Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Ảnh hưởng của dân ca dân tộc Mông trong truyện thơ Tiếng hát làm dâu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 146 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN TỊNH THỦY



ẢNH HƯỞNG CỦA DÂN CA DÂN TỘC MÔNG
TRONG TRUYỆN THƠ TIẾNG HÁT LÀM DÂU




LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC DÂN GIAN






Hà Nội -2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN TỊNH THỦY




ẢNH HƯỞNG CỦA DÂN CA DÂN TỘC MÔNG
TRONG TRUYỆN THƠ TIẾNG HÁT LÀM DÂU



Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: VĂN HỌC DÂN GIAN
Mã số: 60 22 36



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hà Công Tài



Hà Nội - 2012

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Giới thuyết đề tài: 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: 3
3. Đối tƣợng nghiên cứu, mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứƣ: 4

4. Phƣơng pháp nghiên cứu: 4
5. Cấu trúc luận văn: 5
NỘI DUNG 6
CHƢƠNG 1: TRUYỆN THƠ VÀ CƠ SỞ CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN
CA DÂN TỘC MÔNG VÀ TRUYỆN THƠ TIẾNG HÁT LÀM DÂU 6
1.1. Khái niệm truyện thơ và sự hình thành truyện thơ trong văn học
dân gian 6
1.1.1. Khái niệm truyện thơ 6
1.1.2. Các nhóm truyện thơ tiêu biểu 7
1.1.3. Sự hình thành truyện thơ trong văn học dân gian Việt Nam 9
1.2. Cơ sở của mối quan hệ giữa dân ca dân tộc Mông và truyện thơ
Tiếng hát làm dâu 12
1.2.1. Cơ sở lịch sử - xã hội 13
1.2.2. Cơ sở nội tại văn học 17
Tiểu kết 25
CHƢƠNG 2: SỰ TIẾP NHẬN NỘI DUNG THẨM MĨ DÂN CA DÂN TỘC
MÔNG TRONG TRUYỆN THƠ TIẾNG HÁT LÀM DÂU 27
2.1. Đề tài, chủ đề, giá trị nội dung và ý nghĩa tƣ tƣởng 28
2.1.1. Đề tài và chủ đề 28
2.1.2. Giá trị nội dung và ý nghĩa tư tưởng 39
2.2. Phong tục, tập quán và không gian sinh hoạt văn hóa miền núi . 41
2.2.1. Những luật tục, hủ tục lạc hậu, hà khắc trong nghi thức hôn nhân –
cƣới hỏi 41

2.2.2. Không gian sinh hoạt văn hóa miền núi 54
2.3. Quan niệm về số phận và tâm lí đặc trƣng của con ngƣời trong xã
hội Mông 57
2.4. Tâm trạng nhân vật trữ tình: 60
Tiểu kết 70
CHƢƠNG 3: SỰ CHUYỂN HÓA CÁC YẾU TỐ THI PHÁP DÂN CA DÂN

TỘC MÔNG TRONG TRUYỆN THƠ TIẾNG HÁT LÀM DÂU 72
3.1. Hệ thống cốt truyện và kết cấu 72
3.1.1. Yếu tố tự sự tạo nên cốt truyện 72
3.1.2. Sự vận động của cốt truyện theo xu hướng kết thúc bi kịch 77
3.1.3. Kết cấu trùng điệp và kết cấu tương phản 82
3.2. Mô – tip nhân vật và mô- típ biểu tƣợng 86
3.2.1. Mô – típ nhân vật anh yêu – em yêu 86
3.2.2. Mô – típ biểu tượng con đường 87
3.3. Tuyến nhân vật và hình tƣợng nhân vật trữ tình 90
3.3.1. Tuyến nhân vật chính diện – phản diện 90
3.3.2. Tuyến nhân vật trung tâm – ngoại biên 92
3.3.3. Hình tượng nhân vật trữ tình : nhân vật em yêu 94
3.4. Phong cách trữ tình 95
3.4.1. Lời văn nghệ thuật 95
3.4.2. Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật 96
3.4.3. Ngôn ngữ và hình ảnh giàu chất thơ 97
3.4.4. Phương thức và hình thức diễn xướng 99
Tiểu kết 101
KẾT LUẬN 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
PHỤ LỤC 108

Danh mục các chữ viết tắt
1. GS.: Giáo sƣ
2. Nxb: Nhà xuất bản
3. PGS.: Phó giáo sƣ
4. TS.: Tiến sĩ
5. TSKH: Tiến sĩ khoa học
6. tr.: trang
7. xb: xuất bản

Danh mục các bảng biểu
STT
Tên bảng
Nội dung khảo sát
1
2.1
Đề tài ba truyện thơ Tiếng hát làm dâu, A Thào – Nù Câu,
Nhàng Dợ - Chà Tăng
2
2.2
Số lượng câu thơ tiếp nhận nội dung thẩm mĩ từ bốn loại dân
ca dân tộc Mông trong ba truyện thơ Tiếng hát làm dâu, A
Thào – Nù Câu, Nhàng Dợ - Chà Tăng
3
2.3
Các cung bậc tâm trạng nhân vật trữ tình
4
2.4
Tần suất xuất hiện hình ảnh nước mắt
5
2.5
Tần suất xuất hiện các từ ngữ trực tiếp bộc lộ tâm trạng nhân
vật trữ tình
6
3.1
Hình ảnh, từ ngữ biểu trưng cho cái chết
7
3.2
Âm hưởng kết thúc tác phẩm
8

3.3
Kết cấu trùng điệp và kết cấu tương phản
9
3.4
Tần suất xuất hiện biểu tượng con đường
10
3.5
Tần suất xuất hiện nhân vật phản diện mẹ chồng


1
MỞ ĐẦU

1. Giới thuyết đề tài:
Như chúng ta đã biết thuật ngữ Folklore ra đời đóng vai trò là một khái niệm
dùng để chỉ phong tục, tập quán, nghi thức mê tín, ca dao, tục ngữ…của người thời
trước. Folklore trên thế giới là khái niệm tương ứng với văn hoá dân gian, văn học
dân gian của người Việt. Văn hóa dân gian, văn học dân gian từ bao đời này đã trở
thành một nền tảng văn hóa chiếm vị trí quan trọng trong đời sống sinh hoạt tinh
thần của người Việt cũng như của các dân tộc khác. Đặc biệt là văn học dân gian.
Nền văn học này ra đời từ trong xã hội công xã nguyên thủy, phát triển rực rỡ qua
thời gian, kiến tạo nên mười hai thể loại nhỏ hơn, các thể loại này lần lượt ra đời
trong sự kế thừa và chuyển hóa các yếu tố văn hóa, văn học có trong đời sống sinh
hoạt tinh thần của cộng đồng, của tập thể. Liên tục bổ sung các thể loại mới để kịp
thời phản ánh trung thực các hiện tượng xã hội lịch sử.
Quan trọng hơn là từ trong văn học cổ đại các thể loại văn học đã có sự tương
trợ, và kế thừa lẫn nhau để sản sinh ra nhiều thể loại văn học mới. Dựa trên sự biến
thiên của lịch sử và sự vận động của xã hội, đã có rất nhiều thể loại văn học mới
được hình thành và phát triển dựa trên các nguồn gốc ngoại sinh và nội sinh. Tiếp
thu và kế thừa các truyền thống của văn học dân gian không chỉ còn là sự kế thừa

mang tính chất giai đoạn nữa mà ngay trong sự nội tại phát triển của từng thể loại
cũng dẫn dắt người tiếp nhận đến với thế giới của sự sáng tạo tập thể. Không chỉ
đến với văn học viết ta mới thấy có sự ảnh hưởng của nhóm văn học dân gian trong
phong cách sáng tạo nghệ thuật, quan điểm sáng tác của các nhà văn, mà quan trọng
hơn, ngay chính bản thân văn học dân gian cũng là một quá trình kế thừa và phát
triển, là một quá trình ảnh hưởng, giao thoa giữa các thể loại văn học.
Như vậy có thể khẳng định một điều văn học dân gian có sức ảnh hưởng
mạnh mẽ đến dòng văn học Việt Nam. Từ giai đoạn văn học trong xã hội cổ đại đến
văn học trong xã hội Nho giáo và hiện đại. Từ văn học của người Việt đến văn học
của các dân tộc thiểu số ít người. Điều đó cho thấy sự ảnh hưởng và sức lan toả
mạnh mẽ của văn học dân gian trong hiện thực sinh hoạt tinh thần của con người.

2
Nhận thấy vai trò quan trọng của văn học dân gian đối với văn chương – đặc biệt là
sự ảnh hưởng của truyền thống thơ ca trữ tình dân gian đến các thể loại văn học- đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này. Tuy nhiên cũng mới chỉ
dừng lại trong tiến trình tìm hiểu và nghiên cứu đậm đặc đối với nền văn học của
người Việt. Nền văn học của các dân tộc thiểu số khác với sự ảnh hưởng của văn
học dân gian, của dân ca trữ tình vẫn còn là một khoảng trống dường như là vô tận.
Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, dân tộc thiểu số Mông cũng là một
trong những tộc người có nền văn học khá phát triển. Và có thể nói sự ảnh hưởng
của folklore đến nền văn học của đồng bào là rất lớn. Bởi người Mông cũng như
nhiều dân tộc thiểu số khác, họ không có giai đoạn văn học trung đại đóng vai trò
trung gian như người Việt. Vì thế nên văn học dân gian của tộc người này có những
nét biến thiên rất đặc biệt, nó vận động từ nội tại của chính ngã và thai nghén nên
nhiều thể loại văn học dân gian mới, làm giàu và phong phú cho kho tàng folklore
dân tộc mình.
Truyện thơ Tiếng hát làm dâu là một tuyệt tác văn học dân gian của người
Mông. Truyện thơ này là tiếng lòng của người dân với những cung bậc cảm xúc và
tâm trạng hướng đến nội dung phản ánh, hình thức phản ánh trong mối quan hệ giao

lưu văn hóa giữa người Mông với nhau và với người dân tộc khác. Tiếng hát làm
dâu không chỉ đơn thuần là một truyện kể, mà nó được coi là pho sách thể hiện vốn
văn hóa dân gian đặc trưng từ những ảnh hưởng của phong cách trữ tình có trong
một thể loại văn học dân gian ra đời sớm hơn – dân ca trữ tình. Tìm hiểu sự hình
thành truyện thơ Tiếng hát làm dâu và sự ảnh hưởng của dân ca Mông trong truyện
thơ này cũng là một cách thức tiếp cận với văn hoá dân tộc thiểu số mà không cần
có sự tiếp xúc trực tiếp. Nó vừa giúp cho người đọc tìm thấy những giá trị bản sắc
văn hoá người Mông lại vừa có thể phân tích và tìm hiểu nó qua một loại hình nghệ
thuật đặc trưng- không gian văn hoá có trong đời sống văn học, tức là có thêm một
cách tiệm cận mới với yếu tố văn hoá từ một bộ môn nghệ thuật trung gian.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề như vậy, qua luận văn này, chúng tôi đi
đến quyết định tìm hiểu về sự ảnh hưởng của dân ca dân gian Mông trong truyện
thơ Tiếng hát làm dâu như một cách thức để tìm hiểu vốn văn học dân gian phong
phú của dân tộc Mông. Chúng tôi chọn Tiếng hát làm dâu, chọn thể loại truyện thơ

3
và thực thể so sánh là dân ca bởi đây là tác phẩm thể hiện khá sâu sắc về văn hoá
dân gian cùng những đặc trưng tiêu biểu trên phương diện thi pháp truyện thơ và thi
pháp ca dao, dân ca.
Chúng tôi xác định những nhiệm vụ cụ thể khi thực hiện đề tài này là:
1.1. Tìm hiểu về truyện thơ và cơ sở của mối quan hệ giữa dân ca Mông và
truyện thơ Tiếng hát làm dâu.
1.2. Tìm hiểu sự tiếp nhận nội dung thẩm mĩ dân ca Mông trong truyện thơ
Tiếng hát làm dâu.
1.3. Tìm hiểu về sự chuyển hóa các yếu tố thi pháp dân ca Mông trong truyện
thơ Tiếng hát làm dâu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Đối với vấn đề tìm hiểu sự hình thành của truyện thơ Tiếng hát làm dâu, từ khi
truyện thơ này được tác giả Doãn Thanh công bố cùng tuyển tập dân ca Mông, cho
đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu về tác phẩm truyện thơ này, cũng

như nhiều tác phẩm truyện thơ hoặc các thể loại văn học dân gian khác của người
Mông. Chỉ duy nhất có một bài viết của tác giả Phan Nhật có đưa ra những vấn đề
khái quát trong nhận định của tác giả về sự hình thành của truyện thơ Tiếng hát làm
dâu từ dân ca Tiếng hát làm dâu và dân ca Tiếng hát tình yêu.
Bài viết này có tên là Tìm hiểu quá trình hình thành của truyện thơ Tiếng hát làm
dâu, lần đầu tiên công bố năm 1972 trong tạp chí văn học số 3. Trong bài viết với
dung lượng 11 trang, từ trang 62 đến trang 73, tác giả Phan Nhật đã đưa ra những
nhận định của mình về sự hình thành truyện thơ Tiếng hát làm dâu. Ông kết luận
rằng: quá trình hình thành truyện thơ Tiếng hát làm dâu là một quá trình “tiếp thu
dân ca Tiếng hát làm dâu, là một sự tiếp thu có lựa chọn, nâng cao, hệ thống hóa,
một quá trình chuyển hóa từ khái quát đến cụ thể, từ phiếm chỉ đến cá thể hóa, từ
rời rạc đến hệ thống. Đó là quá trình từ trữ tình đến tự sự, hay nói đúng hơn là quá
trình tự sự hóa dân ca trữ tình.” [18, tr. 67 - 68].
Tác giả Phan Nhật cũng tổng kết lại 6 kiểu kết cấu cơ bản của nội dung dân ca
Tiếng hát làm dâu cùng khái lược kết cấu của truyện thơ Tiếng hát làm dâu. Ông
cho rằng các yếu tố tự sự đã có ngay từ kiểu 3,4,5,6 trong dân ca Tiếng hát làm dâu.
Bên cạnh đó các tình tiết của truyện thơ thường giống trong dân ca, cả dân ca Tiếng

4
hát tình yêu và dân ca Tiếng hát làm dâu, tuy nhiên được tác giả dân gian kể lại chi
tiết và cụ thể hơn rất nhiều. Tác giả Phan Nhật cũng khẳng định sự kế thừa các yếu
tố nội dung và thi pháp từ dân ca trong quá trình hình thành truyện thơ Tiếng hát
làm dâu là một quá trình tất yếu dựa trên nền tảng nội sinh của chính nền văn học.
Tuy nhiên phần này Phan Nhật mới chỉ dừng lại ở những nhận định mang tính chất
khái quát mà chưa đi sâu vào cụ thể, phân tích và khảo sát toàn diện. Trong bài viết,
tác giả Phan Nhật cũng có đề cập đến phương thức sáng tác và lưu truyền cũng như
một vài nhận xét đánh giá của ông với truyện thơ Tiếng hát làm dâu. Những nhận
xét đó là những trăn trở của ông về mảng nghiên cứu, tìm hiểu truyện thơ Tiếng hát
làm dâu nói riêng và toàn bộ văn học dân gian Mông nói chung còn là một khoảng
trống, còn nhiều câu hỏi cần được giải đáp trong những công trình nghiên cứu tiếp

theo.
Tuy có giá trị đặt nền tảng cho một vấn đề nghiên cứu khoa học rất có giá trị về
truyện thơ Tiếng hát làm dâu cũng như văn học dân gian Mông, cùng sự hình thành
của nó, song, tác giả Phan Nhật mới chỉ dừng lại ở bài viết này, vấn đề nghiên cứu
mà ông đưa ra cho đến nay vẫn chưa có một nhà nghiên cứu văn học dân gian nào
tiếp bước. Đó là một thiệt thòi đối với văn học dân gian Mông so với các nền văn
học khác.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứƣ:
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu về ảnh hưởng của dân ca
dân tộc Mông trong truyện thơ Tiếng hát làm dâu.
Đôí tượng nghiên cứu, mục đích nghiên cứu của luận văn là sự ảnh hưởng của
dân ca dân tộc Mông trong truyện thơ Tiếng hát làm dâu.
Phạm vi nghiên cứu: Dân ca dân tộc Mông, truyện thơ Tiếng hát làm dâu và
truyện thơ dân tộc Mông.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài đã được xác định ở trên, chúng
tôi sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu địa lí- lịch sử: Chúng tôi sử dụng phương pháp địa lí
lịch sử để tiến hành nghiên cứu những yếu tố quy định bản sắc văn hóa đặc trưng
của người Mông cũng như tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phong phú,

5
đa dạng trong văn hoá tinh thần của đồng bào từ đó làm cơ sở để xác định những
yếu tố dân ca Mông ảnh hưởng đến sự hình thành, vận động, phát triển của truyện
thơ Tiếng hát làm dâu.
Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng để hệ thống các bài
dân ca và các dẫn chứng có trong các bài dân ca dân tộc Mông, một trong những
nguồn tư liệu quý giá để tiến hành nghiên cứu và chứng thực cho vấn đề nghiên
cứu.
Phương pháp so sánh: Chúng tôi sử dụng hai tiểu loại so sánh là so sánh

tương đồng và so sánh dị biệt. So sánh những nét tương đồng của yếu tố văn hoá
dân gian có trong thực tế và trong tác phẩm, so sánh dị biệt của những yếu tố đó
được thể hiện trong truyện thơ Tiếng hát làm dâu như thế nào và nó có dụng ý nghệ
thuật gì, có tác dụng gì trong bước chuyển biến của nội tại tác phẩm.
5. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được triển khai theo ba
chương:
Chương 1: Truyện thơ và cơ sở của mối quan hệ giữa dân ca dân tộc Mông và
truyện thơ Tiếng hát làm dâu.
Chương 2: Sự tiếp nhận nội dung thẩm mĩ dân ca dân tộc Mông trong truyện
thơ Tiếng hát làm dâu.
Chương 3: Sự chuyển hóa các yếu tố thi pháp dân ca dân tộc Mông trong
truyện thơ Tiếng hát làm dâu.
Cuối cùng là phần tài liệu tham khảo và phụ lục.

6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
TRUYỆN THƠ VÀ CƠ SỞ CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN CA
DÂN TỘC MÔNG VÀ TRUYỆN THƠ TIẾNG HÁT LÀM DÂU

1.1. Khái niệm truyện thơ và sự hình thành truyện thơ trong văn học dân gian
1.1.1. Khái niệm truyện thơ
Văn học dân gian là một loại hình văn học có thể được coi là thủy tổ của các
nền văn học trên tất cả các quốc gia trên thế giới. Văn học dân gian với những đặc
trưng của nó như tính tập thể, tính truyền miệng, tính thống nhất hữu cơ của các
thành phần ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau, cùng với sự tồn tại về hình thức sinh
hoạt nghệ thuật gắn liền với cuộc sống lao động của nhân dân… đã đi sâu vào thế
giới tinh thần của đông đảo cộng đồng. Văn học dân gian Việt Nam cũng vậy. Ra
đời từ khi xã hội còn sơ khai, ngay từ khi có sự xuất hiện của con người trong xã

hội công xã nguyên thủy, văn học dân gian Việt Nam đã trở thành món ăn tinh thần
không thể thiếu của nhân dân lao động. Văn học dân gian Việt Nam là người bạn
đồng hành của quần chúng nhân dân trên đồng ruộng, trên đồi nương, trên những
dòng sông bao la đỏ nặng phù sa… Văn học dân gian Việt Nam cùng với mười hai
loại hình của nó đã trở thành chứng nhân của lịch sử, góp phần không nhỏ trong
việc bộc lộ thế giới quan cũng như bộc lộ tâm hồn, bộc lộ những khát vọng cháy
bỏng của nhân dân lao động.
Văn học dân gian Việt Nam ra đời từ khi dân tộc ta còn chưa có chữ viết. Vì
vậy, hình thức lưu truyền chủ yếu để bảo tồn được mảng nghệ thuật ngôn từ này là
hình thức truyền miệng cùng với hình thức diễn xướng. Chính vì vậy, hiện nay chưa
thể khẳng định được chúng ta đã tìm và phân loại một cách đầy đủ, chính xác văn
học dân gian. Nhìn chung, với công sức nghiên cứu nhiều năm của nhiều thế hệ
đồng thời dựa vào đặc trưng của từng vùng miền, các nhà nghiên cứu văn học dân
gian Việt Nam đã tạm chia nền văn học khởi nguyên này thành mười hai loại hình.
Mỗi một loại hình có những chức năng, đặc trưng và khoảng thời gian xuất hiện
khác nhau.

7
Trong mười hai loại hình của folklore, truyện thơ là một trong những loại hình
kế thừa nhiều đặc trưng của các loại hình khác. Khái niệm truyện thơ trong SGK
Ngữ Văn lớp mười – một tài liệu chính thống được chọn lọc giảng dạy- được định
nghĩa là tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ, giàu chất trữ tình, phản ánh số phận và
khát vọng của con người khi hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng xã hội bị tước đoạt
[1, tr.18]. Như vậy có thể khẳng định hai yếu tố cấu thành nên truyện thơ là yếu tố
tự sự và yếu tố trữ tình. Yếu tố tự sự làm nên cốt truyện cho truyện thơ, làm nên
tình tiết và hành động của các nhân vật, còn yếu tố trữ tình là hình thức nghệ thuật
được chọn lọc, được thể hiện thay thế các cách kể đơn thuần khác. Về mảng đề tài
của truyện thơ theo cách hiểu trên thì truyện thơ chủ yếu khai thác trên hai lĩnh vực
số phận và khát vọng của con người trong xã hội đã có bước tiến mới. Xã hội có sự
phân chia giai cấp rõ rệt chứ không còn tồn tại dưới hình thái xã hội công xã nguyên

thủy.
1.1.2. Các nhóm truyện thơ tiêu biểu
Truyện thơ là một loại hình văn học dân gian ra đời sau các loại hình văn học
khác, như đã nói ở trên, loại hình văn học này ra đời khi xã hội đã có sự phân chia
giai cấp, tầng lớp rõ rệt, thậm chí có thể ra đời khi sự mâu thuẫn của các giai cấp xã
hội không được giải quyết. Tất nhiên, đã là một loại hình văn học dân gian, thì tự
thân truyện thơ đã bao chứa trong nó nhiều mảng đề tài khác nhau, nhiều hình thức
diễn xướng khác nhau, nhiều nét văn hóa của các vùng miền khác nhau. Vì thế, việc
phân loại truyện thơ cũng dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau tạo nên các nhóm
truyện thơ tiêu biểu.
1.1.2.1. Phân loại truyện thơ dựa trên tiêu chí không gian địa lí và không gian văn
hóa cộng đồng
Với tiêu chí phân loại truyện thơ là dựa vào không gian địa lí và không gian
văn hóa cộng đồng, các tác giả nghiên cứu văn học dân gian cho rằng, truyện thơ là
thể loại văn học được ưa chuộng của các đồng bào dân tộc thiểu số. Xét về quá trình
nghiên cứu truyện thơ, có thể thấy rằng các dân tộc thiểu số là tác giả của những tập
truyện thơ đồ sộ, có nhiều ảnh hưởng trong nền văn học Việt Nam. Đại gia đình các
dân tộc Việt Nam theo các tài liệu chính thống có khoảng 54 dân tộc anh em, còn
theo các tài liệu nghiên cứu hiện nay có khoảng hơn 60 dân tộc anh em, như vậy

8
khối lượng truyện thơ dân gian chưa được khai thác, tìm hiểu còn rất nhiều. Bên
cạnh một vài dân tộc đã có công bố về truyện thơ thì hầu hết còn lại là một ẩn số,
đòi hỏi các nhà nghiên cứu cần đào sâu tìm tòi hơn nữa. Đối với dân tộc Việt- dân
tộc chiếm đa số cán cân dân số nước ta- hiện nay chỉ tìm thấy truyện thơ Nôm có
tác giả, xuất hiện trong khoảng thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, chứ chưa tìm thấy một
tác phẩm truyện thơ dân gian hoàn chỉnh nào. Vì những điểm hạn chế như vậy, cho
nên nếu phân chia truyện thơ theo tiêu chí này, chúng ta chỉ có thể có những kết quả
tương đối với những dân tộc đã công bố những tác phẩm truyện thơ dân gian được
tìm thấy. Trong tác phẩm nghiên cứu Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu

số Việt Nam, tập 21 của NXB Khoa học Xã hội năm 2008 do GS.TS Nguyễn Xuân
Kính chủ biên [12, tr.15 -81] đã điểm lại việc sưu tầm, công bố truyện thơ các dân
tộc thiểu số theo từng dân tộc đã cho thấy từ năm 1957 đến 2008 đã có truyện thơ
của tám dân tộc được sưu tầm, công bố và xuất bản. Đó là truyện thơ của tám nhóm
dân tộc sau:
- Nhóm truyện thơ dân tộc Tày.
- Nhóm truyện thơ dân tộc Thái.
- Nhóm truyện thơ dân tộc Mường.
- Nhóm truyện thơ dân tộc H’Mông.
- Nhóm truyện thơ dân tộc Chăm
- Nhóm truyện thơ dân tộc Ba Na.
- Nhóm truyện thơ dân tộc Giáy.
- Nhóm truyện thơ dân tộc Sán Chay.
1.1.2.2. Phân loại truyện thơ dựa trên tiêu chí phương thức diễn xướng, lưu truyền
và nguồn gốc kế thừa
Với tiêu chí phân loại truyện thơ dựa trên căn cứ phương thức diễn xướng, lưu
truyền và nguồn gốc kế thừa, tác giả Võ Quang Nhơn trong Văn học dân gian Việt
Nam do tác giả Đinh Gia Khánh chủ biên [9,tr.783] đã phân loại truyện thơ dân gian
thành bốn nhóm cơ bản:
- Nhóm truyện thơ gắn với sinh hoạt nghi lễ dân gian.
- Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống tự sự của truyện cổ dân gian các dân tộc.
- Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống trữ tình của thơ ca dân gian các dân tộc.

9
- Nhóm truyện thơ thiên về khuynh hướng thuyết giáo đạo đức của truyện Nôm
Việt.
1.1.2.3. Phân loại truyện thơ theo đề tài, chủ đề, tư tưởng và mô-típ văn học
Với tiêu chí phân loại truyện thơ như trên, tác giả Phan Đăng Nhật, năm 2004
có bài Truyện thơ, in trong cuốn sách Truyện thơ Tày nguồn gốc, quá trình phát
triển và thi pháp thể loại của Vũ Anh Tuấn [34] đã chia truyện thơ thành ba nhóm

tiêu biểu:
- Truyện thơ về tình yêu.
- Truyện thơ về người nghèo khổ.
- Truyện thơ về chính nghĩa.
1.1.3. Sự hình thành truyện thơ trong văn học dân gian Việt Nam
1.1.3.1. Sự hình thành thể loại truyện thơ dựa trên nguồn gốc nội sinh trong quá
trình phát triển văn hóa tộc người [34]
Trở lại với định nghĩa truyện thơ, chúng ta thấy rằng truyện thơ là một thể loại
tự sự dân gian bằng thơ, truyện thơ rất giàu chất trữ tình, tác dụng của nó là dùng để
phản ánh số phận và khát vọng của con người khi hạnh phúc lứa đôi và công bằng
xã hội bị tước đoạt. Như vậy, về bản chất truyện thơ là một loại hình văn học dân
gian, đặc trưng cốt yếu nhất của truyện thơ là yếu tố tự sự. Về điểm này, truyện thơ
có sự kế thừa yếu tố tự sự trong các loại hình văn học dân gian khác như: thần thoại,
sử thi, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn, truyện cười… Tuy nhiên yếu tố tự sự trong
truyện thơ lại được kể ở một hình thức đặc biệt, kể bằng thơ chứ không phải văn
xuôi. Điều đó cho thấy truyện thơ đã kế thừa yếu tố trữ tình trong các thể loại ca
dao, dân ca, hò, vè, tục ngữ, câu đố đặc biệt là trong ca dao, dân ca và lựa chọn nó
trở thành hình thức nghệ thuật biểu hiện mục tiêu nghệ thuật.
Đó là xét về mặt nghệ thuật biểu hiện, còn nếu xét về mặt giá trị nội dung,
chúng ta thấy rằng truyện thơ có mục đích phản ánh số phận và khát vọng của con
người khi hạnh phúc lứa đôi và công bằng xã hội bị tước đoạt. Điều đó chứng tỏ,
truyện thơ ra đời khi con người không còn sinh hoạt dưới hình thái ý thức xã hội
của mô hình công xã nguyên thủy. Con người không còn dùng văn học dân gian
như một hình thức nghệ thuật để lí giải những hiện tượng tâm linh hay những hiện
tượng thiên nhiên thường gặp trong thần thoại, truyền thuyết. Con người cũng

10
không dừng lại việc thể hiện ước mơ của mình về một cuộc sống tốt đẹp hơn trong
những kết thúc có hậu của truyện cổ tích, những hình tượng anh hùng ca của sử thi
hay trong những câu chuyện ngụ ngôn ngắn gọn, bao hàm nhiều ý nghĩa. Con người

không còn hát than thân vô định bằng những bài ca dao có tính hình tượng trừu
tượng mà đã dùng hẳn một thể loại văn học dân gian mới, đáp ứng trực tiếp được
mong ước của mình với những bất công của xã hội đương thời. Đó là truyện thơ với
những con người cụ thể, những số phận cụ thể, với những mâu thuẫn xã hội gay gắt
được đưa ra để giải quyết. Con người không còn an phận như trong ca dao, trong
dân ca mà đã có những bước tiến mới trong ý thức hệ, dẫn đến tinh thần phản kháng
xã hội bất công, ngang trái cùng với những khát vọng cháy bỏng làm thế nào để
thay đổi cuộc đời và số phận của mình. Mặt khác, ở tất cả các dân tộc có truyện thơ
phát triển, chúng ta thường thấy, sự xuất hiện với tần suất lớn của các nghệ sĩ dân
gian như Mo, Then, Tảo, Pụt, Chí Xáy, Xổng Lì đó chính là những người nghệ sĩ
góp phần diễn xướng truyện thơ và làm phát triển truyện thơ theo chiều hướng lựa
chọn hình thức biểu hiện trữ tình cho phù hợp với không gian diễn xướng.
Về vấn đề hình thành truyện thơ, cũng có nhiều ý kiến khác nhau, tác giả Phan
Đăng Nhật cho rằng “truyện thơ ra đời do nhu cầu lịch sử- xã hội của thời đại của
nó. Lúc bấy giờ trong xã hội của các dân tộc thiểu số đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn.
Mâu thuẫn giữa tình yêu chân chính của đôi lứa với đòi hỏi khắt khe, lạnh lùng,
nhiều khi tàn bạo của gia đình và xã hội, mâu thuẫn giữa kẻ nghèo khó và kẻ giàu
sang, mâu thuẫn giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Lúc này vấn đề thân phận của con
người được đặt ra và đòi hỏi phải đáp ứng thỏa đáng” [34, tr.401].
Tóm lại, về phần hình thành truyện thơ dựa trên nguồn gốc nội sinh có nhiều
cách giải thích, song về cơ bản có thể tóm lược lại là do:
- Nhu cầu xã hội của con người đòi hỏi một hình thức văn học có dung lượng lớn,
đủ để thỏa mãn thị hiếu thẩm mĩ của họ trong lĩnh vực thơ ca.
- Có một kho tàng văn học dân gian phong phú với nhiều thể loại làm tiền đề cho
thể loại truyện thơ ra đời.
- Có một đội ngũ nghệ nhân dân gian đông đảo trong việc diễn xướng truyện thơ,
góp phần truyền bá và tác động vào sự phát triển của thể loại này.

11
- Có những mâu thuẫn xã hội trầm trọng mà con người không thể tìm được hướng

giải quyết dựa trên những thể loại văn học cũ, cần hướng tới một thể loại mới nhằm
đáp ứng được những mâu thuẫn trong đời sống tâm lí.


1.1.3.2. Sự hình thành thể loại truyện thơ dựa trên nguồn gốc ngoại sinh trong quá
trình tiếp biến văn hóa tộc người [34]
Nếu xét đến quá trình hình thành truyện thơ dựa trên yếu tố ngoại sinh, tức là
do những ảnh hưởng từ các nền văn học, các nền văn hóa khác đến từ các dân tộc
khác, có lẽ phải kể đến sự ảnh hưởng mạnh mẽ của hai yếu tố Nho giáo và Phật
giáo. Trong Văn học dân gian do Đinh Gia Khánh chủ biên, tác giả Võ Quang Nhơn
đã cho biết những lập luận của mình về vấn đề này. Ông cho rằng: “ Đồng thời còn
có yếu tố khá quan trọng không thể không chú ý tới khi xét đến sự tiến triển của quá
trình văn hóa xã hội ở các dân tộc ít người: đó là sự chi phối, sự ảnh hưởng của môi
trường xã hội – văn hóa ở miền xuôi lên, ngày càng mạnh mẽ, ngày càng thấm sâu
hơn vào đời sống của nhân dân các dân tộc. Ngoài ra sự giao lưu văn hóa với các
dân tộc láng giềng ngày càng được mở rộng và đẩy mạnh hơn, do các biến động của
lịch sử, đặc biệt là việc truyền bá đạo Phật, đạo Bà-la-môn, đạo Hồi và theo đó là
nền văn hóa của các tôn giáo ấy. Những đổi mới về mặt xã hội đó, những tác động
về mặt văn hóa đó tất nhiên dẫn đến sự nảy sinh những nhu cầu mới trong sinh hoạt
tinh thần ở các dân tộc anh em.” [9, tr.782-783].
Hoặc theo ý kiến phân tích về mô thức ảnh hưởng trong quá trình hình thành
truyện thơ dân gian các dân tộc, GS.TS Kiều Thu Hoạch trong bài viết Về truyện
thơ của người Thái ở Vân Nam- Trung Quốc, có ý kiến nhận định – tổng hợp vấn đề
này như sau: “ Hấp thu các yếu tố văn hóa ngoại lai, lấy một tác phẩm cụ thể nào
đó làm khuôn hình, rồi dung hợp, nhào nặn những truyền thống văn hóa của tộc
người Thái và các tộc người khác, và các vùng văn hóa khác trên cơ sở đó sáng tạo
thành một truyện thơ mới. Trong đó, tư tưởng, chủ đề, lý tưởng thẩm mỹ, bối cảnh
văn hóa – lịch sử, nhân vật, tình tiết, kết cấu, thủ pháp biểu hiện đều được sáng tạo
lại để trở thành một truyện thơ hoàn toàn địa phương hóa – Thái hóa.” [8, tr. 905].


12
Như vậy, đối với nguồn gốc ngoại sinh, để cấu thành truyện thơ, không chỉ đòi
hỏi có những ảnh hưởng từ nội tại của văn học mà quá trình tiếp biến văn hóa, giao
lưu văn hóa giữa các dân tộc với nhau diễn ra cũng vô cùng quan trọng. Sự tiếp biến
này dẫn đến việc hấp thu các mô-típ, hấp thu các hình tượng và đặc biệt là dẫn đến
sự thay đổi của ý thức hệ, sự thay đổi của kết thúc các truyện thơ. Về nhóm này, có
lẽ truyện thơ Tày – Nùng là truyện thơ chịu ảnh hưởng nhiều nhất của quá trình tiếp
biến văn hóa. Các dân tộc còn lại đặc biệt là nhóm truyện thơ của các dân tộc ít có
sự giao lưu văn hóa với các dân tộc khác chịu ảnh hưởng ít hơn, tuy nhiên không
hoàn toàn là sản phẩm tự thân nội tại văn học. Về một khía cạnh nào đó, về một tình
tiết nhất định hoặc một kết thúc thay đổi với hệ thống kết thúc truyền thống là minh
chứng cho kết quả của sự giao lưu văn hóa.
Tóm lại, sự tiếp biến – giao lưu văn hóa giữa các dân tộc anh em khi xã hội đã
phân chia giai cấp với những mâu thuẫn xã hội lên đến đỉnh điểm dẫn đến một hệ
quả là sự thay đổi về loại hình văn học mới. Loại hình văn học truyện thơ ra đời vừa
đáp ứng yêu cầu xã hội của một dân tộc cụ thể, vừa là kết quả tất yếu trong quá
trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc với nhau.
1.2. Cơ sở của mối quan hệ giữa dân ca dân tộc Mông và truyện thơ Tiếng hát
làm dâu
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, dân tộc Mông là một trong những
dân tộc có nhiều đóng góp làm phong phú thêm đời sống sinh hoạt văn hóa của đại
gia đình các dân tộc Việt Nam. Dân tộc Mông với những đặc điểm riêng biệt về tâm
lí, đời sống văn hóa, không gian định cư, không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng
cùng những tư tưởng, quan niệm sống đã tạo nên một mảng màu riêng biệt của đời
sống văn học dân gian. Folklore của người Mông tồn tại như một món ăn tinh thần
không thể thiếu, cùng với các loại hình nghệ thuật dân gian khác, làm nên tiếng nói,
tạo nên giá trị của người Mông trong đời sống sinh hoạt văn hóa. Như đã trình bày
ở trên, truyện thơ dân tộc Mông được xếp vào tám dân tộc đến nay đã có tác phẩm
truyện thơ cụ thể được công bố và xuất bản. Tất nhiên, truyện thơ Mông cũng có
những đặc trưng chung của thể loại truyện thơ, có sự hình thành không vượt qua

ngoài ranh giới của hai nền tảng ngoại sinh và nội sinh đã trình bày ở trên. Tuy
nhiên mức độ ảnh hưởng cụ thể như thế nào thì không hẳn đã là tương đương giữa

13
truyện thơ của các dân tộc. Khác với truyện thơ Tày, Thái, Mường truyện thơ dân
tộc Mông có lẽ chịu sự ảnh hưởng từ nền tảng nội sinh nhiều hơn nền tảng ngoại
sinh. Các tiểu loại văn học dân gian Mông có nhiều ảnh hưởng đến việc hình thành
một thể loại văn học dân gian mới của dân tộc này, đó chính là truyện thơ. Để
chứng minh được lập luận này, chúng tôi quyết định tìm hiểu sự ảnh hưởng của một
tiểu loại folklore, đó là dân ca đến quá trình hình thành của ba truyện thơ có nội
dung được gọi chung là Tiếng hát làm dâu: truyện thơ Vừa-chúa-pua (có tên gọi
khác là Tiếng hát làm dâu, Tiếng hát làm dâu Tây Bắc), truyện thơ A Thào- Nù
Câu, truyện thơ Nhàng Dợ - Chà Tăng. Và cũng để lí giải thấu đáo đến đề tài luận
văn, chúng tôi bắt nguồn từ sự lí giải dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa dân ca dân
tộc Mông và ba truyện thơ này dưới hai luận điểm chính: cơ sở lịch sử - xã hội và
cơ sở nội tại văn học.
1.2.1. Cơ sở lịch sử - xã hội
1.2.1.1. Đặc điểm không gian địa lí định cư
Việt Nam là một quốc gia bao gồm nhiều thành phần dân tộc, chung sống trên
cùng một lãnh thổ, có cùng bản sắc văn hóa và cùng chung vận mệnh lịch sử. Trên
lãnh thổ nước ta hiện nay, có sự quần cư đông đúc do nhiều dân tộc anh em cùng
chung sống. Có nhiều dân tộc là người bản xứ, nhưng cũng có nhiều dân tộc nhập
cư đến nước ta vào những thời điểm khác nhau, những miền đất khác nhau. GS.TS.
Lê Chí Quế trong Việc phân loại các dân tộc ở miền bắc nước ta cho rằng: “ở miền
bắc có trên 30 dân tộc thiểu số, trong đó nổi lên mấy nhóm cơ bản: Nhóm Mường –
Việt, nhóm Tày – Thái và nhóm Mèo – Dao, trong đó hai nhóm Tày – Thái và Mèo
– Dao thiên di đến nước ta từ Trung Quốc, trong đó người Tày có mặt ở Việt Nam
sớm hơn cả, khoảng 2000 năm, người Dao khoảng 1000 năm, và người Mèo –
Nùng chỉ khoảng vài trăm năm” [25, tr.834]. Theo sử sách của nhà Nguyễn trong
Đại Nam Thực lục, đến thế kỉ XIX mới thấy có sự xuất hiện của người Mông ở Việt

Nam. Cũng theo nhiều tài liệu khác, dù khác nhau về con số, nhưng tựu trung lại
đều khẳng định người Mông là một dân tộc nhập cư đến nước ta từ Trung Quốc, và
là tộc người nhập cư muộn nhất so với các tộc người còn lại. Theo các nhà dân tộc
học Việt Nam thì phần lớn những người Mông ở miền núi phía Bắc đều di cư trực
tiếp từ Quý Châu, Quảng Tây và Vân Nam sang. Riêng một số nhóm người Mông ở

14
vùng núi Thanh Hóa, Nghệ An di cư vào Việt Nam qua Lào. Về tên gọi, người
Mông có nhiều tên gọi khác nhau. Ở Trung Quốc, người Mông cư trú ở miền nam,
là nhóm dân tộc lớn thứ 5 trong 56 dân tộc được Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
chính thức công nhận, họ chuyên sống ở vùng núi đá cao và thường được gọi là
người H’mông, người Mông, người Hơ - mông, người Hmông, người Miêu, người
Tam Miêu. Ở Việt Nam, người Mông được gọi chủ yếu với các tên gọi là người
H’mông, người Mèo, người Mán. Ở Lào, người Mông được gọi là người Mẹo. Về
vấn đề sinh tụ và quá trình hình thành phân hóa dân tộc Mông, hiện nay vẫn chưa
được chứng minh cụ thể, tất cả mới chỉ dừng lại ở những giả thuyết. Điều này cho
thấy những hạn chế trong việc tái tạo lại nền văn hóa lâu đời của tộc người đông thứ
năm của Trung Quốc. Điều này cũng dễ giải thích, bởi dân tộc Mông là dân tộc
không có chữ viết. Tất cả nền văn hóa của họ từ bao đời nay chỉ được bảo tồn duy
nhất là phương thức truyền miệng. Trong truyền thuyết, người Mông cho rằng họ
cũng đã từng có chữ viết nhưng chữ viết này đã bị mất, cho nên thành thử, hiện nay
chữ viết của người Mông mới được chính thức công nhận bằng loại chữ viết ghi
bằng kí tự la tinh như chữ quốc ngữ. Trở lại với vấn đề sinh tụ và quá trình hình
thành phân hóa các dân tộc Mông, GS. Đặng Nghiêm Vạn cho rằng: “theo các thư
tịch cổ Trung Quốc, tổ tiên các dân tộc này (tức người Mông và người Dao) đã sinh
tụ ở suốt một dải đất giữa sông Hoàng Hà và sông Trường Giang. Tổ tiên của họ đã
đạt đến một nền văn minh lúa nước vĩ đại, có thể sánh ngang với nền văn minh của
nhà Hán ở Bắc Trung Hoa. Người Hán gọi là Tam Miêu. Họ đã có nhà nước, có chữ
viết, có phân tầng giai cấp xã hội, rất thạo nghề bắn cung, rèn kiếm” [6, tr.544]. Nhà
thơ Chế Lan Viên trong Tâm hồn và Tiếng hát Mèo lại có ý kiến cho rằng tổ tiên

người Tam Miêu là Viêm tộc [41, tr.872]. Trong lịch sử Trung Quốc có nhắc đến
mâu thuẫn giữa Viêm tộc và Hán tộc. Hai tộc người này đã diễn ra rất nhiều cuộc
tranh giành quyền lực và bành trướng lãnh thổ, cuối cùng Viêm tộc bị thua và dẫn
đến người Miêu thuộc Viêm tộc phải rút dần xuống phía nam để tránh sự truy sát
của nhà Hán. Nhưng cũng có ý kiến khác của các nhà dân tộc học cho rằng, Miêu
tộc là tộc người hoàn toàn khác với Viêm tộc. Miêu tộc ở Trung Quốc có tên là Xi-
Vưu, đây là một tộc người có tộc trưởng tương đương với ngôi Vương, chỉ dưới
trướng quyền lực của hoàng đế. Miêu tộc được cho là có quyền lực đối với 9 bộ tộc

15
và 81 thị tộc. Dưới sự ảnh hưởng và những thành tựu rực rỡ như vậy của Miêu tộc,
Viêm Đế và Hoàng Đế đã liên kết lại đánh đuổi Miêu tộc, bành trướng thế lực
xuống phía nam. Miêu tộc bị thua, phân chia thành hai nhánh, nhánh người Miêu di
chuyển xuống Vân Nam và Việt Nam. Nhóm người Lý ở lại vùng Hoàng Hà và về
sau sát nhập trở thành công dân của Hán tộc.
Những nhận định trên mới dừng lại ở các giả thuyết của các nhà nghiên cứu sử
học, dân tộc học. Có những nhận định dựa trên cứ liệu lịch sử, cũng có những nhận
định là dựa trên chính các tác phẩm văn học dân gian của người Mông, đặc biệt là
ca dao – dân ca. Tuy nhiên theo truyền thuyết truyền miệng và dựa vào nghi thức an
táng trong bài hát Chỉ đường của người Mông, họ cho rằng lịch sử xa xưa của dân
tộc họ không phải là ở Trung Quốc, mà Trung Quốc chỉ là điểm dừng chân đầu tiên
trong quá trình di cư của họ. Với những truyền thuyết Con gấu ăn mặt trăng, truyền
thuyết, thần thoại hóa được chuyển thể trong bài hát cúng ma Chỉ đường [31, tr.307
-335], người Mông có nhắc đến chuyện họ đã đến từ những vùng đất cực kì lạnh
lẽo, ở đó ban ngày kéo dài sáu tháng và bóng tối kéo dài sáu tháng. Từ nơi này họ
đã đặt chân đến Trung Quốc qua những chuyến đi săn. Vì vậy, trong Chỉ đường,
người Mông quan niệm rằng, người chết phải về với tổ tiên, là nơi đầu tiên họ được
sinh ra, là mảnh đất có trong truyền thuyết. Vì vậy, hầu hết các bài hát cúng ma đều
nhắc đến nơi mà mặt đất vô cùng lạnh lẽo, băng giá, xứ sở đầu tiên của tộc người
này.

Tóm lại, tuy chưa có nhiều dẫn chứng lịch sử để chứng minh rõ ràng nguồn
gốc sinh tụ và quá trình hình thành dân tộc của người Mông ở Trung Quốc, nhưng
có một điều chắc chắn rằng, người Mông là một tộc người lớn của quốc gia này.
Điều này được chứng tỏ bởi số dân của dân tộc này được xếp thứ năm trong 56 dân
tộc được công nhận. Chưa kể số lượng đã di chuyển và nhập cư sang Việt Nam,
Lào, Thái Lan. Đồng thời, tất cả các triều đại phong kiến Trung Quốc từ thời kì
Xuân Thu – Chiến Quốc cho đến đời Minh- Thanh đều có những chính sách chính
trị - quân sự đàn áp người Miêu và buộc họ phải lùi dần về phía Nam. Như vậy, có
thể kết luận người Mông ở Việt Nam là dân tộc có nguồn gốc nhập cư, họ đến Việt
Nam rất muộn, chính vì vậy, khả năng bị đồng hóa về văn hóa với các dân tộc khác
là rất ít. Khi đến Việt Nam, họ đã trở thành một dân tộc hoàn chỉnh về đời sống sinh

16
hoạt văn hóa cộng đồng và đại đa số các giá trị văn hóa nghệ thuật của họ đã được
hình thành trên một nền tảng từ rất lâu đời. Điều này cho thấy rằng, văn học dân
gian cũng như dân ca và truyện thơ của họ chủ yếu do nguồn gốc nội sinh chứ ít
chịu ảnh hưởng của nguồn gốc ngoại sinh như các dân tộc khác nhập cư đến nước ta
thời điểm sớm hơn.
1.2.1.2. Đặc điểm không gian sinh hoạt văn hóa – xã hội
Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Mông ở Việt Nam có dân
số khoảng 1.068.189 người, chủ yếu sinh sống ở các tỉnh vùng núi cao như Hà
Giang, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Thanh Hóa, Hòa
Bình, Nghệ An dân tộc Mông sống tập trung ở vùng núi đá, cheo leo, khí hậu
thoáng mát, chủ yếu sinh sống bằng sản xuất du canh du cư, đốt nương làm rẫy, trỉa
bắp, tra hạt. Họ sống tương đối tách biệt đối với các dân tộc khác, họ phân thành
các ngành nhỏ hơn, như Mông Hoa, Mông Trắng, Mông Đỏ, Mông Đen, Mông
Xanh, Nà Mieo, Mông Súa. Sự phân chia ra các ngành này chủ yếu là dựa vào trang
phục, đặc biệt là trang phục của người phụ nữ. Người Mông Việt Nam ở tương đối
phân tán, mỗi bản làng của họ chỉ vài chục nóc nhà, thường thì khoảng cách giữa
các hộ gia đình khá xa, điều này gây cản trở trong việc giao lưu, buôn bán với các

dân tộc khác cũng như ngay chính đối với dân tộc mình. Người Mông ở trên núi
cao, tuy điều kiện khí hậu mát mẻ, song lại rất khan hiếm nước, điều đó ít nhiều
cũng ảnh hưởng đến khả năng canh tác lúa nước của họ. Chính vì thế, nguồn thực
phẩm chủ yếu trong bữa ăn của người Mông không phải là lúa gạo mà là mèn mén,
một loại bột ngô xay nhuyễn, nấu chín rất phù hợp với kiểu canh tác trên cạn. Thêm
vào đó, người Mông rất ít khi giao lưu với các dân tộc khác, ngay chính cả người
Mông với nhau. Điều này có thể dựa vào đặc điểm làm nhà và cư trú của họ. Nhà
của người Mông thường được xếp đá chung quanh làm hàng rào che chắn, nhà đất
trình tường, ở cách xa nhau. Hàng rào đá xếp xung quanh một nhà hoặc hai, ba nhà
có quan hệ anh em nội tộc với nhau, làm thành một khu riêng biệt. Không gian sinh
hoạt văn hóa duy nhất của họ, cũng là không gian giao lưu, buôn bán trao đổi hàng
hóa là xuống chợ. Người Mông không giỏi buôn bán do họ phân tán ở vùng núi cao,
họ cũng ít khi xuống chợ bởi do hình thức sản xuất tự cung, tự cấp của họ. Họ chỉ đi
xuống chợ khi nào có nhu cầu trao đổi hàng hóa thiết yếu hoặc nhu cầu trao đổi tâm

17
tình. Vì thế không gian chợ đã trở thành không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng
không thể thiếu của họ. Thanh niên nam nữ muốn giao lưu, tìm hiểu nhau hoặc
những người có vợ có chồng muốn tìm nơi tâm tình với người trong mộng chỉ có
thể xuống chợ tình được tổ chức một năm một lần, hoặc đợi các dịp lễ tết lớn mới
có cơ hội được gặp gỡ, trao đổi về văn hóa, phong tục, tập quán. Mỗi lần xuống
chợ, cả đi cả về có thể mất vài ngày đường, vô cùng xa xôi. Do vậy, đối với họ, chợ
còn là nơi vui chơi, giải trí, nơi giao tiếp học hỏi, nơi tìm bạn trăm năm.
Người Mông có tập tục, nghi thức vô cùng hà khắc đối với phụ nữ trong gia
đình. Ở nhà mẹ đẻ, người con gái thường không được tham gia vào công việc gia
đình, họ cho rằng, con gái chỉ là những bông hoa dại, không thể “cầm thìa để cúng
bái, cầm thìa để cúng lễ”. Vì vậy, trước đây thân phận của họ rất khốn khổ. Ở gia
đình nhà chồng, người con dâu không được phép vào nơi ngủ của bố chồng hoặc
em chồng, cũng không được phép về nhà bố mẹ đẻ khi chưa được sự đồng ý của gia
đình nhà chồng. Ngay cả khi gia đình nhà chồng có quan hệ gần gũi (trong họ) với

gia đình nhà cha mẹ đẻ. Hệ thống tín ngưỡng của người Mông cũng rất phong phú,
họ thờ rất nhiều thần, và những thần ấy đều được phân chia cai quản từng vùng theo
những chức năng nhất định. Hôn nhân của họ thông qua các tập tục cưới xin hà
khắc, tiêu biểu nhất là nạn tảo hôn và nạn gả bán dưới quyền lực của đồng tiền, tín
ngưỡng, và chế độ phụ quyền.
Tóm lại, với không gian sinh hoạt văn hóa cộng đồng như đã trình bày ở trên,
chúng ta thấy rằng, dân tộc Mông là dân tộc ít chịu ảnh hưởng từ các dân tộc khác,
họ có ý thức rất mạnh mẽ để bảo tồn và lưu truyền những phong tục, tập quán của
mình cũng như những nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng cụ thể. Vì họ ít có cơ hội để
giao lưu với quá trình tiếp biến văn hóa, cho nên dẫn tới hệ quả tất yếu rằng, ý thức
hệ của họ được bảo tồn tương đối thuần nhất, ít chịu ảnh hưởng từ ý thức hệ của các
dân tộc khác cũng như ít chịu ảnh hưởng từ thế giới quan, nhân sinh quan. Từ đó
cho thấy rằng, văn học dân gian của người Mông cũng như vậy, nó ít chịu ảnh
hưởng từ nền tảng ngoại sinh và tiếp biến mà chủ yếu dựa trên nguồn gốc nội sinh.
1.2.2. Cơ sở nội tại văn học
1.2.2.1. Sự đa dạng, phong phú của kho tàng văn học dân gian Mông

18
Nói đến sự ảnh hưởng của dân ca dân tộc Mông đến sự hình thành của thể loại
văn học truyện thơ, chúng ta thấy rằng đó là một quá trình kế thừa từ rất lâu đời.
Truyện thơ đã chọn lọc từ một kho tàng văn học phong phú, được xây dựng khởi
thủy từ hàng ngàn năm của chính dân tộc mình. Có thể nói, hiếm có dân tộc nào lại
như dân tộc Mông. Họ không có chữ viết. Tuy rằng trong truyền thuyết, người
Mông đã từng nhận định rằng họ có chữ viết, họ có hẳn một nghi thức cúng Bùa
Đáng trong bài hát cúng ma để tạ ơn chữ viết đã mất, điều này cũng có thể hiểu
được, bởi vì một tộc người có truyền thống lâu đời như vậy, cộng với số dân đông
đảo không có chữ viết là một điều khó hiểu. Tuy nhiên, đến ngày nay, người Mông
vẫn không thể chứng minh được chữ viết của họ đã tồn tại như thế nào, vì thế, giới
nghiên cứu vẫn khẳng định, trong lịch sử chữ viết không tồn tại với dân tộc này.
Chính vì điều đó, dẫn tới nền văn học nghệ thuật của người Mông chỉ có văn học

dân gian truyền miệng cho đến thời điểm trước khi có chữ viết theo kí tự la-tinh. Họ
không giống như các dân tộc khác có văn học trung cận đại và văn học chuyển giao,
nền văn học dựa trên chữ viết để bảo tồn. Điều này cũng đi kèm yếu tố cá nhân tác
giả trong văn học dân gian Mông. Chúng ta khi tìm hiểu tất cả các câu chuyện cổ,
các bài hát dân ca, các bài hát truyện thơ, hoặc các loại hình diễn xướng dân gian
khác của dân tộc này, chủ yếu chúng ta chỉ tiếp cận với khái niệm người hát, người
kể chứ không tiếp cận được khái niệm người sáng tác. Điều đó cho thấy, cả dân tộc
Mông đã dồn hết tâm sức của họ để xây dựng một nền văn học dân gian có nhiều
thành tựu trên nhiều lĩnh vực. Tất nhiên là cũng như các dân tộc khác, dựa vào đặc
điểm của dân tộc mình, người Mông chọn lựa những loại hình văn học dân gian chủ
lực làm nền tảng. Trong đó dân ca và truyện thơ là hai thể loại đạt được nhiều thành
công rực rỡ nhất.
Nếu xét đến các thể loại văn học dân gian Mông, chúng ta có thể kể đến
truyện cổ Mèo, dân ca và Truyện thơ. Người Mông cũng có thần thoại, có truyền
thuyết, thậm chí có thể có cả các pho sử thi đồ sộ, bởi ẩn chứa đâu đó trong các bài
hát cúng ma, bài hát cưới xin cũng như bài hát tình yêu của họ, ta vẫn thấy thấp
thoáng những hình ảnh nhân vật, những sự kiện minh chứng ít nhiều cho sự tồn tại
của các thể loại này trong đời sống sinh hoạt tinh thần phong phú của người Mông.

19
Tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến sự phong phú
của kho tàng văn học Mông trên ba thể loại: truyện cổ, dân ca và truyện thơ.
-Về truyện cổ: Trong cuốn Truyện Cổ dân tộc Mèo do tác giả Lê Trung Vũ
sưu tầm và biên soạn, NXB Văn hóa Hà Nội năm 1975 [40] đã thống kê được 49
câu chuyện cổ và khảo dị của nó. Những câu chuyện cổ này chủ yếu kể về những
nhân vật mồ côi với các quan hệ mâu thuẫn khác nhau, hoặc là kể nhằm mục đích
giải thích một tích truyện nào đó tồn tại trong cộng đồng người Mèo, với những bất
công, ngang trái trong xã hội đương thời.
-Về hệ thống dân ca: Trong cuốn Dân ca Mèo do tác giả Doãn Thanh sưu
tầm, biên dịch xuất bản năm 1967 [31], dân ca của người Mèo bao gồm 6.008 câu

thơ được chia thành bốn loại tiếng hát cơ bản:
+ Tiếng hát cưới xin 619 câu.
+ Tiếng hát làm dâu 610 câu.
+ Tiếng hát cúng ma 1663 câu.
+ Tiếng hát mồ côi 367 câu.
+ Tiếng hát tình yêu 2749 câu.
-Về hệ thống truyện thơ: Trong Tổng tập văn học dân gian Việt Nam, tập 21,
do GS.TS Nguyễn Xuân Kính chủ biên, đã tổng hợp lại quá trình sưu tầm và công
bố, xuất bản truyện thơ của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Theo tài liệu này, từ
năm 1957 cho đến 2008 đã có 15 truyện thơ của người Mông được sưu tầm và công
bố [12, tr.41-42]. Trong đó có 13 truyện được giới thiệu dưới hình thức song ngữ,
hai truyện chỉ có bản dịch Tiếng Việt. Tiêu biểu phải kể đến những truyện thơ như:
Tiếng hát làm dâu, (còn gọi là truyện Vừ- chúa-pua), A Thào- Nù Câu, Nhàng Dợ-
Chà Tăng, Gầu Li- Nụ Dia, Sẻo Mỉ - A Sình
Như vậy, có thể nói với sự phong phú, đa dạng của các thể loại văn học dân
gian dân tộc Mông, đó chính là một nền tảng lớn, tạo nên sự ảnh hưởng trong quá
trình kế thừa các giá trị nội dung thẩm mĩ và các giá trị hình tượng nghệ thuật của
thể loại văn học truyện thơ dân gian. Với 15 tác phẩm đã được công bố và xuất bản,
truyện thơ Mông xứng đáng được trân trọng bởi nó đã góp phần không nhỏ làm
phong phú thêm kho tàng văn học dân gian, đặc biệt là kho tàng truyện thơ dân gian
của Việt Nam.

20

1.2.2.2. Truyền thống kế thừa và sự tác động qua lại giữa các thể loại văn học dân
gian Mông
Cùng với những luận điểm chúng tôi đã trình bày ở trên, có thể nói rằng, sự
ảnh hưởng của dân ca đến quá trình hình thành truyện thơ Tiếng hát làm dâu của
người Mông không phải là một quá trình đơn lẻ, chỉ diễn ra tự phát đối với hai thể
loại này. Mà quan trọng hơn, chúng ta thấy rằng, truyện thơ của tất cả các dân tộc

thiểu số khác đều có sự xuất hiện của các yếu tố có trong ca dao, dân ca. Tuy nhiên
mức độ ảnh hưởng không đậm đặc như ở trong truyện thơ Mông. Như vậy, câu hỏi
đặt ra là, phải chăng truyện thơ Mông hình thành trong mối quan hệ tác động qua lại
giữa các thể loại văn học dân gian Mông? Điều đó hoàn toàn có cơ sở. Chẳng hạn
như dân ca Tiếng hát mồ côi và truyện cổ dân tộc Mông. Đây là hai loại hình khác
nhau nhưng đều có ảnh hưởng nhất định tới việc chọn lựa đề tài, chủ đề cũng như
các hình tượng nhân vật của hai loại hình này. Truyện cổ Mèo với 48 tác phẩm và
khảo dị lấy đề tài chủ yếu là nhân vật mồ côi, một kiểu nhân vật có số phận bất hạnh
trong xã hội cũ của người Mèo. Trong quá trình khái lược phạm vi đề tài tác giả Lê
Trung Vũ đã chỉ ra ba kiểu cơ bản: kiểu I là “nói về quan hệ giữa mồ côi và các lực
lượng thống trị”, kiểu II là “trình bày mối quan hệ giữa mồ côi và gia đình bên vợ”,
kiểu III là “anh em mồ côi thương nhau, đùm bọc lẫn nhau” [20, tr.12 -15]. Nếu xét
trong 367 câu ca dao Tiếng hát mồ côi từ bài số 1 đến bài số 15, chúng ta thấy rằng
hầu hết 367 câu dân ca trên đều là những lời oán trách số phận bất công bằng của
nhân vật trữ tình mồ côi. Đó là oán trách thân mình bị đối xử tàn tệ như thân “trâu
măng buộc ách”, như “ngựa thồ không biết nghỉ”. Oán trách xã hội không công
bằng, oán trách tình duyên đôi lứa không trọn vẹn do thân phận mồ côi bị rẻ rúng,
bị khinh bỉ. Như vậy cả hai thể loại này đều lấy đề tài cùng một kiểu và cùng có chủ
đề chung là tố cáo xã hội bất công chà đạp lên thân phận của những con người bất
hạnh, có thân phận nhỏ bé, thấp cổ bé họng. Hoặc ngay trong 1663 câu thơ Tiếng
hát cúng ma và tiêu biểu là bài Chỉ đường, một bài ca mà các Chí xáy hát tiễn đưa
các linh hồn trở về với tổ tiên, chúng ta thấy rằng đây là một bài ca có sự kế thừa
các yếu tố tự sự rõ rệt trong truyện thần thoại của người Mông. Đó là các thần thoại
giải thích sự hình thành trời, đất, vũ trụ cùng với các nhân vật cụ thể như Chể Lù

×