Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Vấn đề giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên trong các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 99 trang )



MỤC LỤC


Trang

Mở đầu
1
Chương 1.
Tầm quan trọng, nội dung và yêu cầu của việc giáo dục
đạo đức mới cho thanh niên sinh viên ở Hà Nội hiện nay

7
1.1.
Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới cho
thanh niên ở Việt Nam hiện nay

7
1.2.
Nội dung và yêu cầu của việc giáo dục đạo đức mới cho
thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay

21
Chương 2.
Thực trạng của việc giáo dục đạo đức mới cho thanh niên
sinh viên trong các trường đại học ở Hà Nội hiện nay và
một số vấn đề đặt ra


33


2.1.
Thực trạng của việc giáo dục đạo đức mới cho thanh
niên sinh viên trong các trường đại học ở Hà Nội hiện
nay

33
2.2.
Một số vấn đề đặt ra trong việc giáo dục đạo đức mới
cho thanh niên sinh viên các trường đại học ở Hà Nội
hiện nay

48
Chương 3.
Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh
viên ở Hà nội hiện nay


56
3.1.
Phương hướng nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức mới
cho thanh niên sinh viên trong các trường đại học ở Hà
Nội hiện nay


56
3.2.
Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao giáo dục đạo
đức mới cho thanh niên sinh viên ở Hà Nội hiện nay


60

Kết luận
75

Danh mục tài liệu tham khảo
77

Phụ lục
83


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Khi xác định những nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục và đào tạo ở
nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa
VIII) đã nhấn mạnh việc “xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó
với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí
kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý
thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và
công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong
công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe, là người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên như lời căn dặn của Bác Hồ”.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định:

“đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết
việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo toàn diện, phát triển nguồn lực
con người Việt Nam, các trường đại học, cao đẳng nói chung và các trường đại
học cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng có nhiệm vụ hết sức to lớn.
Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ XIII Đảng bộ thành phố Hà Nội gắn với
xây dựng nền giáo dục tiên tiến, xây dựng một xã hội học tập; coi trọng giáo dục
chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao
trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ (coi trọng kỹ năng thực hành, trình độ

2

ngoại ngữ tin học) giáo dục ý thức tôn trọng, thực hiện pháp luật; bồi đắp tình
cảm cộng đồng và ứng xử văn hóa.
Hiện nay trên địa bàn thành phố Hà Nội có 43 trường đại học và cao đẳng
với hơn 17 vạn sinh viên hệ chính quy tập trung và hàng vạn sinh viên các hệ
khác (không kể các trường thuộc khối quân đội và công an). Để thực hiện nhiệm
vụ đào tạo những trí thức tương lai của đất nước, đào tạo những con người "vừa
hồng, vừa chuyên” đòi hỏi phải không ngừng việc nâng cao chất lượng giáo dục
đạo đức cho sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng, bởi đây là trọng điểm
của mọi hoạt động diễn ra trong các trường đại học và cao đẳng.
Bên cạnh một số thành quả đã đạt được, công tác giáo dục đạo đức nhất là
giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng Hà
Nội. Những năm gần đây, lượng sinh viên tăng lên một cách đáng kể các ký túc
xá nhà trường chỉ đáp ứng khoảng gần 30% nhu cầu sinh viên, hơn 70% sinh viên
phải sống ngoại trú Công tác quản lý sinh viên và nhất là công tác giáo dục đạo
đức mới cho sinh viên vượt khỏi phạm vi và khả năng kiểm soát của nhà trường,
đòi hỏi cấp thiết có sự phối hợp của nhiều cấp, nhiều ngành trên quy mô toàn

Thành phố và liên bộ Mặt khác, các thế lực thù địch với chế độ chủ nghĩa xã hội
đang ra sức lợi dụng những mặt trái của cơ chế thị trường và tình hình chính trị -
xã hội thế giới phức tạp lôi kéo sinh viên
Gần đây để tăng cường và nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên các cấp các ngành, các trường và nhất là Bộ giáo dục và Đào tạo đã tập
trung quan tâm chỉ đạo. Ở một số trường, công việc giáo dục đạo đức cho sinh
viên đã được đề cập thành chuyên đề, song mới tập trung vào lĩnh vực cụ thể
mang tính chất “điểm nóng” như: tình bạn, tình yêu, tình thầy trò Việc nghiên
cứu và tìm ra những giải pháp ứng dụng một cách khoa học - thực tiễn đối với
công tác giáo dục đạo đức mới cho sinh viên nhất là thanh niên sinh viên ở Hà
Nội (trái tim của cả nước, nơi hợp lưu của các vùng văn hóa) chưa được tiến hành

3

một cách bài bản đồng bộ. Xuất phát từ thực tiễn bức xúc nêu trên, tôi chọn đề tài:
“Vấn đề giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên trong các trƣờng đại
học ở Hà Nội hiện nay” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đạo đức nói chung và vấn đề giáo dục đạo đức mới nói riêng đã có
nhiều cá nhân và tập thể tác giả quan tâm nghiên cứu ở những khía cạnh khác
nhau, với những cách tiếp cận khác nhau như: Vũ Khiêu: "Mấy vấn đề đạo đức
cách mạng", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1978; Nguyễn Ngọc Long: "Quán triệt
mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong đổi mới tư duy", Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, số 1-2/1987; Trần Thành: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức", NxB Chính trị quốc gia, 1996; Nguyễn Tĩnh Gia: "Sự tác động hai mặt của
cơ chế thị trường đối với đạo đức của người cán bộ quản lý", Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, số 2/1997; Nguyễn Chí Mỳ: "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta
hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Nguyễn Thế Thắng: "Tìm hiểu
tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh", Nxb Lao động, Hà Nội 2002;

Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên): “Mấy vấn đề đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2003; Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên), “Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị
hiện nay- thực trạng và giải pháp”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005;
Trần Văn Phòng: "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện
nay", Tạp chí Lý luận chính trị, số 5-2003.
Bên cạnh đó còn một số tạp chí viết về bồi dưỡng và giáo dục đạo đức cách
mạng cho thanh niên sinh viên, như: "Lối sống sinh viên đặc điểm và phương
hướng giáo dục", của Mạc Văn Trang, tạp chí Phát triển giáo dục, số 5, 6 năm
1997; "Sinh viên với việc định hướng giá trị đạo đức" của Trần Sĩ Phán, tạp chí
Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, số 3 năm 1996; "Bồi dưỡng phẩm chất cách

4

mạng cho thanh niên" của Bùi Quang Huy, tạp chí Thanh niên, số 11 năm 2004;
"Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên" của Đỗ Văn Thắng, tạp
chí Thanh niên, số 13, năm 2004; "Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên -
Nhiệm vụ thường xuyên và cấp bách" của Trương Thị Hợp, tạp chí Thanh niên,
số 8 năm 2004
Các luận văn, luận án tiến sĩ có liên quan đến vấn đề này như: Nguyễn Văn
Lý: "Kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000; "Giáo dục đạo đức
với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay của Trần Sĩ Phán, luận án tiến sĩ; “Giáo dục đạo đức cho thanh niên Lâm
Đồng trong điều kiện kinh tế thị trường” của Vũ Văn Nhật, luận văn thạc sĩ, “Vấn
đề đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay” (Qua thực tế ở
Hà Nội) của Nguyễn Thị Hương, luận văn thạc sĩ. Vấn đề giáo dục đạo đức cho
học sinh, sinh viên ngân hàng hiện nay của Nguyễn Thị Chung, luận văn thạc sĩ
Tuy nhiên, vấn đề đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện

nay ở Việt Nam là vấn đề mới đang biến động phức tạp, vì thế cần phải tiếp tục đi
sâu phân tích khoa học để có những giải pháp đúng đắn trong việc xây dựng đạo
đức mới cho thanh niên sinh viên. Cho nên việc đi sâu nghiên cứu giáo dục đạo
đức mới cho thanh niên sinh viên trong các trường đại học ở Hà Nội hiện nay là
vấn đề cần thiết và cấp bách. Do đó tôi chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
+ Từ thực tế các trường đại học ở thành phố Hà Nội, phân tích thực trạng
giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên và nguyên nhân của nó, trên cơ sở
đó, đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên ở Hà Nội hiện nay.

5

3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ tầm quan trọng, nội dung và yêu cầu giáo dục đạo đức mới cho
thanh niên sinh viên ở Hà Nội hiện nay.
+ Phân tích thực trạng giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên ở Hà
Nội hiện nay và nguyên nhân của thực trạng đó.
+ Đưa ra phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên ở Hà Nội hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đạo đức của thanh niên sinh viên ở Hà Nội hiện
nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên trên
địa bàn Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta về thanh niên sinh viên về đạo đức và
giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên, đồng thời kế thừa có chọn lọc các
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học khác có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được nhiệm vụ đặt ra, luận văn sử dụng các phương pháp :
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đồng thời sử dụng các phương pháp khác
như: lịch sử - lôgic, phân tích và tổng hợp, điều tra, thống kê xã hội học.
6. Đóng góp mới của luận văn.
- Luận văn góp phần làm rõ tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới
cho thanh niên sinh viên ở Hà Nội hiện nay.

6

- Luận văn góp phần chỉ rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên ở Hà Nội
hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho thanh niên sinh viên khi
nghiên cứu môn Triết học, Đạo đức học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được chia thành 3 chương 6 tiết.
Chương 1: Tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục đạo đức mới cho
thanh niên sinh viên ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng của việc giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh
viên trong các trường đại học ở Hà Nội hiện nay và một số vấn đề đặt ra.
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên ở Hà Nội hiện nay.


7


Chƣơng 1
TẦM QUAN TRỌNG, NỘI DUNG VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC MỚI CHO THANH NIÊN SINH VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới cho thanh niên ở
Việt Nam hiện nay
1.1.1. Đạo đức và đạo đức mới
Ở phương Đông cổ đại, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc
cổ đại xuất hiện sớm, lần đầu tiên xuất hiện trong "kim văn" đời nhà Chu; người
Trung Quốc cổ đại đã quan niệm về đạo đức chính là những yêu cầu, những
nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Ở phương Tây cổ đại, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng la tinh là Mos- lề
thói (morolia - nghĩa là có liên quan với lề thói, đạo nghĩa), còn luân lý được xem
như đồng nghĩa với "đạo đức" có gốc tiếng Hy Lạp là ethicos - lề thói, tập tục.
Khi nói đến đạo đức là nói đến lề thói, tập tục và tập tục biểu hiện mối quan hệ
giữa người - người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta
thường phân biệt rõ hai khái niệm moral là đạo đức, ethicos là đạo đức học.
Quan điểm duy tâm, tôn giáo coi đạo đức là những nguyên tắc, chuẩn mực
được rút ra từ trong đầu óc, thiếu cơ sở thực tiễn lịch sử, chẳng hạn như: thượng
đế, ý niệm tuyệt đối; tự ý thức hoặc một bản tính trừu tượng nào đó rồi đem áp
đặt vào đời sống của con người. Khác với quan điểm duy tâm tôn giáo, quan điểm
mác xít cho rằng: đạo đức là sản phẩm của điều kiện kinh tế - xã hội, trong đó
nhân tố quy định đạo đức là các quan hệ kinh tế mà lợi ích là cái chi phối trực
tiếp, là cơ sở khách quan của đạo đức.
Đạo đức là một trong những hình thái của ý thức xã hội, nó luôn khẳng
định hay phủ định một lợi ích trong một thời điểm lịch sử cụ thể của nó. Do đó
đạo đức là một hệ giá trị. Lợi ích là cơ sở khách quan của giá trị. Trong xã hội có

8


giai cấp đối kháng do lợi ích căn bản của các giai cấp khác nhau dẫn đến các quan
niệm về giá trị đạo đức cũng khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Vậy nội hàm khái
niệm đạo đức không chỉ xác định ở đặc trưng là một trong những hình thái ý thức
xã hội, là phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi của con người mà đạo đức
còn là một hệ giá trị.
Với cách tiếp cận trên và kế thừa các thành tựu đã đạt được trong các công
trình nghiên cứu về đạo đức, chúng tôi thống nhất với quan niệm cho rằng: "Đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn
mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan
hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội" [39, tr.7].
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức xuất hiện tương đối sớm trong lịch
sử tư tưởng nhân loại. Đạo đức xuất hiện đáp ứng đòi hỏi khách quan của cuộc
sống xã hội, mà trước hết là chế độ kinh tế xã hội. Mỗi khi nền kinh tế có sự thay
đổi, đòi hỏi đời sống đạo đức cũng thay đổi theo. Khi phê phán các quan điểm
giáo điều về một nền đạo đức vĩnh cửu, đặt lên trên mọi lịch sử và trên mọi sự
khác biệt về dân tộc, một thứ đạo đức bất chấp thời gian và mọi sự biến thiên của
thực tế, trong “chống Đuyrinh”, Ănghen đã chỉ ra rằng: Chung quy lại thì mọi học
thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã
hội lúc bấy giờ.
Thật vậy, khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ nhất định, sản phẩm
xã hội đã có sự dư thừa, phân công lao động phát triển, chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất đã xuất hiện, do đó xã hội bắt đầu có sự phân chia giai cấp. Sự xuất hiện
giai cấp này dẫn tới sự phá vỡ ý thức đạo đức thống nhất vốn có của xã hội công
xã nguyên thuỷ để hình thành một nền đạo đức mới, mở đầu cho lịch sử của đạo
đức mang tính giai cấp. Ăng ghen coi đây là một bước "thụt lùi" tương đối của
đạo đức. Nguyên tắc công bằng và bình đẳng bị vi phạm, tình trạng bạo lực, trộm

9


cắp, tính tham lam và sự gian trá trong xã hội ngày một tăng, giai cấp chủ nô
thống trị tìm đủ mọi cách, sử dụng mọi phương tiện, trong đó có đạo đức để đàn
áp giai cấp bị trị.
Là giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến, giai cấp địa chủ phong kiến
trói buộc con người vào những luật lệ hà khắc, xơ cứng của những phụ thuộc
đẳng cấp nghiêm ngặt, tạo nên sự đối kháng về mặt đạo đức. Thói đạo đức giả,
hiếu danh, đầu óc gia trưởng đã làm cho một số người mất nhân phẩm, chạy theo
địa vị, chức tước để mưu cầu cuộc sống an nhàn cho bản thân và gia đình mình.
Một giai cấp mới hình thành và phát triển dần lên trong lòng tầng lớp thị dân thời
phong kiến, đó là giai cấp tư sản. Ban đầu xuất hiện, giai cấp tư sản từng đóng vai
trò cách mạng, tiến bộ trong lịch sử. Nhưng sau khi làm cách mạng tư sản thành
công, giai cấp tư sản lại phản bội lại chính nhân dân lao động, những người đã
từng theo họ làm cách mạng tư sản. Khi mà quan hệ hàng hoá, tiền tệ thâm nhập
vào mọi mặt của đời sống xã hội; khi mà giai cấp tư sản đề cao vị kỷ, vị lợi, khi
mà chủ nghĩa cá nhân trở thành nguyên tắc đạo đức đặc trưng cho hệ tư tưởng và
luân lý tư sản thì khẩu hiệu "tự do - bình đẳng - bác ái" chỉ còn là danh nghĩa,
họ đề cao lẽ sống: mỗi người vì mình, chúa vì tất cả, và lợi nhuận là cái đáng quý
nhất trên đời. Giờ đây, "lòng tham đê tiện" trở thành "linh hồn của thời đại văn
minh" và mục tiêu của thời đại này - như Ăng nghen nói là - "giàu có, giàu có nữa
và luôn luôn giàu có thêm, không phải là sự giàu có của xã hội, mà là sự giàu có
của cá nhân riêng rẽ nhỏ nhen". Nhận xét đó của Ăng nghen đương thời đã đúng
và ngày nay vẫn đúng.
Đối lập với đạo đức của giai cấp tư sản là đạo đức của giai cấp vô sản, đạo
đức đó - như Lênin khẳng định: là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của bọn
bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp
vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản.
Đạo đức mới là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, là đạo đức

10


cộng sản. Xã hội loài người vận động và phát triển như một quá trình lịch sử tự
nhiên, từ thấp đến cao. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau trên cơ sở của
các tất yếu kinh tế. Phản ánh cái lôgíc kinh tế - xã hội đó, đạo đức cũng có lôgíc
tương ứng, đạo đức xã hội cũng vận động phát triển, đỉnh cao là đạo đức cộng sản
chủ nghĩa. Và, mỗi bước thắng lợi của sự nghiệp xây dựng xã hội mới - xã hội xã
hội chủ nghĩa là mỗi bước khẳng định địa vị thống trị của giai cấp công nhân về
kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, trong đó có đạo đức của nó. Đạo đức cộng
sản dần dần khẳng định địa vị thống trị của mình trong đời sống đạo đức xã hội và
là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân trong quá trình xây dựng xã hội mới.
Cụ thể là, các lý tưởng và nguyên tắc đạo đức cộng sản là cơ sở để các đảng
mácxit và chính quyền nhà nước vô sản hoạch định chiến lược, sách lược, chính
sách kinh tế, chính trị và văn hoá - tư tưởng. Ở đây, đạo đức và chính trị đều có
chung một mục đích là khẳng định lợi ích của giai cấp công nhân. Kết quả là đạo
đức cộng sản, theo một ý nghĩa nhất định, nó vừa mang tính chính trị, vừa mang
tính pháp quyền.
Đạo đức cộng sản đã nhân đạo hoá một cách phổ biến mọi quan hệ xã hội
nhờ tính phổ biến của các giá trị nhân đạo của mình. Dù trong thời kỳ đấu tranh
giành chính quyền, hay trong thời kỳ xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa hành vi của giai cấp vô sản đều nhằm mục đích cao cả là giải phóng mình
và giải phóng cả loài người. Bởi vì với giai cấp vô sản, muốn giải phóng mình
phải giải phóng cả nhân loại; muốn một người được tự do thì mọi người phải
được tự do. Ở đây, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất về chính trị, tinh
thần và đạo đức trong các giai cấp và tầng lớp xã hội là cơ sở quy định tính phổ
biến của các giá trị nhân đạo trong xã hội. Mặt khác, nội dung nhân đạo của đạo
đức cộng sản còn là tư tưởng về con đường và phương thức của sự khẳng định sự
tồn tại, hạnh phúc và phát triển tự do của con người.
Như vậy, đạo đức mới có những nguyên tắc cơ bản sau:

11


Thứ nhất, chủ nghĩa tập thể là cơ sở của đạo đức mới.
Chủ nghĩa tập thể là sự thống nhất tự giác của các cá nhân vì lý tưởng cao
quý của con người. Nó được biểu hiện bằng sự thống nhất của tình đồng chí, tinh
thần trách nhiệm, thái độ tôn trọng và chăm sóc lẫn nhau nhằm đảm bảo cho các
cá nhân phát triển cao nhất phục vụ cho lợi ích xã hội.
Chủ nghĩa tập thể giúp cho sự thống nhất trí tuệ, tài năng của các thành
viên xã hội, tạo nên sức mạnh to lớn hoàn thành nhiệm vụ, phục vụ những lý
tưởng cao cả của con người. Vì thế nó là một nguyên tắc cơ bản của đạo đức mới.
Chủ nghĩa tập thể đối lập với chủ nghĩa cá nhân, song nguyên tắc đạo đức
chủ nghĩa tập thể đòi hỏi tập thể cần quan tâm nhu cầu của cá nhân về mọi mặt.
Cần chú ý rằng, nếu quá chú ý lợi ích cá nhân, con người dễ rơi vào chủ nghĩa cá
nhân, ngược lại chống chủ nghĩa cá nhân không thận trọng sẽ chà đạp lên lợi ích
chính đáng của con người; cả hai khuynh hướng trên đây dẫn tới kết quả là cản trở
sự nghiệp giải phóng cá nhân.
Thứ hai, lao động tự giác sáng tạo là cội nguồn của đạo đức mới.
Thái độ với lao động là chuẩn mực quan trọng để đo phẩm giá con người.
Con người chỉ được kính trọng khi có thái độ lao động đúng đắn. Đó là thái độ lao
động tự giác, có kỷ luật, lao động cần cù, sáng tạo, có năng suất chất lượng, hiệu
quả cao, chăm lo thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí coi trọng cả lao động
trí óc và lao động chân tay; yêu lao động, quý trọng lao động của mình và của cả
người khác, lao động cho mình và cho xã hội - đương nhiên quyền làm chủ ở đây
là con người.
Đạo đức của con người trước hết thẩm định bằng động cơ thái độ và cả hiệu
quả lao động. Theo Lênin, chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ chỗ nào mà những công
nhân bình thường biết quan tâm với một tinh thần hy sinh và không quản nhọc
đến việc nâng cao năng xuất lao động. Đó là một trong những vấn đề quan trọng
nhất, căn bản nhất cho thắng lợi của chế độ mới.

12


Thứ ba, chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế.
Lòng yêu nước là một trong những tình cảm tự nhiên và sâu sắc nhất của
con người. Từ xa xưa những yếu tố yêu nước mới chỉ gắn liền với tình yêu quê
hương xứ sở, yêu dân tộc và yêu ngôn ngữ của dân tộc mình. Ngày nay, quan
niệm yêu nước của đạo đức mới là yêu chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc - dân tộc - nhân
dân là một tổng thể. Yêu nước là yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa, yêu nhân dân. Đó
là, lòng tự hào dân tộc, lòng tự hào về sức sáng tạo trong lao động sản xuất, lòng
tự hào về những gương anh hùng bất khuất xả thân vì nền độc lập nước nhà, lòng
biết ơn đối với quê hương đất nước, lòng kính yêu nhân dân thành ý thức trách
nhiệm trước vận mệnh của Tổ quốc, trước hạnh phúc của nhân dân, sẵn sàng cống
hiến cuộc đời mình vì nền độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Yêu nước
trên lập trường của giai cấp công nhân, yêu nước gắn với tinh thần quốc tế. Sự
thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế hình thành một nguyên
tắc cơ bản của đạo đức mới.
Thứ tư, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.
Chủ nghĩa nhân đạo là tổng hợp những quan niệm, quan điểm biểu hiện tư
tưởng thừa nhận và đề cao quyền sống và phẩm giá của con người, đấu tranh tích
cực cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Ở chế độ cộng sản nguyên thuỷ đã hình thành tư tưởng nhân đạo sơ khai, tự
phát thể hiện tình yêu thương giữa con người với con người, những thành viên
trong thị tộc và bộ lạc. Tình yêu thương ấy còn được thể hiện ước mơ và hành
động trong việc cứu vớt, giải thoát con người khỏi những bất hạnh Tư tưởng
này trở thành sợi dây bền chặt, liên kết con người trong cuộc đấu tranh vì những
lợi ích chung.
Chủ nghĩa nhân đạo chỉ thực sự được định hình về mặt tư tưởng khi có
phong trào Phục hưng ở một số nước Tây Âu thế kỷ XV - XVI. Những nhà tư
tưởng của chủ nghĩa nhân đạo thời kỳ này đòi quyền tự do của cá nhân phản đối

13


chủ nghĩa khổ hạnh, tôn giáo, đề cao cuộc sống chân thực của con người. Những
tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa thời Phục hưng được các nhà Khai sáng thế kỷ
XVIII và sau đó là những tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa thế kỷ XIX tiếp thu. Đó là
những tư tưởng tiến bộ phù hợp với yêu cầu của quần chúng đông đảo, vì thế nó
trở thành ngọn cờ tư tưởng của cách mạng tư sản. Các khuynh hướng nhân đạo
chủ nghĩa tuy khác nhau, đều chống phong kiến, chống giáo hội, nhưng nhược
điểm chung là:
- Trừu tượng, kêu gọi tình thương chung chung.
- Không thể thực hiện được trong thực tế.
Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản chủ nghĩa đối lập với chủ nghĩa nhân đạo tư
sản và cũng khác về bản chất so với tư tưỏng nhân đạo Kitô giáo, Phật giáo. Nó
kế thừa và phát triển trên quan điểm biện chứng, những tinh hoa lý tưởng trong
lịch sử nhân loại. Đây là chủ nghĩa nhân đạo có tính hiện thực và trực tiếp nhằm
hành động giải phóng con người chứ không phải chỉ là những cảm nhận thương
sót về thân phận con người.
Chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc đạo đức thể hiện
tình yêu thương sâu sắc của con người đối với con người trước hết là đối với
người lao động. Đó chính là tình yêu thương kính trọng đối với những phẩm giá
con người, làm cho những lý tưởng cao đẹp nhất của họ về tự do, hạnh phúc trở
thành hiện thực cuộc sống.
Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản có nội dung toàn diện, triệt để và sâu sắc, nó
thủ tiêu tất cả mọi áp bức bóc lột trong xã hội, mọi người đều được tự do, thực
hiện đầy đủ quyền làm người. Đây là chủ nghĩa nhân đạo tự do và đầy đủ nhất đối
với nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị. Vì thế nó là một nguyên tắc cơ bản của
đạo đức mới.
1.1.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới cho thanh niên
sinh viên ở Việt Nam hiện nay

14


1.1.2.1. Đặc điểm thanh niên sinh viên ở Việt Nam
Là một tầng lớp xã hội, thanh niên sinh viên trước hết mang những đặc
điểm chung của con người, mà theo Mác thì: bản chất con người không phải là
một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội. Do mục tiêu của luận văn
nên chúng tôi không đi sâu phân tích đặc điểm chung này mà tập trung vào những
đặc điểm riêng của thanh niên sinh viên hiện nay.
Là một bộ phận của thanh niên cho nên họ cũng có những đặc điểm của
thanh niên như trẻ, khá nhạy cảm với cái mới.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc (2003) "thanh niên là những người
trong độ tuổi từ 15 - 24". Về mặt số lượng "trên thế giới hiện có khoảng hơn 1 tỷ
thanh niên. Khoảng 85% số người này sống ở các nước đang phát triển và tới năm
2020, tỷ lệ này sẽ đạt 89%". Theo số liệu của Vụ dân số - Uỷ ban Dân số, Gia
đình và Trẻ em, hiện Việt Nam có 15,5 triệu thanh niên trong độ tuổi 15 - 24,
chiếm 19,4% dân số. Liên Hiệp Quốc (2003) trong Thông điệp của mình nhân
ngày Quốc tế thanh niên 12 - 08 - 2003 thì cho biết, Việt Nam hiện có 16 triệu
thanh niên trong tổng dân số 80 triệu người. Riêng bộ phận thanh niên sinh viên,
thống kê từ một cuộc điều tra cho biết, số sinh viên tốt nghiệp năm 1999 từ 51
trường đại học và cao đẳng tại Việt Nam có cơ cấu độ tuổi như sau: 23 tuổi chiếm
38%, 22 tuổi chiếm 32%, trên 23 tuổi chiếm 25% và dưới 22 tuổi chiếm 5%. Theo
đó tỷ lệ từ 23 tuổi trở xuống trong tổng số thanh niên sinh viên là 75%.
Tiếp cận và nghiên cứu thanh niên sinh viên theo quan điểm biện chứng và
toàn diện, ta thấy ở họ có những đặc điểm phát triển đạo đức riêng, gắn liền với
đặc trưng tâm lý lứa tuổi; các phẩm chất tốt và xấu, tích cực và hạn chế , đan
xen nhau, cùng tồn tại song hành với nhau.
Trước hết, ở họ có thái độ nhạy cảm và dễ tiếp thu cái mới, thông qua các
hoạt động hướng ngoại và giao lưu rộng rãi. Điều đó rất phù hợp với điều kiện đổi

15


mới, giao lưu mở cửa của đất nước ta hôm nay.
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, thanh niên sinh viên là lớp người
chờ đón và ủng hộ nhiệt thành nhất. Sự trì trệ, lạc hậu lâu dài mà nền kinh tế bao
cấp để lại đã làm cho nhiều thanh niên sinh viên mất niềm tin, mất hy vọng vào
tương lai của đất nước và của chính mình. Công cuộc đổi mới với những thay đổi
tốt đẹp bước đầu đã thổi vào bầu nhiệt huyết của họ một sinh lực mới.
Thứ hai, thanh niên sinh viên có hoài bão, ước mơ và niềm tin hướng tới
tương lai. Tương lai và mục tiêu cuộc sống là động lực thôi thúc suốt cuộc đời và
mọi hành động của tuổi trẻ. Nếu như tuổi già thường hướng về quá khứ thì tuổi trẻ
lại luôn hướng về tương lai, thế hệ già thích hướng nội thì thanh niên trong đó có
thanh niên sinh viên lại thích hướng ngoại; thế hệ già thích hướng về truyền thống
thì thế hệ thanh niên zinh viên lại thích hướng vào hiện tại và xã hội hiện đại
Đây là một trong những nguyên nhân làm cho các thế hệ có sự xung đột với nhau.
Thứ ba, thanh niên sinh viên là lớp người có ý chí và bản lĩnh trong cuộc
sống và trong công việc của mình, có tinh thần hăng say, sáng tạo và linh hoạt
trong công việc, không chịu khuất phục trước khó khăn. Những phẩm chất này
hoàn toàn phù hợp với xã hội công nghiệp hiện đại hôm nay. Chính vì vậy, thanh
niên sinh viên luôn là lớp người xung kích trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước - nơi mà họ có thể phát huy hết khả năng và tính tích cực của cá
nhân mình.
Tuy nhiên, do đặc điểm lứa tuổi, thanh niên sinh viên cũng còn một số hạn
chế về mặt tác phong, lối sống, phẩm chất đạo đức:
- Vì nhạy cảm và thích tiếp thu cái mới nên lứa tuổi thanh niên sinh viên
thường thiếu cân nhắc, chọn lọc với những trào lưu được gọi là mang tính hiện đại
từ bên ngoài vào. Qua sách báo, qua phim ảnh, qua giao lưu, nhất là trong điều
kiện công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay, có những luồng thông tin
không phù hợp, nếu không nói là độc hại đối với tâm hồn của lớp trẻ đang tràn

16


vào. Lối sống phương Tây qua đó cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
đạo đức của thanh niên sinh viên ta.
- Tính dễ bị kích thích, thiếu tự chủ; tính bồng bột, nhẹ dạ, chủ quan vì còn
thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống. Đặc điểm này khiến cho tuổi thanh niên sinh
viên dễ bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo vào các hoạt động thiếu lành mạnh ảnh hưởng
xấu đến bản thân, gia đình và xã hội. Sở dĩ thanh niên sinh viên có những nhược
điểm này vì họ vẫn đang ở độ tuổi phát triển, đang định hình về nhân cách, cho
nên việc định hướng rèn luyện cho thanh niên sinh viên biết khắc phục những mặt
hạn chế, yếu kém, phát huy những mặt mạnh trong học tập, trong rèn luyện đạo
đức nhân cách là cần thiết.
1.1.2.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh
viên ở Việt Nam hiện nay.
Như Bác Hồ đã dạy, vì sự nghiệp mười năm thì phải trồng cây, vì sự nghiệp
trăm năm thì phải trồng người. Chiến lược phát triển con người toàn diện cho sự
nghiệp xây dựng Tổ quốc, thế hệ trẻ cần phải được chú ý đầu tiên vì họ là “người
chủ tương lai của nước nhà” trong đó đội ngũ thanh niên sinh viên có vai trò đặc
biệt. Ở đây, công tác giáo dục đạo đức mới cho thanh niên sinh viên có ý nghĩa
quan trọng. Khẳng định điều đó là do:
Một là, Do yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Trong điều kiện đổi mới hiện nay, vai trò to lớn của thanh niên mà nhất là
thanh niên sinh viên đối với sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước đòi hỏi họ phải có trình độ trí tuệ nhất định, được đào tạo về
chuyên môn, nghiệp vụ, có năng lực trong việc sáng tạo, tiếp thu và sử dụng
những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại; đồng thời phải có những phẩm
chất đạo đức cần thiết.
Sự quan tâm đến lợi ích của người khác chính là bản chất của đạo đức

17


Như vậy, nó làm cho tài năng trí tuệ của con người trở nên hữu ích cho sự nghiệp
chung. Hiện nay, dưới tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường và mở rộng giao
lưu, hội nhập, nếu người thanh niên sinh viên thiếu sự trưởng thành về mặt phẩm
chất đạo đức, ý thức pháp luật, trình độ giác ngộ của bản thân về trách nhiệm và
nghĩa vụ của mình đối với xã hội, thì họ chưa thể trở thành một con người phát
triển toàn diện theo đúng nghĩa của nó. Thực tế cho thấy rằng, sự linh hoạt, năng
động, sáng tạo của mỗi cá nhân nếu không được dựa trên nền tảng những phẩm
chất đạo đức của họ thì mức độ cống hiến của họ cho xã hội sẽ rất hạn chế, thậm
chí còn dẫn đến những lệch lạc, sai lầm trong định hướng giá trị; sự xa rời các giá
trị truyền thống, lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân Điều đó nói lên rằng,
kinh tế thị trường càng phát triển, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng
được đẩy mạnh thì việc giáo dục và rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ càng trở nên
cần thiết. Có ý thức đạo đức, có phẩm chất đạo đức, con người mới sống có nề
nếp, có kỷ cương, trật tự, có thái độ và khả năng ứng xử đúng đắn trong các mối
quan hệ với tự nhiên, với xã hội và với chính bản thân mình.
Hai là, giáo dục đạo đức góp phần xây dựng sự hài hoà giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của tầng lớp thanh niên sinh viên.
Coi trọng đạo đức và giáo dục đạo đức là truyền thống tốt đẹp của dân tộc
ta. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, đang nổi lên nhiều vấn đề nhức nhối trong
lĩnh vực này.
Sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa
có sự quản lý của nhà nước là nhằm phát triển nền kinh tế vì hạnh phúc của con
người. Nhưng nó cũng có thể dẫn đến nguy cơ phát triển một thế hệ con người
mới phiến diện: đời sống vật chất được coi trọng hơn đời sống tinh thần, lợi ích cá
nhân được đặt lên trên tất cả Những thành tựu khoa học - kỹ thuật và công nghệ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng tạo ra các phương tiện
lao động và tiện nghi sinh hoạt ngày càng hiện đại và tiện lợi và thanh niên lớp

18


người tiếp nhận và sử dụng đặc biệt nhanh chóng các phương tiện và tiện nghi
này. Điều đó làm cho các mối quan hệ của họ với xã hội bị thu hẹp lại, cuộc sống
tinh thần trở nên đơn điệu hơn, nghèo nàn hơn Với những chức năng đặc trưng
như chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, chức năng điều chỉnh, đạo đức có
tác dụng góp phần khắc phục tình trạng trên, tạo lập sự hài hoà, cân đối giữa đời
sống vất chất và đời sống tinh thần của giới trẻ. Giáo dục đạo đức cho thanh niên
sinh viên cũng có tác dụng làm thức tỉnh ở họ những xúc cảm và tình cảm đạo
đức: sự cảm thông, quan tâm đến lợi ích của người khác, của cộng đồng xã hội, sự
phẫn nộ và đấu tranh với cái ác Tình cảm yêu thương con người, tình yêu quê
hương đất nước đều là những tình cảm đạo đức làm cho quan hệ giữa con người
với con người, giữa con người với thiên nhiên hài hoà và sâu sắc hơn. Những tình
cảm đạo đức đúng đắn được hình thành và củng cố qua giáo dục và rèn luyện sẽ là
nguồn sức mạnh tinh thần, định hướng cho giới trẻ vươn tới mục tiêu chân, thiện,
mỹ trong cuộc sống.
Ba là, giáo dục đạo đức góp phần hướng giới trẻ vươn tới những giá trị
nhân văn, nhân bản.
Chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước ở nước ta trong những năm qua đã tạo ra sự tăng trưởng kinh tế rõ rệt,
đời sống của nhân dân được nâng cao. Đó là điều kiện để nâng cao đời sống tinh
thần cho mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, xét từ góc độ văn hoá và đạo đức,
những quan điểm và mục tiêu kinh tế, kỹ thuật, công nghệ thuần tuý, tách rời định
hướng nhân văn sẽ có ảnh hưởng không nhỏ, làm nảy sinh những hiện tượng tha
hoá trong đời sống tinh thần của con người.
Theo quan điểm của chúng ta, trong hệ thống các giá trị tinh thần của dân
tộc ta, giá trị đạo đức là giá trị cốt lõi. Trong thực tiễn lao động, đấu tranh và xây
dựng Tổ quốc, đạo đức cũng là giá trị nhân văn cao nhất mà con người có được,
bởi vì nó nâng cao con người, nâng cao phẩm giá con người, kích thích phát triển

19


cái "chất" người trong con người và sự phát triển và hoàn thiện của đạo đức là
một mặt của sự hình thành, phát triển, hoàn thiện của nhân cách.
Vai trò của đạo đức hướng con người đến các giá trị nhân văn còn biểu hiện
ở chỗ, đạo đức tạo ra một môi trường xã hội lành mạnh - môi trường văn hoá cho
sự phát triển con người. Môi trường đó được bắt đầu từ trong gia đình, kết hợp
trong nhà trường và mở rộng ra toàn xã hội. Ở trong gia đình, người con được
giáo dục lòng hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, lòng thương yêu và quý trọng con
người; ở trường người học sinh học được tình cảm quý trọng và kính yêu thầy cô
giáo, lòng biết ơn đối với Tổ quốc, với nhân dân ; ở ngoài xã hội, trong môi
trường làm việc và học tập của mình, người thanh niên sinh viên được rèn luyện
những phẩm chất như chữ "tín" trong kinh doanh, "y đức" trong nghề thầy thuốc,
liêm khiết, công minh trong công tác quản lý, biết bảo vệ và gìn giữ môi trường
thiên nhiên xung quanh mình
Như vậy, đối với lứa tuổi thanh niên sinh viên, đạo đức và giáo dục đạo đức
có vai trò vô cùng to lớn, tạo nên sự phát triển toàn diện, vừa "hồng" vừa
"chuyên" cho cả một thế hệ, định hướng cho họ trở thành những con người ngày
càng có ích cho xã hội và góp phần to lớn cho thành công của sự nghiệp cách
mạng của đất nước.
Bốn là, Giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên nhằm góp phần phát
triển toàn diện nguồn nhân lực cho đất nước.
Để tiếp tục đổi mới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá chung
của đất nước thì vấn đề then chốt và cấp bách hiện nay là phải nhanh chóng phát
triển nguồn lực con người như cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nói trong
"chiến lược con người là chiến lược số 1". Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII
cũng đã nhấn mạnh: nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của
con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Để phát triển nguồn lực đó thì công tác giáo dục đào tạo nói

20


chung và giáo dục đào tạo cho thanh niên nói riêng giữ vai trò đặc biệt quan trọng
mang tính quyết định.
Sự nghiệp giáo dục đào tạo bên cạnh việc xây dựng những lớp người “có tư
duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi" thì còn phải xây dựng những lớp người
có “đạo đức trong sáng, có tác phong công nghiệp". Đó là những lớp người vừa
"hồng" vừa “chuyên" như lời dặn của Bác Hồ.
Nói tới nguồn nhân lực là nói tới yếu tố con người. Đó là những chủ thể của
hoạt động trên tất cả các lĩnh vực, có đầy đủ những năng lực phẩm chất, tạo nên
nhân cách của họ. Sức mạnh của nguồn lực con người trong mỗi doanh nghiệp,
trong nhà trường, lực lượng vũ trang được thể hiện thông qua sức mạnh của mỗi
cá nhân. Nó có mối quan hệ chặt chẽ với các nguồn lực khác và cũng chính nó tạo
ra những nguồn lực khác. Do đó, nguồn lực con người vừa là động lực vừa là mục
tiêu của mọi hoạt động .
Năm là, Giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên trong các trường đại
học góp phần tích cực vào việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, khắc
phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, chống lại những thói hư tật xấu.
Những giá trị đạo đức đã được kết tinh hàng ngàn năm trong lịch sử dân tộc
như lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý thức tự lực, tự cường, lòng nhân ái,
khoan dung Khi những giá trị đạo đức ấy biến thành tình cảm, động lực, nó sẽ
giúp cho mọi người vượt qua mọi khó khăn gian khổ, vươn lên trong cuộc sống.
Thực tế hiện nay cho ta thấy rằng đã không ít người nhất là tầng lớp thanh niên
sinh viên lãng quên những giá trị đạo đức truyền thống mà thích hướng ngoại. Họ
cho rằng những cái đó là phù phiếm cần gì phải nhắc đến nhất là cần gì phải giáo
dục. Đó là những tư tưởng sai lầm có thể nói rằng nó ảnh hưởng không nhỏ đến
đạo đức của Việt Nam hiện nay.
Sáu là, Giáo dục đạo đức còn có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và
phát huy bản lĩnh chính trị cho thanh niên sinh viên.

21


Trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng
định: đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một sự lựa chọn đúng đắn, hợp quy
luật. Tư tưởng đó tiếp tục được khẳng định ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX:
"Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã
hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Do
đó giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên trong các trường đại học ở Hà Nội
có một vai trò hết sức quan trọng trong việc xác định lập trường chính trị tư
tưởng, nâng cao phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị cho mỗi thanh niên sinh
viên. Việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên Việt Nam không
chỉ xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của chính bản thân họ mà còn xuất phát từ
chính yêu cầu của công cuộc đổi mới của đất nước. Có thể nói công tác đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực có vai trò quyết định tới sự phát triển của đất nước. Dó
đó, sự nghiệp “trồng người" luôn được Đảng ta quan tâm chú ý, được xác định
như một "chiến lược", một “quốc sách" hàng đầu trong sự nghiệp phát triển đất
nước.
1.2. Nội dung và yêu cầu của giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên
ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Nội dung của giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên ở Việt
Nam hiện nay
Thứ nhất, Giáo dục lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc.
Lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, từ lâu đã trở thành truyền thống
quý báu của dân tộc ta, nó nổi lên như là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt
Nam từ xưa tới nay, đó là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc
Việt Nam, là cái bản chất của người Việt Nam đã được cha ông ta dày công vun
xới suốt hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, và được nâng lên thành chủ
nghĩa: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.

22

Chủ nghĩa yêu nước là tinh thần đối với đất nước, là lòng trung thành đối

với Tổ quốc, với nhân dân, có khát vọng tối đa đem lại lợi ích cho nhân dân, cho
dân tộc mình.
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam tỉ lệ thuận với nội dung đạo
đức. Trong lòng người dân yêu nước Việt Nam cũng chứa đựng trong đó yếu tố
đạo đức. Yêu nước trở thành một trong những tiêu chí của người có đạo đức, dù
cho động cơ yêu nước của mỗi người, mỗi thời đại có nội dung và sắc thái khác
nhau.
Chất keo kết dính người Việt Nam với nhau đó là lòng dũng cảm, trí thông
minh, ý chí bất khuất, kiên cường chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta đã được
thể hiện nhiều trong lịch sử, trở thành biểu tượng tinh thần, thành niềm tự hào dân
tộc, thành động lực vô cùng to lớn thúc đẩy sự nghiệp cách mạng đi lên. Đó cũng
là một trong những biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Để cho thanh niên sinh viên nhận thức được chủ nghĩa yêu nước là bậc
thang cao nhất trong giá trị đạo đức Việt Nam chỉ bằng cách giáo dục lòng yêu
nước và tinh thần tự hào dân tộc. Không thể có một nhân cách phát triển toàn diện
mà ở đó, chủ nghĩa yêu nước với tư cách là bậc thang cao nhất trong giá trị đạo
đức Việt Nam, một trong những tiêu chí quan trọng nhất trong nhân cách con
người Việt Nam lại vắng bóng hay mờ nhạt.
Điều quan trọng hơn là chúng ta phải giúp cho thanh niên sinh viên biết
chuyển giá trị đạo đức ấy từ yêu cầu bên ngoài thành nhu cầu tất yếu bên trong
đối với một nhân cách thanh niên sinh viên, là phải giúp cho họ tiếp thu và cải
biến giá trị, phẩm chất đạo đức ấy, tạo thành những nét, những thuộc tính, những
phẩm chất, những giá trị nhân cách bền vững trong họ, giúp họ "biến" tri thức đạo
đức "thành" thực tiễn đạo đức.
Lẽ dĩ nhiên những thành quả cách mạng của các thế hệ đi trước để lại,
thanh niên sinh viên là lớp người mới lớn lên, đang trưởng thành, đang phát triển,

23

họ thừa hưởng một cách "tự nhiên", khiến cho nhiều người không quan tâm đến

nguyên nhân của những thành quả đó. Quá khứ hào hùng của dân tộc cần phải
làm cho đông đảo thanh niên sinh viên ý thức một cách đầy đủ từ trong chiều sâu
của tâm hồn. Hiện tại với bao bộn bề, tương lai với bao thời cơ và thách thức đang
đặt ra trước mắt họ, đòi hỏi họ phải vượt qua.
Tiếp bước truyền thống lịch sử, nhiệm vụ của thế hệ trẻ Việt Nam ngày
nay phải tiếp nối sự nghiệp của lớp người đi trước, đẩy mạnh công cuộc đổi mới,
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mở ra chương sử mới cho non
sông Việt Nam vinh quang sánh vai cùng các dân tộc khác trên thế giới.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vẻ vang đó, mỗi một thanh niên sinh viên
phải biết biến chủ nghĩa yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, cùng với lòng kính
trọng đối với nhân dân, với Tổ quốc thành tình cảm đạo đức, thành niềm tin,
thành sức mạnh, vốn là những giá trị, những phẩm chất không thể thiếu được
trong con người yêu nước Việt Nam, trong nhân cách sinh viên Việt Nam, ra sức
học tập, rèn luyện phấn đấu để xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh, đem lại hạnh phúc thực sự cho con người.
Trước tình hình thế giới hiện nay, kẻ thù đang tìm mọi âm mưu và thủ đoạn
chống phá chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới của nhân dân ta. Với trình độ
nhận thức và giác ngộ chính trị còn hạn chế, lập trường giai cấp chưa thực sự
vững vàng, lại thiếu thực tế, do vậy, giáo dục chủ nghĩa yêu nước và tinh thần tự
hào dân tộc cho thanh niên sinh viên có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc hình thành đạo đức cho sinh viên, khơi dậy lòng nhiệt huyết cách mạng, ý chí
tự lực tự cường, biết kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống quý báu của
cha anh, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, có hoài bão lớn lao và tinh thần vượt
khó đang tiềm ẩn trong mỗi một thanh niên sinh viên.
Thứ hai, Giáo dục cho thanh niên sinh viên biết sống có lý tưởng, ước mơ
và hoài bão lớn lao.

24

Trong đặc điểm thanh niên sinh viên chúng ta đã khẳng định, đây là một

lớp người trẻ năng động vì vậy giáo dục cho thanh niên sinh viên biết sống có lý
tưởng, ước mơ và hoài bão lớn lao trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sống có lý tưởng, ước mơ hoài bão lớn lao, con người sẽ nhân gấp đôi cuộc sống
có ý nghĩa của mình lên. Sống thiếu lý tưởng, không mục đích, con người sẽ
không có nghị lực để vươn lên trong cuộc sống, do đó, giá trị cuộc sống của họ
cũng giảm đi nhiều lần. Nếu như không có lý tưởng và niềm tin, không có ước mơ
và hoài bão lớn lao, thì không thể có đức hy sinh và lòng dũng cảm; sự cao
thượng và lòng vị tha; dám nghĩ, dám làm, dám chấp nhận khó khăn nguy hiểm;
có tinh thần học tập và liên tục vươn lên Điều đó nghĩa là không thể hình thành,
phát triển những phẩm chất đạo đức, cho thanh niên sinh viên, mà sự phát triển
giá trị nhân cách ở con người là một trong những nội dung cơ bản và là mục tiêu
trực tiếp của giáo dục đạo đức.
Lý tưởng không phải là ảo tưởng, không phải là điều xa vời mà phải bắt
nguồn từ cuộc sống. Lý tưởng của thanh niên sinh viên ngày nay phải là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; là học tập, rèn luyện vì ngày mai lập thân, lập
nghiệp, vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Phấn đấu xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đây là một lý
tưởng vừa cao cả, vừa khoa học. Chúng ta coi việc giáo dục lý tưởng đó là một
trong những nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của giáo dục đạo đức; là cơ sở, nền tảng
để phát triển con người, phát triển nhân cách. Tuy nhiên, việc giáo dục lý tưởng
cao đẹp cho thanh niên sinh viên chỉ có ý nghĩa thiết thực khi biết biến lý tưởng
thành hiện thực, biết cụ thể hoá lý tưởng sống của mình trong lao động, học tập,
sinh hoạt Nếu không thì lý tưởng, ước mơ cũng chỉ là mơ ước, mãi mãi nó
không trở thành hiện thực được.
Có thể nói, động lực thúc đẩy thanh niên sinh viên trong hiện nay trong quá
trình học tập xây dựng niềm tin khoa học vào ngày mai chính là sống có lý tưởng,

×