Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Chủ nghĩa thực chứng và quan điểm của chủ nghĩa thực chứng về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ NGỌC ANH



CHỦ NGHĨA THỰC CHỨNG VÀ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ
NGHĨA THỰC CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT
HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số: 5 01 01




Người hướng dẫn: GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn




HÀ NỘI - 2004

1

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 2
Chương 1 10
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA THỰC CHỨNG 10
1.1. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa thực chứng. 10
1.2. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa thực chứng. 14
1.2.1. Chủ nghĩa thực chứng sơ kỳ. 14
1.2.2. Chủ nghĩa phê phán kinh nghiệm (Empirio - Criticism) - hình thức phát triển mới của
chủ nghĩa thực chứng từ cuối thế kỷ XIX. 26
1.2.3. Chủ nghĩa Thực chứng mới. 31
Chương 2 49
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA THỰC CHỨNG 49
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN 49
2.1. Quan điểm của các nhà triết học thực chứng qua các giai đoạn bàn về mối quan hệ giữa
triết học và khoa học tự nhiên. 49
2.1.1. Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên trong quan niệm của các nhà triết học
thực chứng sơ kỳ. 49
2.1.2. Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên trong chủ nghĩa phê phán kinh nghiệm
của Makhơ và Avenariut. 57
2.1.3. Chủ nghĩa thực chứng mới với việc xác định vai trò mới của triết học trong mối quan hệ
với khoa học tự nhiên. 63
2.2. Sơ bộ đánh giá một số giá trị và hạn chế của chủ nghĩa thực chứng trong vấn đề về quan
hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên. 70
KẾT LUẬN 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81







1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ mở cửa để tăng cường sự giao lưu với
các dân tộc trên thế giới, theo phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển” [3, tr.119]

. Đó là một chủ trương đúng đắn. Bởi vì, lịch
sử nhân loại từ xưa đến nay đã cho thấy, “bất cứ một quốc gia nào, một dân
tộc nào cũng không thể phát triển được, và hơn thế nữa càng không thể phát
triển nhanh được nếu như tự mình đóng cửa, tách khỏi sự giao lưu mọi mặt
với các dân tộc khác” [1, tr.801]. Để có thể chủ động giao lưu và hội nhập
quốc tế, ngoài việc phải phấn đấu xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, thì
việc mở rộng hiểu biết về văn hoá tinh thần của các dân tộc trên thế giới nhằm
“tiếp thu tinh hoa” để làm giàu thêm vốn văn hoá và các giá trị văn hoá của
dân tộc mình là điều vô cùng cần thiết. Trong quá trình tìm hiểu về văn hoá
tinh thần của nhân loại, chúng ta không thể không chú trọng nghiên cứu
những nền triết học tiên tiến của thế giới. Bởi, những tư tưởng triết học chính
là thành quả của tư duy và văn minh nhân loại, là sự “kết tinh tinh thần của
thời đại”.
Nhưng, trên thực tế, ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về các
nền triết học tiên tiến của thế giới chưa có nhiều. Trong một thời gian dài,
chúng ta chỉ chủ yếu quan tâm đến việc nghiên cứu và giảng dạy triết học
mácxít, mảng đề tài triết học ngoài mácxít chưa được quan tâm nghiên cứu
đúng mức, nhất là nền triết học phương Tây hiện đại, một nền triết học chứa
đựng không ít giá trị tư tưởng.
Triết học phương Tây hiện đại được hình thành và phát triển trong xã
hội hiện đại của phương Tây. Do những điều kiện lịch sử và sự phát triển của




Từ đây: - Số đầu là số thứ tự tài liệu tham khảo.
-Số sau là số trang của tài liệu tham khảo.

2
khoa học, triết học phương Tây hiện đại đã trải qua một quá trình diễn biến rất
phức tạp với sự xuất hiện và biến đổi của nhiều trường phái, nhiều trào lưu
khác nhau với những tư tưởng triết học rất sâu sắc và phong phú. Nếu đặt
sang một bên triết học tôn giáo hiện đại, thì có thể khẳng định rằng, về cơ
bản, triết học phương Tây hiện đại xoay quanh hai “cái trục”, hai khuynh
hướng chính, đó là chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa phi duy lý. Hai khuynh
hướng này tập trung giải quyết các vấn đề cấp bách nhất của “tinh thần thời
đại” hiện đại là vấn đề nhận thức khoa học và các vấn đề của thế giới người
[10, tr.46].
Để góp phần tìm hiểu những tư tưởng của triết học phương Tây hiện
đại, chúng tôi hướng sự nghiên cứu của mình về chủ nghĩa thực chứng, một
khuynh hướng tư tưởng lớn, một trào lưu triết học nổi trội mở đầu cho hệ tư
tưởng duy khoa học của triết học phương Tây hiện đại. Trào lưu triết học này
xuất hiện đầu tiên ở Pháp, sau đó ở Anh và một số nước Tây Âu khác trong
những năm 30 của thế kỷ XIX. Từ khi ra đời, nó đã được phổ biến rộng rãi,
trải qua nhiều giai đoạn phát triển và có ảnh hưởng rất lớn ở phương Tây.
Chủ nghĩa thực chứng ra đời đã đề cập đến rất nhiều vấn đề, nhưng
“vấn đề trung tâm và thường xuyên được chủ nghĩa thực chứng ở mọi giai
đoạn chú ý là vấn đề quan hệ qua lại giữa triết học và khoa học tự nhiên” [30,
tr.53]. Như chúng ta đã biết, triết học và khoa học tự nhiên luôn có mối quan
hệ gắn bó mật thiết với nhau, nương tựa, thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình
phát triển của mình. Trong lịch sử, mỗi hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy
vật đều tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của khoa học tự
nhiên. Song, do những điều kiện kinh tế, xã hội và bối cảnh tinh thần của xã

hội tư bản đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa thực chứng ra đời tuyên bố sẽ thực hiện
“một cuộc cách mạng” trong triết học. Nó phủ nhận vai trò của triết học
truyền thống một cách triệt để, đòi thay thế triết học truyền thống bằng một
thứ triết học mới - triết học thực chứng. Chính vì vậy, các nhà tư tưởng của

3
chủ nghĩa thực chứng muốn xác định lại đối tượng và phương pháp của triết
học, bằng cách xác định lại mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên.
Những quan điểm về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên của các
nhà triết học thực chứng ở các giai đoạn rất đa dạng, đan xen cả những yếu tố
hợp lý và những yếu tố mâu thuẫn. Vì vậy, việc nghiên cứu những quan điểm
của họ, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa triết học và khoa học
tự nhiên cũng như hiểu rõ hơn về những diễn biến tư tưởng của nền triết học
phương Tây.
Trên tinh thần đó, chúng tôi chọn: “Chủ nghĩa thực chứng và quan
điểm của chủ nghĩa thực chứng về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự
nhiên” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở Việt Nam.
Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, những công trình nghiên cứu về chủ
nghĩa thực chứng ở Việt Nam chưa nhiều, đa số các công trình chỉ đề cập đến
chủ nghĩa thực chứng ở mức độ khái quát, chưa có tài liệu nào nghiên cứu về
chủ nghĩa thực chứng một cách chuyên sâu.
Trong khi giới thiệu về các trào lưu tư tưởng của triết học phương Tây
hiện đại, cuốn sách Triết học phương Tây hiện đại gồm 4 tập của tác giả Lưu
Phóng Đồng (Lê Quang Lâm dịch từ tiếng Trung Quốc, nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1994) đã giới thiệu về chủ nghĩa thực chứng cổ
điển, chủ nghĩa Makhơ, triết học phân tích và một số tư tưởng chủ yếu của
các nhà triết học thực chứng tiêu biểu. Đề cập đến các giai đoạn phát triển của
chủ nghĩa thực chứng, cuốn Triết học và cuộc đấu tranh ý thức hệ (về một số
trào lưu triết học tư sản hiện đại) (Nhà xuất bản Thông tin lý luận năm 1982),

các tác giả đã khái quát ngắn gọn 4 giai đoạn phát triển của chủ nghĩa thực
chứng: 1. Chủ nghĩa thực chứng cổ điển; 2. Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán;
3. Chủ nghĩa thực chứng mới và 4. Chủ nghĩa hậu thực chứng. Theo các tác
giả, toàn bộ các hoạt động của chủ nghĩa thực chứng bao gồm 3 chương trình

4
lớn: 1) chương trình thủ tiêu triết học. 2) chương trình nghiên cứu lôgíc và
phương pháp luận khoa học và 3) chương trình “thực chứng hoá toàn bộ nhận
thức và hoạt động” .
Trong tất cả các hình thức phát triển của chủ nghĩa thực chứng, thì hình
thức phát triển thứ 3 - chủ nghĩa thực chứng mới - là trào lưu triết học được
nhiều người quan tâm nghiên cứu từ những góc độ khác nhau: Bài viết “Triết
học phương Tây hiện đại: một cái nhìn khái quát” của tác giả Đỗ Minh Hợp
đăng trên tạp chí Triết học, số 1, năm 2000, đã nêu khái quát một số tư tưởng
cơ bản của chủ nghĩa thực chứng mới. Bài viết nêu rõ: “Các nhà thực chứng
mới xem xét quan hệ nhận thức của con người với thế giới hoàn toàn dưới
hình thức của khoa học tự nhiên hiện đại và coi việc xây dựng ngôn ngữ
khoa học là nhiệm vụ của triết học”. Bài Những khuynh hướng triết học tư sản
hiện đại, (tư liệu của Viện Triết học, 1980) lược ghi bài nói chuyện của G.A.
Cuốcganốp. Tác giả cho rằng: Các hình thức khác nhau của chủ nghĩa thực
chứng mới là thuộc trường phái duy tâm chủ quan. Chủ nghĩa thực chứng mới
tuy có dựa vào khoa học nhưng vẫn có nét thần bí. Báo cáo của giáo sư H.
Klenner lưu tại Viện Triết học, về Các trào lưu triết học tư sản hiện đại
(1976) cho rằng, chủ nghĩa thực chứng là một bộ phận của chủ nghĩa duy lý.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa thực chứng nhằm tìm những hạt nhân hợp lý cho
sự tồn tại của giai cấp tư sản. Theo tác giả thì chủ nghĩa thực chứng sẽ tác
động đến sự phát triển của khoa học vì các nhà thực chứng làm việc theo lý
tính, giữ lập trường trung lập trong vấn đề phát triển xã hội. Đề cập đến vấn
đề nhận thức luận của chủ nghĩa thực chứng lôgíc, bài viết: “Triết học khoa
học” - thực chứng chủ nghĩa dưới ánh sáng của khoa học của tác giả

Vlađimia Rum (người dịch Đặng Phùng Quân, tư liệu Viện Triết học, năm
1981), đã khẳng định rằng, trọng tâm vấn đề nhận thức luận của chủ nghĩa
thực chứng lôgíc là nêu lên những vấn đề về quan hệ của bản chất lý luận và
kinh nghiệm. Chủ nghĩa thực chứng mới còn được giới thiệu trong cuốn sách

5
Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại của tác giả Nguyễn Hào Hải
(Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, năm 2001). Trong cuốn sách này, tác giả đã
trình bày một cách khái quát về chủ nghĩa thực chứng mới (Néo-Positivism).
Sau đó, tác giả đi sâu phân tích “thuyết phủ chứng thực” của K.Popper, một
học thuyết gây tiếng vang lớn trong triết học hiện đại ở phương Tây.
Những tư tưởng của từng triết gia thực chứng mới chưa được nghiên cứu
nhiều ở Việt Nam. Trên tạp chí Triết học năm 2001 có hai bài viết về tư tưởng
của Vítgenstêin của tác giả Trần Tuấn Phong là: Quan hệ giữa ngôn ngữ và
thực tại trong “chuyên luận lôgíc-triết học” của Vitgenstêin (số 2/2001) và
Về vai trò của khái niệm “trò chơi ngôn ngữ” trong triết học Vítgenstêin, (số
9/2001). Trong hai bài viết, tác giả đã trình bày một số tư tưởng cơ bản về vai
trò của ngôn ngữ của Vitgenstêin - nhà triết học có những đóng góp to lớn cho
sự hình thành và phát triển của triết học phân tích. Luận văn thạc sĩ “Vấn đề
quyền lực trong triết học xã hội của B.Rátxen”của của tác giả Vũ Mạnh Toàn
cũng có đề cập đến một số tư tưởng triết học của Rátxen với tư cách là một
nhà triết học, người đặt nền móng cho chủ nghĩa thực chứng mới. Ngoài ra,
chúng ta có thể tìm thấy các tưởng chủ yếu của các triết gia thực chứng mới
được giới thiệu tóm tắt trong cuốn Triết học phương Tây hiện đại - Từ điển,
(Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996).
Vấn đề mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên là vấn đề trung
tâm của chủ nghĩa thực chứng. Tuy nhiên, ở Việt Nam chỉ có một số ít tư liệu
nói sơ lược, khái quát về vấn đề này. Chúng ta có thể tìm thấy tư liệu về nói
về mối quan hệ này trong cuốn Vai trò của phương pháp luận triết học Mác-
Lênin đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên của Viện Triết học (Nhà

xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977). Trong tác phẩm này, khi phân tích
mối quan hệ của khoa học tự nhiên hiện đại với chủ nghĩa thực chứng mới,
các tác giả đã phê phán những quan điểm của chủ nghĩa thực chứng mới và
coi chủ nghĩa thực chứng mới là kẻ thù nguy hiểm của khoa học tự nhiên hiện

6
đại. Ngoài ra, vấn đề này còn được đề cập một cách sơ lược trong cuốn Triết
học và cuộc đấu tranh ý thức hệ (về một số trào lưu triết học tư sản hiện đại),
các tác giả của cuốn sách đã khẳng định: “Vấn đề lớn nhất, bao trùm nhất của
chủ nghĩa thực chứng đó là vấn đề quan hệ qua lại giữa triết học và các khoa
học cụ thể, chuyên ngành” và “chủ nghĩa thực chứng đã sai lầm về quan hệ
qua lại giữa triết học và khoa học và cả bản thân triết học cũng như bản thân
khoa học”.
Để viết luận văn này, ngoài việc tham khảo các tư liệu về chủ nghĩa thực
chứng bằng tiếng Việt, chúng tôi có sử dụng thêm một số tư liệu bằng tiếng
Anh từ các trang web về triết học trên Internet (được ghi rõ trong danh mục
các tài liệu tham khảo).
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
Mục đích của luận văn là tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển của
chủ nghĩa thực chứng trong ba giai đoạn đầu, từ đó phân tích quan điểm của
chủ nghĩa thực chứng trong ba giai đoạn này về mối quan hệ giữa triết học và
khoa học tự nhiên.
Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời và ba giai đoạn phát triển đầu tiên của chủ
nghĩa thực chứng.
- Phân tích quan điểm của chủ nghĩa thực chứng ở ba giai đoạn về mối
quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên.
4. Giới hạn nghiên cứu của luận văn.
Chủ nghĩa thực chứng là một trong những trào lưu triết học nổi trội của
triết học phương Tây hiện đại. Kể từ khi ra đời, chủ nghĩa thực chứng đã trải

qua 4 giai đoạn phát triển: 1. Chủ nghĩa thực chứng sơ kỳ; 2. Chủ nghĩa phê
phán kinh nghiệm; 3. Chủ nghĩa thực chứng mới (Neo-positivism); 4. Chủ
nghĩa hậu thực chứng (Post-positivism). Ở mỗi giai đoạn phát triển, chủ nghĩa
thực chứng có rất nhiều đại biểu với những quan điểm đa dạng, phức tạp.

7
Tính đa dạng, phức tạp đặc biệt càng tăng lên ở những giai đoạn phát triển sau
của chủ nghĩa thực chứng như chủ nghĩa thực chứng mới và chủ nghĩa hậu
thực chứng phản ánh tính đa dạng, phong phú của nền triết học phương Tây
hiện đại.
Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, chúng tôi không có điều kiện tìm
hiểu được tất cả các tư tưởng của các nhà thực chứng ở tất cả các giai đoạn
phát triển mà chỉ có thể tìm hiểu một số tư tưởng của các nhà thực chứng tiêu
biểu trong ba giai đoạn đầu, qua đó tìm ra những quan điểm chủ yếu của họ
về mối quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên. Hình thức phát triển thứ
4 của chủ nghĩa thực chứng là chủ nghĩa hậu thực chứng, chúng tôi xin được
nghiên cứu ở những công trình tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu những tài liệu viết về
chủ nghĩa thực chứng ở các góc độ khác nhau.
Luận văn dựa trên nền tảng quan điểm của triết học duy vật biện chứng
để nghiên cứu lịch sử triết học và tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa thực
chứng về mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là những
phương pháp nghiên cứu của lịch sử triết học. Cụ thể là: Phương pháp lịch sử,
phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, v.v
6. Đóng góp mới của luận văn.
Thông qua việc trình bày một cách có hệ thống ba giai đoạn đầu trong
sự phát triển của chủ nghĩa thực chứng, luận văn bước đầu nêu ra và phân tích

quan điểm của các nhà triết học thực chứng về mối quan hệ giữa triết học và
khoa học tự nhiên.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.

8
Về mặt lý luận, luận văn góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học của chủ
nghĩa thực chứng, một trào lưu triết học nổi trội có ảnh hưởng rất lớn ở
phương Tây.
Về mặt thực tiễn, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử triết học phương Tây hiện đại ở Việt
Nam.
8. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học đã
công bố của tác giả liên quan đến đề tài và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.






9
Chương 1
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA THỰC CHỨNG.
1.1. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa thực chứng.
Sự hình thành chủ nghĩa thực chứng có quan hệ chặt chẽ với điều kiện
lịch sử xã hội châu Âu, đặc biệt là điều kiện lịch sử xã hội Pháp và Anh giữa
thế kỷ XIX. Vào thời gian này, giai cấp tư sản Pháp và Anh đã chiến thắng
thế lực muốn phục hồi chủ nghĩa phong kiến và đã xác lập được sự thống trị
của mình. Dưới chế độ quân chủ tư sản, nước Pháp đã trải qua một thời kỳ

quan trọng trong sự phát triển kinh tế; công nghiệp cơ khí đã chiếm ưu thế rõ
rệt. Ở Anh cũng vậy, lao động chân tay đã được thay thế bằng lao động máy
móc, việc cơ khí hoá sản xuất đã làm cho sản xuất công nghiệp phát triển nhanh
chóng [7, tr.232]. Tiềm lực kinh tế của giai cấp tư sản nắm quyền ở cả hai nước
đều đang rất mạnh. Họ dành sự quan tâm đặc biệt cho sự phát triển khoa học kỹ
thuật để áp dụng những phát minh mới vào sản xuất nhằm hoàn thiện chế độ tư
bản chủ nghĩa, đảm bảo quyền lợi kinh tế và bảo vệ vững chắc địa vị thống trị.
Khi sức mạnh về kinh tế tăng lên thì tư tưởng của giai cấp tư sản cũng
có sự thay đổi. Nếu như trong cách mạng tư sản, những tư tưởng tiến bộ, dân
chủ, cấp tiến là ngọn đuốc soi đường cho giai cấp tư sản chiến thắng thế lực
phong kiến giành thắng lợi, thì khi đã xác lập được vị trí thống trị của mình,
giai cấp tư sản đã quay trở lại bác bỏ và thù địch với lý luận cách mạng xã
hội, bác bỏ và thù địch với chủ nghĩa duy vật và thuyết vô thần. Các nhà tư
tưởng tư sản Anh và Pháp nói chung, thời kỳ này, đã vứt bỏ triết học duy vật
chống phong kiến của các triết gia như Bêcơn, Hốpxơ, Lốccơ và ở mức độ
nào đó đã đi cùng đường với thần học, tôn giáo phong kiến và triết học duy
tâm. Giai cấp tư sản muốn sử dụng những học thuyết của thần học tôn giáo để
dễ bề thống trị dân chúng và che đậy những tham vọng đen tối của mình. Do
đó, nó thù địch với những tư tưởng của chủ nghĩa duy vật, vô thần, lảng tránh
những kết luận duy vật rút ra từ những thành tựu phát triển của khoa học tự

10
nhiên. Nhưng yếu tố cốt lõi có thể làm cho nền sản xuất tư bản phát triển phải
là những thành tựu của khoa học tự nhiên để ứng dụng vào sản xuất chứ
không phải những tư tưởng duy tâm, tôn giáo. Do nhận thức được điều tất yếu
đó nên giai cấp tư sản Anh và Pháp tuy thù địch với chủ nghĩa duy vật vô
thần, nhưng cũng rất thất vọng với chủ nghĩa duy tâm tư biện và với cả những
nhà duy tâm nào công khai kìm hãm sự phát triển của khoa học tự nhiên. Về
mặt tư tưởng, giai cấp tư sản ở trong một mâu thuẫn khó giải quyết, nó đang
rất cần một học thuyết có thể điều hoà được mâu thuẫn này.

Như mọi người biết, từ thời Phục hưng đến giữa thế kỷ XIX, khoa học
tự nhiên thực nghiệm đã có những bước phát triển quan trọng. Các nhà tư
tưởng thời kỳ Phục hưng và Cận đại đã dùng lý tính chống lại thần học và tôn
giáo. Việc làm đó của họ có tác dụng rất lớn trong việc thúc đẩy khoa học
phát triển. Nhưng, nhiều triết gia có ý đồ đặt triết học lên trên khoa học, coi
triết học là khoa học của mọi khoa học. Có triết gia muốn dùng kinh nghiệm
làm nền tảng cho triết học, song, những kinh nghiệm đó nhiều khi không phù
hợp với những nghiên cứu khoa học cụ thể, vì vậy triết học của họ mang tính
tư biện rõ rệt. Thậm chí, chủ nghĩa duy tâm của Hêghen còn coi khoa học tự
nhiên là sản phẩm của sự phát triển của ý niệm tuyệt đối, v.v Vì vậy, triết
học tư sản cổ điển, đặc biệt triết học của phái duy lý, ngày càng trở thành
xiềng xích của khoa học tự nhiên thực nghiệm. Khi khoa học tự nhiên đã có
những bước tiến mạnh mẽ thì nhu cầu được giải phóng, được thoát khỏi sự
ràng buộc của triết học siêu hình, tư biện càng nổi lên. Khoảng cuối thế kỷ
XVIII, đầu thế kỷ XIX, quá trình phân tách khỏi triết học của các khoa học tự
nhiên ngày càng mạnh mẽ. Tiếp theo cơ học, toán học là vật lý học, hoá học,
sinh học, địa chất học, v.v. cũng dần dần tách khỏi triết học. Các khoa học
mới hình thành này đã có nhiều phương pháp nghiên cứu mới, đặc biệt là
phương pháp thực nghiệm, nhờ vậy, chúng có cơ sở khá vững chắc. Để thoát
khỏi sự ràng buộc của tôn giáo, để phát triển và tự khẳng định mình, khoa học

11
tự nhiên đã phải đấu tranh chống thần học, chống triết học tự nhiên tư biện.
Các nguyên lý khoa học mới, các tài liệu mới của khoa học lúc đó đã mâu
thuẫn gay gắt với những nguyên lý do triết học lý tính tư biện cung cấp. Do
vậy, nảy sinh sự phản ứng tự nhiên của nhiều nhà khoa học đối với những tư
tưởng triết học, họ đồng nhất mọi thứ triết học và phủ nhận vai trò của triết
học đối với khoa học tự nhiên.
Hơn nữa, sự phát triển của các khoa học chính xác, đặc biệt là toán học,
đã tạo nên sức hút lớn làm cho các khoa học về giới tự nhiên sống, các khoa

học xã hội hướng vào thành tựu của các khoa học chính xác. Nói cách khác,
trong giới khoa học, người ta hướng tới những tri thức cụ thể, dựa trên kinh
nghiệm và các phép tính, các tri thức có thể kiểm chứng được. Uy tín của
khoa học chính xác như toán học, vật lý học, v.v. được đề cao trong xã hội.
Người ta đặt rất nhiều hy vọng vào các khoa học chính xác vì tin tưởng rằng,
sự tiến bộ của chúng sẽ làm cho xã hội có những thay đổi lớn. Trong hệ thống
giáo dục, những tri thức của khoa học chính xác, những tri thức có thể kiểm
chứng đã được đặt lên hàng đầu. Trong các lĩnh vực khác nhau, người ta bắt
đầu đánh giá cao những người có tri thức thật sự thực chứng.
Đây cũng chính là biểu hiện của sự thay đổi định hướng giá trị của xã
hội tư bản. Nếu như trước đây, trong xã hội phong kiến, người ta hướng đến
Chúa với tư cách bản nguyên tinh thần của thế giới, coi linh hồn là yếu tố thần
thánh ở trong mỗi con người, còn mọi cái thế tục đều bị đánh giá là thấp hèn,
thì giờ đây, thể chất của con người, những lợi ích thực tiễn, hoạt động thực
tiễn của con người trong thế giới vật chất đã được đặt lên hàng đầu. Sự thay
đổi định hướng giá trị do nền văn minh công nghiệp phát triển đã làm nổ ra
cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt chống lại những tư tưởng tôn giáo, chống lại
tư duy tư biện, tư duy trừu tượng, không gắn liền với sinh hoạt thực tiễn và lợi
ích thực tiễn của con người.

12
Khuynh hướng thực chứng hoá mọi tri thức của con người ngày càng
nổi lên, các nhà nghiên cứu xã hội cũng cố gắng biến các khoa học xã hội
thành các khoa học thực chứng. Triết học cũng nằm trong sự vận động đó.
Một số triết gia nhận thấy nguyên nhân chủ yếu làm cho triết học bị suy giảm
uy tín cũng chỉ vì thiếu những cơ sở vững chắc, thiếu những căn cứ xác thực.
Họ muốn có một sự thay đổi lớn trong triết học, họ đề xướng một thứ triết học
mới, triết học thực chứng, với hy vọng có thể đưa ra sự luận chứng triết học,
lôgíc học - phương pháp luận cho các khoa học dựa trên nền tảng của tri thức
cụ thể, căn cứ trên kinh nghiệm, kiểm tra được và có hiệu quả thực tiễn. Có

thể nói, triết học thực chứng ra đời, ở mức độ nhất định đã thích ứng với trào
lưu phát triển của khoa học châu Âu. Chủ nghĩa thực chứng đòi hỏi nhà triết
học phải từ bỏ việc tìm kiếm những thực thể nào đó đầu tiên, từ bỏ những
nguyên lý trừu tượng mang tính chất “siêu hình” vô bổ. Họ cho rằng, cần thiết
phải xây dựng hệ thống tri thức đúng đắn, tức là những tri thức chính xác, dựa
trên các sự kiện thực tế, đối lập với những tri thức tư biện. Chủ nghĩa thực
chứng xác định phương pháp hành động của mình là: hướng đến tri thức có
lợi trực tiếp để áp dụng. Nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa thực chứng là:
chống khái niệm trừu tượng, xuất phát từ sự việc thực tế, làm cho khoa học
thoát khỏi sự ràng buộc của thần học và siêu hình tư biện.
Với quan điểm đấu tranh cho những nghiên cứu khoa học cụ thể nhưng
lại khẳng định rằng, bản chất của các hiện tượng là không thể nhận thức được,
chủ nghĩa thực chứng đã đáp ứng được các yêu cầu của giai cấp tư sản vì chủ
nghĩa tư bản rất cần khoa học tự nhiên để áp dụng vào sản xuất nhưng họ chỉ
muốn sử dụng những thành tựu của khoa học tự nhiên chứ không muốn rút ra
từ những thành tựu đó những kết luận duy vật và vô thần, tức là những kết
luận có tính chất thế giới quan khoa học. Các nhà triết học của chủ nghĩa thực
chứng chống lại chủ nghĩa duy tâm tư biện của Hêghen, chống lại chủ nghĩa
duy vật thế kỷ XVII - XVIII, nhưng họ cũng chống lại việc triết học tìm tòi

13
bản chất của tự nhiên, tìm tòi quy luật khách quan của sự vật. Họ chủ trương
triết học nên giới hạn trong miêu tả sự thật kinh nghiệm, với mục tiêu giành
lấy hiệu quả thực tế. Về cơ bản, các nhà triết học theo chủ trương này kế
thừa truyền thống triết học của trường phái kinh nghiệm của Beccơli và
Hium, nhưng họ không bằng lòng với thuyết hoài nghi của Hium, càng
không vừa lòng với thuyết kinh nghiệm cũ kỹ, thiếu căn cứ khoa học tự
nhiên thực nghiệm và có tính chất tư biện. Họ muốn xây dựng một thứ triết
học trung lập loại bỏ siêu hình tư biện, theo đuổi sự tin cậy và xác thực của
kiến thức thực nghiệm.

1.2. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa thực chứng.
Chủ nghĩa thực chứng, gọi theo tiếng Anh là Positivism. Nó xuất phát
từ từ gốc, theo tiếng Latinh là positiv, có nghĩa là rõ ràng, chính xác, tích cực,
có thể chỉ ra được, có thể chứng minh được.
Theo nghĩa đó, chủ nghĩa thực chứng - positivism - là học thuyết cho
rằng, mọi tri thức của con người đều cần phải được chứng thực, được chứng
minh, được kiểm tra bằng kinh nghiệm. Nói cách khác, theo học thuyết này,
mọi tri thức, nếu được kiểm chứng thì nó mới có ý nghĩa.
Từ khi ra đời, chủ nghĩa thực chứng trải qua nhiều giai đoạn phát triển,
với rất nhiều quan điểm khác nhau. Trong luận văn này, chúng tôi xin được
trình bày khái quát ba giai đoạn phát triển đầu tiên của chủ nghĩa thực chứng.
1.2.1. Chủ nghĩa thực chứng sơ kỳ.
Người sáng lập ra chủ nghĩa thực chứng là Côngtơ (Auguste Comte,
1798 - 1857). Những tư tưởng của ông về chủ nghĩa thực chứng bắt đầu hình
thành vào thời gian từ năm 1817 đến 1824, khi ông làm thư ký cho Xanh
Ximông, người theo thuyết chủ nghĩa xã hội không tưởng. Côngtơ đã tiếp thu
được một số tư tưởng từ Xanh Ximông, nhưng khác với Xanh Ximông, học
thuyết của Côngtơ thể hiện sự thù địch sâu sắc đối với mô hình chủ nghĩa xã
hội, và có thể coi đó là một sự phản ứng của giai cấp tư sản đối với sự phát

14
triển của phong trào giải phóng những người lao động. Côngtơ thừa nhận
rằng, cuộc cách mạng năm 1789 có ý nghĩa lịch sử tiến bộ, nhưng theo ông,
cuộc cách mạng này đã đẩy nước Pháp vào tình trạng “mất trật tự”, do đó
cần phải được khắc phục và thay thế bằng một trật tự mới khoa học hơn để
loại trừ khả năng xảy ra một cuộc cách mạng mới. Côngtơ xác định việc
luận chứng cho “trật tự mới”, luận chứng cho sự tồn tại vững chắc của chủ
nghĩa tư bản là xuất phát điểm, là mục đích chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa
thực chứng của ông.
Côngtơ mong muốn xây dựng một hệ thống chủ nghĩa thực chứng bao

gồm tất cả các lĩnh vực triết học và khoa học, xã hội và chính trị, tôn giáo và
đạo đức, tổng hợp tất cả các mặt lý luận, tư tưởng thành một chỉnh thể thống
nhất, làm thành lý luận “thực chứng”. Trong chủ nghĩa thực chứng của mình,
triết học được Côngtơ coi là nền tảng, chính trị được coi là mục đích, còn tôn
giáo và đạo đức sẽ được dùng để thống nhất triết học và chính trị.
Xuất phát từ việc muốn xây dựng chủ nghĩa thực chứng thành một khoa
học có căn cứ xác định, có kết cấu, lập luận thống nhất chặt chẽ dựa trên
những thành tựu của khoa học tự nhiên thực nghiệm, cho nên, khi luận chứng
cho những tư tưởng cơ bản của triết học thực chứng, Côngtơ cho rằng, triết
học thực chứng ra đời là kết quả của quá trình phát triển lịch sử tư tưởng nhân
loại dựa trên tiền đề là sự phát triển của khoa học tự nhiên. Để trình bày rõ
tính chất và ý nghĩa lịch sử của triết học thực chứng, theo ông, cần phải đi tìm
hiểu lịch sử phát triển tư tưởng loài người. Và khi nghiên cứu trí tuệ loài
người trong toàn bộ các phạm vi hoạt động khác nhau, Côngtơ đã khẳng định:
“Mỗi loại quan điểm chủ yếu của chúng ta, mỗi ngành tri thức đều lần lượt
trải qua ba giai đoạn lý luận khác nhau, đó là giai đoạn thần học, còn gọi là
giai đoạn hư cấu; giai đoạn siêu hình, còn gọi là giai đoạn trừu tượng; giai
đoạn khoa học còn gọi là giai đoạn thực nghiệm” [ 4, tr.75]. Ba giai đoạn này

15
thể hiện ba loại tính chất khác nhau, thậm chí phương pháp triết học trái
ngược nhau, do đó sinh ra ba loại triết học.
Theo Côngtơ, trong giai đoạn thần học, tri thức của con người còn
nhiều hạn chế, con người muốn tìm hiểu bản chất bên trong của vạn vật, tìm
cội nguồn của hiện tượng, truy tìm nguyên nhân cuối cùng của sự vật, nhưng
không thực hiện được. Không giải thích các hiện tượng của tự nhiên, họ phải
viện đến các thần thánh, các lực lượng siêu nhiên, vì vậy, lúc này, tôn giáo
giữ vai trò chủ đạo trong các loại hệ thống tư tưởng.
Giai đoạn siêu hình, theo Côngtơ, là biến tướng của giai đoạn thần học,
lúc này con người dùng những khái niệm trừu tượng siêu hình thay thế thần

lực siêu tự nhiên để giải thích mọi điều. Ở giai đoạn này, con người muốn
nhận được tri thức tuyệt đối về bản chất sự vật và nhìn nhận một cách võ đoán
các khái niệm trừu tượng về sự vật là những tri thức tuyệt đối. Cho nên các
loại khái niệm trừu tượng này đã làm nên các loại hệ thống triết học và lý luận
được xem là những chân lý tuyệt đối.
Trong giai đoạn thực nghiệm, con người thừa nhận không thể có được
khái niệm tuyệt đối, cho nên không còn tìm tòi cội nguồn và mục đích của vũ
trụ, không còn tìm hiểu nguyên nhân bên trong các các loại hiện tượng mà chỉ
quan sát và suy luận nhằm phát hiện sự tồn tại trước sau và những mối quan
hệ giữa các hiện tượng, sự nghiên cứu và giải thích mọi sự vật chỉ được tiến
hành trong phạm vi thế giới hiện tượng. Cách nghiên cứu mới mẻ này chính
là phương pháp của các khoa học thực nghiệm. Giai đoạn thực nghiệm chính
là giai đoạn khoa học, phương pháp triết học thực chứng là phương pháp
khoa học.
Công tơ cho rằng, giai đoạn thần học là điểm xuất phát tất nhiên của
quá trình phát triển tư tưởng loài người, còn giai đoạn thực nghiệm là giai
đoạn cao nhất của quá trình phát triển đó. Trong giai đoạn siêu hình, tư tưởng,
tri thức của con người là lầm lạc, võ đoán phán nhưng nhìn nhận một cách

16
khách quan, đó cũng là điều kiện để tư tưởng của con người phát triển lên một
trình độ cao hơn, đó là giai đoạn thực nghiệm. Vì vậy, giai đoạn siêu hình là
giai đoạn quá độ từ giai đoạn thần học sang giai đoạn thực nghiệm nên được
gọi là giai đoạn quá độ.
Sự phát triển từ thần học, siêu hình sang khoa học, theo Côngtơ, là quy
luật của toàn bộ sự phát triển tư tưởng loài người và cũng là quy luật phát
triển tư tưởng của mỗi người. Côngtơ đã liên hệ sự phát triển tư tưởng loài
người với sự phát triển chế độ chính trị xã hội và hình thái phát triển tư tưởng
xã hội nhất định. Theo ông, phù hợp với giai đoạn thần học là trật tự xã hội
của chính trị thần quyền và sự thống trị quân sự châu Âu cổ đại và trung cổ;

phù hợp với giai đoạn siêu hình là chế độ chính trị có các nguyên tắc dân chủ
và bình đẳng trừu tượng chi phối của “thời đại khai sáng” châu Âu thế kỷ
XIV đến thế kỷ XVII; phù hợp với giai đoạn thực nghiệm là xã hội công
nghiệp, giai đoạn cao nhất của sự phát triển xã hội loài người. Trong xã hội
công nghiệp, nhà khoa học trở thành người chi phối xã hội, họ dựa vào quy
luật của khoa học để chỉ đạo và điều hoà xã hội. Trên thực tế, họ không chỉ
dựa vào khoa học tự nhiên mà còn dựa vào khoa học về con người và xã hội
loài người xuất hiện lúc ấy, tức là xã hội học, để điều khiển môi trường xã
hội, từ đó làm cho xã hội có đặc điểm: hài hoà, trật tự và tiến bộ. Côngtơ nêu
thuyết ba giai đoạn nhằm khẳng định triết học thực chứng là thứ triết học
hoàn thiện nhất của tinh thần khoa học hiện đại, đồng thời cũng muốn khẳng
định rằng, xã hội công nghiệp của chủ nghĩa tư bản là xã hội hoàn thiện nhất.
Ở một mức độ nhất định, có thể nói rằng, yếu tố tích cực trong thuyết
ba giai đoạn của Côngtơ thể hiện ở cách tiếp cận lịch sử đối với sự phát triển
của tư tưởng và của xã hội loài người, ở chỗ khẳng định sự phát triển tư tưởng
và xã hội loài người đều có quá trình phát triển liên tục từ thấp đến cao. Song,
hạn chế chủ yếu nhất của thuyết ba giai đoạn của Côngtơ là đã xem sự phát
triển của nhân loại dựa trên sự phát triển của tư tưởng. Côngtơ không thấy

17
được rằng, phải xuất phát từ sự phân tích cụ thể điều kiện lịch sử xã hội thì
mới có thể giải thích đúng đắn sự phát triển của tư tưởng loài người. Côngtơ
đã dùng sự phát triển của tư tưởng để trình bày sự phát triển của lịch sử xã
hội. Nguyên tắc cơ bản của triết học thực chứng vốn xuất phát từ việc chống
khái niệm trừu tượng, nhấn mạnh việc phải xuất phát từ thực tế để làm cho
khoa học thoát khỏi sự ràng buộc của thần học, của chủ nghĩa siêu hình và tư
biện. Tuy nhiên, khi Côngtơ dùng thuyết ba giai đoạn để khái quát sự phát
triển của tư tưởng và của xã hội loài người thì ông lại dùng khái niệm trừu
tượng (vì không có căn cứ thực tế đầy đủ làm điểm xuất phát), và như vậy,
ông đã mâu thuẫn với lý luận của chính mình. Do vậy, có thể nói, “tư tưởng

của Công tơ về “luật ba giai đoạn” chỉ là một giả định vu vơ chứ không thể
gọi là một quy luật của lịch sử” [34, tr.4]
Một trong những mục tiêu mà Côngtơ đặt ra cho triết học thực chứng
là thống nhất lại các ngành khoa học và ông cho rằng, chỉ có xã hội học mới
có thể thực hiện được sự thống nhất ấy. Bởi vì, mọi khoa học đều có quan hệ
với con người, do con người điều khiển, các ngành khoa học đều chịu sự chi
phối của lý trí hành động và tình cảm của con người. Côngtơ thấy cần thiết
phải xây dựng môn xã hội học bởi xã hội học chính là khoa học về con người
sống trong xã hội. Xã hội học, theo Côngtơ, là khoa học thực hiện sự thống
nhất lý trí, tình cảm và hành động của con người; nó liên hệ các ngành khoa
học tự nhiên với con người. Để tổ chức lại xã hội, con người không chỉ cần
đến những tri thức về quy luật tự nhiên, mà còn cần tri thức về quy luật xã
hội. Tri thức về quy luật xã hội do xã hội học cung cấp. Không có xã hội học
thì không thể đổi mới và thúc đẩy tiến bộ xã hội chân chính.
Trên tinh thần “thực chứng hoá” các khoa học xã hội, Côngtơ đặt xã
hội học ngang hàng với vật lý học. Ông chủ trương nghiên cứu xã hội từ góc
độ của môn khoa học thực nghiệm có cơ sở vững chắc là khoa học vật lý. Ông
đưa ra quan điểm cơ học xã hội và chia xã hội thành tĩnh lực học xã hội và

18
động lực học xã hội. Tĩnh lực học xã hội nghiên cứu trạng thái tĩnh của xã
hội, nghiên cứu quan hệ xã hội nói chung, kết cấu và tính chất xã hội cùng
những điều kiện tồn tại của chúng. Còn động lực học xã hội thì nghiên cứu
trạng thái động của xã hội, tìm tòi quy luật vận động và phát triển của xã hội,
nghiên cứu sự tiến bộ của xã hội. Tĩnh lực học xã hội và động lực học xã hội
là một tổng thể hữu cơ phụ thuộc lẫn nhau. Nghiên cứu trật tự tĩnh lực học xã
hội tất nhiên phải thông qua các thành quả của nghiên cứu động lực học xã
hội, bởi vì, theo Côngtơ, tiến bộ chính là sự phát triển từng bước của trật tự.
Trật tự là cái quan trọng nhất đối với bất cứ xã hội nào, nhưng nếu không có
tiến bộ, trật tự sẽ bị xơ cứng, lạc hậu suy thoái. Côngtơ khẳng định rằng, trong

lĩnh vực lịch sử xã hội, lý luận của tất cả các nhà tư tưởng trước ông đều
mang tính tư biện rõ rệt, chưa trở thành khoa học. Chỉ khi ông xây dựng xã
hội học trên nguyên tắc của chủ nghĩa thực chứng, thì những lý luận trong
lĩnh vực xã hội mới thực sự thoát khỏi sự ràng buộc của thần học, của siêu
hình học và trở thành khoa học thực nghiệm thực sự giống như khoa học tự
nhiên.
Dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa thực chứng, Côngtơ còn đưa
ra nhiều tư tưởng về nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, tư tưởng về phân loại
khoa học và phương pháp khoa học, về chính trị và tôn giáo thực chứng
Những tư tưởng của ông tuy có nhiều mâu thuẫn, song nó có ảnh hưởng rất
lớn đối với các nhà tư tưởng của phương Tây sau này. Ngoài Côngtơ, chủ
nghĩa thực chứng Pháp còn có các đại biểu khác như E.Littre, P.Laffitte,
nhưng trong số họ thì quan điểm của Côngtơ là tiêu biểu hơn cả. Từ Côngtơ,
chủ nghĩa thực chứng đã được xây dựng và ngày càng có ảnh hưởng lớn trong
xã hội.
Chủ nghĩa thực chứng được xây dựng và phát triển ở Pháp, sau đó nó
được truyền bá sang Anh. Đại biểu đầu tiên của chủ nghĩa thực chứng ở Anh
và cũng là một trong những nhà tư tưởng lớn của nước Anh thế kỷ XIX là

19
Giôn Stiuat Minlơ (John Stuart Mill, 1806-1873). Minlơ chịu ảnh hưởng của
tác phẩm “Giáo trình triết học thực chứng” của Côngtơ. Ông tán thành với
những quan điểm triết học cơ bản của Côngtơ, đề cao chủ nghĩa thực chứng
của Côngtơ và coi đó là “tài sản chung của thời đại”.
Trong việc thể hiện những tư tưởng thực chứng, nếu như Côngtơ đi tìm
cơ sở để thống nhất các ngành khoa học, tìm quy luật để lý giải và hệ thống
hoá sự phát triển của xã hội, thì Minlơ đã đưa lôgíc học vào làm công cụ cho
tư tưởng thực chứng của mình. Minlơ rất chú ý nghiên cứu lôgic học. Đóng
góp lý luận của Minlơ cho sự phát triển của chủ nghĩa thực chứng chính là
những nghiên cứu lôgíc quy nạp của ông.

Minlơ đã đi từ chủ nghĩa duy vật của Bêcơn đến thuyết liên tưởng tâm
lý và thuyết bất khả tri của Hium. Đi theo Hium, ông xuất phát từ tính tất yếu
và tính liên tục có tính chất điều chỉnh của các sự kiện. Cũng như Hium,
Minlơ cho rằng, quy luật nhân quả chính là “gốc rễ” của toàn bộ học thuyết về
quy nạp và thừa nhận sự tác động của nó trong giới tự nhiên cũng như trong
tâm lý và đời sống xã hội của con người. Hoà nhịp với sự giải thích có tính
chất hiện tượng luận về tính nhân quả, Minlơ đã hướng đến sự giải thích lôgíc
học như là sự thoát khỏi chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Minlơ
không phân biệt khía cạnh tâm lý học và lôgíc học của tư duy. Lôgíc học của
ông khi thì biểu hiện ở khía cạnh phương pháp luận, khi thì biểu hiện ở khía
cạnh nhận thức luận, khi lại biểu hiện ở khía cạnh ngữ pháp giản đơn của vấn
đề. Bởi vậy, những yếu tố thực chứng ở đó được thể hiện dưới những dạng
khác nhau. Trong lôgíc học của Minlơ có một số tư tưởng có giá trị nhất định
đối với tín hiệu học và ngữ nghĩa lôgíc. Tư tưởng quan trọng nhất là tư tưởng
“ghi nghĩa”. Theo Minlơ, việc giải nghĩa, hay biểu thị đối tượng không quan
trọng bằng việc ghi ký hiệu về sự vật. Ông cho rằng, tên gọi của sự vật, ví dụ:
John, London, nước Anh là từ biểu thị trực tiếp đối tượng, nó không ghi ký
hiệu được, do đó nó không có ý nghĩa. Còn các từ chỉ tính chất như: màu

20
trắng, độ dài, đức hạnh là những từ ghi ký hiệu được, và vì vậy chúng mới
có nghĩa [28, tr.53]. Như vậy, Minlơ đã bước đầu thấy những giới hạn của
ngôn ngữ khi diễn đạt thực tại.
Cũng như Côngtơ và các nhà thực chứng Pháp, Minlơ mong muốn các
lĩnh vực đạo đức, lịch sử, kinh tế chính trị, v.v. trở thành các khoa học chặt
chẽ. Trong học thuyết về đạo đức, Minlơ đã theo quan điểm của chủ nghĩa vị
lợi (Utilitarianism) của Bentham (Jeremy Bentham). Khi viết tác phẩm Chủ
nghĩa vị lợi (1865), Minlơ đã áp dụng phương pháp quy nạp của lôgíc học để
trình bày những vấn đề đạo đức [42, tr.3]. Với tinh thần của chủ nghĩa thực
chứng, khi viết về chủ nghĩa vị lợi, Minlơ khẳng định: Chủ nghĩa vị lợi chỉ

đánh giá các hậu quả của hành động chứ không đánh giá các động cơ hay các
đặc điểm tính cách của người thực hiện hành động đó [42, tr.3]. Trong quan
điểm về xã hội, Minlơ coi xã hội là một tổ hợp của những cá thể. Trong luận
văn Về tự do (1859), ông đã ca ngợi những tư tưởng của chủ nghĩa tự do và
đòi nhà nước không được can thiệp sâu vào đời sống cá nhân của mỗi công
dân.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực chứng ngày càng tăng ở Anh, đặc biệt
khi có thêm sự tham gia của nhà triết học H.Spenxơ (Herbert Spencer, 1820-
1903) vào cuối thế kỷ XIX. Spenxơ được đánh giá là nhà tư tưởng mẫu mực
nhất của giai cấp tư sản Anh giai đoạn cuối thế kỷ. Những tư tưởng của ông
thể hiện lòng tin vào tính vững chắc của vị trí độc quyền của nước Anh ở thị
trường hàng hoá thế giới và sự quan tâm của các nhà công nghiệp vào những
kết quả khoa học tự nhiên và kỹ thuật.
Khi đưa ra những tư tưởng thực chứng của mình, Spenxơ chủ trương
đứng trên quan điểm của chủ nghĩa bất khả tri để tìm cách điều hoà giữa niềm
tin và tri thức, giữa khoa học và tôn giáo. Theo Spenxơ, toàn bộ lịch sử tôn
giáo đã cho thấy rằng, mọi tôn giáo đều thừa nhận: con người tuyệt đối không
thể nhận thức được những lực lượng tối cao và lực lượng tối cao đó là cơ sở

21
của thế giới. Theo ông, khoa học cũng sẽ như tôn giáo, sớm hay muộn tất yếu
sẽ đi đến kết luận là: “đằng sau tất cả các sự vật vẫn còn một bí ẩn mà con
người không thể nào thấu hiểu được” và con người sẽ mãi mãi không thể nào
biết cái gì là cơ sở cho tất cả các hiện tượng. Sự bất lực của cả tôn giáo lẫn
khoa học về vấn đề gốc rễ của tồn tại, theo Spenxơ, đã có thể khắc phục được
sự xung đột giữa chúng. Để chứng minh sự bất lực của khoa học trong việc
giải quyết những vấn đề gốc rễ của tồn tại, Spenxơ tiến hành phân tích các
khái niệm không gian, thời gian, vận động, vật chất, lực, ý thức, v.v. và khẳng
định rằng, tất cả các khái niệm này đều mâu thuẫn, do vậy, chúng không thể
đem lại tri thức thực sự về hiện thực khách quan được. Chẳng hạn, chúng ta

không thể tưởng tượng nổi là có thể chia nhỏ vật chất đến vô tận, cũng như
không thể tưởng tượng nổi sự tồn tại của những phần tử nhỏ nhất, không thể
phân chia được của nó. Từ đó, ông suy ra rằng, vật chất, trong bản tính cuối
cùng của nó, là tuyệt đối không thể nhận thức được; không gian và thời gian,
cũng tương tự như vậy. Có một số vấn đề mà khoa học thời kỳ của Spenxơ
chưa thể giải quyết như vấn đề bản chất của sức hút, vấn đề nguồn gốc của ý
thức, v.v. nhưng Spenxơ coi đó là những vấn đề không bao giờ có thể giải
quyết.
Spenxơ cho rằng, nguyên tắc nền tảng của toàn bộ nhận thức là luận
điểm về tính không thể tiêu diệt được của vật chất (tính không thể tiêu diệt
được của lực). Khái niệm lực lúc đầu được Spenxơ giải thích như một lực
lượng thần thánh. Về sau, khía cạnh vật lý của khái niệm này mới được lưu ý.
Tuy nhiên, Spenxơ đã sai lầm khi cho rằng, tính vĩnh cửu, tính không thể tiêu
diệt được của vật chất và của lực là không thể chứng minh được, mà chỉ được
rút ra từ bản tính của tư duy và chỉ là một định đề (postulate) cần thiết của tư
duy thôi. Thực ra thì luận điểm về tính không thể tiêu diệt được của vật chất
là một kết luận được rút ra từ các dữ liệu thực tế, được thực nghiệm xác nhận.

22
Từ định đề về tính không thể tiêu diệt được của lực, theo Spenxơ, sẽ rút
ra được kết luận về tính không thể tiêu diệt được của vận động. Xuất phát từ
những nguyên tắc này, Spenxơ xây dựng quy luật cơ bản của mình - quy luật
tiến hoá. Tiến hoá, theo Spenxơ - đó chính là yếu tố phổ biến của kinh nghiệm
bảo đảm sự thống nhất của tri thức mà triết học thực chứng mong muốn, nó
đem lại khả năng hiểu được mọi hiện tượng của tự nhiên và xã hội.
Trong tiến hoá Spenxơ phân biệt ba trường hợp: 1/ sự chuyển hoá từ
đơn giản thành phức tạp (liên kết hay tập trung); 2/ sự chuyển hoá từ đơn
dạng thành đa dạng (phân hoá); 3/ sự chuyển hoá từ không xác định thành xác
định (tăng trật tự). Lưu ý đến những thay đổi trong quá trình tiến hoá, Spenxơ
đưa ra quy luật tiến hoá như sau: Tiến hoá là sự liên kết của vật chất xảy ra

cùng với sự khuếch tán của vận động và trong thời gian ấy vật chất chuyển
hoá từ trạng thái đồng tính không xác định và không liên hệ sang thành trạng
thái dị tính xác định và liên hệ, còn vận động được vật chất bảo toàn cũng
chịu sự chuyển hoá tương tự.
Có thể nói, mặc dù cũng chỉ ra được những đặc trưng riêng của một số
hình thức phát triển, nhưng trong việc cố gắng để có một “quy luật” chung về
sự tiến hoá thì Spenxơ đã không thành công. Hạn chế của ông là ở chỗ, “quy
luật” đó đã loại bỏ sự xuất hiện của những cái mới về chất trong sự phát triển,
coi sự phát triển chỉ như là một sự phân bố lại dần dần những cái đã có từ
trước. “Quy luật” không đả động gì đến nguồn gốc và động lực của sự phát
triển, mà chỉ mô tả một số những dấu hiệu bề ngoài của sự phát triển ấy mà
thôi. Đây rõ ràng là một quan điểm siêu hình, máy móc, bởi vì chính Spenxơ
cũng khẳng định rằng, “sự tiến hoá là có giới hạn mà nó không thể vượt qua”.
Giới hạn đó, theo Spenxơ, là trạng thái cân bằng của hệ thống, hay bộ máy
tiến hoá khi mà mọi lực tác dụng với nhau bị cân bằng. Theo Spenxơ, thì
trạng thái cân bằng không phải là trạng thái kết thúc, tiếp theo sau nó là một
chu kỳ mới của sự liên kết vật chất và vận động. Sau sự cân bằng thì sớm hay

23
muộn cũng sẽ bắt đầu sự phân hoá (phi liên kết). Cuối cùng thì Spenxơ đi đến
lý thuyết về vòng tuần hoàn khép kín.
Spenxơ xây dựng tư tưởng chung về tiến hoá trong tác phẩm triết học
chủ yếu của mình là Những nguyên lý xuất phát cơ bản. Tư tưởng này được
ông vận dụng trong các lĩnh vực sinh học, tâm lý học, xã hội học và đạo đức
học. Spenxơ cho rằng, sinh học là khoa học cụ thể chủ yếu nghiên cứu những
quy luật tác động trong các lĩnh vực này. Ông cho rằng, sự sống, ngay cả
những hình thức biểu hiện cao, phức tạp nhất của nó là xã hội, tâm lý, thì rốt
cuộc cũng phải phục tùng các quy luật sinh học.
Nét đặc trưng trong xã hội học của Spenxơ là quan niệm coi xã hội như
“một cơ thể sống”, hình thành và phát triển theo các quy luật tự nhiên. Cách

đặt vấn đề như vậy của ông cho phép chúng ta hiểu sự phát triển của các hiện
tượng xã hội là một sự phát triển khách quan. Mặc dù vậy, khuynh hướng cơ
bản trong xã hội học của Spenxơ đã đưa đến việc sinh học hoá các hiện tượng
của đời sống xã hội, đến chỗ biện hộ cho sự bóc lột và thống trị. Chẳng hạn,
bằng việc áp dụng nguyên tắc “đấu tranh sinh tồn” vào lĩnh vực xã hội, ông
đã tạo cơ sở cho “Chủ nghĩa Đácuyn xã hội”, một trong những trào lưu xã hội
học tư sản coi sự bóc lột và thống trị như là các hiện tượng tự nhiên.
Nói về phương hướng và những triển vọng của sự tiến hoá xã hội,
Spenxơ phân biệt hai kiểu xã hội: 1/ xã hội quân phiệt là xã hội đặc trưng bởi
chuyên chế và phục tùng của cá nhân đối với tập thể hay chính quyền nhà
nước; 2/ xã hội công nghiệp là xã hội đảm bảo tự do, sáng kiến cho cá nhân,
còn quyền lực của nhà nước thì bị giảm tối đa. Giai đoạn tiếp theo của sự tiến
hoá xã hội, theo Spenxơ, không phải là xã hội xã hội chủ nghĩa, mà là một
kiểu xã hội thứ ba, thực chất là xã hội tư bản chủ nghĩa đã được lý tưởng hoá.
Tóm lại, qua tìm hiểu một số tư tưởng chính của ba triết gia thực
chứng tiêu biểu, chúng ta thấy tư tưởng của chủ nghĩa thực chứng trong giai
đoạn đầu tiên nổi lên một số điểm đáng chú ý: Trước hết, những người theo

×