Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.84 KB, 17 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>CHƯƠNG I. Quy luật QHSX phùhợp với trình độ phát triển của lựclượng sản xuất</b>
<b>3I. ĐÔI NÉT VỀ LỰC LƯỢNG SẢN</b>
XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT <b><sup>3</sup></b>
<b>1. Khái niệm về phương thức sản</b>
phát triển và biến đổi của QHSX <b><sup>7</sup></b>
<b>2. Sự tác động trở lại của QHSX đối</b>
<b>CHƯƠNG II. Sự vận dụng củaĐảng ta vào sự nghiệp đổi mới đấtnước</b>
<b>10</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Triết học đã nhiều đóng góp nhất định vào kết quả của đổi mới tư duy lý luận. Có thể nói, triết học đã tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho quá trình đổi mới tư duy lý luận, tư duy triết học, là hạt nhân lý luận cho sự hình thành tư duy mới về CNXH, nhất là tư duy kinh tế và tư duy chính trị. Trong quá trình hội nhập và thực hiện đổi mới hiện nay, đất nước ta đã có nhiều biến chuyển tích cực, ngày càng hồn thiện hơn để sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Nền kinh tế nông nghiệp thô sơ đang dần được thay thế bởi nền kinh tế thị trường. Từ khi sản xuất chủ yếu bằng hái lượm săn bắt, trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu thì ngày nay trình độ khoa học đạt tới mức tột đỉnh. Vấn đề lao động sản xuất trở thành một yếu tố quan trọng trong việc quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Trong đó, tác động qua lại biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất được Mác và Ănghen khái quát thành qui luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Từ những lý luận trên đưa Mác - Ănghen vươn lên đỉnh cao trí tuệ của nhân loại. Khơng chỉ trên phương diện triết học mà cả chính trị kinh tế học và chủ nghĩa cộng sản khoa học. Dưới những hình thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức và mức độ khác nhau, dù con người có ý thức được hay khơng thì nhận thức của hai ơng về quy luật vẫn xuyên suốt lịch sử phát triển.
Nghiên cứu về sự thống nhất, biện chứng quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho chúng ta có được một nhận thức về sản xuất xã hội. Đồng thời mở mang được nhiều lĩnh vực về kinh tế. Thấy được vị trí, ý nghĩa của nó em xin được đưa ra những nhận định của mình về vấn đề này thông qua đề tài tiểu luận:
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><i><b>“Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lựclượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay”.</b></i>
Tuy nhiên do trình độ nhận thức hiểu biết về mọi mặt cịn hạn chế, nên khơng tránh khỏi những sai sót. Em rất mong cơ giáo góp ý để bài tiểu luận này được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
<b>CHƯƠNG I. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triểncủa lực lượng sản xuất</b>
<b>I/ ĐÔI NÉT VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT1. Khái niệm phương thức sản xuất</b>
Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội lồi người.
Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>2. Lực lượng sản xuất (LLSX) là gì?</b>
LLSX biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, con người kết hợp sức lao động của mình với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình.
Vậy, LLSX là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.
LLSX là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó “lực lượng sản xuất của tồn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. LLSX bao gồm lực lượng lao động, công cụ và thiết bị lao động, nhà xưởng, công nghệ, nguyên vật liệu và đất đai được sử dụng. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là 1 yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trị quyết định trong tư liệu sản xuất. Lịch sử loài người được đánh dấu bởi các mốc quan trọng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất trước hết là công cụ lao động. Sau bước ngoặt của sinh học, sự xuất hiện của công cụ lao động đánh dấu một bước ngoặt khác trong sự chuyển từ vượn thành người. Từ kiếm sống bằng săn hái lượm sang hoạt động lao động thích nghi với tự nhiên và dần dần cải tạo tự nhiên, từ sản xuất nông nghiệp cơng nghệ lạc hậu chuyển lên cơ khí hố sản xuất. Công cụ lao động là do con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức con người đã được vật thể hố”, nó nhân sức mạnh của con ngưpì trong quá trình lao động sản xuất. Cùng với q trình tích luỹ kinh nghiệm, với những phát mình và sánh chế kỹ thuật, cơng cụ lao
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">động không ngừng được cải tiến và hồn thiện. Chính sự cải tiến và hồn thiện khơng ngừng của công cụ lao động đã làm biến đổi tồn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng đó là toàn bộ nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của cơng cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Cùng với sự cải tiến và hoàn thiện tư liệu lao động, kinh nghiệm sản xuất của con người càng phát triển, những ngành sản xuất mới xuất hiện và sự phân công lao động trong xã hội ngày càng mở rộng. Trong thời đại cách mạng khoa học - kĩ thuật hiện nay, khoa học được ứng dụng ngày càng rộng rãi vào sản xuất đã trở thành LLSX trực tiếp; tri thức khoa học được vật chất hoá và kết tinh vào mọi nhân tố của LLSX. LLSX được kế thừa và phát triển liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác và ln gắn bó một cách hữu cơ với quan hệ sản xuất trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, hợp thành phương thức sản xuất.
<b>3. Quan hệ sản xuất (QHSX) là gì?</b>
Quan hệ kinh tế - xã hội giữa người với người hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất và vận động của sản phẩm xã hội từ sản xuất đến tiêu dùng; về cơ bản nó thể hiện ở mặt quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Bản chất của QHSX do chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. QHSX gồm những quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất, trong sự trao đổi hoạt động lẫn nhau, trong hình thức phân phối sản phẩm và trong q trình quản lí hoạt động kinh tế, từ sản xuất, phân phối, lưu thơng (trao đổi), đến tiêu dùng. Nhìn tổng thể QHSX gồm ba mặt:
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: tức là quan hệ giữa người đối với tư liệu sản xuất (nói cách khác là tư liệu sản xuất thuộc về ai). Quan hệ này là quan hệ xuất phát, cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quyết định các mối quan hệ còn lại.
- Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh: tức là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân công chun mơn hố và hợp tác hố lao động quan hệ giữa người quản lý với công nhân. Quan hệ này do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quanr lý khơng thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
- Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra: tức là mối quan hệ chặt chẽ với nhau vào cùng 1 mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng. Đóng góp ngày càng nhiều cho nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quan hệ này tác động trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động và sản xuất và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
Tất cả các mối quan hệ đó được hình thành về cơ bản phụ thuộc vào chế độ sở hữu. Mỗi phương thức sản xuất nhất định trong lịch sử có một tổng thể các QHSX riêng của nó, trong đó có một loại hình QHSX chủ đạo, có vai trị quyết định. Trong các hình thái xã hội có đối kháng giai cấp, đã nảy sinh quan hệ thống trị và bị trị, sản xuất phục tùng lợi ích của giai cấp bóc lột. QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực LLSX là một quy luật.
Trong hoàn cảnh của nước ta hiện nay đang ở thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ cấu xã hội của một nước chưa thuần nhất, các lực lượng sản
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">xuất phát triển với quy mơ và trình độ khác nhau, cho nên có sự đa dạng các hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên hoàn thiện QHSX, duy trì sự thích ứng ổn định của nó với LLSX đang phát triển, kịp thời phát hiện những mâu thuẫn giữa chúng, xem đó là tiền đề tất yếu để thúc đẩy tiến bộ kinh tế - xã hội, từng bước đưa thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển, tiến lên giữ vai trò chủ đạo. Trong cải tạo và củng cố quan hệ sản xuất vấn đề quan trọng mà đại hội VI nhấn mạnh là phải tiến hành cả ba mặt đồng bộ: cơ chế sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối, không nên coi trọng một mặt nào cả về mặt lý luận, khơng nghi ngờ gì rằng: chế độ sở hữu là nền tảng của QHSX. Nó là đặc trưng để phân biệt chẳng những các QHSX khác nhau mà còn các thời đại kinh tế khác nhau trong lịch sử như Mác đã nói.
<b>II/ QUY LUẬT SỰ PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT (QHSX)VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT(LLSX)</b>
<b>1. LLSX quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của QHSX.</b>
LLSX và QHSX là hai mặt của PTSX, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội. Khái niệm "phù hợp" được hiểu với nghĩa chỉ phù hợp mới tốt, mới hợp qui luật, không phù hợp là không tốt, là trái qui luật. Có nhiều vấn đề mà nhiều lĩnh vực đặt ra với từ "phù hợp" này. Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">mà nhìn một cách tổng quát thì đó là những dạng QHSX và dạng những LLSX từ đó hình thành những mối liên hệ chủ yếu cơ bản là mối liên hệ giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là sự biến đổi và phát triển của LLSX, trước hết là công cụ lao động. Trình độ LLSX trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ của LLSX biểu hiện ở trình độ của cơng cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân cơng lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Gắn liền với trình độ của LLSX là tính chất của LLSX. Trong lịch sử xã hội, LLSX đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hố. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì LLSX chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân cơng lao động phát triển thì LLSX có tính chất xã hội hố.
Sự vận động và phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi
<i>QHSX cho phù hợp với nó. Khi một PTSX mới ra đời, khi đó QHSX phù</i>
hợp với trình độ phát triển của LLSX. Sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX là một trạng thái mà trong đó QHSX là hình thức phát triển của LLSX. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của QHSX đều tạo địa bàn đầy đủ cho LLSX phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó LLSX có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX. Khi đó, QHSX trở thành xiềng xích của LLSX, kìm hãm LLSX phát triển. Yêu
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">cầu khách quan của sự phát triển LLSX tất yếu dẫn đến sự thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển mới của LLSX để thúc đẩy LLSX tiếp tục phát triển. Thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác cũng đã từng viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các LLSX vật chất của xã hội mâu thuẫn với những QHSX hiện có… trong đó từ trước đến nay các LLSX vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của LLSX, những quan hệ ấy trở thành “xiềng xích” của LLSX. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
<b>2. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX</b>
QHSX khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với LLSX và trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và nó khơng thể biến đổi đồng thời đối với LLSX., thường lạc hậu so với LLSX và nếu QHSX phù hợp với trình độ, tính chất của LLSX thì nó thúc đẩy sự phát triển của LLSX. Ngược lại, nếu lạc hậu so với LLSX dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của LLSX. Khi QHSX kìm hãm sự phát triển của LLSX thì theo quy luật chung, QHSX cũ sẽ được thay thế bằng QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX để thúc đẩy LLSX phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX không phải là giản đơn. Nó phải thơng qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thơng qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội. Sở dĩ QHSX có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với LLSX nó qui định mục đích của sản xuất, qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít hay
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động quốc tế.
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. Sự thay thế, phát triển của quy luật lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến chế độ cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản nhất.
<b>ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC</b>
<b>I/ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NHIỀUTHÀNH PHẦN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆNNAY.</b>
Một trong những thành tựu lớn nhất của gần 18 năm đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế, tạo nên những tiềm lực mới cho sự phát triển của đất nước. Sau khi giành được chính quyền từ tay thực dân Pháp nền kinh tế nước ta đi lên theo nền kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, nền sản xuất nhỏ trình độ khoa học kém phát triển, quan hệ giữa lực lượng sản xuất với
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">trình độ sản xuất rời rạc, tẻ nhạt. Tuy nhiên nó cũng có phần phù hợp với thời đó bởi vì nước ta khơng phải như các nước bình thường khác mà nước ta là một nước tràn ngập chiến tranh. Đánh thắng thực dân Pháp thì giặc Mỹ lại xâm chiếm đánh phá nước ta. Thế rồi non sông về một mối cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa với một lực lượng sản xuất lớn và tiềm năng mọi mặt còn non trẻ đòi hỏi nước ta phải có một chế độ kinh tế phù hợp với nước nhà và do đó nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần ra đời. Nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do quá cường điệu vai trò của quan hệ sản xuất do quan niệm không đúng về mối quan hệ giữa sở hữu và quan hệ khác, do quên mất điều cơ bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn đồng nhất giữa hợp tác hoá và tập thể hố. Khơng thấy rõ các bước đi có tính qui luật trên con đường tiến lên CNXH nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là theo đường lối "đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thiết lập chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu tồn dân và tập thể". Quan niệm cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn với những cái phân tích trên. Trên con đường tìm tịi lối thốt của mình từ trong lòng nền xã hội đã nảy sinh những hiện tượng trái với ý muốn chủ quan của chúng ta có nhiều hiện tượng tiêu cực nổi lên trong đời sống kinh tế như quản lý kém, tham ô,... Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với những hình thức kinh tế - xã hội xa lạ được áp đặt một cách chủ quan kinh tế thích hợp cần thiết cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh và phát triển. Khắc phục những hiện
</div>