Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Vấn đề tu thân trong Nho giáo Khổng - Mạnh ( Qua sách Luận ngữ và sách Mạnh Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 113 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***





LA THỊ THU THƯƠNG








VẤN ĐỀ TU THÂN TRONG NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH
(QUA SÁCH LUẬN NGỮ VÀ SÁCH MẠNH TỬ)








LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC













Hà Nội - 2012


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***





LA THỊ THU THƯƠNG









VẤN ĐỀ TU THÂN TRONG NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH
(QUA SÁCH LUẬN NGỮ VÀ SÁCH MẠNH TỬ)




LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC
Mã số: 60. 22. 03. 01




Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THANH BÌNH







Hà Nội - 2012

3

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 9
5. Đóng góp của luận văn 9
6. Kết cấu của luận văn 9
NỘI DUNG 10
Chương 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI, KẾT CẤU VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA
SÁCH LUẬN NGỮ VÀ SÁCH MẠNH TỬ 10
1.1. Hoàn cảnh ra đời của sách Luận ngữ và sách Mạnh tử 10
1.2. Quan niệm về bản tính và vai trò của con người trong Nho giáo Khổng –
Mạnh là một trong những căn cứ chủ yếu của vấn đề tu thân 17
1.3. Kết cấu và đặc điểm của sách Luận ngữ và sách Mạnh tử 39
Chương 2: MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TƯ TƯỞNG TU
THÂN CỦA NHO GIÁO KHỔNG – MẠNH (QUA SÁCH LUẬN NGỮ 46
VÀ SÁCH MẠNH TỬ) 46
2.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng – Mạnh về vai trò, mục đích của tu
thân 46
2.2. Các phương diện chủ yếu của tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh 62
2.3. Phương pháp tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh 90
2.4. Những giá trị nổi bật và hạn chế chủ yếu trong vấn đề tu thân của Nho
giáo Khổng – Mạnh 100
KẾT LUẬN 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108


4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo, trong đó có học thuyết đạo đức xuất hiện ở Trung Quốc thời cổ

đại. Và từ đó đến nay, Nho giáo đã có lịch sử tồn tại và phát triển hơn 2000
năm. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, Nho giáo đã để lại dấu ấn của
mình không chỉ trong sách vở mà cả trong văn hóa, trong đời sống tinh thần,
đời sống đạo đức, trong phong tục, tập quán của nhiều thế hệ người Trung
Quốc nói riêng và một số nước châu Á nói chung, trong đó có Việt Nam.
Nho giáo trong thời gian dài là hệ tư tưởng thống trị, là bộ phận chủ yếu
trong kiến trúc thượng tầng của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông
chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, Nho giáo có
lúc được đề cao, tôn sùng, được xem là quốc giáo, nhưng cũng có khi Nho
giáo bị mạt sát đến thậm tệ, thậm chí bị phủ định sạch trơn. Mặc dù vậy, cho
đến ngày nay, Nho giáo và nhất là học thuyết đạo đức của Nho giáo vẫn tồn
tại và ảnh hưởng khá sâu đậm đến đời sống văn hóa tinh thần của nhiều nước
phương Đông. Những giá trị và ý nghĩa tích cực của nó vẫn tồn tại mãi mãi
với thời gian và sự phát triển của lịch sử tư tưởng, lịch sử của nhân loại.
Với tư cách là một học thuyết có hệ thống, nội dung của Nho giáo chủ yếu
đề cập tới lĩnh vực chính trị và đạo đức. Việc kế thừa và vận dụng những yếu
tố hợp lý, những giá trị tiến bộ trong học thuyết đạo đức của Nho giáo, đặc
biệt là quan niệm về tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh
1
có ý nghĩa rất lớn
đối với việc xây dựng, bồi dưỡng đạo đức mới cho con người Việt Nam nói
chung và đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng ở nước ta hiện nay, đặc biệt là
khi nước ta đang trong thời kỳ mở rộng và phát triển nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế.


1
Trong lịch sử Nho giáo Trung quốc, Nho giáo Khổng – Mạnh theo nhiều nhà nghiên cứu, là hình thái (giai
đoạn) đầu tiên của Nho giáo với tư cách là học thuyết, hay còn gọi là Nho giáo nguyên thủy, Nho giáo tiên

Tần, để phân biệt với các hình thái (giai đoạn) Nho giáo sau này. Tất nhiên, nội dung chủ yếu của hình thái
Nho giáo nay là tư tưởng của Khổng Tử và Mạnh Tử.

5
Từ trước tới nay, đặc biệt là trong thời gian gần đây, trên thế giới và ở
Việt Nam có nhiều cuộc hội thảo, nhiều công trình nghiên cứu khoa học,
nhiều chuyên khảo, nhiều bài viết đăng trên các tạp chí đã luận bàn và đánh
giá sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với sự phát triển của xã hội, con người
trong lịch sử và hiện nay. Tuy có không ít sự nhìn nhận và có nhiều ý kiến
còn trái ngược nhau, song phần lớn các công trình nghiên cứu đã chỉ ra những
yếu tố, những giá trị và ý nghĩa tích cực của Nho giáo, của đạo đức Nho giáo;
coi những chuẩn mực, quy phạm đạo đức mà các nhà Nho đưa ra là những
yêu cầu và là những phẩm chất đạo đức cơ bản để cho con người hoàn thiện
phẩm chất đạo đức, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cá nhân trong mối quan hệ
giữa cá nhân với gia đình và với xã hội. Đúng như lúc sinh thời, Hồ Chí Minh
đã nói: “Người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện về mặt tinh thần, bằng
cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, về mặt cách mạng thì đọc tác phẩm của
Lênin” [10, tr.1]
2
.
Nghiên cứu về học thuyết đạo đức của Nho giáo nói chung và tư tưởng về
tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng đã có nhiều công trình khoa
học đề cập đến từ nhiều góc độ tiếp cận, với những nội dung và phạm vi
nghiên cứu khác nhau, trong đó có không ít công trình đã được xuất bản. Kế
thừa những thành quả nghiên cứu trước đó và từ góc độ tiếp cận triết học,
chúng tôi chọn: “Vấn đề tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh (qua sách
Luận ngữ và sách Mạnh tử” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ triết
học của mình. Bằng việc nghiên cứu vấn đề này, luận văn sẽ góp phần hiểu
đúng đắn và đầy đủ hơn những mặt tích cực và hạn chế của học thuyết đạo
đức Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng và Nho giáo nói chung, đồng thời

cũng qua đó, để hiểu sâu sắc hơn tính nhân đạo, tính cách mạng của chủ nghĩa
Mác – Lênin.


2
Từ đây, những chú thích trong luận văn, số đầu là số thự tự tương ứng với mục tài liệu tham khảo, số sau là
số trang của tài liệu ấy.

6
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, không phải ngẫu nhiên mà nhiều học giả từ
phương Tây tìm về phương Đông, với phương châm và mục đích là từ hiện
tại trở về quá khứ để tìm hiểu tư tưởng và giá trị của Nho giáo. Vấn đề đặt ra
là, phương Đông cổ đại với các hiền triết, đặc biệt là Khổng Tử và Mạnh Tử
có thể đóng góp gì vào sự thiếu hụt của các nước phương Tây nói riêng và xã
hội loài người nói chung hay không?
Nho giáo Khổng – Mạnh đã bàn khá nhiều về vấn đề tu thân của con
người, nhưng chủ yếu là trên phương diện đạo đức và chính trị. Các nhà Nho
này đã đưa ra nội dung của tu thân, vai trò của tu thân đối với việc “tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”. Trên cơ sở những nội dung và nguyên lý của tu thân, đã
có nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo Khổng – Mạnh. Liên quan đến đề
tài luận văn, có thể khái quát một số kết quả nghiên cứu ở một vài công trình
tiêu biểu sau đây:
Phan Bội Châu trong cuốn Khổng học đăng đã chỉ ra một cách khái quát
nhất thực chất và mục đích trong quan niệm tu thân của Nho giáo Khổng –
Mạnh: “Hễ muốn tu thân mà cho đúng với đạo, trước tất phải tu cho đến đạo;
nhưng mà muốn tu cho nên đạo, tất phải có chỗ mục-đích-đạo. Mục-đích-đạo
là gì? Chính là đức nhân ở trong lòng người ta. Chữ “nhân” ở đây tức là chữ
“chí thiện” ở sách Đại học. Tu đạo mà cốt cho được “chỉ ư chí thiện”, tất phải
thực hành cho được đức nhân. Nên nói rằng: “tu đạo dĩ nhân” [11, tr.356]. Hồ

Chí Minh đã hiểu rất sâu sắc về Nho giáo Khổng – Mạnh và đã vận dụng
nhuần nhuyễn nhiều luận điểm của nó để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng
Việt Nam. Người đã phát hiện rằng: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm
của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”. Trong lời bế mạc lớp chỉnh huấn của
cán bộ trí thức năm 1953, Người nói: “Chúng ta phải lấy câu “chính tâm tu
thân” để “trị quốc, bình thiên hạ”.

7
Một học giả phương Tây là Will Durat, trong cuốn Lịch sử văn minh
Trung Quốc đã có những nhận xét khá tinh tế về nguyên lý tu thân trong Nho
giáo Khổng – Mạnh: “Khổng Tử bảo thiên hạ loạn vì đất nước không được
khéo trị, mà nước không được khéo trị vì luật pháp dù nhiều đến đâu cũng
không thay thế được trật tự tự nhiên, xã hội, trật tự này được đặt cơ sở trên gia
đình. Gia đình bê bối, không làm được nhiệm vụ duy trì trật tự xã hội kể trên
là vì người ta quên rằng nếu mình không sửa được mình (tu thân) thì không
thể tề gia được. Họ không tu thân được vì lòng họ bất chính, không gột được
hết những dục vọng hỗn độn trong tâm hồn” [54, tr.5].
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khá công phu
về Nho giáo nói chung và Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng, trong đó có
không ít công trình đã đề cập đến không ít vấn đề mà luận văn quan tâm như:
Nho giáo của Trần Trọng Kim đã luận giải về khái niệm tu thân, do ông đã
triết tự chữ Hán và tư tưởng Khổng – Mạnh. Trong hai cuốn sách Nho giáo và
đạo đức và Nho giáo xưa và nay (đều do Vũ Khiêu chủ biên), với rất nhiều
bài viết, những nhận định, đánh giá những giá trị của Nho giáo Khổng –
Mạnh. Trong cuốn Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm, tác giả đã luận giải
rất nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề tu thân được tác giả đặt trong mối quan
hệ với “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài này, như Nho giáo
và sự phát triển ở Việt Nam của Vũ Khiêu, Khổng Tử của Nguyễn Hiến Lê,
Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với người Việt Nam hiện nay

do Nguyễn Tài Thư chủ biên. Vừa qua, tác giả Nguyễn Thanh Bình có Học
thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ
thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX). Trong cuốn sách này, tác giả đã bàn nhiều
vấn đề liên quan đến nội dung của luận văn như: Quan điểm của Nho giáo về
con người, Quan điểm của Nho giáo về xã hội lý tưởng và Quan điểm của
Nho giáo về đức trị.

8
Liên quan đến đề tài trong luận văn của chúng tôi còn có một số luận án đã
được bảo vệ như: Trần Đình Thảo với “Quan niệm của Nho giáo nguyên thủy về
con người qua mối quan hệ thân - nhà nước - thiên hạ”; Nguyễn Thị Tuyết Mai
với “Quan niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con người”.
Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết khá công phu và có
giá trị có liên quan đến nội dung luận văn của chúng tôi mà do dung lượng và thời
gian, chúng tôi chưa đề cập tới được.
Dù rằng, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo nói chung và
về Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng liên quan đến vấn đề tu thân, nhưng có
lẽ, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể, có hệ thống về tư tưởng tu thân
của Nho giáo Khổng – Mạnh. Tuy nhiên, trên cơ sở tham khảo, những công
trình nghiên cứu ấy đã giúp chúng tôi tìm hiểu đầy đủ, sâu sắc và có hệ thống
hơn về vấn đề tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Thông qua việc nghiên cứu hai tác phẩm Luận ngữ và Mạnh tử, luận văn
từ việc trình bày những nội dung chủ yếu trong vấn đề tu thân của Nho giáo
Khổng – Mạnh để từ đó chỉ ra một số giá trị và hạn chế chủ yếu của nó.
3.2. Nhiệm vụ
Xuất phát từ lý do chọn đề tài, tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
và để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là phải giải quyết các
nội dung sau:

- Trình bày những cơ sở chính trị - xã hội và tiền đề cho sự ra đời của
sách Luận ngữ và sách Mạnh tử, kết cấu và đặc điểm của hai cuốn sách này.
- Trình bày và phân tích một số nội dung cơ bản của vấn đề tu thân trong
Nho giáo Khổng – Mạnh qua hai cuốn Luận ngữ và Mạnh tử.
- Nêu ra và phân tích một số giá trị nổi bật và hạn chế trong vấn đề tu
thân của Nho giáo Khổng – Mạnh.

9
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa vào sách Luận ngữ và sách Mạnh tử và những công
trình nghiên cứu liên quan đến luận văn trong những năm gần đây.
Cở sở lý luận chủ yếu của luận văn là dựa trên những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các Văn kiện của Đảng
Cộng sản Việt Nam về con người và xã hội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu mà tác giả sử dụng để nghiên cứu đề tài là phương
pháp nghiên cứu lịch sử triết học, phương pháp biện chứng duy vật của triết
học Mác – Lênin và kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học
khác như: phân tích và tổng hợp, logíc với lịch sử, so sánh và đối chiếu, quy
nạp và diễn dịch, v.v
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản của vấn
đề tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh (qua hai cuốn Luận ngữ và Mạnh
tử). Vì vậy mà, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy,
nghiên cứu và học tập Nho giáo nói chung và học thuyết về đạo đức Nho giáo
nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Nội
dung của luận văn gồm 2 chương với 7 tiết.

Chương 1: Hoàn cảnh ra đời, kết cấu và nội dung khái quát của sách
Luận ngữ và sách Mạnh tử, với 3 tiết.
Chương 2: Nội dung của vấn đề tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh
(qua sách Luận ngữ và sách Mạnh tử), với 4 tiết.



10
NỘI DUNG
Chương 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI, KẾT CẤU VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA
SÁCH LUẬN NGỮ VÀ SÁCH MẠNH TỬ
1.1. Hoàn cảnh ra đời của sách Luận ngữ và sách Mạnh tử
Theo nhiều nguồn sử liệu, vào năm 770TCN, do bị các thế lực phía Tây
là Nhung và Địch tấn công, vua Tây Chu là Chu Bình Vương buộc phải rời đô
sang Lạc Ấp ở phía Đông, bắt đầu giai đoạn thứ hai của nhà Chu là Đông
Chu. Giai đoạn Đông Chu tương ứng với hai thời kỳ là Xuân Thu (722 –
479TCN) và Chiến Quốc (478 – 221TCN). Sự phân chia này chỉ dựa trên một
bộ sử biên niên của Khổng tử là bộ Xuân Thu. Bộ sách này chép sử nước Lỗ
từ năm thứ nhất đời Lỗ Ân Công (721TCN) đến năm thứ 14 đời Lỗ Ai Công
(481TCN). Chữ Xuân Thu mới đầu chỉ một năm, rồi chỉ những bộ sử chép
từng năm (vì vậy mà ngoài bộ Xuân Thu của Khổng Tử còn nhiều bộ sử khác
như của Tả Khâu Minh, Công Dương, Cốc Lương… cũng gọi là Xuân Thu).
Nhưng nhiều học giả cho rằng, năm 721TCN và năm 481TCN không đánh
dấu một biến cố lớn lao nào trong lịch sử nên đã chia lại như sau:
Thời Xuân Thu từ 770 – 403TCN, bắt đầu từ đời Chu Bình Vương đến
cuối đời Chu Uy liệt vương.
Thời Chiến Quốc từ 403 – 221TCN, bắt đầu từ đời Chu An Vương đến
khi nước Tần diệt được nước Tề và thống nhất Trung Quốc.
Thời Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kỳ lịch sử với nhiều biến động,
với nhiều chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện trong đời sống của con

người và xã hội Trung Quốc. Đây là thời kỳ có nhiều sự kiện lịch sử xuất hiện
dồn dập, nhiều học thuyết triết học và chính trị - xã hội ra đời, xuất hiện nhiều
nhà tư tưởng, văn hóa tài ba có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử Trung Quốc và
lịch sử nhân loại. Trong các học thuyết đó phải nói đến Nho giáo, trong những
nhà tư tưởng ấy phải nói tới Khổng Tử và Mạnh Tử với hai tác phẩm Luận
ngữ và Mạnh tử.

11
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thời Xuân Thu và Chiến Quốc – cở sở ra
đời sách Luận ngữ và sách Mạnh tử
Ở Trung Quốc, đến thời kỳ Tây Chu (từ thế kỷ XI đến thế kỷ VIII
TCN), công cụ sản xuất làm bằng đồng thau đã ra đời và tuy có tiện lợi hơn
công cụ lao động bằng gỗ, bằng đá nhưng chưa có nhiều để trở thành thứ
công cụ được sử dụng phổ biến trong sản xuất. Trong khi đó, số nhân khẩu
tăng nhanh, nhu cầu xã hội đặt ra lúc này là cần phải đẩy mạnh sản xuất, tạo
ra nhiều của cải hơn nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất ngày càng nhiều hơn cho
người dân. Trước yêu cầu thực tiễn đó, đến đời Đông Chu, với sự xuất hiện và
sử dụng khá phổ biến công cụ lao động bằng sắt đã đánh dấu một bước
chuyển lớn trong sản xuất nói riêng và trong lịch sử nền văn minh Trung Hoa
nói chung. Việc phát minh đồ sắt đã mang lại những tiến bộ mới trong việc
chế tạo, cải tiến và sử dụng công cụ lao động phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp. Việc dùng trâu, bò, ngựa kéo thay cho sức người đã trở thành phổ
biến; kỹ thuật trồng trọt cũng được cải tiến. Do đó, diện tích đất canh tác ngày
càng được mở rộng, năng suất lao động ngày càng tăng, sức sản xuất (lực
lượng sản xuất) ngày càng phát triển.
Nhờ công cụ sản xuất phát triển mà ruộng đất do nông nô vỡ hoang
biến thành ruộng tư ngày một nhiều. Tầng lớp quý tộc do có quyền thế cũng
chiếm dần ruộng của công xã làm ruộng tư. Chế độ “tỉnh điền” dần tan rã và
được thay thế bằng chế độ tư hữu về ruộng đất và chế độ tư hữu này còn được
pháp luật Nhà nước thừa nhận và bảo vệ.

Do việc sử dụng công cụ bằng sắt trở thành phổ biến trong sản xuất
nông nghiệp và cùng với việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động,
sự phân công lao động trong sản xuất thủ công nghiệp cũng đã đạt tới mức
chuyên nghiệp cao hơn, thúc đẩy hàng loạt các ngành nghề thủ công nghiệp
phát triển, như nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ
gốm… Đặc biệt, lĩnh vực thương nghiệp rất phát triển với việc hình thành

12
nhiều trung tâm thương nghiệp như: Hàm Dương ở nước Tần, Lâm Truy nước
Tề, Hàm Đan nước Triệu, … với nhiều nhà buôn có tên tuổi như: Phạm Lãi,
Đoan Mộc Tứ, Lã Bất Vi… Trong hoạt động buôn bán, tiền tệ đã xuất hiện,
ngoài các thứ tiền đồng mà mỗi miền dùng một kiểu, người ta còn lập đồng
tiền chung. Nhiều người do có nhiều tiền đã mua đất của quý tộc sa sút và
sống như các quý tộc. Từ những hoạt động này, trong xã hội đã nảy sinh tầng
lớp thương nhân giàu có, mở rộng buôn bán sang nhiều nước và ngày càng trở
thành tầng lớp có thế lực lớn trong xã hội.
Sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến
lĩnh vực chính trị - xã hội. Đây là thời kỳ mà xã hội Trung quốc có sự đan xen
giữa hình thái chiếm hữu nô lệ và hình thái phong kiến. Do sự suy yếu về
kinh tế mà triều đại nhà Chu ngày càng suy sụp, chế độ tông pháp không còn
được tôn trọng; các quan hệ về kinh tế, chính trị giữa thiên tử và các nước chư
hầu ngày càng lỏng lẻo, trật tự lễ nghĩa nhà Chu không còn được coi trọng.
Hệ quả tất yếu dẫn đến là, làm xuất hiện một cục diện mới trong xã hội Trung
Quốc, đó là thời Xuân Thu. Thời Xuân Thu như có nhà nghiên cứu đã khẳng
định, là “triều đại nhà Chu từ đầu Đông Chu đến đây là hết hẳn. Tình trạng
xen kẽ lẫn nhau giữa các hình thái chiếm hữu nô lệ cứ lùi dần và hình thái
phong kiến cát cứ mới nảy sinh với xu thế hướng tới tập quyền ngày càng
mạnh mẽ cũng chấm dứt” [17, tr.21]. Vua nhiều nước chư hầu đã bằng mọi
cách, mọi thủ đoạn giành giật địa vị bá chủ thiên hạ, gây chiến tranh để xâm
lược, trừng phạt lẫn nhau. Tình hình đó càng làm cho mâu thuẫn vốn có trong

xã hội và các mâu thuẫn giữa các giai cấp ngày càng trở nên gay gắt, sự rối
loạn trong xã hội ngày càng gia tăng. Tình trạng lễ, nghĩa, cương thường đảo
lộn, đạo đức suy đồi, “chư hầu lấn quyền thiên tử, đại phu lấn quyền chư hầu,
tôi giết vua, con giết cha, trật tự xã hội rất là rối loạn” [1, tr.25-26] diễn ra ở
nhiều nơi, thể chế nhà Chu bị vi phạm nghiêm trọng. Bên cạnh đó, là tình
trạng trên yếu dưới mạnh, do tầng lớp địa chủ mới lên ngày càng giàu có, lấn

13
át quý tộc cũ, “thậm chí tầng lớp này còn chiếm đoạt cả chính quyền như họ
Quý thị ở nước Lỗ, họ Trần ở nước Tề” [63, tr.25].
Cuối thời Xuân Thu, chiến tranh ngày càng ác liệt, các nước nhỏ bị
nước lớn tiêu diệt. Sang thời kỳ Chiến Quốc, Trung Quốc lúc này chỉ còn lại
bảy nước mạnh tranh giành nhau (gọi là thất hùng), gồm có các nước: Tần,
Sở, Tề, Hàn, Triệu, Ngụy và Yên. Chiến tranh tàn khốc trên quy mô lớn và
liên tục giữa các nước chư hầu đã làm cho đời sống nhân dân lao động ngày
càng cùng cực hơn. Mâu thuẫn giữa các giai cấp và những mâu thuẫn xã hội
khác ngày càng gay gắt hơn đã làm cho xã hội ngày thêm rối loạn và nguy cơ
diệt vong. Điều đó chính giai cấp thống trị đã nhận thấy, nên họ đã tiến hành
một số biện pháp cải cách nhằm loại trừ tình trạng rối loạn và ngăn chặn nguy
cơ ấy. Đó là phong trào “biến pháp” ở một loạt nước như nước Ngụy, nước
Triệu, nước Hàn, nước Tề, nước Tần… suốt thời Chiến quốc.
Tình trạng rối loạn xã hội, sự đảo lộn các quan hệ xã hội và chiến tranh
liên miên ở nhiều nơi là nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện nhiều cuộc bạo
động, khởi nghĩa của người nông dân chống lại chế độ nhà Chu. Mặt khác,
“sự rối loạn trật tự xã hội đã tạo ra một tình trạng phi nhân tính, vô đạo đang
thống trị cả xã hội, làm cho các mối quan hệ xã hội bị biến dạng ghê gớm” [6,
tr.14]. Tất cả đã tạo ra một hợp lực đẩy nhà Chu đến bờ vực diệt vong.
Trước một thực trạng xã hội hết sức rối loạn về chính trị như vậy, thì
một vấn đề cấp bách được đặt ra là, cách thức tổ chức, quản lý như mô hình
nhà Chu không còn phù hợp nữa, và phải làm thế nào để thiết lập lại trật tự,

kỷ cương cho xã hội, làm cho xã hội ổn định, phát triển. Và điều quan trọng
hơn là, phải lựa chọn mô hình xã hội nào cho phù hợp với tình hình Trung
Quốc thời bấy giờ để đất nước thoát ra khỏi tình trạng hỗn loạn để phát triển.
Rõ ràng, đây không chỉ là một vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách mà còn là
câu hỏi lớn và nỗi băn khoăn cho thời đại, cho mọi tầng lớp người. Đó còn là
nội dung chủ yếu trong đời sống tư tưởng chính trị - xã hội của Trung Quốc

14
thời bấy giờ. Sự ra đời của nhiều học phái, nhiều học thuyết đã phản ánh địa
vị và lập trường giai cấp rất rõ là, mỗi một học thuyết lại bảo vệ lợi ích của
giai cấp, của tầng lớp mình mà phê phán (cải tạo hay xóa bỏ) trật tự xã hội cũ.
Tình trạng ấy đã tạo nên cục diện “Bách gia tranh minh”, “Bách gia chư tử”
mà kết cục là đã tạo ra được nhiều tầng lớp kẻ sĩ, nhiều tư tưởng khác nhau,
thậm chí đối lập nhau ở Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Sự ra đời
tư tưởng Khổng – Mạnh cũng trong bối cảnh ấy. Khổng Tử và sau đó là Mạnh
Tử đã đề xuất học thuyết “đức trị” nhằm thực hiện đường lối trị nước bằng
đạo đức Trong đó, qua sách Luận ngữ và sách Mạnh tử, các ông đòi hỏi mọi
người phải kiên trì, nỗ lực, tu thân, học đạo để làm cho “người người hữu
đạo”, “nhà nhà hữu đạo”, “xã hội hữu đạo” nhằm thực hiện được lý tưởng “tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
1.1.2. Tiền đề tư tuởng cho sự ra đời của sách Luận ngữ và sách Mạnh tử
Sự ra đời Nho giáo Khổng – Mạnh còn bắt nguồn từ đời sống tư tưởng
(tôn giáo, chính trị, đạo đức) của Trung Quốc từ trước đến bây giờ, đặc biệt
dưới thời nhà Chu. Điều này ảnh hưởng và thể hiện khá rõ trong sách Luận
ngữ và sau này là sách Mạnh tử.
Về tôn giáo, như chúng ta đã biết, để biện hộ, bảo vệ, duy trì địa vị và
vai trò thống trị vĩnh viễn của mình, nhà Chu đặc biệt đề cao tư tưởng mang đậm
tính chất tôn giáo, tính chất duy tâm như “kính trời”, “hợp mệnh trời”, “thờ
thượng đế”, “trời và người hợp nhất”…. Nhà Chu luôn cho rằng, trời là lực
lượng có nhân cách, có ý chí và có uy quyền tuyệt đối, quyết định mọi hành

động và số phận của con người. Theo đó, nhà Chu còn cho rằng “vì nhà Ân
không biết mệnh trời, hành động không hợp với mệnh trời, do vậy thượng đế đã
trừng phạt và để cho nhà Chu thay thế nhà Ân cai trị dân” [Dẫn theo 8, tr.15].
Về chính trị, các tầng lớp quý tộc và tư tưởng của nhà Chu cho rằng, vì
nhà Chu do làm theo đúng “mệnh trời” cho nên được trời trao quyền “nhận
dân” từ tay nhà Ân để “hưởng dân” và “trị dân” suốt đời. Và vì vậy mà theo

15
họ, nếu kẻ nào chống lại, thì nhà Chu sẽ thay mệnh trời mà chém giết. Họ đều
quả quyết rằng, vua nhà Chu là thiên tử, là người duy nhất thay trời thống trị
thiên hạ, là người chủ sở hữu duy nhất về đất đai và thần dân. Như vậy, tư
tưởng chính trị nhà Chu là hết sức phản động, nhưng đã được phủ lên trên nó
một vỏ bọc “duy tâm”, một lớp son tôn giáo là “ý trời” và “mệnh trời”.
Về đạo đức, tư tưởng đạo đức cơ bản của nhà Chu thể hiện chủ yếu ở
hai phạm trù Đức và Hiếu. Theo đó, bởi nhà Chu có Đức, có Hiếu cho nên
mới nhận được mệnh trời, mới có được mệnh trời. Nhà Chu đã lấy hai chữ
Đức, Hiếu và thông qua “mệnh trời” cũng chủ yếu nhằm củng cố và tuyên
truyền sự tồn tại vĩnh viễn địa vị thống trị của tầng lớp quý tộc nhà Chu.
Từ quan niệm chính trị - tôn giáo “Thiên nhân hợp nhất” hết sức duy
tâm và phản động, nhà Chu khẳng định rằng, vì các bậc tiên vương nhà Chu
có đức mà được sánh cùng thượng đế, được thượng đế cho các quyền thay
thượng đế trị nước, trị dân và hưởng nước, hưởng dân…; cho nên các đời vua
sau phải biết kính cái đức đó, phải biết bồi dưỡng cái đức đó để cho con cháu
của họ được trị nước, trị dân và hưởng nước, hưởng dân lâu dài. Hiếu là thờ
phụng tổ tiên, là phải nhớ công lao của tổ tiên mà giữ gìn phép tắc của tổ tiên
để lại. Có cái đức, hiếu như vậy, cho nên nhà Chu luôn tin rằng, họ mới nhận
được mệnh trời mà được hưởng nước, hưởng dân mãi mãi.
Đến thời Khổng – Mạnh, Nho giáo với tư cách là một hình thái ý thức
xã hội không thể không liên hệ mật thiết với đời sống kinh tế và phản ánh đời
sống kinh tế xã hội Trung quốc lúc bấy giờ. Do vậy, để khắc phục tình trạng

rối loạn xã hội, nhằm đưa xã hội vào trạng thái ổn định và phát triển, ở
phương diện nào đó, tư tưởng Nho giáo Khổng – Mạnh vẫn sử dụng sức mạnh
của thần quyền. Nhưng mặt khác và là mặt cơ bản, tư tưởng ấy phải khẳng
định địa vị đứng trên của vương quyền đối với thần quyền cũng như vị trí, vai
trò của con người trong những diễn biến của lịch sử.

16
Có thể khẳng định rằng, do điều kiện lịch sử, văn hóa, v.v , trong lịch
sử, cũng như trong đời sống chính trị - xã hội ở nhiều nước phương Đông nói
chung và Trung Quốc nói riêng, địa vị thống trị xã hội của một lực lượng hay
giai cấp nào đó không phải nhất thiết và bao giờ cũng bị chi phối, bị quyết
định bởi địa vị kinh tế, của lực lượng, giai cấp ấy. Thực tế lịch sử cho thấy, từ
thời kỳ trước Khổng Tử và Mạnh Tử ở Trung quốc, tất cả các thế lực thống trị
phải quan tâm, dù ở một mức độ nào đó, đến đời sống của con người, của
nhân dân và đến vai trò của dân. “Ngay trong Kinh Thư đã cho thấy nhiều tư
tưởng thể hiện sự quan tâm của tầng lớp thống trị đến đời sống của nhân dân,
đến vai trò của người dân, như tuy thừa nhận “mệnh trời” luôn có uy quyền
tối cao, tuyệt đối nhưng lại thể hiện ra, thậm chí đồng nhất với “ý dân”, “lòng
dân”. Những câu sau: “Trời nhìn tự dân ta nhìn”, “Trời nghe tự dân ta nghe”,
“Sự sáng suốt ở trời thể hiện ra sự sáng suốt ở dân”, “Dân muốn gì trời cũng
phải theo”… không phải là ít trong cuốn sách này. Điều này nói lên rằng, việc
quan tâm đến đời sống và vai trò của dân có ý nghĩa như một hằng số trong
đời sống chính trị ở các nước phương Đông” [Dẫn theo: 8, tr.17].
Như đã trình bày ở trên, dưới triều đại nhà Chu, địa vị và uy quyền của
trời, mệnh trời đã được vận dụng để chống lại nhà Ân, vào việc luận giải và
biện hộ cho sự tồn tại vĩnh viễn của nhà Chu. Tuy nhiên đến thời Xuân Thu,
chính sự suy yếu về mọi mặt của nhà Chu đã cho thấy, sự linh thiêng và sự
bất khả xâm phạm của thần quyền đã bị xâm phạm; nó báo hiệu sự thắng lợi
của quyền lực trần thế trước quyền lực thần thánh… Cho đến cuối thời Xuân
Thu, với sự suy đồi của tầng lớp thống trị, trật tự, kỷ cương theo mô hình nhà

Chu bị rối loạn, sự khốn cùng của đời sống nhân dân đã làm lay chuyển gốc
rễ địa vị thống trị của thần quyền. Bởi vậy, một vấn đề thực tiễn đặt ra cho
các nhà tư tưởng, các học phái, các tầng lớp thống trị là phải tìm ra cơ sở lý
luận nhằm thiết lập lại một trật tự xã hội mới. Lúc này, trong xã hội đã xuất
hiện tầng lớp tri thức, họ là những người có hiểu biết, hiểu thời thế, hiểu được

17
tâm tư và nguyện vọng của nhân dân cũng như lợi ích của giai cấp thống trị.
Trong tư tưởng của họ cũng mong muốn tìm được minh chủ để thực hiện học
thuyết cứu đời, ổn định trật tự xã hội, chấm dứt chiến tranh loạn lạc. Trong
bối cảnh đó, sự xuất hiện của Nho giáo (mà cũng chính là Nho giáo Khổng –
Mạnh) là một tất yếu khách quan, nhằm giải quyết một nhu cầu mà thực tiễn
của xã hội Trung quốc đặt ra lúc bấy giờ. Tuy nhiên, khác với các học thuyết,
giáo phái khác, Nho giáo Khổng – Mạnh đặc biệt đề cao đạo đức, coi đạo đức
là phương tiện, là công cụ chủ yếu để quản lý, duy trì trật tự xã hội, đưa xã
hội từ “loạn” tới “trị”, coi xã hội và con người lý tưởng là xã hội có đạo đức,
là con người có đạo đức.
1.2. Quan niệm về bản tính và vai trò của con người trong Nho giáo
Khổng – Mạnh là một trong những căn cứ chủ yếu của vấn đề tu thân
Trong triết học phương Đông và Nho giáo nói chung, trong Nho giáo
Khổng – Mạnh nói riêng thì vấn đề con người là một trong những vấn đề cơ
bản nhất, chủ yếu nhất. Ở Nho giáo Khổng – Mạnh, qua sách Luận ngữ và
sách Mạnh tử cho thấy, con người ngay từ đầu đã được cả Khổng Tử và Mạnh
Tử đề cập tới và có thể nói rằng, Nho giáo Khổng – Mạnh đặc biệt đề cao vai
trò của con người, “coi con người cũng với trời đất là tiêu biểu của tất cả, và
nói rõ: trời, đất, người là tam tài” [17, tr. 64]. Trong quan niệm của Khổng Tử
và Mạnh Tử, vấn đề con người gắn liền, ảnh hưởng trực tiếp đến việc củng
cố, ổn định trật tự, kỷ cương của xã hội. Trong đó, đạo đức và coi trọng đạo
đức của con người là tư tưởng chủ đạo trong quan niệm của Nho giáo Khổng
– Mạnh về con người. Vấn đề con người bao hàm nhiều các vấn đề như: đạo

làm người, tính người, giáo dục và đào tạo con người, phân loại con người và
phương thức, mục đích xây dựng mẫu người lý tưởng.v.v Việc nghiên cứu,
làm rõ hệ các vấn đề trên là cần thiết và có ý nghĩa. Nhưng để phục vụ cho đề
tài của luận văn, chúng tôi chỉ đi vào nghiên cứu hai vấn đề có liên quan nhất,
đó là vấn đề bản tính của con người và vai trò của con người trong Nho giáo

18
Khổng – Mạnh. Bởi vì, hai vấn đề này là cơ sở lý luận, là một trong những
căn cứ chủ yếu nhất hình thành vấn đề tu thân trong Nho giáo Khổng – Mạnh.
1.2.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng – Mạnh về bản tính con người
Không như nhiều hình thái triết học khác khi đưa ra vấn đề thuộc tính
cơ bản (bản chất) của con người là gì, phần lớn các học phái triết học phương
Đông (trong đó có Nho giáo) khi đề cập đến vấn đề này, thường sử dụng thuật
ngữ “Bản tính” hay “nhân tính”. Bản tính con người (hay là nhân tính) là một
trong những vấn đề lớn của triết học phương Đông. Trong khi triết học
phương Tây thời cổ đại, chủ yếu đi tìm hiểu những vấn đề về nguồn gốc, bản
chất của thế giới và những vấn đề thuộc về mối quan hệ giữa con người với
thế giới xung quanh, v.v , thì các nhà triết học phương Đông lại chú trọng về
những vấn đề thuộc về “bản tính con người”, để từ đó đưa ra và lý giải về vị
trí, vai trò của con người. Nhiều nhà triết học phương Đông quan niệm rằng,
bất kỳ một cải cách cơ bản nào trong xã hội đều bắt đầu từ một thay đổi cơ
bản trong bản tính con người. Trong các học thuyết xuất hiện ở Trung Quốc
thời cổ đại, Nho giáo Khổng – Mạnh là học thuyết bàn luận về bản tính người
một cách sâu sắc, đầy đủ hơn cả.
Trong sách Luận ngữ (cũng là Nho giáo nói chung), Khổng Tử là người
đầu tiên đưa ra quan niệm về bản tính con người, rất cơ bản, dù trong sách ấy
ông ít giảng cho học trò về vấn đề này. Đúng như Tử Cống – học trò của
Khổng Tử đã nói rằng: “Phu tử chi văn chương, khả đắc nhi văn dã. Phu tử nhi
ngôn tính dữ thiên đạo, bất khả đắc nhi văn dã” [27, tr. 298] (Văn chương thầy
ta thì chúng ta đều được nghe. Còn về bản tính con người cùng đạo trời thì

chúng ta chẳng được nghe thầy ta dạy). Theo sự giải thích của học trò (được
ghi chép trong sách Luận ngữ), vì vấn đề bản tính con người và đạo trời là vấn
đề cao siêu, cho nên Khổng Tử chỉ truyền đạt vấn đề này cho những học trò đã
đạt đến đạo “trung dung”, nhưng số học trò này rất hiếm nên Khổng Tử không
thể truyền đạt đạo đó một cách sâu rộng được. Cũng cần phải nói thêm ở đây

19
là, không như Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, trong cuốn Đại cương lịch sử triết
học Trung quốc, tập 2, cho rằng: Khổng Tử chỉ nói có một câu về bản tính con
người: “Khổng Tử cũng có nói đấy nhưng chỉ nói mỗi một câu này ở gần đầu
chương Dương hóa: Tính tương cận giã, tập tương viễn giã” [12, tr. 75]. Còn
khi nghiên cứu cụ thể thì cho thấy, trong sách Luận ngữ, Khổng Tử đã có hai
lần ông nói liên quan đến bản tính con người:
- “Con người sinh ra, bản tính vốn ngay thật” (Nhân chi sinh tính giã
trực) [27, tr. 332].
- “Con người ta ai cũng có bản tính lành; nhưng do nhiễm thói quen cho
nên họ thành xa cách nhau (Tính tương cận giã, tập tương viễn giã) [27, tr. 614].
Và tất nhiên, ở một chỗ khác, cũng trong sách Luận ngữ, Khổng Tử có
nói đến nết người và theo chúng tôi, cái nết người ấy đã bao hàm “tính
người”, đó là:
- “Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là không đổi nết mình” (Duy
thượng trí dữ hạ ngu bất di) [27, tr. 614].
Tuy ít luận bàn về bản tính con người, nhưng Khổng Tử đã đưa ra
những luận điểm rất quan trọng, là cơ sở để học trò của ông và những nhà
Nho sau ông tiếp tục kế thừa và phát triển. Cho dù Khổng Tử chưa nói bản
tính con người là ác hay là thiện một cách rõ ràng, nhưng ngay từ đầu, Khổng
Tử đã khẳng định rằng: “Bản tính con người ta là gần nhau”. “Gần nhau”, có
nghĩa là ở con người phải có một điểm chung nào đó. Theo Khổng Tử, cái
chung ấy chính là bản chất ngay thật (vốn lành - giã trực) của con người. Đó
là cái nguyên sơ, chất phác, mộc mạc, tự nhiên do trời sinh ra vậy. Cái bản

tính ban đầu ấy của con người, theo Khổng Tử là ngây thơ, trong trắng, chưa
bị hoen ố bởi vật dục và sự tác động của ngoại cảnh. Và Khổng Tử khẳng
định rằng, chỉ khi con người bị chi phối, ràng buộc bởi những ham muốn, dục
vọng và bởi những ảnh hưởng, những tác động của ngoại cảnh, đến khi xã hội
phân chia thành những đẳng cấp thì cái tính ban đầu ấy của con người ấy mới

20
bị tha hóa, biến đổi và vì vậy mà làm cho con người dần dần “xa nhau”. Về
vấn đề này, Khổng Tử muốn nhấn mạnh vai trò tu dưỡng đạo đức và ảnh
hưởng hoàn cảnh xã hội đối với sự thay đổi bản tính ban đầu của con người.
Ông cũng cho rằng, “bản tính con người” là do trời phú cho con người, cho
nên cái bản tính ban đầu ấy là giống nhau, là chung cho cả loài người, là cái
phân biệt giữa con người với các sinh vật khác. Có nghĩa là, bản tính con
người lúc mới sinh ra, khi chưa bị tác động bởi ham muốn, dục vọng và các
yếu tố ngoại cảnh thì “gần nhau”, giống nhau chứ không phải như có người đã
giải thích rằng “Bản tính trí năng được phú bẩm của người ta có khác nhau”
[40, tr.11].
Tiếp thu tư tưởng trên đây của Khổng Tử, Mạnh Tử đã đưa ra học
thuyết về “tính thiện”. Luận về bản tính của con người, trong sách Mạnh tử,
Mạnh Tử chỉ rõ: “Nhân chi sơ, tính bản thiện” (Bản tính con người ta vốn
thiện) [27, tr.1193]. Về vấn đề này, trong chương Li lâu, sách Mạnh tử, ông
còn nói thêm: “Nhân chi sơ dĩ dị ư cầm thú giả, cơ hỹ” [27, tr.1073] (nghĩa là:
loài người sở dĩ khác cầm thú chỉ có mảy may mà thôi, mà chỗ giống nhau thì
nhiều). Chỗ khác, cũng trong sách Mạnh tử, ông khẳng định rằng, con người
được ăn no mặc ấm, nhàn rỗi mà lại chẳng được dạy dỗ (để có và giữ được
tính thiện) thì chẳng khác cầm thú là bao. Như ông nói: “Làm người phải có
đạo lý. Ăn no, mặc ấm, nhàn rỗi mà không có giáo dục thì gần với loài cầm
thú. Thánh nhân lấy đó làm lo, sai ông Tiết làm quan tư đồ, dạy dân biết các
giềng mối của con người: giữa cha con có tình thân ái, giữa vua tôi có nghĩa
vụ, chồng vợ có phân biệt, anh em có thứ tự, bạn bè có chữ tín” [27, tr.949].

Mạnh Tử cũng nhận thức được rằng, con người có chỗ bất thiện và
cũng có chỗ thiện. Theo ông, chỗ bất thiện là phần ti tiểu, đáng khinh; còn
chỗ thiện mới là phần đại cao, đại quý: “Thể hữu quý tiện, hữu tiểu đại. Vô dĩ
tiểu hại đại, vô dĩ tiện hại quý. Dưỡng kỳ tiểu giả vi tiểu nhân, dưỡng kỳ đại
giả vi đại nhân… Ẩm thực chi nhân, tắc nhân, tiện chi hĩ, vị kỳ dưỡng tiểu dĩ

21
thất đại dã” (Trong con người có phần quý trọng, có phần bỉ tiện, có phần cao
đại, có phần ti tiểu. Đừng săn sóc cái phần ti tiểu mà làm hại cái phần cao đại,
đừng lo cho phần bỉ tiện mà làm hại phần quý trọng. Nuôi dưỡng cái phần ti
tiểu thì thành tiểu nhân; nuôi dưỡng cái phần cao đại thì thành đại nhân (tức
người có đức)… Kẻ nào chỉ coi việc ăn với uống thì bị coi là đê tiện vì kẻ đó
chỉ nuôi cái phần ti tiểu mà làm mất cái phần cao đại) [27, tr.1228].
Từ chỗ cho rằng, bản tính của con người là thiện, là cái phần quý đại –
cái phần mà từ đó, nó phân biệt loài người với cầm thú, Mạnh Tử đã phê phán
quan điểm của Cáo Tử khi ông ta khẳng định rằng, mọi sinh vật đều có tính,
thì không thể phân biệt tính người và tính của loài vật [27, tr.1195].
Luận về tính người, trong sách Mạnh tử, Mạnh Tử còn cho rằng, tính là
cái chung cho cả một loài, mà loài người có nhiều điểm giống nhau: “Đối với
mùi vị, miệng người ta ưa thích như nhau, đối với âm thanh, tai người ta ưa
thích như nhau, đối với sắc đẹp, mắt người ta ưa nhìn như nhau. Đến như con
tim, há lại riêng biệt mà khác nhau hay sao? Tâm người ta giống nhau ở chỗ
nào? Ở lẽ phải và điều nghĩa vậy. Thánh nhân nắm vững những chỗ mà con
tim chúng ta cùng nhận là phải. Vì thế mà lẽ phải và điều nghĩa làm đẹp lòng
ta, cũng như thịt những giống gia súc khoái miệng ta vậy” [27, tr.1210-1211].
Ngoài ra, cũng theo ông, hễ con người là đồng loại với nhau thì đều có những
điểm giống nhau, và mình là đồng loại với thánh nhân thì cái tính của mình
phải là cái tính của thánh nhân, nghĩa là chỉ cái phần thiện trong bản tính loài
người mà gọi là tính mà thôi [27, tr.1210].
Nhằm làm rõ thêm quan điểm của mình khi cho rằng, bản tính của con

người vốn là thiện, bất kỳ ai từ khi sinh ra cũng có cái mầm thiện sẵn trong
lòng, Mạnh Tử đã đưa ra “tứ đoan thuyết” (thuyết bốn đầu mối)
3
: “Người ta ai
cũng có lòng bất nhẫn”, và “Sở dĩ nói ai cũng có lòng bất nhẫn, là vì người ta


3
“Tứ đoan thuyết” bao gồm bốn đầu mối: Trắc ẩn (lòng thương xót), Tu ố (hổ thẹn, ghét), Từ nhượng (nhún
nhượng), Thị phi (biết phân biệt phải, trái).

22
chợt thấy đứa bé sắp ngã xuống giếng, ai cũng chột dạ, xót xa. Chẳng phải
mong làm thân với cha mẹ đứa bé, cũng không phải mong xóm làng, bạn bè
khen ngợi, cũng chẳng phải tránh tiếng xấu” [27, tr.861]. Ông còn khẳng định
thêm rằng, con người mà không có tứ đoan: trắc ẩn chi tâm, tu ố chi tâm, từ
nhượng chi tâm, thị phi chi tâm, thì không phải là người. Như ông nói: “Do
đó mà xét, không có lòng trắc ẩn, chẳng phải là người; không có lòng tu ố,
chẳng phải là người; không có lòng từ nhượng, chẳng phải là người; không có
lòng thị phi, chẳng phải là người” [27, tr.861].
Từ đó và trên cơ sở đó, Mạnh Tử đi đến khẳng định một cách nhất quán
rằng, Tứ đoan (hay Tứ thiện đoan) là đầu mối, là gốc của Tứ đức (hay Tứ
thiện đức). Vấn đề này ông nói rõ như sau: “Lòng trắc ẩn là đầu mối của điều
nhân, lòng tu ố là đầu mối của điều nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối của lễ,
lòng thị phi là đầu mối của trí vậy. Người ta có bốn mối đó cũng như là có hai
tay, hai chân vậy. Người ta có bốn đầu mối đó mà nói rằng không đủ khả
năng thi hành nhân, nghĩa, lễ, trí là tự hại mình, nói rằng vua không đủ khả
năng là hại vua mình vậy” [27, tr.861 – 862] (Trắc ẩn chi tâm, nhân chi đoan
dã; tu ố chi tâm, nghĩa tri đoan dã, từ nhượng chi tâm, lễ chi đoan dã; thị phi
chi tâm, trí tri đoan dã. Nhân chi hữu thị tứ đoan dã, do kỳ hữu tứ thể dã. Hữu

thị tứ đoan nhi tự vi bất năng giả dã, tự tặc giả dã, Vị kỳ quân bất năng giả: kỳ
quân giả dã) [27, tr.861].
Bốn cái đức: nhân, nghĩa, lễ, trí, theo Mạnh Tử, chính là cái làm cho
con người khác biệt với cầm thú. Nhưng bốn cái đức ấy, nó chỉ mới manh
nha ở trong con người, cho nên theo ông, con người chỉ khác cầm thú có
“một chút” là vậy. Tuy nhiên, vì nó là cái lương tâm, là cái lương năng, cho
nên nó có thể giúp cho con người làm được điều thiện. Vì vậy mà, nếu con
người biết nuôi dưỡng cái lương tâm, thi hành cái lương năng, tứ đức ấy sẽ
trở thành các bậc thánh nhân, quân tử; còn không biết nuôi nó mà để nó suy
tàn, mất đi thì con người sẽ biến thành cầm thú. Trong sách Mạnh tử, Mạnh

23
Tử so sánh theo lối ví von rằng, lương tâm cũng tựa như mầm non, mà
hành động bất nhân tựa như búa rìu. Vì vậy mà, con người nếu ngày nào
cũng làm điều ác thì nhân tâm phải mất đi, cũng như ngày nào cũng chặt
đẽo thì mầm non phải chết. Lúc đó, con người sẽ không khác loài cầm thú,
con người sẽ trở thành ác nhân.
Trong sách Mạnh Tử còn cho thấy, quan niệm về tính thiện của Mạnh
Tử còn được hình thành và biểu hiện trong cuộc tranh luận với Cáo Tử về vấn
đề bản tính con người. Do đó, nói đến Mạnh Tử không thể không nói đến Cáo
Tử. Cáo Tử cho rằng, tính người không thiện cũng không ác, giống như dòng
nước chẳng nhất định chảy về đâu, hãy phía nào thông thì nó chảy về phía đó.
Phản đối quan điểm này của Cáo Tử, Mạnh Tử khẳng định rằng, tính người là
thiện, cũng giống như tính của nước nhất định sẽ chảy xuống chỗ thấp. Ông
viết: “Bản tính người ta vốn thiện, cũng như nước phải chảy xuống thấp vậy
[27, tr.1193]. Theo ông, tính thiện là cái bản chất cố hữu, vốn có của con
người, nhưng nó không phải là bất biến, không thay đổi, mà chính những ham
muốn, dục vọng của con người và sự tác động của ngoại cảnh có thể làm cho
con người đánh mất bản tính thiện vốn có của mình, là mầm mống, là nguyên
nhân chủ yếu nảy sinh điều bất thiện. Nhưng theo ông, xu hướng của con người

là vươn tới điều thiện, từ bỏ điều bất thiện, cũng giống như dòng nước bị chặn lại
phải dâng lên, nhưng xu hướng vẫn là chảy xuống chỗ thấp. Do vậy, trong sách
Mạnh tử, nhiều lần ông khẳng định, nếu nhà vua, nhà cầm quyền thi hành một
đường lối chính trị bạo ngược, hà khắc, dồn người dân đến cảnh cùng quẫn thì
người dân có thể nảy sinh hành vi bất thiện. Quan niệm này của Mạnh Tử là một
lời cảnh báo cho giai cấp thống trị đương thời.
Như trên đã trình bày, một mặt, Mạnh Tử cho rằng, bản tính của con
người là thiện và con người có tứ thiện tâm: lòng thương xót mọi người; biết hổ
thẹn để xóa bỏ những điều sai trái; kính trọng người trên, nhường nhịn kẻ dưới;
biết nhận ra điều phải trái, nhưng mặt khác, ông cũng thừa nhận rằng trong một

24
con người cũng có phần tốt mà cũng có phần xấu (dù ông chỉ gọi phần tốt là tính
người thôi và chỉ cái đó mới phân biệt được con người với loài vật). Mà cái phần
tốt ai cũng có, vì ai cũng có lòng trắc ẩn, lòng tu ố, lòng từ nhượng, lòng thị phi,
những đầu mối của nhân, nghĩa, lễ, trí. Từ chỗ quan niệm như vậy mà theo ông,
điều căn bản của việc giáo hóa, giáo dục cần phải khuếch sung bốn cái mối đó,
phần tốt mà phát triển thì phần xấu sẽ lùi đi và con người sẽ ngày càng xa cầm
thú, mà mới có đạo đức và gần với bậc thánh nhân.
Nhìn chung, khi luận giải về tính người, Khổng Tử và Mạnh Tử đều
thừa nhận khả năng con người có thể và cần phải giữ được bản tính thiện vốn
có, thay đổi được tính ác thông qua việc tu dưỡng, giáo dục đạo đức (tu thân)
và chế thắng sự tác động của xã hội. Vì vậy, sự giáo hóa, tu dưỡng đạo đức
theo Nho giáo Khổng – Mạnh là yếu tố không thể thiếu được và cần thiết nhất
để xây dựng và hoàn thiện đạo đức của con người, để giữ gìn và phát huy cái
bản tính thiện, loại trừ cái tính ác và hành động ác của con người.
1.2.2. Quan niệm của Nho giáo Khổng – Mạnh về vai trò của con người
Ở Nho giáo nói chung và Nho giáo Khổng – Mạnh nói riêng, quan
niệm về bản tính con người là cơ sở, là căn cứ hình thành quan niệm về vai
trò của con người – nội dung chủ yếu, cơ bản nhất trong quan điểm của Nho

giáo cũng như của Nho giáo Khổng – Mạnh về con người. Khi đề cập đến vấn
đề vai trò của con người, Nho giáo Khổng – Mạnh đã đặt con người trong mối
quan hệ với thế giới (trời đất, vạn vật) và với xã hội (con người với con
người, con người với xã hội).
Cũng như nhiều học thuyết khác, Nho giáo Khổng – Mạnh đã nhìn
nhận thế giới, vạn vật như một chỉnh thể thống nhất, trong đó vũ trụ, trời đất,
vạn vật, con người luôn tồn tại trong mối liên hệ, quan hệ tương hỗ với nhau.
Tuy nhiên, từ trong sách Luận ngữ, sách Mạnh tử và trong nhiều công trình
nghiên cứu về Nho giáo đề cập đến vấn đề này đã cho thấy, trong những mối
quan hệ đó, Nho giáo Khổng – Mạnh chủ yếu đề cập đến hai mối quan hệ cơ

25
bản: mối quan hệ giữa con người với trời đất và mối quan hệ giữa con người
với con người và con người với xã hội.
1.2.2.1. Quan niệm về vai trò của con người trong mối quan hệ với
trời đất
Khi luận bàn về vai trò của con người đối với trời đất, vạn vật, Khổng
Tử, Mạnh Tử (cũng như nhiều nhà Nho sau này) cho rằng, con người có thể
sánh ngang với trời đất và cùng với trời đất hóa sinh ra vạn vật. Tuy nhiên, để
đạt được điều đó, con người phải luôn suy nghĩ và hành động đúng với “mệnh
trời”, “đạo trời”, phải thờ trời, kính trời, phải có đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín mà trời phú cho con người. Có nghĩa là, trong tư tưởng Khổng Tử và
Mạnh Tử, vai trò của con người đối với vạn vật chỉ có thể thực hiện và được
thừa nhận là chủ yếu phải dựa vào trời, phục tùng quyền uy tối cao của trời.
Mặc dù coi vũ trụ và vạn vật đều có nguồn gốc từ trời và cùng trời đất là một
thể, nhưng Khổng Tử và Mạnh Tử ít đề cập tới mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên, mà chỉ coi con người là bộ phận cao nhất, đứng lên trên vạn vật.
Qua sách Luận ngữ và sách Mạnh tử cho thấy rõ, với Nho giáo Khổng
– Mạnh, trời là nguồn gốc, có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng đối với con
người. Ở đây cả Khổng Tử và Mạnh Tử đều tiếp tục, cụ thể hai mệnh đề trong

Kinh Thi, Kinh Lễ là: “Vạn vật gốc ở trời” (Kinh Lễ) và “Trời sinh ra người…
thì người phải lấy trời làm gốc” (Kinh Thi). Điều quan trọng hơn, theo các
ông, đó còn là cơ sở xuất phát để định rõ vị trí, vai trò của trời đối với con
người, vai trò cũng như thái độ, nghĩa vụ của con người đối với trời.
Khi bàn về trời và vai trò của trời đối với con người, với xã hội, Khổng
Tử và Mạnh Tử đã cho rằng, vì trời có đức, có đạo, có mệnh, do vậy mà, trời
là chúa tể sinh ra tất cả, thống trị tất cả, quyết định tất cả trong càn khôn, vũ
trụ, con người. Đạo trời (thiên đạo) là sinh ra, nuôi dưỡng vạn vật, con người;
Đức của trời (thiên đức) thể hiện ở sự bao dung mọi đức nhỏ, đức lớn của
muôn vật, muôn loài, muôn người.

×