đạo. Âm điệu Sình ca nhấn nhá nên dễ đưa vào câu hát
những sự việc hàng ngày nên được người Sán Chỉ - Cao Lan sử dụng như một
phương tiện giao tiếp và trở thành nét văn hóa đặc sắc, giàu giá trị của hai tộc
người này.
Bài viết Giữ khúc dân ca cho người Sán Chỉ của tác giả Lê Quân trên

báo Công an nhân dân điện tử đăng ngày 08/01/2009 có trích dẫn lời anh Lâm
Văn Cựu (43 tuổi) người Sán Chỉ ở xã Nhược Bản, Bình Lộc, Lạng Sơn: “Dân
Sán Chỉ ở đây tầm tuổi tôi ai mà chả biết hát Sình ca, đã hát nhiều lắm rồi, ở
ngoài rừng, trên nương, đám cưới, đám hỏi, rồi giao lưu thi thố khắp nơi rồi”
[52]. Cũng giống đồng bào Sán Chỉ ở Bình Liêu – Quảng Ninh, ở Lạng Sơn,
người Sán Chỉ hát Sình ca như một hình thức sinh hoạt văn nghệ bình dân
thường ngày và dành cho mọi đối tượng.
Bài Dân ca Cao Lan đăng ngày 7/12/2007 trên báo điện tử Vĩnh Phúc
viết: “Dân ca Cao Lan “có hai loại hình chính: “Sình Ca” (loại hát ban đêm,
tổ chức trong nhà) và “Vèo Ca” (loại hát ban ngày, tổ chức ngoài trời). Dù là
Sình Ca hay Vèo Ca thì chủ yếu vẫn mang tình cảm trữ tình, bộc lộ rõ tâm hồn


4
yêu cuộc sống và khát khao hạnh phúc của lứa đôi tuổi trẻ. Có những trường
hợp một bài, hát ban đêm là Sình Ca, hát ban ngày là Vèo Ca” [54]. Tư liệu
của bài viết được khai thác tại nhóm người Cao Lan sinh tụ ở vùng Lập Thạch
- Vĩnh Phúc.
Bài viết Xã Kim Phú - Tuyên Quang bảo tồn và quảng bá những câu hát
Sình Ca đăng trên báo Tuyên Quang ngày 9/3/2011 có đề cập tới việc thành lập
đội văn nghệ thôn ở xã Kim Phú - Yên Sơn - Tuyên Quang. Theo các thành
viên trong đội văn nghệ cho cho biết: “hát Sình ca là loại hình xướng ca truyền
thống của dân tộc Cao Lan và được lưu truyền từ đời này qua đời khác theo
phương thức truyền miệng. Hát Sình ca bao giờ cũng đi kèm với những điệu
múa uyển chuyển, sinh động mô phỏng lại cảnh sinh hoạt đời thường của người
dân như: đi tra lúa (trong điệu múa khai đèn), đi xúc tép ” [53]. Sự xuất hiện
của vũ điệu trong hát Sình ca ở Tuyên Quang theo tài liệu trên là một điều đặc
biệt bởi hầu hết chương trình nghiên cứu đều đưa ra những kết luận hát Sình ca
là lối hát không nhạc đệm và không vũ đạo. Vũ điệu trong hát Sình ca ở Tuyên
Quang có thể chỉ là một sự cải biến lối hát cổ của đội văn nghệ để phù hợp và

thu hút người xem hơn.
Có thể kết luận, hầu hết trên các địa bàn khác nhau, Sình ca là hình thức
sinh hoạt văn nghệ phổ thông và phù hợp với nhiều đối tượng. Đây là những lời
hát dành phần nhiều những người trẻ tuổi đặc biệt là thanh niên nam nữ và đều
là hình thức hát không nhạc đệm và không nhạc cụ. Có thể khái quát trong
nhận định của Đặng Chí Thông về hát Sình ca: “Giai điệu của nó dễ hát, tiết
tấu cũng không cần đến sự chính xác cao, người ta cũng chỉ cần dựa vào
những câu thơ sẵn có để hát. Sự nhấn nhá theo giai điệu không phức tạp,
không có sự đột biến mà thường lặp lại sau bốn câu. Yếu tố dân dã, dễ hát ấy
đáp ứng tính phổ thông của loại hình” [37, tr.37].
Một điều dễ nhận thấy nữa là ở tất cả các địa bàn cư trú khác nhau nhưng
người Sán Chỉ đều tổ chức hát Sình ca trong đám cưới và coi nó là một bộ phận


5
không thể thiếu trong ngày vui này. Đối với người Sán Chỉ, lễ cưới không bao
giờ và không được phép vắng những câu hát Sình ca.
Để làm cơ sở dẫn nhập vào giải quyết đề tài, chúng tôi đã tìm hiểu, phân
tích một số nghiên cứu có nhắc đến hát Sình ca trong môi trường là lễ cưới. Có
thể nói, những công trình này rất ít và mới ở cấp độ khái quát.
Trong cuốn Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam do tác giả Khổng Diễn chủ
biên đã nhắc đến ở trên, tác giả đã nêu ra một vài bằng chứng để minh định vị
trí cho hát Sình ca trong cưới hỏi. Từ việc chọn quan lang, chọn người đi đón
dâu phải là người “biết đối đáp và hát Sình ca giỏi” [8, tr.251]. Trong các bước
tiến hành những khúc hát Sình ca sẽ là quan trọng không thể thiếu để
nhà trai rước cô dâu về: “Hát xin vào cổng, hát xin lên nhà, hát xin dâu trong
đêm nhà trai ở lại nhà gái… ” [5, tr.253].
trong bài viết Tìm hiểu tục cưới xin của người Cao Lan xã Kim
Phú, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, tác giả Đặng Chí Thông khẳng định:
“Không giống như đám cưới của các dân tộc khác chỉ nặng về nghi lễ đám

cưới, đám cưới của người Cao Lan còn là dịp để các sinh hoạt văn hóa dân
gian diễn ra sinh động trong đó hát Sình ca là nét văn hóa đặc sắc nhất”,
“Trong đêm ngủ lại nhà cô dâu, những người có tuổi sẽ hát trước và suốt đêm đó
nam nữ thanh niên hát không nghỉ” [37].
Tục cưới hỏi mới chỉ được nhắc đến một cách khái lược trong phần Tập
quán cưới xin, sinh đẻ và nuôi con ,
nhằm làm rõ vấn đề “tổ chức xã hội” của người Sán Chay. Thông qua việc mô
tả quá trình diễn ra các nghi thức, các tác giả đã chứng minh sự tương đồng
trong tục cưới của người Cao Lan và Sán Chỉ như công tác chuẩn bị trước hôn
nhân, các bước tiến hành, vai trò của quan lang và những nhân vật trong đoàn
đưa đón dâu, những kiêng kỵ, những hành động mang ý nghĩa tâm linh như thủ
tục “thu hồn”, tục “làm lễ tơ hồng”, “uống rượu tương tư”…, đồng thời cũng
khẳng định những nét dị biệt là rất nhỏ. Sự tương đồng ở mức độ khái quát là
điều không thể phủ nhận. Song nếu


6
.
Nhằm mang đến cái nhìn khái quát về đám cưới của người Sán Chỉ ở
Bắc Giang, tác giả bài viết Tục cưới của người Sán Chỉ ở Sơn Động, Bắc
Giang đã mô tả đám cưới của ngưới Sán Chỉ ở vùng này bao gồm ba bước: Lễ
xin lá số - đặt trầu (Pá lăng lậu), lễ đặt gánh (hối măn) và lễ cưới [56, tr.52].
Tác giả bài viết đã chỉ ra điểm nổi bật trong đám cưới của tộc người này là vai
trò của ông cậu trong việc tìm hiểu và giao tiếp với gia đình cô dâu cho đến
trước lễ cưới.
Một số bài viết khác cũng đề cập đến tộc người Sán Chỉ như:
- Chu Quang Trứ, Trở lại vấn đề nguồn gốc lịch sử người Cao Lan, Tạp
chí Dân tộc, số 45, 1964 [47].
- Nguyễn Nam Tiến, Về mối quan hệ tộc người giữa hai nhóm Cao Lan
và Sán Chỉ, Thông báo Dân tộc học, số 1/1972, tr. 59 – 75 [41].

- Nguyễn Nam Tiến, Về nguồn gốc và quá trình di cư của người Cao
Lan và Sán Chỉ, Thông báo Dân tộc học, số1/1973, tr. 41-57 [42]
- Nguyễn Nam Tiến, Lại bàn về nguồn gốc và quá trình di cư của người
Cao Lan và Sán Chỉ ,trong cuốn Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc
thiểu số ở Miền Bắc Việt Nam [39].
Trên cơ sở khoa học, các công trình nghiên cứu trên chưa
trong
.
Dựa vào thực tiễn,
việc tìm hiểu hát Sình
ca trong đám cưới ở tỉnh Thái Nguyên là hết
sức cần thiết nhằm


7
, góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy nền văn học dân gian vô
cùng quý giá của dân tộc thiểu số này.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
-
.
- Nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật tiếng hát Sình ca của dân tộc
Sán Chỉ trong nghi lễ đám cưới qua phương thức truyền khẩu và những văn bản
chép tay còn lưu giữ hiện nay.
4. Mục đích
- Sưu tầm và nội dung qua hát Sình ca trong đám
cưới của dân tộc Sán Chỉ ở Thái Nguyên để thấy được sự phong phú, giàu hình
ảnh của các biểu tượng nghệ thuật.
- Giải mã được truyền thống văn hóa của tộc người Sán Chỉ dưới đối
tượng là lời ca trong đám cưới, trên phương diện về n
.

-

5.
-
.
-
.
6. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi tư liệu nghiên cứu:
- Tư liệu đã xuất bản thành sách
- Tư liệu trên internet.


8
- Tư liệu thu thập về tiếng hát trong đám cưới của người Sán Chỉ ở tỉnh
Thái Nguyên qua quá trình điền dã 2014.
* Trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu
“Giá trị nội dung và nghệ thuật lời ca trong đám cưới của người Sán Chỉ (Khảo
sát trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên)”.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp điền dã dân tộc học
Đây là phương pháp chúng tôi sử dụng để thu thập lời ca, tiếng hát trong
đám của người Sán Chỉ ở tỉnh Thái Nguyên.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
Từ kết quả khảo sát, thống kê bước đầu chúng tôi phân tích và tổng hợp
các giá trị nội dung và nghệ thuật về lời ca trong đám cưới của người Sán Chỉ.
- so sánh, đối chiếu
Chúng tôi tiến hành so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa nội dung và

nghệ thuật lời ca trong đám cưới của dân tộc Sán Chỉ với một số dân tộc khác
trên địa bàn (như dân tộc Sán Dìu).
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Phương pháp này sẽ giúp cho đề tài một cách nhìn đa dạng và nhiều chiều
hơn giữa mối quan hệ văn học và văn hóa. Vốn đó là sự gắn kết mật thiết, tương
trợ, ràng buộc với nhau. Thông qua lời ca của người Sán Chỉ trong đám
cưới ta hiểu thêm về phong tục tập quán, bản sắc của riêng của dân tộc.
8. Đóng góp mới của
- Tìm hiểu một cách có hệ thống lời ca trong đám cưới của người Sán Chỉ
dưới giá trị nội dung và nghệ thuật.
- Sưu tầm một số bài hát còn truyền miệng và lưu giữ trong sách vở.
-
.


9
9. của luận văn
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG

ười Sán Chỉ

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


10



Chƣơng 1

1.1. - Nguồn gốc, tên gọi tộc ngƣời
Tộc người Cao Lan cùng với tộc người Sán Chỉ ( hay Sán Chí hoặc Sán
Chới) được các nhà dân tộc học, dựa trên các tiêu chí có chung ở cả hai tộc
người như nguồn gốc lịch sử, sinh hoạt văn hóa thống nhất trong tên gọi là
Sán Chay.
Cuốn sách Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam do tác giả Khổng Diễn chủ biên
là công trình quy mô nhất nói về tộc người Cao Lan. Theo đó, tộc người này
trước đây sinh tụ ở khu vực Dương Châu, Liêm Châu, Lôi Châu… của tỉnh
Quý Châu, Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc. Họ đến Việt Nam vào
khoảng cuối đời Minh, đầu đời Thanh cách đây khoảng 300 – 500 năm.
Nguồn tài liệu nói về tộc người Cao Lan sớm nhất đó là Kiến văn tiểu lục
của Lê Quý Đôn, viết về xứ Tuyên Quang, Lê Quý Đôn coi Cao Lan và Sơn Tử
là 2 trong 7 chủng tộc Man. Một số tài liệu khác như Đại Nam nhất thống chí,
Phong thổ kí Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Quảng Yên, Thái Nguyên, Giản chí
người Mán Cao Lan của Bonifacy đều xếp Cao Lan vào nhóm Mán và coi Cao
Lan như những nhóm Mán khác. Sau này, vào những năm 50, 70 của thế kỉ
trước các tác giả như Bùi Đình, Nguyễn Trắc Trĩ dựa vào những ghi chép sử
liệu cũ cho rằng Cao Lan cũng là Mán như các nhóm Mán khác.
Gần quan điểm với các tác giả trên, các nhà nghiên cứu dân tộc học Lã
Văn Lô, Lê Văn không cho rằng Cao Lan là một nhóm của Mán nhưng có thể
là cùng nguồn gốc với Mán và đã phân hóa thành dân tộc riêng.
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng người Cao Lan vốn là gốc Mán có
nguồn gốc từ Trung Quốc, vào cuối đời Minh gặp phải lúc loạn lạc di cư vào
Việt Nam, họ mang theo yếu tố văn hóa Hán, thể hiện ở văn tự còn lưu lại trong
những quyển hát Sịnh ca và sách cúng, phát âm theo thổ ngữ Quảng Đông. Khi


11

vào Việt Nam, tộc người Cao Lan sống xen kẽ với người Tày – Nùng, họ đã
tiếp thu ngôn ngữ, các yếu tố văn hóa của người Tày – Nùng và người Việt đã
làm cho cộng đồng người Cao Lan lai hóa, xa dần tộc người khởi thủy của
mình.
Nhà nghiên cứu văn hóa Chu Quang Trứ phản bác lại ý kiến của một số
nhà dân tộc học Lã Văn Lô, Lê Văn Ông cho rằng người Cao Lan không phải
là một nhóm của người Mán mà là một tộc người khác hẳn Mán, họ không có
quan hệ máu mủ tổ tiên gì với nhau.
Sau đó một số nhà dân tộc học như Đặng Nghiêm Vạn đưa ra ý kiến
chỉ là một, văn hóa của họ rất gần ngành Tày. Trước khi sang
Việt Nam họ đã ở Quế Châu, Khâm Châu và Dương Châu, đó là địa bàn cư trú
của người Choang và người Mán. Họ di cư sang Việt Nam sau dân tộc khác
nên không có ruộng, phải làm nương theo kiểu du canh du cư. Ở gần người
Mán nên học chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Mán, dựa vào yếu tố văn hóa
đậm nét của hai tộc người Cao Lan – Sán Chỉ xếp học vào ngôn ngữ Tày –
Thái.
Trong công trình nghiên cứu Các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang các tác
giả cho rằng người Cao Lan từ phía nam Trung Quốc sang Việt Nam và tới
Tuyên Quang từ lâu đời.
Nhà nghiên cứu dân tộc học Nguyễn Nam Tiến nhìn nhận tộc người Cao
Lan và Sán Chỉ trong dân tộc Sán Chay từ nguồn gốc lịch sử, quá trình di cư,
các vấn đề kinh tế, xã hội chứ không viết về từng nhóm riêng rẽ hoặc Cao Lan,
hoặc Sán Chỉ.
Trong 30 – 40 năm trở lại đây, những công trình nghiên cứu cho rằng
Cao Lan – Sán Chỉ là một dân tộc với tên gọi là Sán Chay tiêu biểu là ý kiến
của nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn. Ông đưa ra nhận định: “Dân tộc Cao
Lan – Sán Chí chỉ là một, chịu ảnh hưởng của văn hóa Việt – Hán và Mán. Nhóm
Cao Lan sang Việt Nam sớm hơn, nay nói thứ tiếng thuộc ngôn ngữ Tày - Thái.
Nhưng họ lại ca hát bằng tiếng Sán Chí là thổ ngữ của Hán phương Nam.



12
Người Cao Lan tự gọi mình là Hờn Chùng (tiếng gọi của bộ phận người
Choang ở Quảng Tây thuộc ngôn ngữ Tày – Thái)”. Dựa vào tiếng nói hiện
nay, vào sự quan hệ, yếu tố văn hóa đậm nét
xếp họ vào ngôn ngữ Tày – Thái.
Qua bài viết Lại bàn về mối quan hệ giữa hai nhóm Cao Lan – Sán Chỉ
tác giả Nguyễn Nam Tiến dựa trên các đặc điểm về sinh hoạt và văn hóa; quan
hệ dòng họ, hôn nhân; ngôn ngữ đã đưa ra quan điểm: “Báo cáo của chúng tôi
là bản tường trình về những kết quả đã đạt được và chứng minh rằng, có thể coi
Cao Lan – Sán Chỉ là một danh mục trong thành phần các dân tộc ở miền Bắc
nước ta” [tr.35]. Theo ông dân tộc Sán Chay là sự hợp nhất của hai nhóm Cao
Lan – Sán Chỉ họ còn có tên tự gọi là Sán Chấy, Sán Chới, Sơn Tử (người ở
rừng) bên cạnh tên Hờn Bạn (người sống ở bản).
Theo cuốn Dân tộc học đại cương của Lê Sỹ Giáo, Sán Chỉ l
nằm trong dân tộc Sán Chay là sự hợp nhất của người Cao
Lan và Sán Chỉ. Như vậy, Sán Chỉ là một tộc người khu biệt với những nhóm
người khác, họ có những đặc trưng văn hóa riêng không thể lẫn với bất kì dân
tộc nào. Chính điều đó đã khiến Sán Chỉ trở nên độc lập dù được xếp chung với
người Cao Lan thành dân tộc Sán Chay trong danh mục các dân tộc Việt Nam.
Trong đề cương dự án Điều tra xác định thành phần các dân tộc ở Việt
Nam của PGS.TS Khổng Diễn được đề cập trong tác phẩm Góp phần nghiên
cứu dân tộc học Việt Nam của GS.TS Phan Hữu Dật cho rằng: “Dân tộc Sán
Chay bao gồm hai nhóm địa phương là Cao Lan, nói tiếng Tày – Thái và Sán
Chỉ nói tiếng Quan Hỏa, nghĩa là một dân tộc nhưng nói hai ngôn ngữ khác
nhau”. Ông khẳng định, vấn đề bảo tồn danh mục 54 dân tộc anh em trên mảnh
đất hình chữ S, nghĩa là không tranh luận về việc có nên hay không nên hợp
nhất hai nhóm người Cao Lan và Sán Chỉ dù họ nói hai thứ ngôn ngữ khác
nhau “Trong trường hợp ngôn ngữ không còn là tiêu chí, dân tộc vẫn đang còn
là dân tộc” [7, tr.373].



13
Tác giả Phan Hữu Dật trong tác phẩm Góp phần nghiên cứu dân tộc học
Việt Nam khi tiến hành phân chia ngữ hệ cũng đã chia Ngữ chi Hán nằm trong
Ngữ hệ Hán – Tạng bao gồm ngôn ngữ các dân tộc Hoa, Sán Dìu, Ngái, bộ
phận Sán Chỉ của dân tộc Sán Chay. Như vậy Sán Chỉ nằm trong ngữ hệ Hán –
Tạng không có một liên quan nào đến Cao Lan nằm trong ngữ hệ Tày – Thái.
Cũng đồng quan điểm với tác giả Phan Hữu Dật, nhà dân tộc học Đặng
Nghiêm Vạn viết: “Dân tộc Cao Lan – Sán Chí chỉ là một. Nhóm Cao Lan sang
Việt Nam sớm hơn, nay nói thứ tiếng thuộc ngôn ngữ Tày – Thái. Nhưng họ lại
ca hát bằng tiếng Sán Chí, là một thứ tiếng thổ ngữ Hán Phương Nam. Hai
nhóm Cao Lan và Sán Chí dù có một số nét văn hóa gần với nhau nhưng có
nguồn gốc từ hai ngữ hệ khác nhau” [48, tr.75]. rong tác phẩm Giáo trình
dân tộc học Đông Dương của A.Bonifacy (xuất bản năm 1919) gọi dân tộc Sán
Chay là Cao Lan hay Son ti.
Nhiều ý kiến không tán đồng quan điểm này và cho rằng Cao Lan – Sán
Chỉ phải là hai dân tộc riêng biệt. Trên thực tế, Cao Lan và Sán Chỉ được phân
biệt bằng tiếng nói. Tiếng Cao Lan gần với ngôn ngữ Tày (nhóm Tày - Thái),
tiếng Sán Ch gần gũi với tiếng Quảng Đông (nhóm Hán Quảng Đông).
Việc gọi –
ứu cũng đã có sự trái
chiều, tiêu biểu đó là nhà nghiên cứu Nguyễn Nam Tiến. Trong những năm
1970 – 1975 khi thực hiện việc xác định thành phần dân tộc, ông chủ trương
xếp hai nhóm này vào một dân tộc như trên đã nêu. Nhưng hơn hai mươi năm
qua, từ nhiều kiểm nghiệm thực tiễn, ông đã thừa nhận việc gộp hai nhóm Cao
Lan – Sán Chỉ vào một dân tộc Sán Chay là chưa hợp lí.


14

).

1.2.1.
Cộng đồng dân tộc Sán Chay ở Thái
. Về thành phần dân tộc tuy vẫn còn một số vấn đề đang được
xem xét lại, song theo công bố chính thức vào tháng 3/1979 của Tổng cục Thống
k đều cùng thuộc một dân tộc đó là dân tộc Sán Chay.
Tại các địa phương ở Thái Nguyên, người Cao Lan có nhiều tên tự gọi
khác nhau: Cao Lan, Hờn Bán, Sán Chấy trong đó tên tự gọi là Sán Chấy là
phổ biến hơn cả; người Sán Chỉ tự nhận là Sán Chay, Sán Chới (Sơn Tử -
người ở núi).
Theo kết quả nghiên cứu của các đều là
những cộng đồng mới di cư sang Việt Nam cách đây một vài trăm năm.
Trong Đại Nam nhất thống chí, ở mục “Phong tục tỉnh Thái Nguyên”
, khi đề cập tới người Cao Lan có
ghi: “Mán Cao Lan cứ ba năm một lần thay đổi chỗ ở, không ở chỗ nào nhất
định”[10, tr.15]
Khi đề cập tới người Cao Lan có ghi Mán Cao Lan cứ ba năm một lần thay
đổi chỗ ở, không ở chỗ nào nhất định. Trong nhiều tài liệu cũ đều cho rằng Cao
Lan là người Mán. Ví dụ: Phong thổ ký Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Quảng Yên,
Thái Nguyên (Minh đô sử) cho rằng Cao Lan là mán Sơn Đầu, Mán Quần
Trắng, Mán Đại Bản, Mán Tiểu Bản Theo những người Cao Lan ở Đoan
Hùng, Phú Thọ, tổ tiên của họ là người ở Bạch Vân Sơn, thuộc Khâm Châu,
Khâm Liêm, (Trung Quốc), đến đời Minh, dưới sự chỉ huy của
thủ lĩnh Ninh Văn Bính, họ di cư sang Việt Nam. Đầu tiên họ đến Hoành Bồ
(Quảng Ninh), sau đó di sang Lạng Sơn. Sau khi Ninh Văn Bính chết tù trưởng
Hoàng Văn Thân đã đưa một bộ phận người Cao Lan, Sán Chấy sang Thái
Nguyên sinh sống.



15
Trong Thông báo khoa học của Tổng hợp, Đặng Nghiêm Vạn cho rằng
Cao Lan – Sán Chỉ là một, chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và Mán Các tác giả
của cuốn sách Các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang cho rằng người Cao Lan tự
gọi mình là Sán Chấy và từ Thái Nguyên di cư đến được gần 100 năm nay
Nhà nghiên cứu Nguyễn Nam Tiến, sau khi điều tra ở rất nhiều địa phương,
cũng thống nhất rằng, người Cao Lan, Sán Chỉ từ Trung Quốc di cư sang Việt
Nam cách nay chưa lâu, gia phả của gia đình ông Hoàng Văn Hàm ở thôn Đồng
Gianh, xã Yên Ninh (Phú Lương, Thái Nguyên) có ghi: “Tổ tiên trước đây cư
trú tại xóm Nà Bình, thôn Nà Phong (Khâm Châu, Quảng Đông, Trung Quốc);
gia phả của nhà ông Nịnh Văn Lợi ở thôn Cây Đa, ông Trương Văn Bằng ở
làng Hin (Phấn Mễ, Phú Lương, Thái Nguyên) đều ghi tổ tiên họ ở Nà Khằn
(Khâm Châu, Quảng Đông, Trung Quốc)”.
-
).
trong (1
Tuyên Quang (
( 82,78% d
.
.
1.2.2.

.


16

sang ở nhà đất và hiện nay nhiều nơi họ đã chuyển sang ở nhà xây gạch, mái
bằng như người Kinh. Nhà ở của họ thường là khung gỗ, tường trình bằng đất
sét trộn lẫn sỏi, đ , hoặc tường xây bằng gạch mộc nay đã có nhiều nhà xây cấp

4 hoặc kiên cố mái bằng. Công việc chuẩn bị trước khi dựng nhà như chuẩn bị
nguyên vật liệu, xem đất, chọn hướng, chọn ngày khởi công, ngày dựng cũng
phải xem và phải là ngà
sàn hay nhà đất, nhà xây gạch, người Sán Chỉ vẫn làm lễ lên nhà mới (Sặn
thắng ooc). Gia chủ tổ chức lễ cúng (Ớn cội) với ý nghĩa cầu an (Cạ slen cội).
Người đàn ông chủ nhà tự cúng lấy, không biết thì phải nhờ thầy.
thường ăn cháo (hặt choóc), dùng gạo nếp, đậu… chế biến thành các loại xôi
đỗ xanh (tàu phàn), xôi cẩm (mố cắm phàn), xôi đỏ (hoong lam phàn
: bánh chưng thường dùng để cúng vào Tết nguyên đán (tài
niên chết ; bánh giầy dùng để cúng chay
tổ (on long), xưa kia người Sán Chí có dùng bánh giầy trong việc cưới hỏi
các ngày như buồn, vui, thậm chí cả ngày thường. Họ quan niệm rằng “Khách
đến nhà, trước uống trà, sau uống rượu”.
, cúng bái)
(chối tau) luộc đặt lên bàn thờ tổ tiên. Muốn dự trữ
thịt lợn vào dịp
dần, khi thịt lợn người ta lọc mỡ riêng, bóp muối cho vào chum, vại. Người Sán
Chí dự trữ bằng cách treo (lạp nhọp) trong dịp tết, thịt đã lọc xương, cắt thành


17
từng miếng khoảng 1 kg, không rửa nước, ướp muối sau đó để khô và treo
trong buồng, trên bếp.
. Ngoài thịt luộc,
người Sán C (chối kiệt dô), giò thủ (chối táu dô),
giò nầm (tàu màn dô), giò lụa (chặn nhoọc dô), thịt hầm (năm nhọoc)… Một
mâm c 1 đãi thịt lợn luộc, 1 đĩa thịt lợn
quay, 1 đĩa giò lợn, 1 đĩa lòng lợn, 1 bát tiết canh, 1 đĩa thịt gà luộc, 1 bát
xương bung với su hào hoặc đu đủ, 1 bát cây chuối rừng non thái nhỏ nấu với
xương lợn.

, việc
ng
một mâm; thành phần người ngồi chung mâm được bố trí phù hợp theo giới tính,
tuổi tác và địa vị trong xã hội. Trong gia đình, khi ngồi ăn cơm, ăn cỗ có kiêng kỵ
là con dâu không ngồi chung mâm cơm với bố chồng và anh chồng.

g
t
4cm x 4
8cm.


18
(
( (
( ), đeo tai ( ).
.
.
1.2.3.

trong tâm .
.
Trong tôn giáo, 3 tầng trên cùng
là tầng trời, ở đó có các tối thượng thần, cao nhất là Ngọc Hoàng; mặt đất là
tầng trần gian, có muôn loài chúng sinh; âm phủ là thế giới tiếp theo sau cuộc
sống trần gian. Điều này thể hiện qua tranh thờ của họ Thái Thanh, Thượng
Thanh, Ngọc Thanh nhiều nơi còn thờ thổ thần tại gia, ma ham.
hiện khá rõ rệt những quan niệ
4 đêm. Thường dân quá

×