Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 107 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
***
TRUNG TÂM ĐẠO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN, CHÍNH TRỊ




NGUYỄN THỊ THU HIỀN




mèi quan hÖ gi÷a x©y dùng nÒn kinh tÕ
®éc lËp tù chñ vµ héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ
ë n-íc ta hiÖn nay






LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC










HÀ NỘI - 2007



I HC QUC GIA H NI
***
TRUNG TM O TO, BI DNG GING VIấN L LUN, CHNH TR




Nguyễn Thị Thu Hiền



mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế
ở n-ớc ta hiện nay


Chuyờn ngnh: Trit hc
Mó s : 60 22 80


luận văn thạc sĩ triết học


Giỏo viờn hng dn: PGS. NGUYN BNG TNG








hà nội - 2007


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1: TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ
CHỦ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
1.1. Tính tất yếu của xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ……….
1.2. Tính tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế ở nƣớc ta hiện nay…
1.3. Quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
và hội nhập kinh tế quốc tế ở nƣớc ta hiện nay……………
CHƢƠNG 2: KẾT HỢP GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ
VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƢỚC TA: THỰC TRẠNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội
nhập kinh tế quốc tế trong chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam ………………………………………….
2.2. Kết hợp xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập
kinh tế quốc tế: những thành tựu và hạn chế…………………
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP MANG TÍNH ĐỊNH HƢỚNG NHẰM KẾT

HỢP HIỆU QUẢ GIỮA XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP
TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN
NAY
3.1. Về nhận thức và chủ trƣơng, đƣờng lối……………………
3.2. Đổi mới, nâng cao năng lực và vai trò quản lý của nhà nƣớc
đối với nền kinh tế……………………………………………
3.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế……………
3.4. Đào tạo nguồn nhân lực……………………………………
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

6
6
10

19

28

28

42


71
71

74
81
87

91
93
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á
AFTA Khu Mậu dịch tự do ASEAN
APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM Hội nghị Á - Âu
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTB Chủ nghĩa tư bản
CNXH Chủ nghĩa xã hội
EU Liên minh châu Âu
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng thu nhập trong nước
HNKTQT Hội nhập kinh tế quốc tế
IMF Quỹ tiền tệ Quốc tế
HDI Chỉ số phát triển con người
ODA Viện trợ phát triển chính thức
XHCN Xã hội chủ nghĩa
WB Ngân hàng Thế giới
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới




1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, trước tác động mạnh mẽ của

xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) đã trở thành xu thế
tất yếu của các quốc gia dân tộc trong quá trình phát triển. Đây là con đường
đi phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, cho phép các nước tận dụng được các cơ
hội và điều kiện thuận lợi của quá trình toàn cầu hóa để phát triển kinh tế đất
nước. Nhận thức được tính tất yếu của HNKTQT đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta, Nghị quyết số 07 của Bộ Chính trị Về
hội nhập kinh tế quốc tế đã nêu rõ: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm
mở rộng thị thường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [21].
Quá trình HNKTQT vừa tạo cơ hội, thời cơ phát triển, vừa đặt ra những
thách thức không nhỏ, đặc biệt đối với các nước nghèo, kém phát triển. Tham
gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, các nước đều phải đối mặt
với một thách thức là: làm thế nào để hội nhập mà vẫn giữ vững độc lập dân
tộc, chủ quyền quốc gia, duy trì ổn định chính trị trong nước, tăng thế và lực
của mình trên trường quốc tế. Thực tế đã cho thấy, con đường tất yếu để có
thể vượt qua được những thách thức đó là hội nhập kinh tế phải đi đôi với
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Kết hợp xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với HNKTQT không chỉ
xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị của một quốc gia, mà còn là đòi
hỏi của thực tiễn phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ sẽ cho phép chúng ta vừa khai thác được tiềm năng
bên ngoài lẫn trong nước, kết hợp nội lực và ngoại lực thành sức mạnh tổng
hợp của nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó, có giữ được độc lập tự chủ, mới

2
duy trì được phát triển bền vững, không bị hòa tan, không đánh mất mình
trong điều kiện mở cửa, HNKTQT. Đây là bài học kinh nghiệm thực tế không
chỉ của riêng nước ta mà còn của không ít quốc gia trong khu vực và trên thế
giới. Hơn thế, giờ đây sự nghiệp đổi mới của nước ta diễn ra trong bối cảnh
quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các lực lượng chống phá thường xuyên

tìm cách ngăn cản, chống phá chủ nghĩa xã hội (CNXH). Nếu không tạo dựng
được một nền kinh tế độc lập tự chủ, thì rất dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực thù
địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo, hoặc khống chế, ép buộc chúng ta
phải thay đổi chế độ chính trị, đi chệch quỹ đạo chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc kết hợp giữa xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ và HNKTQT đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước ta hiện nay, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010,
Đảng ta đã nhấn mạnh nhiệm vụ: “gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế". Đây là hai nội dung có mối
quan hệ biện chứng với nhau, vừa là điều kiện, vừa là kết quả của nhau: “Độc
lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả; hội
nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng kinh tế
độc lập tự chủ” [22, tr.166]. Việc kết hợp hiệu quả hai nội dung này trong
thực tế là một bài toán không hề đơn giản đối với các nhà hoạch định chính
sách và cũng là mối quan tâm của nhiều người làm công tác nghiên cứu khoa
học ở nước ta hiện nay nhất là trong bối cảnh hiện nay khi nước ta đã trở
thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Việc nghiên cứu và làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ và HNKTQT không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý
nghĩa thực tiễn cấp bách đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta. Xuất phát từ nhận thức đó, tác giả
chọn vấn đề: “Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội

3
nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ
Triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài
viết của các tác giả từ nhiều góc độ khác nhau nghiên cứu về những vấn đề
liên quan đến đề tài như: Bộ ngoại giao, Hội nhập quốc tế và giữ vững bản

sắc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Bộ Ngoại giao - Vụ Hợp tác kinh
tế đa phương, Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Hà nội, 2000; Nguyễn Văn
Ninh, “Hội nhập quốc tế và độc lập tự chủ trong kinh tế", Tạp chí Cộng sản,
3/1998; Phan Doãn Nam, “Lại bàn về hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu
Quốc tế, 2/1999; Nguyễn Mại, “Hội nhập kinh tế với thế giới: vấn đề và giải
pháp” Tạp chí Cộng sản, 5/2000; Lê Doãn Tá, “Toàn cầu hoá kinh tế hiện đại
và sự hội nhập của các nước đang phát triển - vấn đề đặt ra và cách tiếp cận”,
Toàn cầu hoá: Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001; Lương Văn Tự, “Vượt lên những thách thức mới
trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới”, Tạp chí Cộng sản, số 9/2002; Vũ
Văn Họa, Vai trò của chính trị trong hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện
nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà nội - 2002; Vũ Văn Phúc, “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3/2005;
Trúc Lâm, “Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam - Chặng đường mới”, Tạp
chí Cộng sản điện tử, số 121 - 2006; v.v
Các công trình nghiên cứu và các bài viết trên đây đã đề cập đến khá
nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau liên quan đến nội dung của đề tài
như vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ trong xu thế toàn cầu hóa, v.v… song nhìn chung chưa có công trình nào

4
đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và
hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản
Việt Nam về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Thực tế giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự

chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta thời gian qua.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung phân tích mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta từ khi thực hiện đường
lối đổi mới đất nước (1986) đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích:
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế và phân tích thực trạng của việc
giải quyết mối quan hệ này ở nước ta thời gian qua, Luận văn đề xuất một số
giải pháp mang tính định hướng nhằm giải quyết hiệu quả mối quan hệ này ở
nước ta hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong bối cảnh hiện nay.
- Tìm hiểu thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc giải quyết mối
mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế
quốc tế trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay.

5
- Đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng trong kết hợp giữa
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Trong quá trình giải quyết những nhiệm vụ đề ra trong luận văn, tác giả
quán triệt và tuân thủ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng

và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Kết hợp các phương pháp cụ thể khác như: phuơng pháp lịch sử và
phuơng pháp lôgic, phuơng pháp phân tích và phương pháp tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn góp phần làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong bối cảnh
hiện nay.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong hoạch định
chính sách, trong việc nghiên cứu và giảng dạy những môn học liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết.

6
Chương 1
TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP
TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY

1.1. Tính tất yếu của xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
1.1.1. Khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ
Trước đây, khi nói đến nền kinh tế độc lập tự chủ người ta thường liên
tưởng tới một nền kinh tế tự lực cánh sinh, “tự cấp tự túc”, biệt lập, khép kín,
ít giao lưu hợp tác với bên ngoài, trong đó phải có đủ các ngành kinh tế, phải
có cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh hoặc tương đối hoàn chỉnh, phải tự đảm bảo
được mọi nhu cầu trong nước, hay ít nhất phải là những nhu cầu thiết yếu. Và
chỉ với nền kinh tế như vậy, chủ quyền quốc gia mới được đảm bảo, mới
không bị lệ thuộc vào bên ngoài và mới tự quyết định được các vấn đề của đất
nước.
Ngày nay, khi mà xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở

thành xu thế tất yếu trong đó nền kinh tế của mỗi quốc gia là một bộ phận của
nền kinh tế thế giới thống nhất thì nền kinh tế độc lập tự chủ không thể là một
nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, thực hiện đóng cửa, không cần hội nhập
với nền kinh tế thế giới. Độc lập tự chủ về kinh tế phải là độc lập tự chủ trong
phát triển nền kinh tế thị trường và chủ động mở cửa, hội nhập có hiệu quả
với nền kinh tế thế giới; tích cực tham gia vào giao lưu hợp tác, phân công lao
động quốc tế, trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực, lợi thế so sánh của quốc gia
để cạnh tranh có hiệu quả trên thương trường quốc tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nền kinh tế độc lập tự chủ cần
được hiểu: đó là nền kinh tế không bị chi phối hay lệ thuộc vào nước khác,

7
người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách
phát triển kinh tế; có khả năng tận dụng được tối ưu các nguồn lực bên ngoài
và bên trong cho sự phát triển bền vững của đất nước đồng thời có khả năng
ứng phó một cách hiệu quả với những biến động của thị trường khu vực và
thế giới.
Thực tế cho thấy, muốn giữ được độc lập tự chủ về kinh tế, nhất thiết
phải có hai điều kiện: một là, có đường lối, chính sách độc lập tự chủ; hai là,
có thực lực kinh tế đủ mạnh ở mức cần thiết
*Độc lập tự chủ về đường lối, chính sách kinh tế có nghĩa là tự quyết
định lựa chọn định hướng phát triển, tự đưa ra chủ trương, chính sách và mô
hình kinh tế, các quyết sách để chủ động hội nhập, hội nhập có định hướng
theo lộ trình hợp lý, không bị động và lệ thuộc vào bên ngoài.
* Thực lực kinh tế đủ mạnh trong điều kiện hiện nay bao gồm những
yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất, toàn bộ giá trị sản xuất trong nước phải đáp ứng được đủ nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân và có phần tích lũy cần thiết từ nội bộ nền kinh tế
quốc dân để tái sản xuất mở rộng.
Thứ hai, có thể chế kinh tế - xã hội bền vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý,

phát huy được lợi thế so sánh, có đủ khả năng tạo ra sức cạnh tranh; bảo đảm
được nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững.
Thứ ba, có một năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ để làm chủ
công nghệ nhập khẩu và sáng tạo công nghệ mới để nâng cao sức cạnh tranh
của nền kinh tế trong điều kiện khi mà sức cạnh tranh kinh tế ngày càng dựa
vào thế mạnh và khả năng về khoa học, công nghệ.

8
Thứ tư, có nền tài chính lành mạnh, đảm bảo giữ được cán cân thanh
toán, có dự trữ ngoại tệ cần thiết, không bị động và lệ thuộc vào bên ngoài.
Thứ năm, kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội phải được xây dựng đồng
bộ; có các yếu tố vật chất đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an
ninh môi trường…
Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hóa và HNKTQT hiện nay, thì việc
xây dựng một thực lực kinh tế đủ mạnh có nghĩa là phải xây dựng một nền
kinh tế đảm bảo các yêu cầu phát triển bền vững, có hiệu quả trên cơ sở phát
huy được những lợi thế so sánh để có thể kết hợp được tối ưu các nguồn vốn,
công nghệ hiện đại, thị trường bên ngoài với các nguồn lực bên trong, đồng
thời cơ chế kinh tế phải là cơ chế thị trường mở thích ứng với các định chế
quốc tế, các cam kết quốc tế, hội nhập có hiệu quả vào các tổ chức kinh tế khu
vực và toàn cầu. Đây là những yếu tố cơ bản và cần thiết để đảm bảo cho nền
kinh tế đủ sức đứng vững trước những biến động đầy phức tạp của tình hình
thế giới hiện nay.
1.1.2. Tính tất yếu của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Đối với một quốc gia dù lớn hay nhỏ, độc lập tự chủ về kinh tế luôn là
nền tảng vật chất cơ bản để giữ vững độc lập tự chủ về chính trị. Điều đó
được quy định bởi vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị, của cơ sở
hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng. Không thể có độc lập tự chủ về chính
trị nếu như bị lệ thuộc về kinh tế.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm,

đường lối chính trị của một quốc gia, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn phát
triển. Có giữ được độc lập tự chủ, mới duy trì được phát triển bền vững,
không bị hòa tan, không đánh mất mình trong điều kiện mở cửa, hội nhập
kinh tế quốc tế. Đối với các nước đang phát triển, độc lập về chính trị còn là

9
thành quả giành được từ cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ chống thực dân đế
quốc. Nhưng trước xu thế toàn cầu hóa, nguy cơ mất độc lập tự chủ của các
nước này ngày càng tăng, lợi ích của dân tộc đang bị các thế lực tư bản độc
quyền xuyên quốc gia, các thế lực tài phiệt quốc tế đe dọa, lấn át và tăng
cường sự bóc lột siêu lợi nhuận. Thực tế ngày nay cho thấy, các nguồn lưu
chuyển khổng lồ về hàng hóa, dịch vụ, thông tin, vốn, công nghệ và các mạng
lưới công ty đa quốc gia rộng khắp toàn cầu đã và đang thâm nhập vào hầu
hết các nước trên thế giới. Trong bối cảnh đó, chỉ quốc gia nào có được một
nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới có thể giành được thế chủ động trong hội
nhập, tránh được tình trạng bị áp đặt, khống chế bởi các thế lực bên ngoài
Chính vì vậy, để bảo vệ chủ quyền quốc gia trước nguy cơ can thiệp, áp đặt
của các nước lớn, các nước đang phát triển đang ra sức tập trung mọi nguồn
lực để phát triển kinh tế. Hơn ai hết, các nước đang phát triển đều nhận thức
được rằng chỉ có một nền kinh tế độc lập tự chủ mới đảm bảo giữ vững được
độc lập tự chủ về chính trị, mới không bị lệ thuộc, bị lôi kéo hay bị khống chế
bởi các thế lực đế quốc chủ nghĩa.
Đối với các nước lựa chọn con đường đi lên CNXH như nước ta, trong
bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các lực lượng chống đối CNXH
thường xuyên tìm cách ngăn cản và chống phá sự nghiệp xây dựng chế độ
XHCN nếu không xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ thì dễ bị lệ thuộc,
bị các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo, hoặc khống chế
ép buộc thay đổi chế độ chính trị, đi chệch quĩ đạo của CNXH.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ là yêu cầu tất yếu nhằm
bảo đảm độc lập tự chủ về chính trị mà còn là yếu tố vật chất quan trọng bảo

đảm sự phát triển bền vững và bảo đảm tính an toàn cho mỗi nền kinh tế trong
hội nhập kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa khi mà sự liên kết kinh
tế quốc tế ngày càng chặt chẽ thì sự biến động kinh tế ở một quốc gia sẽ trực

10
tiếp ảnh hưởng đến các quốc gia khác mà nó có quan hệ. Sự ảnh hưởng đó
nhiều hay ít còn tùy thuộc vào các yếu tố cấu thành nền kinh tế của quốc gia
đó. Thực tế cho thấy, quốc gia nào có thực lực kinh tế càng mạnh, tức là càng
độc lập tự chủ thì càng ít bị tổn thương trước những biến động tiêu cực của
nền kinh tế khu vực và thế giới.
Như vậy, việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày nay hoàn toàn
không mâu thuẫn với xu thế toàn cầu hóa và HNKTQT mà đó là yêu cầu
khách quan, là nhu cầu tất yếu bắt nguồn từ chính quá trình toàn cầu hóa và
HNKTQT của các quốc gia trong quá trình hợp tác và đấu tranh vì lợi ích của
dân tộc mình.
1.2. Tính tất yếu hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay
1.2.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
* Định nghĩa hội nhập kinh tế quốc tế
Ở nước ta, thuật ngữ “hội nhập” là một khái niệm mới được sử dụng
phổ biến trong bối cảnh chúng ta xúc tiến mạnh mẽ chính sách đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, tích cực triển khai các nỗ lực để gia
nhập vào các định chế, tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế. Theo đó, “hội
nhập kinh tế quốc tế được hiểu là quá trình chủ động gắn liền nền kinh tế và
thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực
tự do hóa và mở cửa thị trường trong nước đồng thời tiến hành điều chỉnh,
cải cách kinh tế trong nước theo hướng thích ứng và tận dụng tối đa các
nguồn lực bên ngoài.
Như vậy, hội nhập là hành động chủ quan, có ý thức của chủ thể, ở đây
là của các chính phủ, nhằm tận dụng sức mạnh của thời đại để tăng cường sức
mạnh của dân tộc mình. Hội nhập quốc tế trước kia cũng như hiện nay đều có

mục đích giống nhau là tận dụng đến mức tối đa sự hợp tác quốc tế để tăng

11
cường sức mạnh dân tộc nhưng trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay,
HNKTQT có nét mới so với trước đây. Nếu như trước đây, trong giai đoạn
quốc tế hóa, việc hội nhập vào nền kinh tế quốc tế chủ yếu là sự thâm nhập
vào thị trường thế giới thông qua việc bành trướng các hoạt động kinh tế vượt
ra khỏi khuôn khổ của biên giới quốc gia thì ngày nay, hội nhập kinh tế bao
hàm trong đó cả quá trình chủ động thâm nhập vào thị trường thế giới, tham
gia phân công lao động quốc tế, đồng thời phải chấp nhận để các đối tác bên
ngoài thâm nhập vào nền kinh tế và thị trường của nước mình.
*Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự tự giác gắn kết nền kinh tế quốc
gia với nền kinh tế khu vực và thế giới, tham gia vào sự phân công lao động
quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại quốc tế, chấp
nhận tuân thủ những quy định chung được hình thành trong quá trình hợp tác
và đấu tranh giữa các nước thành viên của các tổ chức ấy.
Để quá trình hội nhập thu được lợi ích lớn nhất các quốc gia đều phải
nỗ lực cả về chính sách và hành động thực tiễn để cơ cấu lại nền kinh tế trong
nước theo hướng hội nhập, đó là: điều chỉnh chính sách theo hướng tự do hóa
và mở cửa nền kinh tế; Điều chỉnh hệ thống luật pháp cho phù hợp với thông
lệ quốc tế; Điều chỉnh cơ cấu kinh tế nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế tối ưu, có
khả năng cạnh tranh cao, phát huy tốt nhất những lợi thế của đất nước trong
quá trình hội nhập; Tiến hành cải cách hệ thống các doanh nghiệp để nâng cao
năng lực cạnh tranh; Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi của quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
* Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế: các hình thức hội nhập ngày
nay thường diễn ra ở các cấp độ đa phương và song phương.

12

- Ở cấp độ đa phương, đó là việc nhiều nước cùng nhau thành lập hoặc
tham gia vào những định chế, tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, như Liên
minh châu Âu (EU), Khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khu mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng thế
giới (WB), Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Thực tế cho thấy, mặc dù mỗi tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế có yêu cầu
về nội dung, lộ trình và mốc thời gian tự do hóa thương mại khác nhau nhưng
nhìn chung chúng thường vận hành trên cơ sở các nguyên tắc của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO).
- Ở cấp độ song phương, đó là việc thiết lập các quan hệ hợp tác kinh
tế, thương mại, đầu tư, khoa học - kỹ thuật với từng nước riêng rẽ trong cộng
đồng quốc tế. Các quan hệ kinh tế song phương trong thời đại ngày nay được
thực hiện theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, theo các chuẩn mực và thông
lệ quốc tế. Những năm gần đây, xu hướng này diễn ra khá phổ biến, nhiều
nước đã và đang tích cực đàm phán để ký với nhau các hiệp định song
phương trên cơ sở các nguyên tắc của một khu mậu dịch tự do.
Thực tế hiện nay cho thấy, những định chế đa phương toàn cầu đặc biệt
là Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đang đóng vai trò hướng dẫn, tạo
khuôn khổ chi phối các quan hệ kinh tế song phương. Do vậy, các quan hệ
kinh tế song phương nhìn chung vẫn phải dựa theo các qui định của hợp tác
kinh tế đa phương.
1.2.2. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế
HNKTQT có liên quan trực tiếp với toàn cầu hóa kinh tế và là một quá
trình đồng hành với quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Tính tất yếu của HNKTQT
bắt nguồn từ quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra hết sức
nhanh chóng và mạnh mẽ trên thế giới.

13
Vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại, toàn cầu hoá đã trở thành xu hướng chủ đạo

chi phối đời sống thế giới và hệ thống quan hệ quốc tế đương đại. Quá trình
ấy diễn ra đặc biệt sôi động trong lĩnh vực kinh tế. Thực tế cho thấy, đây là
một xu thế khách quan, là sự phát triển ở cấp độ mới cao hơn về chất của quá
trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất vốn có trước đó. Toàn cầu hóa không chỉ
tạo ra những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, mà còn thúc đẩy các mối quan hệ
liên quốc gia gia tăng cả về bề rộng lẫn bề chiều sâu. Trong đó, tự do hóa kinh
tế và cải cách nền kinh tế theo hướng thị trường diễn ra phổ biến; Các nền
kinh tế dựa vào nhau, liên kết với nhau, xâm nhập lẫn nhau khiến cho tính tùy
thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng. Hiện nay có nhiều định nghĩa
khác nhau về toàn cầu hóa xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nhưng đa
số thống nhất quan điểm cho rằng: “Toàn cầu hóa là biểu hiện và là kết quả
của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dẫn đến phá vỡ sự biệt
lập của các quốc gia, tạo ra mối liên hệ gắn kết, tương tác và phụ thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên qui mô toàn cầu trong sự vận
động phát triển” [43, tr. 16]. Nhìn ở góc độ phân công lao động thì toàn cầu
hóa thực chất là sự phát triển cao và mở rộng quá trình phân công lao động
trên phạm vi các khu vực và toàn thế giới.
Trên cơ sở của sự phát triển của lực lượng sản xuất, của quá trình phân
công lao động quốc tế cũng như sự hoàn thiện của các phương tiện giao thông
vận tải và thông tin, sự liên kết về kinh tế giữa các nước ngày càng phát triển
rộng hơn về không gian, từ hình thức thấp tới hình thức cao, từ lỏng lẻo tới
chặt chẽ, từ lĩnh vực sản xuất vật chất lan tỏa ra các lĩnh vực lưu thông phân
phối, dịch vụ, tài chính, tiền tệ. Như vậy, toàn cầu hóa có vai trò to lớn thúc
đẩy sản xuất của toàn nhân loại, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu, mở
rộng quan hệ hợp tác giữa các nước trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực

14
kinh tế. Toàn cầu hóa khiến cho cả thế giới ngày càng trở thành một thị
trường, một chỉnh thể mà trong môi trường đó, mỗi quốc gia riêng biệt chỉ có
thể phát triển được khi tự đặt mình là một yếu tố không thể tách rời của cộng

đồng thế giới.
Cùng với sự lan tỏa mạnh mẽ của toàn cầu hóa, quá trình hợp tác liên
kết khu vực được bắt đầu từ thập niên 50 (thế kỷ XX) cũng tiếp tục phát triển
rất sôi động tại khắp các châu lục. Sự liên kết khu vực hay còn gọi là xu thế
khu vực hóa trước hết đều hướng tới mục tiêu đẩy mạnh hợp tác, thực hiện tự
do hóa thương mại, đầu tư và dịch vụ, tạo lợi thế cạnh tranh của khu vực trên
trường quốc tế. Quá trình này đã đưa đến sự xuất hiện của hàng loạt các tổ
chức hợp tác kinh tế, thương mại. Trong đó đáng chú ý nhất là tiến trình nhất
thể hóa châu Âu với sự ra đời của Liên minh Châu Âu (EU); Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC). Hợp tác liên khu vực và châu lục được thúc đẩy với sự
ra đời của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) năm 1994, Hội nghị Á -
Âu (ASEM) năm 1996, khu vực mậu dịch tự do xuyên Đại Tây Dương, Hợp
tác châu Âu - Địa Trung Hải, v.v
Khu vực hóa được xem là nấc thang tất yếu, là bước đệm để tiến tới
quá trình toàn cầu hóa, nhưng ở mức độ nào đó khu vực hóa lại là sự liên kết,
sự tập hợp lực lượng giữa các nền kinh tế khu vực để đối phó với những nguy
cơ, những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa. Động lực gia tăng xu thế khu
vực hóa trong giai đoạn hiện nay xuất phát từ mục đích phát huy những lợi
thế so sánh, những nét tương đồng của các thành viên trong mỗi tổ chức khu
vực. Sự gần gũi về địa lý, không quá chênh lệch về trình độ phát triển, có
quan hệ truyền thống, có những lợi ích chung về kinh tế, văn hóa, quốc
phòng, an ninh… là những yếu tố thuận lợi cho sự hợp tác của các nước thành
viên trong khu vực. Trên thực tế, mỗi tổ chức khu vực đều chọn những lĩnh

15
vực mà mình có lợi thế hơn để tập trung nguồn lực, thúc đẩy hợp tác theo
chiều sâu, theo những phương thức đa dạng, nhằm tạo lợi thế cạnh tranh riêng
cho khu vực. Như vậy, việc tham gia vào các tổ chức khu vực là điều kiện để
các nước thành viên tăng cường thế và lực, nhất là những nước còn đang ở

trình độ kém phát triển, để vươn lên chủ động hội nhập ngày càng sâu, rộng
vào nền kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, sự liên kết giữa các nước thành viên
trong tổ chức khu vực hoặc liên khu vực sẽ tạo điều kiện để các nước cùng
đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của mình trong các tổ chức quốc tế.
Hợp tác liên kết quốc tế trên những qui mô khác nhau khiến cho nhiều
rào cản thương mại, đầu tư dần được dỡ bỏ, nhờ đó sản xuất cũng như trao
đổi giữa các nước ngày càng được thúc đẩy theo xu hướng nhất thể hóa. Việc
nâng cao trình độ hợp tác khu vực xét về tương lai chính là cơ sở cho việc
thực hiện toàn cầu hóa kinh tế. Sự ra đời của hàng loạt các tổ chức khu vực và
sự phát triển qui mô địa lý của các tổ chức khu vực trên cơ sở bổ sung các
thành viên hay hợp nhất các tổ chức khu vực chính là bước tiến ngày càng
gần hơn đến tự do hóa thương mại trên phạm vi toàn cầu.
Như vậy, toàn cầu hóa và khu vực hóa đều là xu hướng tất yếu gắn liền
với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là khoa học công nghệ. Tính
khách quan của quá trình toàn cầu hóa hiện nay phản ánh xu thế tiến lên của
lịch sử nhân loại, phản ánh xu thế hợp tác để cùng phát triển giữa các quốc gia
dân tộc. Xu thế đó buộc các nước không phân biệt giàu hay nghèo, phát triển
hay đang phát triển muốn phát triển và không bị tụt hậu đều phải tiến hành
điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới chính sách theo hướng mở cửa, giảm và
tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tạo thông thoáng cho việc
trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật trên phạm vi toàn
cầu, tích cực và chủ động tham gia vào quá trình hợp tác, phân công lao động
quốc tế. Nói cách khác, đối với sự phát triển của một quốc gia, HNKTQT là

16
con đường đi tất yếu phù hợp với xu thế toàn cầu hóa hiện nay, nó cho phép
kết hợp một cách hiệu quả nguồn lực trong nước với nguồn lực bên ngoài để
phát triển đất nước.
Bản chất của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế chính là quá
trình tự do hóa thương mại và đầu tư, quá trình này tất yếu sẽ loại bỏ dần

những rào cản đối với trao đổi thương mại, tạo điều kiện tối đa cho quá trình
phổ biến khoa học, kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý
trên khắp thế giới. Vì vậy, tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, các nước nhất
là các nước đang phát triển sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng cường buôn bán,
trao đổi quốc tế, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), những dây chuyền
sản xuất, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm, tri thức quản lý kinh tế hiện đại…,
đồng thời phát huy các nguồn nội lực nhằm phát triển những ngành sản xuất
mà mỗi nước có ưu thế. Đây là cơ hội để các nước đang và kém phát triển đẩy
nhanh sự phát triển kinh tế, thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, có thêm nguồn lực
để giải quyết các vấn đề xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội mà các nước có thể tận dụng để phát
triển kinh tế, toàn cầu hóa và HNKTQT cũng đặt ra nhiều thách thức rất lớn
cho tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển. Do những điều kiện lịch
sử cụ thể, các quốc gia trên thế giới có trình độ phát triển khác nhau, sẽ không
bình đẳng về khả năng nắm bắt thời cơ và vượt qua thách thức. Các nước
công nghiệp phát triển, do nắm được ưu thế về khoa học công nghệ, vốn, tri
thức, kinh nghiệm quản lý, nên giành được lợi thế lớn hơn. Trong khi đó các
nước đang phát triển, và kém phát triển thường phải gánh chịu những hậu quả
tiêu cực do toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế gây ra. Thực hiện tự do hóa
thương mại và đầu tư các quốc gia này sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay
gắt với hàng hóa, dịch vụ… của các nước phát triển không chỉ ở thị trường
bên ngoài mà còn cả ở thị trường trong nước. Bên cạnh cơ hội tiếp nhận công

17
nghệ mới thì các nước này cũng đồng thời phải đối mặt với nguy cơ trở thành
bãi thải công nghệ, ô nhiễm môi trường do sự chuyển giao những công nghệ
lạc hậu của các nước tư bản phát triển. Điều đó còn dẫn đến nguy cơ ngày
càng bị tụt hậu và lệ thuộc vào nước ngoài. Mặt khác, việc các nước mở cửa
cho phép các đối tác bên ngoài vào làm ăn, kinh doanh trên lãnh thổ của mình
cũng dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng kẽ hở, để tăng cường hoạt động chống

phá, đe dọa an ninh, chủ quyền quốc gia. Đây là thách thức rất lớn đối với các
quốc gia đang phát triển trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền của mình.
Thực tế cho thấy, quá trình toàn cầu hóa hiện nay không chỉ là một xu
thế khách quan mà nó còn mang tính chủ quan. Có thể nói đây là một quá
trình phức tạp, đầy mâu thuẫn và mang tính hai mặt. Một mặt, toàn cầu hóa là
xu thế vận động khách quan của nền sản xuất xã hội, là kết quả tất yếu của sự
phát triển lực lượng sản xuất, của quá trình quốc tế hóa kinh tế. Nhưng mặt
khác, toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay còn gắn liền với chủ nghĩa tư bản
(CNTB) và hiện đang bị CNTB, nhất là các nước tư bản phát triển chi phối,
thao túng, lợi dụng, thúc đẩy và định hướng theo mục đích của mình. Bản
chất hai mặt của toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đã gây nên những tác động hai
chiều cả tích cực và tiêu cực đối với sự phát triển của thế giới nói chung và
của các quốc gia nói riêng khi HNKTQT. Một mặt, toàn cầu hóa thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển với tốc độ và qui mô to lớn, thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra nhiều cơ hội cho các nước đang phát triển và
kém phát triển đẩy nhanh, rút ngắn khoảng cách so với các nước khác. Nhưng
mặt khác, toàn cầu hóa cũng đang đặt nhân loại trước những vấn đề mang tính
toàn cầu như: đói nghèo, bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, tội phạm, tệ nạn
xã hội ; đặt các quốc gia, các nhóm nước, khu vực trước hàng loạt những
thách thức nghiêm trọng không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trên các lĩnh
vực khác của đời sống xã hội.

18
Thông qua các hình thức liên kết kinh tế, chuyển giao công nghệ, luân
chuyển vốn và mở rộng thị trường, trao đổi thông tin các nền văn hóa khác
nhau có điều kiện giao lưu, truyền bá, lan tỏa và thẩm thấu lẫn nhau làm cho
văn hóa phong phú, đa dạng hơn nhưng đồng thời điều đó cũng đưa đến nguy
cơ làm xói mòn truyền thống văn hóa của các dân tộc. Đối với các nước định
hướng phát triển đi lên CNXH, thông qua con đường trao đổi, hợp tác kinh
tế, đầu tư, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hóa, tự do hóa tư sản các

và thông qua các tổ chức kinh tế như WB, IMF, WTO do Mỹ nắm quyền
chi phối, các thế lực đế quốc do Mỹ đứng đầu muốn dùng đó làm công cụ để
áp đặt chế độ chính trị tư sản vào các nước đi theo con đường XHCN, đưa các
quốc gia đó vào quĩ đạo của CNTB. Thêm vào đó, lợi dụng việc các nước này
có nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài, vốn viện trợ phát triển chính thức
(ODA), nên các nước cung cấp vốn và viện trợ thường ép các nước tiếp nhận
phải có những nhượng bộ về chính trị. Do đó, các nước đang phát triển đặc
biệt là những nước định hướng đi lên CNXH còn đứng trước nguy cơ rất lớn,
đó là đi chệch khỏi định hướng XHCN.
Như vậy, toàn cầu hóa và HNKTQT không chỉ mang lại thời cơ, cơ hội
cho các nước để phát triển mà nó còn đặt các quốc gia trước những thách thức
rât lớn. Có thể nói, trong HNKTQT, thời cơ và thách thức luôn đi liền với
nhau, đan xen cùng tồn tại có tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau, là sự
thể hiện tính chất phức tạp đầy mâu thuẫn của quá trình toàn cầu hóa. Trong
thời cơ cũng bao hàm cả thách thức và trong thách thức cũng chứa đựng
những yếu tố có thể chuyển thành thời cơ, thành động lực để phát triển. Khi
thách thức được vượt qua sẽ tạo thành thời cơ mới. Do là hành động chủ
quan, nên hội nhập quốc tế có thể cho phép chủ thể đi từng bước phù hợp với
khả năng và lợi ích của mình. Vì vậy, sự chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
cũng chính là con đường chủ động nhất để hạn chế ở mức tối đa những tác

19
động tiêu cực của quá trình này. Đứng ngoài xu thế này sẽ không những
không tận dụng được các cơ hội và điều kiện thuận lợi cho phát triển, mà còn
tự tước đi khả năng đối phó với những thách thức do quá trình toàn cầu hóa
đặt ra. Chỉ có HNKTQT mới là con đường tốt nhất để phát huy thế mạnh, lợi
thế so sánh trong phân công lao động quốc tế, tận dụng được tối đa những cơ
hội và điều kiện thuận lợi của toàn cầu hóa để phát triển đất nước.
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu, một điều
kiện không thể thiếu cho sự phát triển của mỗi quốc gia trong xu thế toàn cầu

hóa hiện nay. Vì lợi ích trước hết của chính mình, hầu hết các nước đều đã và
đang tích cực chủ động hội nhập vào xu thế chung của thế giới. Vấn đề đặt ra
với mỗi nước không chỉ là nhận thức được xu thế tất yếu đó, mà điều quan
trọng hơn là xây dựng được chiến lược, tìm ra được những giải pháp thích
hợp để hội nhập thành công vì lợi ích của dân tộc mình.
Là một nước đang phát triển lựa chọn định hướng đi lên CNXH, Việt
Nam ngày càng nhận thức đầy đủ hơn cả thời cơ và thách thức mà xu thế toàn
cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đặt ra, nhất là sau sự sụp đổ
của chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô. Đồng thời khẳng định để tranh thủ
cơ hội, vượt qua thách thức tiếp tục đưa đất nước phát triển trên con đường
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì không thể biệt lập mà nhất thiết phải có
cách thức hội nhập hiệu quả với khu vực và quốc tế trước hết là trong lĩnh vực
kinh tế. Đối với nước ta, HNKTQT vừa là một xu thế tất yếu khách quan và
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, vừa là một chủ trương chiến lược được
lồng ghép trong chiến lược tổng thể về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
theo định hướng XHCN nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh”

20
1.3. Quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội
nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và HNKTQT là hai nội dung quan
trọng trong đường lối phát triển kinh tế đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Hai nội dung đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa là tiền đề, vừa là
kết quả của nhau, được hoàn thiện từng bước trong quá trình xây dựng và phát
triển đất nước. Trong bối cảnh của xu thế toàn cầu hóa và HNKTQT hiện nay,
việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ sẽ tạo điều kiện cần thiết, là nền
tảng cơ sở cho việc HNKTQT một cách hiệu quả nhất; HNKTQT chính là
phương thức tốt nhất để tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài kết hợp với
nguồn lực trong nước thành sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế quốc gia.

Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và HNKTQT không chỉ giống
nhau ở mục đích là cùng hướng tới và phục vụ lợi ích quốc gia mà còn tương
đồng về điều kiện và giải pháp thực hiện như nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế, xây dựng tiềm lực kinh tế và công nghệ, đổi mới cơ chế và chính
sách… Vì vậy việc kết hợp xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động
HNKTQT là yêu cầu tất yếu trong đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước ở nước ta hiện nay.
* Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế
quốc tế có hiệu quả
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là một yêu cầu tất yếu để đảm bảo
độc lập tự chủ về chính trị và sự phát triển bền vững. Xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ vừa là mục tiêu vừa là điều kiện cần thiết để chúng ta hội nhập
vào nền kinh tế thế giới, điều đó đòi hỏi nền kinh tế vừa phải có tính độc lập
tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, vừa có khả năng
hội nhập vào nền kinh tế thế giới tức là phải có một tiềm lực kinh tế đủ mạnh

21
với một cơ cấu hợp lý, có năng lực cạnh tranh và thích nghi cao, có khả năng
ứng phó được với các biến động của nền kinh tế thế giới. Đối với nước ta, bảo
đảm độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm vững chắc định
hướng XHCN và giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc trong công
cuộc phát triển kinh tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ sẽ tạo cơ sở cần thiết cho HNKTQT
mang lại hiệu quả cao nhất. Điều này được thể hiện ở hai nội dung sau:
Thứ nhất, độc lập tự chủ về đường lối chính sách phát triển kinh tế có ý
nghĩa quyết định đến hiệu quả của HNKTQT.
HNKTQT trong bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp hiện nay, xét về
thực chất, là cuộc đấu tranh quyết liệt của các quốc gia nhằm phát triển kinh
tế, bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, củng cố độc lập chính trị, bảo tồn và
làm phong phú bản sắc dân tộc của mình thông qua việc thiết lập các mối

quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen nhiều chiều, nhiều tầng nấc với các quốc
gia khác. Vì vậy, quá trình HNKTQT của một quốc gia sẽ bao hàm các nỗ lực
về chính sách và hoạt động thực tiễn để tham gia vào các định chế, tổ chức
kinh tế khu vực và toàn cầu nhằm mang lại lợi ích lớn nhất. Để đạt dược mục
tiêu đề ra và cũng là để thực hiện các qui định và các cam kết khi tham gia
các định chế khu vực và toàn cầu các quốc gia thường phải tiến hành các công
việc trong nước như: điều chỉnh chính sách theo hướng tự do hoá và mở cửa,
giảm dần, tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, làm cho việc
trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và sự luân chuyển vốn, lao động, kỹ thuật,
công nghệ giữa các nước thành viên trở nên thông thoáng, thuận lợi hơn; Điều
chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng mở cửa ra bên ngoài nhằm làm cho nền kinh
tế thích ứng và vận hành có hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày
càng quyết liệt; Tiến hành các cải cách cần thiết về kinh tế, xã hội, đặc biệt là
cải cách hệ thống các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh; Đào tạo

×