Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Chỉ đạo và quản lý ứng dụng CNTT trong giảng dạy tại trường Tiểu học Phú Nhiêu, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình_Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154 KB, 24 trang )

_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
MỤC LỤC
Mục lục
1. Lí do chọn chủ đề
2. Tình hình thực tế về việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy tại
trường Tiểu học Phú Nhiêu, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình”
2.1. Tình hình chung của nhà trường.
2.2. Thực trạng của việc ứng dụng CNTT trong quản lí và dạy
học ở trường Tiểu học Phú Nhiêu.
2.3. Thống kê quá trình ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy
học từ năm 2009 đến nay, tại trường Tiểu học phú Nhiêu.
2.4. Những điểm mạnh, yếu, khó khăn, thuận lợi trong ứng dụng
CNTT vào giảng dạy tại trường Tiểu học Phú Nhiêu.
2.5. Ứng dụng CNTT vào dạy học và vai trò của CBQL và giáo
viên:
3. Kế hoạch hành động để ứng dụng CNTT vào quản lí và dạy
học có hiệu quả.
3.1. Kế hoạch thực hiện trong vòng 1 tháng tới.
3.2. Kế hoạch thực hiện trong vòng 3 tháng tới.
3.3. Kế hoạch thực hiện trong vòng 1 năm tới.
3.4. Những lưu ý của giáo viên với giáo án điện tử
3.5. Các giải pháp thực hiện
4. Kết luận và kiến nghị
4.1. Kết luận.
4.2. Kiến nghị
1
2
4
4
4
4


6
12
13
13
13
14
14
14
16
16
17
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
1
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận
Công nghệ thông tin (CNTT), là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý
thông tin. CNTT là sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để sử dụng, chuyển
đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm
CNTT được hiểu là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công
cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và
tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.
CNTT mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới phương pháp và hình thức
dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp
dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có nhiều điều
kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy học đồng loạt, dạy
theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong môi trường CNTT và
truyền thông.
Nếu trước kia người ta nhấn mạnh tới phương pháp dạy sao cho học sinh nhớ
lâu, dễ hiểu, thì nay phải đặt trọng tâm là hình thành và phát triển cho học sinh

các phương pháp học chủ động.
Nếu trước kia người ta thường quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến
thức và thực hành kỹ năng vận dụng, thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển
năng lực sáng tạo của học sinh. Như vậy, việc chuyển từ “lấy giáo viên làm trung
tâm” sang “lấy học sinh làm trung tâm” sẽ trở nên dễ dàng hơn.
Nhờ sự phát triển của CNTT và truyền thông mà mọi người đều có trong tay
nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học nói chung và phần mềm dạy học nói
riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy học này mà học sinh trung bình, thậm
chí học sinh trung bình yếu cũng có thể hoạt động tốt trong môi trường học tập.
Phần mềm dạy học được sử dụng ở nhà cũng sẽ nối dài cánh tay của giáo viên tới
từng gia đình học sinh thông qua hệ thống mạng. Nhờ có máy tính điện tử mà
việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh động hơn, tiết kiệm
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
2
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo phương pháp truyền thống, chỉ cần
“bấm chuột”, vài giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội dung của bài giảng với
những hình ảnh, âm thanh sống động thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú nơi
học sinh. Thông qua giáo án điện tử, giáo viên cũng có nhiều thời gian đặt các
câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học.
Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của CNTT và truyền thông đã nhanh
chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc, cách học tập, cách tư duy và quan
trọng hơn cả là cách ra quyết định của con người.
Trong những năm gần đây, ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp dạy
học và quản lý giáo dục nói chung và trường Tiểu học Phú Nhiêu, huyện Minh
Hóa, tỉnh Quảng Bình (Sau này chỉ viết: trường tiểu học Phú Nhiêu) không còn là
vấn đề mới mẻ. Mỗi giáo viên trường Tiểu học Phú Nhiêu đều thấy rõ và khẳng
định được tầm quan trọng của CNTT trong việc hỗ trợ công tác giảng dạy, quản
lý học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học và ứng dụng CNTT vào dạy học là yêu cầu

trọng tâm của ngành giáo dục nói chung và của nhà trường nói riêng. Để nâng
cao chất lượng giáo dục người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng sử dụng các phương pháp tích cực kết hợp với các thành tựu của CNTT,
để trong một tiết dạy học sinh được hoạt động, thực hành, thảo luận và suy nghĩ
nhiều hơn. Việc sử dụng máy tính làm phương tiện dạy học có tác dụng làm tăng
hiệu quả sư phạm của nội dung và phương pháp dạy học lên rất nhiều. Nhưng làm
thế nào để việc ứng dụng công nghệ thông tin đạt hiệu quả cao và đồng đều ở
mỗi giáo viên. Làm thế nào để tất cả thầy cô biết sử dụng và sử dụng có hiệu quả
là một yêu cầu đặt ra đối với người làm công tác quản lí chuyên môn trong nhà
trường. Đó là lí do tôi chọn đề tài “Chỉ đạo và quản lý ứng dụng CNTT trong
giảng dạy tại trường Tiểu học Phú Nhiêu, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình”
2. Tình hình thực tế về việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy tại trường
Tiểu học Phú Nhiêu, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình”
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
3
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
2.1. Tình hình chung của nhà trường.
Trường Tiểu học Phú Nhiêu đóng trên địa bàn xã Thượng Hóa, một xã biên
giới của huyện Minh Hóa, nơi miền tây của tỉnh Quảng Bình. Là một trong những
xã khó khăn của huyện, địa bàn xa trung tâm, dân cư thưa thớt, 100% là sản xuất
nông nghiệp với canh tác chính là cây ngô, lạc mỗi năm chỉ có một vụ. một bộ
phận nhân dân ở đây là người dân tộc nên trình độ tiếp thu, tiếp cận cái mới còn
rất hạn chế. Từ trước năm 2004 đường giao thông đến nơi đây rất khó khăn, gần
như không có đường cho xe ô tô, xe máy cũng chỉ đi được vào mùa khô, không
có điện, những phương tiện nghe nhìn phổ thông nhất cũng không có, người dân
gần như cô lập trong một địa bàn nhỏ hẹp: thôn Phú Nhiêu.
Trường Tiểu học Phú Nhiêu nằm dưới chân đồi, cách một con suối nhỏ đó là
một trở ngại lớn cho quá trình dạy học ở nơi đây. Bởi hằng năm vào mùa mưa
(tháng 9 - 11) thì gần như cả thôn ngập chìm trong nước (người dân thì đã quen
“sống chung với lũ”). Và học sinh phải nghỉ học, thầy cô cũng không thể đến

được trường.
Từ năm 2004 đến nay, thôn Phú Nhiêu đã có sự đổi thay đáng kể khi có
đường mòn Hồ Chí Minh đi ngang qua, giao thông thuận tiện cùng với sự phát
triển của các phương tiện nghe nhìn (tivi dùng chảo DTH thu sóng vệ tinh, điện
thoại di động) làm cho người dân có cơ hội tiếp thu công nghệ và đặc biệt là nhận
thức được “mở mang”.
Internet bước đầu đã đến địa bàn. Mặc dù chưa có cáp quang, Internet băng
thông rộng nhưng sóng 3G đã đến được những khu vực xa nhất, khó khăn nhất.
Cùng với sự chuyển đổi của địa phương, thì trường Tiểu học Phú Nhiêu là
đơn vị đi đầu trong việc tiếp thu và ứng dụng các thiết bị công nghệ trong dạy học
và quản lý. Thế nhưng mãi đến năm 2009 thì việc ứng dụng các phương tiện khoa
học kĩ thuật vào dạy học mới thực sự bắt đầu khi có một số giáo viên trẻ được
phân công đến giảng dạy tại trường.
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
4
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
2.2. Thực trạng của việc ứng dụng CNTT trong quản lí và dạy học ở
trường Tiểu học Phú Nhiêu.
Trường Tiểu học Phú Nhiêu chỉ có 8 lớp, trong đó có 3 lớp ghép hai độ tuổi,
với 68 học sinh và 15 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Thiết bị công nghệ hiện đại
nhất vào thời điểm năm học 2009 - 2010 là một chiếc máy vi tính được trang cấp
mà cũng chỉ dùng vào mục đích duy nhất là đánh văn bản.
Nhận thấy CNTT là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy,
học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và
chất lượng giáo dục. Đến năm học 2010 - 2011nhà trường đã đầu tư mua một
máy chiếu Projecter và một số máy tính cho một số bộ phận làm việc, riêng máy
tính phòng P.Hiệu trưởng được kết nối Internet. Nhiều giáo viên cũng đã tự mua
được máy tính cho riêng mình. Thế nhưng việc sử dụng máy tính như là công cụ
hỗ trợ quản lý và giảng dạy của cán bộ Quản lý và giáo viên trường Tiểu học Phú
Nhiêu còn quá nhiều hạn chế. Máy tính chỉ sử dụng vào đánh văn bản, Internet bỏ

không vì không biết sử dụng và khai thác. Soạn bài, thiết kế bài giảng điện tử chỉ
có một người duy nhất làm được và cũng chỉ có lớp của thầy giáo đó là học sinh
thỉnh thoảng được học những tiết có “máy chiếu”. Và… những tiết có sử dụng
máy chiếu học sinh thích thú với cái máy hơn là nội dung bài học.
Thấy được những hạn chế đó, lãnh đạo nhà trường đã tổ chức nhiều đợt tập
huấn, nhiều buổi học để giáo viên làm quen và biết được cách sọan bài cũng như
tầm quan trọng của ứng dụng CNTT trong dạy học.
Từ chỗ chỉ một giáo viên soạn được giáo án điện tử (tính từ năm học 2009 -
2010) thì đến nay đa phần giáo viên của trường đã thiết kế và soạn được bài giảng
điện tử. Trong các kì thi GVDG cấp trường có hơn 50% các tiết dạy bằng giáo án
điện tử có chất lượng khá tốt. Đội ngũ giáo viên của trường ngày càng tỏ ra thành
thạo hơn trong việc thiết kế, chỉnh sửa và trình chiếu. Chất lượng giáo án điện tử
ngày càng được nâng cao.
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
5
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
2.3. Thống kê quá trình ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học từ
năm 2009 đến nay, tại trường Tiểu học phú Nhiêu.
- Trong quản lí:
TT Năm học Những ứng dụng
1 2009 - 2010 Gửi và nhận thư điện tử (Email)
Làm đề thi và kiểm tra.
Biểu mẫu báo cáo, tập hợp.
2 2010 - 2011 Gửi và nhận thư điện tử (Email)
Làm đề thi và kiểm tra
Biểu mẫu báo cáo, tập hợp.
3 2011 - 2012 Gửi và nhận thư điện tử (Email)
Làm đề thi và kiểm tra
Biểu mẫu báo cáo, tập hợp.
Quản lý thư viện (phần mềm)

4 2012 - 2013 Gửi và nhận thư điện tử (Email)
Làm đề thi và kiểm tra
Biểu mẫu báo cáo, tập hợp.
Quản lý thư viện (phần mềm)
Bỗi dưỡng thường xuyên qua mạng.
5 2013 - 2014 Gửi và nhận thư điện tử (Email)
Làm đề thi và kiểm tra
Biểu mẫu báo cáo, tập hợp.
Quản lý thư viện (phần mềm)
Bỗi dưỡng thường xuyên qua mạng.
Quản lý nhân sự (PMIC)
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
6
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
Phổ cập giáo dục (phần mềm)
- Đối với giáo viên
TT Năm học Những ứng dụng
1 2009 - 2010 Soạn giáo án (in)
2 2010 - 2011 Soạn giáo án (in)
3 2011 - 2012 Soạn giáo án (in)
Thiết kế bài giảng điện tử
4 2012 - 2013 Gửi và nhận thư điện tử (Email)
Biểu mẫu báo cáo, tập hợp.
Soạn giáo án (in)
Thiết kế bài giảng điện tử
Bỗi dưỡng thường xuyên qua mạng.
Tổ chức Rung chuông vàng (HDDNGLL)
5 2013 - 2014 Gửi và nhận thư điện tử (Email)
Biểu mẫu báo cáo, tập hợp.
Soạn giáo án (in)

Thiết kế bài giảng điện tử
Bỗi dưỡng thường xuyên qua mạng.
Tổ chức Rung chuông vàng (HDDNGLL)
Thiết kế bài giảng E. learning
- Số lượng tiết dạy có ứng dụng CNTT
TT Năm học Số tiết GV thực hiện
1 2009 - 2010 02
2 2010 - 2011 04
3 2011 - 2012 08
4 2012 - 2013 12
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
7
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
5 2013 - 2014 20
Nhìn chung qua hằng năm tỷ lệ ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học
được ứng dụng ngày một nhiều hơn, dù cho việc ứng dụng đó chưa thực sự đồng
đều hoặc có những ứng dụng chỉ có một hoặc vài giáo viên thực hiện được.
Nhưng bảng số liệu cũng cho thấy được sự thay đổi và sự cần thiết của ứng dụng
CNTT trong quản lý và dạy học.
2.4. Những điểm mạnh, yếu, khó khăn, thuận lợi trong ứng dụng CNTT
vào giảng dạy tại trường Tiểu học Phú Nhiêu.
Như đã trình bày ở phần lí do, CNTT là ngành ứng dụng công nghệ quản lý
và xử lý thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong
nghị quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông tin là tập hợp
các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ
yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có
hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi
lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội.
CNTT là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và
hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng

giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo dục là
một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất nước
(Chỉ thị Số: 55/2008/CT- BGDĐT)
Trong nhà trường phổ thông nói chung và trường Tiểu học Phú Nhiêu nói
riêng CNTT được ứng dụng vào nhiều hoạt động nhưng chủ yếu là:
2.4.1. Ứng dụng CNTT trong soạn giáo án.
a. Soạn giáo án bằng máy vi tính (đánh máy giáo án):
Hiện nay các trường đều khuyến khích giáo viên soạn giáo án bằng máy vi
tính, đặc biệt trong các đợt hội giảng cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh.
*Những ưu điểm:
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
8
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
Giáo án đánh máy có hình thức đẹp, trình bày khoa học, dễ sử dụng khi giảng
dạy.
Rút ngắn thời gian soạn giáo án do có sử dụng những ưu điểm của phần mềm
soạn giáo án ( Microsoft Word hay Open office), các phần mềm này sẽ tự động
hóa một số thủ tục của giáo án theo một mẫu nhất định do người soạn đạt ra : ví
dụ như tuần, ngày soạn, ngày dạy, kẻ khung, các mục của giáo án…
Soạn giáo án bằng máy vi tính làm cho chúng ta có thể chỉnh sửa rất dễ dàng.
Ngoài ra, phầm mềm còn cho phép chúng ta sưu tầm, lựa chọn sao chép những ý
tưởng, nội dung hay trong các giáo án cũ của mình, của đồng nghiệp.
Có thể lưu trữ đến các năm học sau để bản thân, đồng nghiệp sử dụng tham
khảo.
Có thể sử dụng để đưa các nội dung cần thiết vào bài giảng điện tử một cách
nhanh chóng mà không cần gõ lại.
Qua việc soạn giáo án, giáo viên được tìm hiểu, học hỏi thêm về công nghệ
thông tin từ đó nâng cao trình độ tin học của giáo viên góp phần nâng cao phong
trào ứng dụng CNTT trong dạy học.
Giáo viên có thể dễ dàng đưa vào giáo án những sơ đồ, biểu đồ, tranh, ảnh

minh họa…. điều mà giáo án viết tay khó có thể làm được.
*Thực trạng:
Nhiều giáo viên chưa có đủ điều kiện có được bộ máy tính, máy in để soạn
giáo án.
Nhiều giáo viên còn lúng túng khi sử dụng máy vi tính và các phần mềm văn
phòng để soạn giáo án, chưa biết khai thác mạng internet để sưu tầm giáo án, tư
liệu phục vụ cho giáo án.
Một số giáo viên lợi dụng mạng internet để khai thác một cách tiêu cực giáo
án của đồng nghiệp như: sao chép y nguyên, không có sự nghiên cứu, không có
chỉnh sửa cho phù hợp với điều kiện dạy học của mình.
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
9
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
Giáo án sao chép từ nhiều nguồn nên bộ font chữ rất lộn xộn, không thực hiện
theo đúng thể thức trình bày văn bản thông thường. Giáo viên không đủ trình độ
tin học để sửa lỗi theo ý mình.
Việc đóng bìa, kẹp, đánh số trang còn rất tùy tiện.
Giáo án in không đủ cơ sở pháp lý: Không ghi họ tên, trường, lớp hoặc ghi
bằng bút mực(ghi sau)
Thậm chí có giáo viên còn nhờ hoặc thuê người làm giáo án (chủ yếu là mua
tại của hàng photocopy) cốt để có giáo án đối phó với kiểm tra, hầu như không
xem lại giáo án.
Những việc làm đó không những không mang lại hiệu quả cho việc dạy học
bằng giáo án đánh máy mà còn làm cho người dạy lười không nghiên cứu bài dạy
và kết quả là làm cho tiết dạy đạt hiệu quả thấp.
b. Xây dựng bài giảng với sự hỗ trợ của máy tính.
Khái niệm giáo án điện tử và bài giảng điện tử là khái niệm mà nhiều nhà
giáo, nhà nghiên cứu vẫn còn tiếp tục tranh luận, ở đây tôi chỉ muốn nói nên
những hiểu biết của mình về việc ứng dụng CNTT trong xây dựng bài giảng.
Bài giảng có ứng dụng CNTT nói chung được xây dựng bằng máy tính với

các phần mềm hỗ chợ chuyên dụng như: phần mềm trình chiếu Microsoft
PowerPoint, phần mềm Movie Maker, Violet, Geo Sketchpad, Carbi, Crocodile
Clips, Crocodile Physics, Macromedia Flash,… và sự hỗ trợ của máy chiếu
Projecter, camera cùng các thiết bị khác.
Những năm gần đây, việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là một
quá trình đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến đổi mới về phương
tiện, các thiết bị dạy học ngày càng phong phú về số lượng nhưng vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu ngày càng cao. Việc xây dựng và ứng dụng các phần mềm vào
dạy học hiện nay đang được nhiều trường, nhiều giáo viên thực hiện để thiết kế
bài giảng nhằm đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
10
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
học tập của học sinh. Đây là một trong những hướng đổi mới PPDH đạt hiệu quả.
Do đó, CNTT có vai trò rất quan trọng trong dạy học, nó mang lại hiệu quả cao,
tiết học sinh động, học sinh hứng thú học tập và tích cực tham gia xây dựng bài.
Tuy nhiên, khi ứng dụng CNTT vào thiết kế bài giảng, giáo viên cần đảm bảo các
nguyên tắc chung, các quy trình thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT sao cho có
hiệu quả.
Dạy học với CNTT đòi hỏi người giáo viên phải biết định hướng, điều khiển
quá trình học tập, giúp học sinh tự mình lĩnh hội tối đa kiến thức. Vì vậy giáo
viên cần phải tích cực bồi dưỡng kiến thức tin học, sẵn sàng đổi mới phương
pháp giảng dạy và ứng dụng CNTT vào dạy học phù hợp với đặc trưng bộ môn.
c. Các nguyên tắc chung của một bài giảng có ứng dụng CNTT.
Đảm bảo tính khoa học sư phạm và khoa học tin học.
Đảm bảo tính hiệu quả, tính thực tế, tính giáo dục.
Đảm bảo tính mở và tính phổ thông.
Đảm bảo tính cập nhật nội dung kiến thức bài giảng.
Cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung kiến thức cơ bản của bài học, xác định trọng
tâm bài và căn cứ trình độ nhận thức của học sinh cùng các điều kiện hiện có để

thiết kế bài giảng
Đa dạng hóa kiến thức.
Ứng dụng CNTT đảm bảo quan điểm dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung
tâm, tránh hiện tượng nhìn chép.
2.4.2. Một số kinh nghiệm trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
a. Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT.
Ba khâu quan trọng nhất: soạn giáo án, trình chiếu giáo án và hướng dẫn học
sinh ghi chép.
Mỗi lớp học thường có trung bình từ 25 - 35 học sinh. Trong khi đó các tiết
dạy giáo án điện tử thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
11
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
ánh sáng trời để ảnh trên màn hình rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các
dãy cuối lớp hay những học sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ
viết hay công thức trên màn chiếu. Do đó để học sinh có thể ghi chép được bài
học chính xác từ màn chiếu, giáo viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú
ý một số nguyên tắc về hình thức sau:
- Các trang trình chiếu phải đơn giản và rõ ràng.
- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi
slide.
Về màu sắc của trang trình chiếu:
Màu sắc không được lòe loẹt, không nên dùng các hình đồ họa vui nhộn gây
mất tập trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản, chỉ nên sử dụng
chữ đậm màu (đen, xanh đậm, đỏ đậm…)trên nền trắng hay nền màu sáng.
Ngược lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.
Về font chữ:
Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các
đề mục có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau”, màu xanh mực cho
học sinh ghi vào vở…)

Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn, không chân (Arial, Tahoma, VNI-
Helve…) hạn chế dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi
trình chiếu.
Về cỡ chữ:
Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có
khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, trong kỹ thuật video, khi chiếu trên
màn hình TV (25 inches) cho vài người xem hay dùng máy chiếu Projector chiếu
lên màn cho khoảng 50 người xem thì cỡ chữ thích hợp nên từ khoảng 20 đến 30
trở lên mới đọc rõ được. Tuy nhiên, với đối tượng học sinh tiểu học, không nên
dùng cỡ chữ quá to, trông trang chiếu thô và không mỹ thuật.
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
12
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
Về trình bày nội dung trên một slide:
Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền trang từ trên xuống,
từ trái qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ
thích hợp (thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi
tiết khi chiếu lên màn. Khi khai thác đa phương tiện (hình ảnh, âm thanh, hiệu
ứng…) cần phải được lựa chọn cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây phân tán tư
tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh. Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa
dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì cũng không nên sử dụng vì không có
tác dụng cung cấp thông tin như ta mong muốn.
Trình chiếu giáo án
Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội
dung trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng
hay phân đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng.
Trường hợp có nội dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta
trích xuất từng phần thích hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng
thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ chép hơn.
Hướng dẫn học sinh ghi chép:

Cần thể hiện bố cục của bài giảng trong suốt quá trình giảng dạy. (vd: Tên bài
dạy, các đề mục) để học sinh dễ dàng củng cố.
Cần quy định màu chữ cho học sinh ghi vào vở. (vd: màu xanh mực…) và cần
quy định để học sinh có thể tự ghi khi nhìn màn hình.
Trong tiết học, học sinh phải có sẵn trước mặt sách giáo khoa quy định của Bộ
GD&ĐT và dùng vở để ghi chép. Khi trình chiếu Power Point và giảng bài, giáo
viên hướng dẫn học sinh cách ghi bài học vào vở như sau:
Những kiến thức căn bản, thuộc nội dung giáo khoa quy định sẽ nằm trong các
slide có ký hiệu riêng.
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
13
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
Những nội dung có tính thuyết minh, minh họa, mở rộng kiến thức sẽ nằm
trong các slide khác, không có ký hiệu riêng. Với những slide này, học sinh tự
chọn học nội dung để chép tùy theo sự hiểu bài của mình.
Với những kiến thức căn bản nhưng khá dài, nếu chép hết sẽ ảnh hưởng đến tiến
độ của tiết học, sau khi giảng xong giáo viên hướng dẫn học sinh đánh dấu trong
sách giáo khoa để về nhà chép (học sinh sẽ chừa khoảng trống thích hợp).
Nguyên tắc giáo dục chủ động là lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên trong
quá trình giảng dạy là phải đảm bảo được việc học sinh nắm được kiến thức trọng
tâm, nhưng giáo viên không có quyền bắt học sịnh công nhận tất cả các đơn vị
kiến thức. Chính bản thân học sinh, trong khi tham gia tích cực vào tiết học, sau
khi tìm hiểu lại sách giáo khoa và tìm tòi ở các phương tiện hỗ trợ, sẽ chọn lọc
đúc kết những kiến thức của tiết học và ghi chép, lưu trữ cho riêng mình.
b. Các tiêu chí đánh giá bài giảng:
Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục tiêu,
nội dung, tiến trình bài giảng.
Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy tính
tích cực của học sinh.
Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy định,

có tính hệ thống và khoa học.
Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, nhằm
phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi
trường tương tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau.
Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo dục.
c. Khai thác mạng Internet phục vụ dạy học:
Một trong các điều kiện quan trọng nhất để tăng cường hiệu quả giáo dục và
chất lượng giảng dạy là tìm kiếm nguồn tư liệu phong phú và phù hợp để bổ sung
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
14
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
những nội dung được quy định trong chương trình và sách giáo khoa. Internet là
nguồn tư liệu vô tận cho các bài giảng sẽ giúp giáo viên và học sinh đáp ứng
được yêu cầu đó .
2.4.3. Lợi ích từ internet đối với giáo viên:
Giáo viên có thể tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ
tin học khi tham gia vào các diễn đàn, các câu lạc bộ, hay tìm hiểu các trang Web
từ mạng internet.
Giáo viên có thể tải các giáo án, bài giảng, tư liệu, đề thi và tài liệu phục vụ
cho công tác nghiên cứu và giảng dạy.
Qua mạng internet giáo viên có thể tham gia vào các diễn đàn của học sinh,
các trường bạn, các blog … để tìm hiểu về tâm lý, sở thích của học sinh từ đó có
những phương pháp giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao.
Giáo viên có thể lập blog, trang web hay các câu lạc bộ để trao đổi cùng đồng
nghiệp, phụ huynh và học sinh để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như nghiệp
vụ sư phạm của mình.
2.4.4. Hạn chế:
Nhiều giáo viên còn chưa thấy được các lợi ích từ việc khai thác internet, có
nhiều người nghĩ rằng internet chỉ là để đọc báo, để giải trí, cũng có người sợ

mình không biết cách khai thác mạng.
Nhiều GV chưa có điều kiện để nối mạng internet hoặc là không có thời gian
nghiên cứu khai thác mạng internet phục vụ công tác dạy học.
Có những giáo viên còn yếu về kiến thức, kĩ năng tin học, rất lúng túng khi
truy cập, khai thác mạng internet (tìm trang, download, lưu trữ, đưa vào bài
giảng…)
Có những giáo viên ngại học, ngại tìm hiểu nghiên cứu để nâng cao trình độ,
bằng lòng với những kiến thức mình đã có.
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
15
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
2.5. Ứng dụng CNTT vào dạy học và vai trò của CBQL và giáo viên:
Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách
dạy và học đã được CBGV trường tiểu học Phú Nhiêu hưởng ứng tích cực. Đây
được coi là con đường ngắn để nâng cao chất lượng dạy học trong các nhà
trường, tuy nhiên để CBGV có thể làm chủ được CNTT còn nhiều vấn đề cần
bàn…
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học cho đến nay không còn mới mẻ, nhưng
cũng chưa hẳn đã được phổ biến rộng rãi, nhiều giáo viên còn e dè, ngại ngần, sử
dụng CNTT trong dạy học một cách máy móc, thụ động…Nguyên nhân chủ yếu
là do nhiều giáo viên đã ăn sâu cách dạy học truyền thống, ngại đổi mới, bên cạnh
đó trình độ tin học trong giáo viên chưa đồng đều, nhiều giáo viên chưa được đào
tạo cơ bản. Cùng với đó, trang thiết bị, máy móc để phục vụ việc dạy học còn
thiếu thốn…
Việc đầu tư hệ thống máy tính, máy chiếu đòi hỏi nguồn kinh phí không nhỏ,
máy chiếu projerter lại có khấu hao lớn, khi bị sự cố thì việc sửa chữa rất tốn
kém.
Việc lắp đặt máy chiếu cũng đòi hỏi phải có kỹ năng, nhiều giáo viên chưa tự
làm được, những khi có trục trặc không thể tự xử lý nếu không có trợ giúp.
Đứng trước những khó khăn này, nếu người thầy không thực sự say mê nghề

nghiệp, không có sự lao động sáng tạo thì sẽ khó mà đưa được CNTT vào giảng
dạy…. Đổi mới phương pháp dạy học, yếu tố quyết định là bản thân người giáo
viên có quyết tâm hay không. Nếu quyết tâm cao thì chắc chắn sẽ làm được.
Vai trò của CBQL:
Chúng ta đều thấy rõ muốn đổi mới dạy học và ứng dụng CNTT có hiệu quả
trong nhà trường, trước hết chính người hiệu trưởng cần phải hiểu rõ tầm quan
trọng của đổi mới dạy học và vai trò của ứng dụng CNTT vào dạy học, phải giúp
giáo viên hiểu được thế nào là đổi mới dạy học và muốn đổi mới dạy học giáo
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
16
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
viên phải làm gì. Đồng thời hiệu trưởng cũng phải tạo điều kiện cơ sở vật chất để
việc thực hiện đổi mới dạy học của GV có thể thực hiện…
Khi bắt tay vào thiết kế bài giảng điện tử, nhiều giáo viên tỏ ra mệt mỏi vì
công sức phải bỏ ra để có một tiết dạy không phải tính bằng giờ mà bằng ngày.
Chính vì vậy, những khó khăn và tốn kém về thời gian, vật chất này cần được nhà
trường hiểu rõ để có sự động viên và đãi ngộ hợp lý, có sự hỗ trợ kinh phí …Hơn
nữa, nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua giảng dạy bằng phương tiện
hiện đại, có tổng kết, biểu dương, khen thưởng nhằm tạo thêm khí thế sôi nổi và
để những giáo viên còn e ngại có những bước đi mạnh dạn hơn, đặc biệt là giáo
viên đã có tuổi và giáo viên mới vào nghề. Đẩy mạnh việc tổ chức các hội thảo,
trao đổi kinh nghiệm giữa các giáo viên, từ đó đề xuất với chuyên môn những
giải pháp góp phần nâng cao trình độ tin học cho giáo viên, có chế độ đãi ngộ cho
những giáo viên có bài giảng điện tử có giá trị, tích cực lao động sáng tạo trong
nghề, đồng thời đầu tư cơ sở vật chất phục vụ việc ứng dụng CNTT vào giảng
dạy…
3. Kế hoạch hành động để ứng dụng CNTT vào quản lí và dạy học có
hiệu quả.
Vạn sự khởi đầu nan, ứng dụng CNTT vào giảng dạy ban đầu là một bài toán
khó với giáo viên, nhưng qua một thời gian không dài, giáo viên trường Tiểu học

Phú Nhiêu, từ làm quen đến biết và có một số giáo viên đã thành thạo trong việc
ứng dụng CNTT vào dạy học. Với việc ứng dụng CNTT giáo viên có thể tổ chức
tiết học một cách sinh động, các bài giảng không chỉ mang hơi thở cuộc sống
hiện đại gần gũi hơn với học sinh mà còn giúp cả người dạy và người học được
tiếp xúc với các phương tiện hiện đại, làm giàu thêm vốn hiểu biết của mình.
Tuy nhiên, người giáo viên cần xác định được: Ứng dụng CNTT không đồng
nhất với đổi mới phương pháp dạy học, CNTT chỉ là phương tiện tạo thuận lợi
cho triển khai phương pháp tích cực chứ không phải là điều kiện đủ của phương
pháp này. Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
17
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
quá trình dạy học. Để một giờ học có ứng dụng CNTT là một giờ học phát huy
tính tích cực của học sinh thì điều kiện tiên quyết là việc khai thác CNTT phải
đảm bảo các yêu cầu và tính đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực mà giáo
viên sử dụng.
Việc ứng dụng CNTT vào dạy học góp phần đổi mới phương pháp dạy học là
một công việc khó khăn, lâu dài, đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài
chính và năng lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và
phát triển CNTT trong dạy học ở trường Tiểu học Phú Nhiêu có hiệu quả. Tôi đã
đề ra kế hoạch hành động cụ thể như sau:
3.1. Kế hoạch thực hiện trong vòng 1 tháng tới.
Điều tra, khảo sát lại cơ sở vật chất của nhà trường, về máy chiếu, phòng học,
các thiết bị hỗ trợ khác…
Điều tra lại số lượng máy tính cá nhân của mỗi giáo viên, đề xuất Hiệu trưởng
khảo sát lại khả năng soạn bài, thiết kế bài giảng và quá trình giảng dạy bằng giáo
án điện tử của mỗi giáo viên.
Khảo sát nhu cầu ứng dụng CNTT trong dạy học đối với giáo viên trong
trường.
3.2. Kế hoạch thực hiện trong vòng 3 tháng tới.

Tham mưu, đề nghị các cấp quản lí giáo dục tạo điều kiện trang bị những
thiết bị cần thiết cho việc thực hiện giáo án điện tử như máy tính, máy chiếu đa
năng, camera…
Tổ chức các chuyên đề, tập huấn học tập về cách sử dụng máy chiếu, thiết lập
các hiệu ứng trong PowerPoint, khai thác mạng internet cho giáo viên để họ có
thể tự thiết kế giáo án điện tử cho mình, theo ý mình. Tránh việc phải nhờ soạn
hộ hoặc chỉ biết nhấn chuột cho chạy các trang slide, không thể tự xử lí khi có sự
cố.
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
18
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
Tìm hiểu và nghiên cứu thêm những kỹ năng cơ bản và nâng cao trong việc
sử dụng giáo án điện tử, khai thác mạng internet để làm phong phú thêm những
dạng bài tập khác nhau.
3.3. Kế hoạch thực hiện trong vòng 1 năm tới.
Tham gia các buổi hội giảng, chuyên đề, tập huấn để thu nhận những góp ý
chân thành từ đồng nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo phương
pháp mới.
Thăm dò và đánh giá chất lượng học sinh sau giờ học để nắm bắt được thực
chất chất lượng của các em. Kịp thời điều chỉnh những bất cập trong quá trình
giảng dạy với máy chiếu.
3.4. Những lưu ý của giáo viên với giáo án điện tử
Tránh các quan điểm tiêu cực như cự tuyệt giáo án điện tử, chỉ dạy theo lối cổ
điển “đọc chép” hoặc tuyệt đối hóa máy chiếu, học sinh thụ động tiếp thu “nhìn
chép”. Chỉ nên coi máy chiếu là một trong những công cụ, phương tiện dạy học
và cần được phối hợp với các công cụ phương tiện khác để làm cho giờ học
phong phú và đạt hiệu quả cao hơn.
3.5. Các giải pháp thực hiện
Biện pháp 1: Ngoài kiến thức chuyên môn cần phải trang bị những kiến thức
tin học cơ bản nhất:

Mặc dù giáo án điện tử chưa thực sự phổ biến trong tất cả đội ngũ nhưng
bước đầu nó đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học và
cách giảng dạy truyền thống. Việc dạy bằng giáo án điện tử sẽ giúp người thầy đỡ
vất vả và tiết dạy thực sự hiệu quả hơn. Để làm được điều này người giáo viên
cần:
- Có kiến thức cơ bản về sử dụng máy tính
- Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint hoặc các phần mềm tương tự.
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
19
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
- Biết cách truy cập và khai thác tài nguyên Internet.
- Có khả năng sử dụng một phần mềm chỉnh sửa ảnh, làm các ảnh động, cắt
các file âm thanh … đơn giản.
- Biết cách kết nối và sử dụng máy chiếu projecter.
Biện pháp 2: Khai thác và xử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài giảng:
Từ những giáo án được soạn sẵn trên giấy và được trình bày lại trên bảng đen
làm thế nào để chúng trở thành các giáo án điện tử được trình bày trên máy
chiếu? Điều này đòi hỏi người thầy phải biết sử dụng PowerPoint. Đây là một
phần mềm nằm trong bộ Office dùng để tạo các trình diễn đa dạng trên máy tính.
Nếu chỉ dừng ở mức độ gõ những nội dung cần thiết cộng thêm một ít định dạng
về màu sắc, font chữ, thiết nghĩ giáo viên nào cũng có thể làm được. Tuy nhiên
nếu chỉ có thế thì chúng ta chưa thực sự khai thác hết sức mạnh của PowerPoint
cũng như chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới này.
Những tư liệu minh họa cho các nội dung bài học tương đối nhiều trên
Internet. Thiết nghĩ, nếu chỉ cần bỏ chút thời gian mà có được những nội dung,
hình ảnh cần minh họa cho bài giảng thì đó là điều rất nên làm bởi lẽ nó vừa cung
cấp cho chúng ta tư liệu bài giảng lại vừa giúp ta nâng cao kỹ năng sử dụng máy
tính. Điều này cũng đồng nghĩa với việc giáo viên cần biết cách thức truy cập
Internet để lấy thông tin. Tuy nhiên, không phải hình ảnh nào chúng ta lấy từ
Internet đều thỏa mãn ý muốn. Điều quan trọng là biết cách chọn lọc tư liệu, tiết

kiệm được thời gian mà vẫn mang lại hiệu quả cao.
Biện pháp 3: Đưa các tư liệu cần thiết vào bài dạy:
Khi đã sưu tập được những tư liệu cần thiết cần phải có sự chọn lọc cần thiết
để đưa vào bài giảng của mình. Không nên sử dụng quá nhiều hình ảnh tư liệu mà
chỉ sử dụng ở mức độ vừa phải để tránh làm phân tán sự tập trung của học sinh.
Sau khi đưa hình ảnh minh họa vào bài giảng, thao tác cơ bản nhất đòi hỏi
người thầy phải nắm được là cách thiết lập các hiệu ứng để làm cho bài giảng
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
20
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
sinh động, mang lại không khí học tập, giảng dạy mới mẻ. Các hiệu ứng cần được
sử dụng một cách vừa phải để không làm ảnh hưởng đến sự tiếp thu kiến thức của
học sinh. Bên cạnh đó nếu giáo viên có thể sử dụng thành thạo PowerPoint thì
còn có thể thiết kế được nhiều kiểu bài tập khác nhau rất phong phú và hấp dẫn
như trò chơi ô chữ, lựa chọn đáp án…bằng việc sử dụng các hiệu ứng. Ngoài ra,
việc làm này còn giúp cho giáo viên tiết kiệm được thời gian viết nội dung lên
bảng, nội dung hiển thị đến đâu, giáo viên giảng đến đó, làm cho thời gian giảng
bài nhiều hơn, các em học sinh hiểu bài sâu hơn.
Biện pháp 4: Làm phong phú thêm hệ thống bài tập:
Khi đã biết cách sử dụng PowerPoint, Violet một cách thành thạo, giáo viên
có thể dễ dàng tạo ra được rất nhiều các dạng bài tập khác nhau nhờ việc sử dụng
các hiệu ứng ví dụ như dạng bài tập trắc nghiệm lựa chọn, trò chơi ô chữ…
Biện pháp 5: Linh hoạt khi hướng dẫn học sinh học tập
Bài giảng sau khi thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua máy
chiếu. Nghĩa là giáo viên buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây là một trong những
yêu cầu bắt buộc, chỉ cần một vài thao tác lắp máy chiếu với máy tính. chắc hẳn
giáo viên sẽ có một bài giảng chất lượng, học trò sẽ có không khí học thoải mái
hơn. Thực tế cho thấy nhờ giáo án điện tử mà giáo viên đã tạo ra một không khí
khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh sẽ tập trung cao để nghe giảng và
tư duy nhiều hơn trong các giờ học.

Biện pháp 6: Sử dụng giáo án điện tử không có nghĩa giáo án truyền thống bị
lãng quên.
Trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày tất cả nội dung bài giảng. Vậy
thì đối với giáo án điện tử chỉ gồm một số slide, các slide chỉ chứa từ khóa, hình
ảnh… thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần được giảng? Để
giải quyết việc này, tốt nhất giáo viên phải xây dựng cho mình một đề cương bài
giảng. Đề cương ghi rõ số tiết dạy của môn học, tên bài giảng tương ứng với các
tiết học nội dung cụ thể sẽ được trình bày trong mỗi tiết học là gì? Vấn đề nào
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
21
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
trình bày trước, vấn đề nào trình bày sau? Vấn đề nào cần được trọng tâm và
nhấn mạnh? Dành thời gian cho từng vấn đề là bao nhiêu? … Sở dĩ cần chuẩn bị
kỹ lưỡng như vậy là vì nếu tiết giảng dạy đó giáo viên chưa nói hết nội dung các
slide hay đã trình bày hết nhưng thời gian còn thừa là đồng nghĩa với việc “cháy
giáo án” và không đảm bảo được yêu cầu của bài dạy. Kết hợp đề cương này
cùng một bản in cầm tay một cách hợp lý chắc chắn sẽ không mắc phải sự cố này.
Biện pháp 7: Kết hợp giữa trình chiếu và ghi bảng:
Mặc dù những nội dung cơ bản đã được giáo viên tóm lược và trình chiếu
trên màn chiếu, tuy nhiên nó lại không thể lưu lại được bố cục của bài dạy bởi
trong quá trình giảng dạy các slide phải được trình chiếu nối tiếp nhau, do đó sau
khi kết thúc bài học học sinh có thể sẽ chưa hình dung lại được hệ thống kiến
thức của bài học. Do vậy, song song với quá trình trình chiếu, giáo viên nên ghi
lên bảng đen những tiêu đề, đề mục của bài học để cuối tiết học, học sinh dễ hình
dung lại nội dung kiến thức vừa lĩnh hội. Đồng thời giáo viên có thể sử dụng
phần ghi bảng tóm tắt này để yêu cầu học sinh trình bày cụ thể lại nội dung của
từng ý.
Biện pháp 8: Soạn giáo án đánh máy một cách tích cực, chi tiết và có sự chỉnh
sửa cần thiết hợp lý trước và sau mỗi tiết dạy để giáo án đánh máy có tác dụng tốt
nhất nâng cao hiệu quả giờ dạy cũng như cất lượng dạy học. Có kế hoạch lưu trữ

cẩn thận khoa học để sử dụng cho những năm học sau đồng trao đổi giáo án với
đồng nghiệp để có được những bộ giáo án tốt nhất cho công tác giảng dạy.
Biện pháp 9: Cần tham gia tích cực vào các câu lạc bộ, diễn đàn, các trung
tâm tài nguyên giáo dục trên mạng để khai thác hiệu quả mạng internet nhằm
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đồng thời nâng cao chất lượng dạy học.
4. Kết luận và kiến nghị
4.1. Kết luận.
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
22
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, việc hiểu biết và vận dụng
CNTT vào quản lý và giảng dạy là một việc làm cần thiết và đem lại hiệu quả
thiết thực. hơn lúc nào, chúng ta cần chuẩn bị cho bản thân và tập thể một tinh
thần cầu tiến và nhạy bén với cái mới. vận dụng linh hoạt, kích thích sự năng
động, sáng tạo, bồi dưỡng nhận thức đúng đắn cho đội ngũ trong việc ứng dụng
CNTT vào công tác là một thử thách và nhiệm vụ của người CBQL. Thực hiện
tốt công tác này, chắc chắn sẽ mang lại những hiệu quả tích cực, góp phần thúc
đẩy tiến trình đổi mới nhà trường theo hướng hội nhập đồng thời củng cố và phát
triển bền vững giáo dục Tiểu học trong tương lai.
Những năm gần đây, việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là một
quá trình đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến đổi mới về phương
tiện, các thiết bị dạy học ngày càng phong phú về số lượng nhưng vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu ngày càng cao. Việc xây dựng và ứng dụng các phần mềm vào
dạy học hiện nay đang được nhiều trường, nhiều giáo viên thực hiện để thiết kế
bài giảng nhằm đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động
học tập của học sinh. Đây là một trong những hướng đổi mới phương pháp dạy
học đạt hiệu quả.
4.2. Kiến nghị
CNTT có vai trò rất quan trọng trong dạy học, nó mang lại hiệu quả cao, tiết
học sinh động, học sinh hứng thú học tập và tích cực tham gia xây dựng bài. Dạy

học với CNTT đòi hỏi người giáo viên phải biết định hướng, điều khiển quá trình
học tập, giúp học sinh tự mình lĩnh hội tối đa kiến thức.
Vì vậy, giáo viên cần phải tích cực bồi dưỡng kiến thức tin học, sẵn sàng đổi
mới phương pháp giảng dạy và ứng dụng CNTT vào dạy học phù hợp với đặc
trưng bộ môn.
Nhà trường cần tạo điều kiện đầy đủ về cơ sơ vật chất, thiết bị, có chế độ
khen thưởng hợp lí đối với những cá nhân tích cực, xuất sắc trong ứng dụng
CNTT vào dạy học.
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
23
_______________________________________________Tiểu luận cuối khóa lớp QLGD
Phòng Giáo dục và các tổ chức quản lí cần thường xuyên mở các lớp tập huấn
về CNTT cho giáo viên, có kiểm tra kiến thức, năng lực, trình độ tin học của giáo
viên. Đánh giá giáo việc ứng dụng CNTT của cán bộ, giáo viên thông qua khả
năng thực hiện mà không phải kiểm tra đánh giá trên hồ sơ, bằng cấp.
___________________________
Đinh Ngọc Tú – Trường TH Phú Nhiêu_______________________________________
24

×