Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.42 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LI NểI U

Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật luôn luôn xẩy ra mâu
thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa các yếu tố trong bản thân sự vật hay mâu thuẫn
giữa các sự vật với nhau. Triết học Mác-Lênin đã chỉ ra, mâu thuẫn là một tất
yếu khách quan, mang tính phổ biến và có đa dạng các loại mâu thuẫn. Xác
định đúng từng loại mâu thuẫn sẽ cho phép con ngời tìm ra đợc những giải pháp
phù hợp, tối u để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện thúc đẩy sự vật phát triển
t gúc trit hc ,ta xem xét mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế độc lập tự
chủ với hội nhập kinh tế quốc tế.
To n cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu, khách quan trong giai đoạn hiện
nay, xu thế này đang bị một số nớc phát triển và các tập đoàn kinh tế t bản
xuyên quốc gia chi phối,trong ú cha nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực
vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội
cho sự phát triển nhng cũng vừa có những thách thức đối với các quốc gia, nhất
là các quốc gia đang ở trình độ kém phát triển nh Việt Nam. Vì toàn cầu hoá là
một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo ngợc. Trong điều
kiện thế giới ngày nay, các quốc gia không thể tẩy chay hoàn toàn toàn cầu hoá
hoặc đứng ngoài quá trình toàn cầu hoá. Vấn đề đối với các quốc gia là, phải có
chiến lợc thích ứng và khôn ngoan để vợt qua thách thức và chớp lấy thời cơ,
đồng thời phải có ý thức giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ để đa quốc gia dân tộc mình đến chỗ phát triển và phồn vinh.
Hội nhập kinh tế là một vấn đề cấp bách và mang tính thời đại, nhng đó cũng là
một bài toán hóc búa, đang thách đố các quốc gia, dân tộc đang phát triển, thôi
thúc họ tìm lời giải tối u. Giữ vững độc lập dân tộc, phát huy nội lực và kết hợp
với chủ động mở rộng hội nhập quốc tế, trở thành một trong những điều kiện
tiên quyết chìa khoá hữu hiệu để giải mã bài toán này trong kỷ nguyên toàn
cầu hoá hiện nay.Tức là phải tìm ra các giải pháp phù hợp, để giải quyết tốt mâu
thuẫn trong mi quan h giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh
tế quốc t.


Rừ rng, hi nhp kinh t quc t l nhu cu ni sinh ca bn thõn nn
kinh t nc ta, ch khụng phi do chỳng ta b o ộp, b bt buc. Thi c ang
n, yờu cu ca chớnh bn thõn ũi hi, khụng cũn s la chn u vit no
hn. Vn t ra l chỳng ta la chn nh th no vn hi nhp phỏt trin
m vn bo ton trn vn c lp t ch, vn hi nhp m khụng ỏnh mt
truyn thng, hi nhp m an ninh trt t xó hi c bo m, hi nhp m
xó hi lnh mnh v phỏt trin. Đại hội VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và
khu vực, củng cố và nâng cao vị thế nớc ta trên trờng quốc tế. Đại hội lần thứ
IX khẳng định chủ trơng phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu
quả và bền vững.[Trích văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX trang
89] Chủ trơng hội nhập kinh tế quốc tế đợc đề ra trong bối cảnh tình hình thế
giới và khu vực diễn ra nhanh chóng, phức tạp, khó lờng trớc đợc. Việt Nam
từng bớc vững chắc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngày
27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị Quyết về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm cụ
thể hoá một chủ trơng lớn đợc nêu ra tại Đại hội lần thứ IX của Đảng là: Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hớng xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi
trờng.
Em ngh l mt nh kinh t, thỡ nht thit phi nm bt v nhn thc c mi
quan h bin chng gia 2 vn xõy dng nn kinh t c lp t ch v hi
nhp kinh t quc t. ú l lớ do thụi thỳc em chn v nghiờn cu ti :
Mi quan h gia xõy dng nn kinh t c lp t ch v hi nhp kinh
t quc t .Vi trỡnh v kinh nghiờm cũn nhiu hn ch, chc chn bi
vit cũn nhiu thiu sút, em rt mong nhn c nhiu ý kin úng gúp ca
thy giỏo v cỏc bn bi vit hon thin hn.V em xin chõn thnh cm n

thy giỏo GS.TS ON QUANG TH ngi ó giỳp em tn tỡnh chu ỏo
em hon thnh bi tiu lun ny.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1. Nền kinh tế dộc lập tự chủ
Một nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách hiểu thông thường và
truyền thống là một nền kinh tế phát triển toàn diện, có khả năng tự thỏa mãn
những nhu cầu mọi mặt của đời sống xã hội, của an ninh, quốc phòng và quá
trình tái sản xuất; không bị lệ thuộc vào bên ngoài cả từ khâu sản xuất đến
tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành một cách bình thường và bảo đảm được
nền tảng cho việc duy trì an ninh quốc gia. Một nền kinh tế như vậy nhìn
chung chỉ tồn tại trong điều kiện các quốc gia có đầy đủ mọi nguồn tài nguyên
thiên nhiên, điều kiện địa lý, khí hậu lý tưởng, quy mô thị trường quốc gia đủ
lớn, trình độ phát triển cao về khoa học - công nghệ và không cần phải cóquan
hệ kinh tế với nhau mà vẫn có thể tự tồn tại, phát triển được.
Nếu như trước kia khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ làm cho người ta
liên tưởng tới việc tự lực cánh sinh hoặc biệt lập, khép kín, ít giao lưu và kém
hiệu quả, thì ngày nay, khái niệm này được hiểu một cách mềm dẻo và linh
hoạt hơn,’độc lập tự chủ có tính tương đối’.Khi toàn cầu hóa đã phát triển ở
mức cao, các thị trường quốc gia đã và đang tiếp tục mất đi những hàng rào
ngăn cách quan trọng để từ đó tạo điều kiện hình thành thị trường thống nhất
trên phạm vi các khu vực và toàn cầu, thì các luồng lưu chuyển khổng lồ về
hàng hóa, dịch vụ, thông tin, vốn, công nghệ, nhân công và các mạng lưới
công ty đa quốc gia rộng khắp toàn cầu đã gắn kết các quốc gia lại với nhau,
làm cho chúng lệ thuộc vào nhau trong cả quá trình sản xuất lẫn quá trình tiêu
thụ sản phẩm. Toàn cầu hóa càng phát triển thì sự tương tác, tùy thuộc lẫn
nhau giữa các nước càng tăng. Khủng hoảng kinh tế hay những chấn động
kinh tế, tài chính xảy ra ở một nền kinh tế nào đó đều có tác động đến các nền
kinh tế mà nó có quan hệ. Mức độ ảnh hưởng nhiều hay ít tùy thuộc vào quy

mô của nền kinh tế đó và sức nặng của nó trong quan hệ với các nền kinh tế
khác. Thực tế cho thấy, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở một số nước
Đông Nam Á năm 1997 đã gây ra ảnh hưởng dây chuyền nghiêm trọng đối
với tất cả các nước trong khu vực và cả nhiều nước khác trên thế giới. Suy
thoái kinh tế ở Mỹ và một số nước khác năm 2001 cũng đã kéo theo suy thoái
kinh tế ở rất nhiều nước trên thế giới và có tác động mạnh đến hầu hết các
nước. Như vậy, rõ ràng một “nền kinh tế độc lập tự chủ” theo cách hiểu
truyền thống không còn tồn tại trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay. Điều này
buộc chúng ta phải có nhận thức mới phù hợp hơn với thực tiễn về khái niệm
nền kinh tế độc lập tự chủ. Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh
toàn cầu hoá có thể được hiểu là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với
những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến
động đó; trong bất cứ tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì được
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các hoạt động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu an
ninh, quốc phòng của đất nước.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ được đặt trong mối quan hệ biện
chứng với việc đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, mở cửa, giao lưu
với các nền kinh tế, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
hợp tác bình đẳng và cùng có lợi. Nói một cách chung nhất, nền kinh tế độc
lập tự chủ là nền kinh tế có thể tự thân vận động, sử dụng và phát huy được
nội lực, chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, không bị lệ thuộc vào bất cứ ai, thế lực nào, có khả năng đối phó
và đứng vững trước những thách thức, tác động tiêu cực từ bên ngoài .nghĩa
là ta phải chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế với giữ vững độc lập, tự
chủ, thống nhất và bản sắc dân tộc. Trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối,
chính sách, có quyết sách để chủ động hội nhập; hội nhập có định hướng theo
lộ trình hợp lý, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Độc lập tự chủ về kinh tế
còn có nghĩa là là một nền kinh tế có thực lực đủ mạnh, có thể ứng phó

nhanh, kịp thời với những biến động khó lường của kinh tế thế giới và khu
vực, là một nền kinh tế "mở" kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh
tổng hợp để phát triển đất nước, có sức cạnh tranh cao, không để bị lệ thuộc
và bị chi phối từ bên ngoài, bảo đảm an ninh kinh tế.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập - tự do là hạt nhân
chi phối và qui định mọi hoạt động thực tiễn. Để giành và giữ nền độc lập thì
không chỉ có quyết tâm không lay chuyển mà còn là “dĩ bất biến, ứng vạn
biến”. Thực tế, trong nhiều thời điểm lịch sử, Người đã từng hòa hoãn,
nhượng bộ với kẻ thù nhưng không làm suy yếu mà củng cố nền độc lập vững
chắc thêm.Giành độc lập chỉ là khởi đầu cuộc chinh phục lâu đài hạnh phúc
cho nhân dân. Người xác định: “Giành độc lập đã khó, giữ gìn độc lập còn
khó hơn nhiều”. Muốn có độc lập - tự do lâu dài thì phải lao động quên mình
để đất nước phồn vinh, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Ngay sau ngày hòa bình lập lại, Người đã vạch ra một lộ trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước theo nguyên tắc xây dựng một nền kinh
tế độc lập - tự chủ. Mang trên vai di sản của Người, ta ra biển lớn với thời
cơ lớn. Người từng nói: để mất thời cơ là có tội với đồng bào. Ngày nay,
nền độc lập không chỉ là chuyện đường biên giới mà còn là chuyện thị
trường. Thật cam go nếu ta chỉ là “sân sau” tiêu thụ, chỉ bán nguyên liệu thô
để mua thành phẩm và nhìn giá trị thặng dư chảy ra ngoài biên giới. Nếu
không đạt tới một năng suất lao động cao, không có hàng hóa thương hiệu
mạnh để thu được nhiều thặng dư từ thương trường quốc tế thì tất sẽ trở nên
nghèo kiệt. Đây là một câu hỏi hóc búa của mọi quốc gia, đặc biệt là Việt
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nam vi nn kinh t cha phỏt trin, thỡ chỳng ta cn cú bin phỏp, mt
hng i ỳng n v c th trong mt thi gian di.
2. Hi nhp kinh t quc t
Kh ỏi nim v hi nhp kinh t quc t
Hi nhp kinh t quc t l quỏ trỡnh cỏc doanh nghip ca mt quc gia

tham gia mt cỏch ch ng, tớch cc vo nn kinh t th gii. Nu nh ton
cu hoỏ luụn cú hai mt tớch cc v tiờu cc thỡ hi nhp kinh t quc t
luụn mang theo mỡnh nhng c hi v thỏch thc to ln. Hi nhp kinh t
quc t ca cỏc nn kinh t chuyn i (trong ú cú Vit Nam) l quỏ trỡnh
thc hin t do hoỏ thng mi v thc hin ci cỏch ton din theo hng
m ca th trng. T ú em li nhiu c hi kinh t nh hng hoỏ xut
khu cú th tip cn th trng tt hn, thu hỳt c nhiu vn u t nc
ngoi hn v nhiu li ớch giỏn tip khỏc i lin vi cnh tranh quc t gay
gt v tng dn hiu qu kinh t theo quy mụ.
Hi nhp kinh t quc t l mt tt yu khỏch quan.
Toàn cầu hoá là một xu hớng phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại,
mà trớc hết là tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra sôi động. Cách
đây hơn 150 năm, Các Mác đã dự báo xu hớng này và ngày nay đã trở thành
hiện thực. Theo ông, toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế mới của quá trình phát
triển kinh tế thị trờng, phản ánh trình độ phát triển cao của lực lợng sản xuất xã
hội mà ở đó, phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá sản xuất trở thành phổ
biến.
Trong lịch sử, trớc khi phơng thức sản xuất TBCN ra đời, do trình độ lực
lợng sản xuất thấp kém, giao thông cha phát triển, việc sản xuất và trao đổi
hàng hoá còn bị giới hạn trong các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ, năng suất thấp
nên cha có thị trờng thế giới theo nghĩa hiện đại. Từ khi phơng thức sản xuất
TBCN ra đời, đặc biệt là từ khi diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, đời sống
kinh tế các nớc có sự thay đổi căn bản. Tình trạng tự cấp, tự túc và bế quan toả
cảng của các địa phơng, các dân tộc trớc kia đợc thay thế bằng sự sản xuất và
tiêu dùng mang tính quốc tế. Tuy nhiên, cho đến trớc Thế chiến thứ 2, hình thức
quốc tế hóa chủ yếu vẫn là phân công áp đặt trực tiếp, tức là các nớc phát triển
áp dụng chiến tranh xâm lợc và bạo lực để thống trị các nớc lạc hậu, bóc lột, vơ
vét tài nguyên và tiêu thụ hàng hoá. Trong đó, mỗi nớc đế quốc có một hệ thống
thuộc địa riêng, phân công lao động và quốc tế hoá còn mang tính chất cát cứ,
làm cho các nớc lạc hậu không thoát khỏi tình trạng khó khăn trì trệ.

Từ sau Thế chiến 2, do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ
thuật, lực lợng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hết sức nhanh
chóng. Thêm vào đó là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, làm cho hệ
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thống phân công lao động quốc tế theo lối áp đặt trực tiếp phải sụp đổ và thay
thế bằng hệ thống phân công mới gọi là toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh
tế là quá trình phát triển mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vợt ra
khỏi biên giới một quốc gia vơn tới qui mô toàn thế giới, đạt trình độ chất lợng
mới.
Nh vậy, toàn cầu hóa kinh tế là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá
sản xuất, của tốc độ phát triển nhanh của lực lợng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc
đẩy của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nó là kết quả tất yếu của sự
phát triển sâu rộng nền kinh tế thị trờng trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng
phân công lao động quốc tế, sự mở rộng hơn nữa trong không gian và thời gian
các mối quan hệ giao lu phổ biến của loài ngời và sự hiện diện nóng bỏng của
những vấn đề toàn cầu cấp bách. Nói cách khác, nó là kết quả của các quá trình
tích luỹ về số lợng đã tạo ra một khối lợng tới hạn để số lợng biến thành chất
mới; xu hớng quốc tế hóa, khu vực hoá đã chuyển thành xu hớng toàn cầu hoá
trong thời đại ngày nay. Nó là một trong những xu thế lịch sử tất yếu do quy
luật phát triển của lực lợng sản xuất chi phối.
Và trong đó đặc trng nổi bật của toàn cầu hoá kinh tế là nền kinh tế thế
giới tồn tại và phát triển nh một chỉnh thế, trong đó mỗi quốc gia là một bộ
phận, có quan hệ tơng tác lẫn nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú.
Tham gia toàn cầu hoá kinh tế, các quốc gia vẫn hoàn toàn độc lập về chính trị,
xã hội, vẫn là các chủ thế tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đờng phát
triển của mình. Toàn cầu hoá kinh tế làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc
vào nhau về vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu và thị trờng. Đến nay toàn
cầu hoá kinh tế đã cuốn hút nhiều quốc gia ở khắp các châu lục, đã có 27 tổ
chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời và hoạt động [theo nm 1999] Đây là sự

phát triển mới cha từng có. Lịch sử đã chứng tỏ không một quốc gia nào, dù lớn
và giàu đến đâu, cũng không thể sản xuất đợc tất cả các sản phẩm đạt tiêu
chuẩn quốc tế. Chúng ta không quên 100 năm về trớc Trung Quốc đóng cửa nền
kinh tế để rồi phải chịu sự thụt lùi về mọi mặt. Thành tựu có đợc nh ngày nay là
nhờ vào mở cửa kinh tế.Nh vậy rõ ràng xu thế này là xu thế phát triển tất yếu
của thời đại không thể khác đợc. Chỉ có những quốc gia nào nắm bắt nhịp xu
thế này, biết tận dụng cơ hội, vợt qua thách thức mới đứng vững và phát triển.
Cự tuyệt hay khớc từ toàn cầu hoá kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài lề của sự
phát triển.



6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. C s thc t
1.Ton cnh th gii trong tin trỡnh hi nhp kinh t quc t
Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển không đồng
đều. Trên thế giới đã xảy ra mấy cuộc khủng hoảng lớn, sâu rộng hơn cả là cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính nổ ra năm 1997. Vị thế các nớc và các khu
vực thay đổi theo hớng: kinh tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên tục trong
nhiều năm và đến 2002 bắt đầu suy giảm; kinh tế Tây Âu hiện không còn phát
triển nhanh nh các thập kỉ trớc; kinh tế Nhật suy thoái cha có lối ra; các nớc
thuộc Liên Xô trớc đây và nớc Đông Âu rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài, vài
năm gần đây tăng trởng tơng đối khá; kinh tế Trung Quốc phát triển ngoạn
mục; Đông Nam á và Đông á phát triển nhanh vào bậc nhất thế giới trong
những thập kỷ trớc, tuy nhiên vừa qua đã rơi và suy thoái và nay đang hồi phục;
Nam á và Châu Phi vẫn cha thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài; kinh tế Mỹ
latinh có khá hơn song cũng không ổn định.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển nh vũ
bão. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay đang tác động đến tất cả

các nớc trên thế giới với những mức độ khác nhau, đa lại những thành quả cực
kỳ to lớn cho nhân loại và những hậu quả xã hội hết sức sâu sắc. Công nghệ
thông tin đang là nhân lõi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
nó phản ánh giai đoạn mới về chất của sản xuất, trong đó hàm lợng trí tuệ là
thành phần chủ yếu trong sản phẩm. Công nghệ sinh học là bớc đột phá vào thế
giới đầy bí hiểm của sự sống, tạo ra một tiềm năng to lớn cho việc sản xuất các
vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con ngời nh lơng thực, thực phẩm, thuốc
chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của
con ngời. Công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lợng mới, công nghệ hàng
không vũ trụ mở ra một tiềm năng mới cho loài ngời chinh phục tự nhiên,
chinh phục vũ trụ. Tự động hoá trong sản xuất ngày càng giải phóng con ngời
khỏi những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ xã
hội.
Xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hởng đến cuộc sống
của tất cả các dân tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các quốc gia
gắn bó hữu cơ và tuỳ thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh
tế gia tăng. Nền sản xuất thế giới mang tính toàn cầu. Phân công lao động quốc
tế đạt tới trình độ ngày càng cao. Phơng châm kinh doanh lấy thế giới làm nhà
máy của mình, lấy các nớc làm phân xởng của mình, qua đó phân công lao
động quốc tế có thể lợi dụng u thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trờng
của các nớc, thúc đẩy quá trình quốc tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng.
Trong quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, nổi lên xu hớng liên kết kinh tế dẫn
tới sự ra đời, rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và thơng mại, tài chính quốc
tế và khu vực, nh Tổ chức thơng mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ thế giới
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
(IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu âu (EU), khu vực thơng mại
tự do Bắc Mỹ (AFTA)
Hiện nay, các nớc lớn, nhỏ đều giành u tiên cho phát triển kinh tế, theo
đuổi chính sách kinh tế mở. Nay những nớc có tiềm năng và thị trờng lớn nh

Trung Quốc, Nga, ấn Độ, Mỹvà cả một số nớc vốn khép kín, theo mô hình tự
cung tự cấp cũng dần dần mở cửa, từng bớc hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
thế giới.
Mặt khác cộng đồng thế giới đang đứng trớc những vấn đề toàn cầu mà
không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác
đa phơng nh: bảo vệ môi trờng, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi dịch bệnh
hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế
Tuy nhiên trong xu thế đó, các nớc công nghiệp phát triển, đứng đầu là
Mỹ, do có u thế về thị trờng, nắm đợc tiến bộ khoa học- công nghệ, có nền kinh
tế phát triển cao, đã ra sức thao túng, chi phối thị trờng thế giới, áp đặt điều kiện
với những nớc chậm phát triển hơn, thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo nh
bao vây cấm vận, trừng phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nớc đang phát triển và
chậm phát triển. Trớc tình hình đó các nớc đang phát triển đã từng bớc tập hợp
nhau lại, đấu tranh chống chính sách tăng cờng quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ
lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế bình đẳng, công bằng.
ở khu vực Đông Nam á ó diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc dù trải
qua cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trầm trọng trong thời gian 1997
-1998, song vẫn là khu vực có nhiều tiềm năng do vị trí địa lý chính trị và địa lý
kinh tế của mình, dung lợng thị trờng lớn, tài nguyên phong phú, lao động dồi
dào, đợc đào tạo tốt, có quan hệ quốc tế rộng rãi.
Toàn bộ tình hình trên đem lại nhiều thuận lợi to lớn, đồng thời cũng đặt
ra nhiều thách thức gay gắt đối với nớc ta trong quá trình phát triển đất nớc nói
chung và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
2.Hi nhp kinh t quc t, ton cu hoỏ kinh t nhng thun li v thỏch thc
Nhng mt thun li: Nhìn một cách tổng quát, toàn cầu hoá kinh tế là
quá trình phổ biến theo hớng nhất thể hoá trên phạm vi toàn cầu những giá trị,
tri thức, những hoạt động, những mô hình cấu trúc trong lĩnh vực kinh tế và
cả khoa học, kỹ thuật. Trong đó các nớc đang phát triển tham gia với động lực
cơ bản là nhằm mở rộng thị trờng xuất khẩu, tạo mối liên kết thơng mại giữa
các quốc gia, các khu vực với nhiều hình thức phong phú, hoạt động có hiệu

quả. Và cho đến nay, một số các quốc gia đang phát triển đã đạt đợc những tiến
bộ vợt bậc ví nh : ở khu vực Đông Nam á có Thái Lan, Malayxia, Singapo đã
chuyển mạnh sang kinh tế hớng về xuất khẩu và thu đợc những thành quả tốt.
Xét về việc mở rộng và đa dạng các mối liên kết thơng mại thì chính sách
tỷ giá, chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ hàng rào thuế quan, phi
thuế quan đã làm cho hoạt động thơng mại tại các nớc mở rộng thị trờng và tăng
khối lợng hàng hoá xuất nhập khẩu.
8

×