Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Tư tưởng đạo đức Nho giáo Khổng - Mạnh và vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức con người trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.37 KB, 100 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
……………………………












CAO THỊ NGUYỆT




TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO KHỔNG – MẠNH VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CON NGƯỜI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học







Hà Nội – 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
……………………………



\







CAO THỊ NGUYỆT



TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO KHỔNG – MẠNH VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CON NGƯỜI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60.22.80


Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THANH BÌNH




Hà Nội – 2012

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 7
8. Kết cấu của luận văn 7
NỘI DUNG 8
Chương 1: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA NHO GIÁO KHỔNG -
MẠNH 8
1.1. Khái quát những điều kiện và tiền đề cho sự ra đời tư tưởng đạo
đức Nho giáo Khổng - Mạnh. 8
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc 8

1.1.2. Những tiền đề tư tưởng cho sự ra đời đạo đức Nho giáo 13
1.2. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo
Khổng - Mạnh 14
1.2.1. Quan niệm về vai trò đạo đức của Nho giáo Khổng – Mạnh 15
1.2.2. Quan niệm về một số chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng
đạo đức của Nho giáo Khổng – Mạnh 17
1.2.3. Phương pháp giáo dục đạo đức theo Nho giáo Khổng - Mạnh 37
Chương 2: VAI TRÒ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO
ĐỨC NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG 45

2.1. Thực trạng đạo đức con người Việt Nam dưới tác động của nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay 45
2.1.1. Tác động tích cực của nền kinh tế thị trường đối với đạo đức
của con người Việt Nam 47
2.1.2. Tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đối với đạo đức
của con người Việt Nam 52
2.2. Vai trò và ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức trong Nho giáo Khổng
- Mạnh đối với việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam 56
2.2.1. Vai trò và ảnh hưởng tích cực của tư tưởng đạo đức trong Nho
giáo Khổng – Mạnh đối với việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam
trong nền kinh tế thị trường hiện nay.…………………… 58
2.2.2. Vai trò và ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức trong Nho
giáo Khổng – Mạnh đối với việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam
trong nền kinh tế thị trường hiện nay 64
2.3. Một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực của tư tưởng đạo đức Nho giáo Khổng - Mạnh
trong việc giáo dục đạo đức con người trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay 72

2.3.1. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những mặt tích cực
của tư tưởng đạo đức Nho giáo Khổng - Mạnh đối với việc giáo dục đạo
đức con người Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay 73
2.3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của
tư tưởng đạo đức Nho giáo Khổng - Mạnh đối với việc giáo dục đạo đức
con người Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay 76
KẾT LUẬN 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách đây khoảng 2000 năm, Khổng Tử và các học trò của ông, nhất là
Mạnh Tử đã nhận ra sức mạnh của đạo đức trong việc bình ổn xã hội. Thời
Xuân Thu – Chiến Quốc xã hội Trung Quốc là một xã hội hết sức rối loạn,
vô trật tự, không có kỷ cương, luôn ở trong tình trạng“đất cát nuốt thịt
người”[Dẫn theo 68, 18]. Đây cũng là lúc, nhân luân đảo lộn. Mặc dù thần
dân khuynh gia bại sản nhưng vua chúa chỉ lo việc nới rộng quyền vương và
ăn chơi, hưởng lạc; cha thì tranh vợ của con, “vợ vua nước Vệ dan díu với
đủ loại người từ công tử Triều đến sủng thần Di Tử Hà, từ quan lại phu
Vương Tôn Giả đến thần dân Cừ Bá Ngọc”[Dẫn theo 68, 19]; cảnh con giết
cha, tôi giết vua… khiến cho cương thường điên đảo. Xuất phát từ những
bối cảnh lịch sử cũng như những yêu cầu do lịch sử đặt ra, Khổng Tử và các
học trò của ông đã xây dựng học thuyết “Đạo đức” - học thuyết trình bày
những quan điểm về đạo đức, chính trị - xã hội. Tư tưởng đạo đức của Nho
giáo Khổng - Mạnh có một sức sống hết sức bền bỉ và không ngừng phát
huy tác dụng, góp phần nhất định vào việc bình ổn xã hội trong nhiều thời
kỳ phát triển của xã hội phong kiến Trung Hoa và ảnh hưởng đến nhiều
nước trong khu vực như: Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam…

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội cũng giống như các hình thái ý
thức xã hội khác bị chi phối và phản ánh tồn tại xã hội. Thời kỳ phong kiến ở
nhiều nước Phương Đông là thời mà con người bị trói buộc vào lễ giáo phong
kiến mà nền tảng của nó là tư tưởng đạo đức Nho giáo; thời kỳ xã hội tư bản
chủ nghĩa con người dù đã được giải phóng khỏi lễ giáo phong kiến nhưng lại
trói buộc mình vào giai cấp tư sản, vào quan hệ “trả tiền ngay không tình
nghĩa” thì sang thời kỳ xã hội chủ nghĩa, con người sẽ được làm chủ cuộc đời
mình và “tự do của mỗi người là sự tự do cho tất cả mọi người” như C. Mác
đã chỉ ra.

1

Ở Việt Nam, từ khi tiến hành đổi mới và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát
triển, đời sống của nhân dân được cải thiện nhiều mặt, nhưng cùng với đó là
vấn đề đạo đức dần suy thoái và xuống cấp nghiêm trọng. Hiện tượng vi phạm
đạo đức ở khắp mọi nơi từ thành thị đến nông thôn, có ở trong tất cả các
ngành nghề như kinh doanh, y tế Như trong môi trường sư phạm thì tình
trạng chạy điểm, chạy trường, dạy thêm, mua điểm, mua bằng cấp vẫn diễn ra
tràn lan. Tình trạng vi phạm đạo đức không chỉ diễn ra mọi nơi, mọi lĩnh vực
mà nó diễn ra từng ngày, từng giờ; nào là con giết cha, vợ giết chồng rồi
chồng giết vợ, anh em đánh nhau, con đuổi mẹ ra đường chiếm nhà, bố mẹ
già không được con cái phụng dưỡng phải vào viện dưỡng lão hoặc bị chính
con cái của mình đuổi ra đường; trong kinh doanh thì hiện tượng buôn gian
bán lận, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả…; cùng với các tệ nạn nghiện hút,
cờ bạc, đĩ điếm, trộm cắp, chiếm giết lẫn nhau…; quan chức thì đua nhau ăn
hối lộ, tham nhũng, cửa quyền, lập ô, lập dù… ngày càng phổ biến, đã trở
thành mối lo ngại cho xã hội và cho nhiều người. Nhiều năm trở lại đây, xuất
hiện tâm lý sùng bái đồng tiền, coi đồng tiền là trên hết, có tiền là có tất cả,
“tiền là tiên”, không ít người còn ỷ thế, cậy quyền và cậy tiền không xem ai ra

gì… Có thể nói, chưa bao giờ vấn đề đạo đức đáng báo động như hiện nay và
chúng ta một lần nữa phải nghiên cứu và xem xét một cách thật nghiêm túc và
khoa học để tìm ra những nguyên nhân của tình trạng đạo đức đang dần suy
thoái, xuống cấp và phải tìm ra các giải pháp để khắc phục, loại trừ, nhất là
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Việt Nam xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến với một nền nông nghiệp lạc hậu, những tàn dư của tư tưởng
phong kiến còn hết sức nặng nề. Nho giáo nói chung, đạo đức của Nho giáo
Khổng - Mạnh nói riêng, bên cạnh những mặt tích cực, vẫn chứa đựng những

2
mặt tiêu cực nhất là với sự suy thoái và xuống cấp đạo đức nghiêm trọng do
ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường gây ra. Một lần nữa chúng ta phải
nghiên cứu và xem xét tư tưởng đạo đức Nho giáo Khổng - Mạnh có còn phát
huy vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam trong
nền kinh tế thị trường hay không?
Từ những lý do trên đây, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Tư tưởng đạo đức
Nho giáo Khổng – Mạnh và vai trò của nó trong việc giáo dục đạo đức của
con người trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình.
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nho giáo tồn tại với một thời gian hết sức lâu dài và cũng đã phát huy
tác dụng của nó trong việc giáo dục đạo đức không chỉ ở Trung Quốc mà còn
ở một số nước khác trong đó có Việt Nam.
Với vai trò rất lớn trong việc giáo dục đạo đức, bình ổn xã hội; tư tưởng
của Nho giáo nói chung cũng như tư tưởng đạo đức của Nho giáo Khổng -
Mạnh nói riêng đã có rất nhiều học giả nghiên cứu và đánh giá. Có thể khái
quát những công trình tiêu biểu sau.
- Các công trình nghiên cứu thông qua tác phẩm kinh điển, sách vở của
các nhà Nho và tư tưởng của Nho giáo cũng như tư tưởng đạo đức của Nho

giáo Khổng – Mạnh, như:“Khổng học đăng” của Phan Bội Châu, “Nho giáo”
của Trần Trọng Kim, “Khổng Tử” và tác phẩm “Mạnh Tử” của Nguyễn Hiến
Lê, “Đại cương triết học Trung Quốc” của Nguyễn Hiến Lê (viết chung với
Giản Chi),v.v. Trong những công trình này, các tác giả đã trình bày khá đầy
đủ về tư tưởng đạo đức Nho giáo nói chung, tư tưởng đạo đức của Nho giáo
Khổng - Mạnh nói riêng, trên cơ sở đó các tác giả đánh giá tư tưởng đó nhưng
chủ yếu là trên lập trường ca ngợi, với phương pháp sử dụng chủ yếu là giải
thích văn bản, đôi chỗ chưa có sự phân tích, phê bình xác đáng. Như khi nhận
định về tư tưởng đạo đức Nho giáo, tác giả Đào Duy Anh trong “Khổng giáo

3
phê bình tiểu luận” cho rằng: “Dẫu nó không thích hợp nữa ở đời này mà
công dụng của nó, sự nghiệp của nó, vẫn trọn vẹn trong lịch sử, không ai có
thể chối cãi hay xoá bỏ được nó” [1, 150].
- Các công trình nghiên cứu về Nho giáo và đánh giá ảnh hưởng của nó
trong đời sống xã hội và con người như: “Nho giáo xưa và nay” của Quang
Đạm, Vũ Khiêu với “Nho giáo và đạo đức”, “Nho giáo và sự phát triển ở
Việt Nam” đã chỉ ra những giá trị tích cực cũng như nhiều ảnh hưởng tiêu cực
của Nho giáo nói chung và tư tưởng đạo đức của Nho giáo nói riêng. Và theo
các tác giả này, chúng ta cần phải kế thừa và phát triển những mặt tích cực
của tư tưởng đạo đức Nho giáo và khắc phục những mặt trái của nó nhằm góp
phần xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, các tác giả mới
chỉ tập trung trình bày tư tưởng đạo đức Nho giáo, đánh giá tư tưởng đạo đức
Nho giáo nói chung, tư tưởng đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh nói riêng
chứ chưa đề cập sự tác động của nó trong nền kinh tế thị trường, vì vậy chưa
thể cho chúng ta thấy cần phải kế thừa những gì và lọc bỏ hoặc cải tạo những
gì cho phù hợp với những yêu cầu mà kinh tế thị trường đặt ra, cũng như
trong việc xây dựng đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
- Các công trình nghiên cứu liên quan đến sự tác động của kinh tế thị
trường đến đạo đức, như:“Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị

trường ở nước ta hiện nay” do Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc chủ
biên; “Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” của Trịnh Duy Huy; “Ý thức đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay” của Lê Thị Tuyết Ba. Các công trình này đã
phân tích những biến động trong lĩnh vực đạo đức từ khi chúng ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường, qua đó chỉ ra cơ chế tác động (cả tích cực và tiêu
cực) của kinh tế thị trường đối với đạo đức, xu hướng vận động và biến đổi
của đạo đức trong điều kiện hiện nay. Các tác giả còn tập trung xem xét tác
động của kinh tế thị trường đối với xã hội, chuẩn mực đạo đức hiện nay và

4
thực trạng đạo đức ở nước ta, từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần hạn
chế những tiêu cực của kinh tế thị trường đối với đạo đức. Tuy nhiên, các tác
giả chỉ đưa ra những giải pháp như giáo dục đạo đức, xây dựng hệ thống pháp
luật… mà chưa nghiên cứu cũng như chưa thấy được vai trò của đạo đức Nho
giáo Khổng - Mạnh đối với việc giáo dục đạo đức con người Việt Nam.
Chẳng hạn khi đánh giá tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức, tác giả
Lê Thị Tuyết Ba đã cho rằng: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta có khuynh hướng khẳng định nhân cách độc lập của con
người, khẳng định tinh thần tự giác, tự chủ và tự cường của con người. Cho
nên con người cũng hoàn toàn có khả năng tự thể hiện và thực hiện nhu cầu
đạo đức của mình do ý thức đầy đủ hơn về sự phát triển và tiến bộ.” [5, 107].
Ngoài ra, trong các luận văn và luận án tiến sĩ nghiên cứu tư tưởng đạo
đức Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đến Việt Nam, có thể kể tới luận văn
thạc sĩ triết học của Nguyễn Thị Luận “Phạm trù “Nghĩa” trong Nho giáo sơ
kỳ”, đã trình bày “Nghĩa” trong tư tưởng Khổng - Mạnh và Tuân Tử, nó được
phân tích và luận giải như một phạm trù trong hệ thống các phạm trù đạo đức
của Nho giáo sơ kỳ. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Liên “Vai trò của giá
trị đạo đức truyền thống với xây dựng đạo đức của con người trong nền kinh
tế thị trường” đã chỉ ra một số mặt trái của đạo đức do kinh tế thị trường gây

ra và giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam có vai trò như thế nào trong việc
khắc phục những mặt trái đó, cũng như trong việc giáo dục đạo đức mới.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thanh Mai “Ảnh hưởng của đạo đức của Nho
giáo đối với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” đã
trình bày một cách hệ thống tư tưởng đạo đức Nho giáo nói chung và tư tưởng
đạo đức Nho giáo của Khổng - Mạnh nói riêng, nhưng tác giả luận án chỉ chủ
yếu tập trung khai thác tư tưởng đạo đức của người quân tử, của tầng lớp vua
chúa và xem xét ảnh hưởng của nó đối với những phẩm chất đạo đức của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta.

5
Ngoài những công trình nghiên cứu trên đây, liên quan đến nội dung đề
tài luận văn, còn có rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết được đăng
trong các kỷ yếu hội nghị khoa học, các tạp chí khoa học như: “Việc nghiên
cứu Khổng Tử và Nho giáo ở Trung Quốc trong thập kỷ 80” của Phan Văn
Các (Tạp chí Triết học, số 1, 1991); “Khai thác các giá trị của truyền thống
Nho học phục vụ sự phát triển của đất nước trong điều kiện toàn cầu hoá” của
Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết học, số 4, 2002); “Nho giáo và sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Tài Thư
(Tạp chí Triết học, (số 5), 2002); “Thử bàn về đạo “Hiếu” của Nho gia” của
Lê Văn Quán (Tạp chí Hán Nôm, số 2(57), 2003); “Vấn đề bản chất con
người trong Nho giáo Trung Quốc cổ đại” của Nguyễn Văn Thọ (Tạp chí
Triết học, số 1, 2005), “Hôm nay với Nho giáo”, của Nguyễn Đình Chú (Tạp
chí Hán Nôm, số 1(68), 2005); “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức” của
Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết học, số 7, 2001); “Phải chăng Nho giáo
là động lực phát triển Kinh tế ?” của Hà Thúc Minh (Tạp trí Triết học, số 6,
1996); “Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi của các giá trị khi nước
chuyển sang nền kinh tế thị trường”, của Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết
học, số 1, 1995); “Một số chuẩn mực giá trị ưu trội khi nước ta chuyển sang

nền kinh tế thị trường” của Nguyễn Văn Huyên (Tạp chí Triết học, số 1,
1995); “Một số biểu hiện xung đột giá trị trong lĩnh vực đạo đức của đời sống
xã hội” của Nguyễn Sinh Huy (Tạp chí Triết học, số 1, 1995), v.v
Trên cơ sở tiếp thu và kế thừa những thành quả nghiên cứu từ những
công trình nghiên cứu đã có về tư tưởng đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh
trong Tứ thư cũng như những tài liệu về kinh tế thị trường, đạo đức trong nền
kinh tế thị trường, tác giả luận văn hy vọng có thể bổ sung thêm vào những
thành qủa của những người đi trước để làm rõ thêm vai trò của tư tưởng đạo

6
đức Nho giáo Khổng - Mạnh trong việc giáo dục đạo đức con người trước sự
tác động của kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn là thông qua việc trình bày và phân tích một
cách có hệ thống những tư tưởng đạo đức cơ bản trong Nho giáo Khổng -
Mạnh để làm rõ vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức con người Việt
Nam dưới tác động của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
- Xuất phát từ lý do chọn đề tài, tổng quan tình hình nghiên cứu và mục
đích đặt ra cho đề tài, nhiệm vụ của Luận văn như sau:
+ Trình bày khái quát điều kiện và tiền đề cho sự ra đời tư tưởng đạo đức
của Nho giáo Khổng - Mạnh.
+ Phân tích một số nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo
Khổng - Mạnh(chủ yếu qua sách Luận ngữ và sách Mạnh Tử
+ Thực trạng đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
+ Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị và khắc phục
những hạn chế của tư tưởng đạo đức Nho giáo Khổng - Mạnh đối với việc
giáo dục đạo đức con người Việt Nam do nền kinh tế thị trường đặt ra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là tư tưởng đạo đức trong Nho
giáo Khổng - Mạnh và đời sống đạo đức của con người Việt Nam trong nền

kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn tập trung chủ yếu vào những nội
dung tư tưởng đạo đức của Khổng - Mạnh trong sách Luận ngữ và sách Mạnh
Tử và những biểu hiện về mặt đạo đức nảy sinh dưới tác động của nền kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là những nguyên lý cơ bản của triết học
Mác – Lênin và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xã hội và con

7
người, về giáo dục đạo đức cho con người trong nền kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay.
- Luận văn chủ yếu vận dụng phương pháp biện chứng duy vật biện
chứng của triết học Mác – Lênin. Ngoài ra, luận văn còn kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: Phương pháp phân tích - tổng
hợp, phương pháp logic - lịch sử, phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp
đối chiếu - so sánh, phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp hệ thống cấu
trúc…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn những giá trị và hạn chế trong tư tưởng
đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh và vai trò của nó trong việc xây dựng
đạo đức con người trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ là sự bổ sung cần thiết trong việc
nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung tư tưởng đạo đức của Nho giáo
Khổng - Mạnh và bước đầu chỉ ra vai trò của nó đối với việc xây dựng đạo
đức con người Việt Nam hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy,
nghiên cứu và học tập lịch sử triết học Phương Đông cổ đại nói chung, triết
học Trung Quốc cổ đại và Nho giáo nói riêng, nhất là tư tưởng đạo đức của

Nho giáo Khổng - Mạnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 2 chương và 5 tiết.
Chương I: Tư tưởng đạo đức của Nho giáo Khổng – Mạnh, với 2 tiết
Chương II: Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo Khổng –
Mạnh đối với việc giáo dục đạo đức của con người Việt Nam trong nền kiinh
tế thị trường, với 3 tiết

8
NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH
1.1. Khái quát những điều kiện và tiền đề cho sự ra đời tư tưởng đạo
đức Nho giáo Khổng - Mạnh.
Theo Ph. Ăngghen:“Xét cho cùng mọi học thuyết về đạo đức đã có từ
trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội lúc bấy giờ”[13,
137]. Vì vậy, muốn tìm hiểu nội dung, tính chất tư tưởng đạo đức của Nho
giáo Khổng – Mạnh cần phải tìm hiểu những điều kiện và tiền đề nảy sinh
ra nó.
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc
Về kinh tế
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, nền kinh tế Trung Quốc có sự chuyển
biến, phát triển mạnh mẽ từ thời đại đồ đồng sang đồ sắt với sự ra đời của
nhiều công cụ lao động mới. Nếu ở thời Xuân Thu, công cụ lao động bằng
sắt đã bắt đầu xuất hiện thì đến thời Chiến Quốc, loại công cụ lao động này
đã được sử dụng rộng rãi. Sự thay đổi về công cụ lao động đã dẫn đến
những chuyển biến mạnh mẽ đến các lĩnh vực kinh tế và tất yếu, tác động
đến đời sống chính trị - xã hội.
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc ở Trung Quốc là thời kỳ quá độ từ chế độ
chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Đó là thời kỳ công cụ bằng sắt được

sử dụng ngày một nhiều và việc dùng bò kéo cày thay cho sức kéo của con
người đã trở thành phổ biến; nhiều vùng đất đai tự nhiên biến thành đồng
ruộng để cày cấy. Do vậy, đất đai được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp
được mở rộng, sức lao động được nhân lên, nhiều ngành nghề có liên quan
đến nông nghiệp được ra đời và phát triển. Vào thời kỳ này, chế độ chế độ sở
hữu về ruộng đất ít nhiều thay đổi. Chế độ “tỉnh điền” trước đây không còn
được coi trọng, chế độ cống nạp không còn được thực hiện đầy đủ như cũ;

9
đã xuất hiện kẻ bóc lột mới với tư cách là địa chủ phong kiến và họ ngày
càng có vai trò lớn trong xã hội.
Cùng với việc công cụ bằng sắt được dùng phổ biến, thì quan hệ trao đổi
sản phẩm được mở rộng, thủ công nghiệp và sự phân công lao động trong
ngành thủ công đã đạt tới mức chuyên nghiệp cao và kéo theo nó là các
ngành nghề thủ công nghiệp như nghề luyện sắt, nghề rèn, nghề đúc, nghề
mộc, nghề làm đồ gốm…phát triển. Sự phát triển của nông nghiệp, thủ công
nghiệp tất yếu dẫn đến thương nghiệp phát triển, tiền tệ xuất hiện và xã hội
đã xuất hiện tầng lớp thương nhân giàu có.
Về chính trị - xã hội
Với sự phát triển của kinh tế và sự thay đổi về cơ cấu xã hội đã xuất hiện
trong lòng xã hội những giai cấp, tầng lớp mới cũng như địa vị vai trò mỗi
giai cấp, tầng lớp và quan hệ hết sức phức tạp giữa những giai cấp, tầng lớp
ấy đã làm sự thay đổi quan niệm và cách thức cai trị của một bộ phận địa chủ
cũ, với sự xuật hiện tầng lớp tự do giàu có và có thế lực đã hình thành nên
giai cấp địa chủ mới, những người này không tán thành đường lối, chính sách
của quý tộc chủ nô cũ.
Nếu như trước đây, tất cả đất đai thuộc về quyền sở hữu của nhà vua thì
sang thời Xuân Thu – Chiến Quốc, quyền sử dụng tuyệt đối đó đã bị giai cấp
địa chủ mới tiến công và chiếm dụng. Tình trạng mất đất, mất dân dẫn đến
quý tộc nhà Chu suy yếu về địa vị và vai trò chính trị của mình. Ngôi thiên tử

của nhà Chu chỉ còn là hình thức, các nước chư hầu gây chiến tranh để thôn
tính lẫn nhau: “chư hầu lấn quyền thiên tử, đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết
vua, con giết cha, trật tự xã hội rất là rối loạn”[Dẫn theo 68, 25-26]. Có nghĩa
là, trật tự, kỷ cương từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội theo mô hình và
thể chế nhà Chu bị vi phạm. Vì vậy, thời Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kỳ
suy vi của nhà Chu, mọi quyền lực bị lung lay đến tận gốc, chiến tranh xảy ra
liên miên giữa các nước chư hầu đã làm cho đất nước suy kiệt, đời sống nhân

10
dân đói khổ, cùng quẫn, khắp Trung Quốc rộng lớn diễn ra cảnh đất cát nuốt
thịt người bởi chiến tranh giành đất, thây chất đầy đồng, đánh nhau giành
thành, thây chất đầy thành. Đây cũng là lúc đạo lý, nhân luân đảo lộn. Mặc
cho nhân dân khuynh gia, bại sản, đói khổ, cùng quẫn nhưng vua chúa chỉ lo
việc nới rộng quyền vương, quyền bá và hưởng lạc; cảnh tôi giết vua, con giết
cho không còn là chuyện lạ. Vì vậy, “hoàn cảnh lịch sử thời Xuân Thu –
Chiến Quốc rối ren, loạn lạc, xáo trộn cái cũ với cái mới, cái tụt xuống rồi lại
cái trồi lên” [30, 21] đã thúc đẩy sự ra đời của nhiều tư tưởng, nhiều trường
phái triết học, trong đó có Nho giáo.
Nho giáo ra đời ở Trung Quốc vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc (770-
221 TCN). Đây là thời kỳ suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ để bước sang
chế độ phong kiến sơ kỳ.
Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất là cơ sở cho sự ra đời của các
giai cấp, các tầng lớp mới trong xã hội và những mâu thuẫn giữa các giai cấp
ngày càng gay gắt. Đó là:
Mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc nhà Chu và giai cấp địa chủ mới với
dân (những người nông dân, nông nô - những người này có nhu cầu muốn
được giải phóng khỏi sự áp bức bóc lột của giới quý tộc).
Mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc cũ, bảo thủ muốn duy trì chế độ thống
trị cũ với một bộ phận quý tộc mới muốn thực hiện cải cách để duy trì quyền
lợi và sự thống trị của mình.

Mâu thuẫn giữa quý tộc mới với quý tộc mới nhằm tiêu diệt nhau để
thiết lập quyền thống trị.
Về mặt xã hội:
Mâu thuẫn gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa thiên tử và các nước chư hầu.
Nếu như ở đầu thời Chu (Tây Chu), thiên tử có quyền uy tối cao, mọi việc đều
do “thiên tử xuất” (thiên tử đề xuất), thì đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc,
thiên tử nhà Chu không còn giữ vai trò tối cao như trước, mà giờ đây nền

11
chính trị do các nước làm bá chủ chi phối. Mâu thuẫn gay gắt trong giới quý
tộc đã làm cho xã hội rối ren, trật tự xã hội bị đảo lộn. Người ta cướp bóc
tranh giành nhau về địa vị, quyền lực và đất đai. Khổng Tử, người sáng lập
trường phái Nho gia đã gọi đây là thời kỳ con người sống vô đạo, quân bất
quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử (nhà vua không theo đúng đạo làm
vua, bề tôi không theo đúng đạo làm bề tôi, cha không theo đúng đạo làm cha,
con không theo đúng đạo làm con).
Chiến tranh khốc liệt và kéo dài đã làm cho nhân dân sống trong đau
khổ. Trong xã hội, cảnh nồi da xáo thịt, bề tôi giết vua, con giết cha, anh em
giết nhau đã trở thành hiện tượng phổ biến. Mạnh Tử đã phải thốt lên rằng:
đánh nhau giành đất, thây chất đầy đất; đánh nhau giành thành, thây chất đầy
thành. Đó là thời đại “liệt quốc kiêm tính” (nhiều nước đánh nhau). Theo các
sử gia nhận xét thì thời Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ lịch sử đặc biệt có
một không hai trong lịch sử Trung Quốc. Đây là thời kỳ cái mới và cái cũ đan
xen, xáo trộn. Chính hoàn cảnh lịch sử đặc biệt này đã thúc đẩy sự ra đời của
nhiều tư tưởng, học thuyết.
Trong số các học thuyết đã ra đời ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Nho
giáo là học thuyết chính trị - đạo đức tiêu biểu nhất và có ảnh hưởng lâu dài
nhất ở Trung Quốc cũng như ở nhiều nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên,
Singapo, Inđônêxia. Việt Nam cũng là một trong những nước tiếp nhận Nho
giáo và chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo nói chung và đặc biệt đạo đức

Nho giáo nói riêng.
Người có công sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử (551 - 479 TCN) tên
thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn
Đông, Trung Quốc). Sống trong thời kỳ loạn lạc, được tận mắt chứng kiến
cảnh chiến tranh cướp bóc, Khổng Tử luôn ôm ấp hoài bão chính trị là xây
dựng đất nước thái bình thịnh trị theo khuôn mẫu của vua Nghiêu, vua
Thuấn. Đó là xã hội có đạo đức, có ổn định trật tự. Suốt cuộc đời mình,

12
Khổng tử luôn trăn trở kiếm tìm một phương thuốc hữu hiệu để chữa căn
bệnh của thời đại “lễ hoại, nhạc băng” (lễ bị huỷ hoại, nhạc đã bị mất). Để
thực hiện được mục tiêu này, ông đưa ra đường lối đức trị (dùng đạo đức để
trị nước). Ông cho rằng, phải dùng nhân trị, lễ trị thì xã hội mới “hữu đạo”,
thịnh trị. Khổng Tử đã sưu tầm, chỉnh lý, lựa chọn dân ca và tụng ca nghi lễ
các nước mà soạn thành Kinh Thi; sưu tầm các tư liệu lịch sử, huấn lệnh các
tiên vương mà soạn thành Kinh Thư; sưu tầm tổ chức, chế độ, phong tục,
nghi lễ các nước mà soạn thành Kinh Lễ; soạn Kinh Nhạc (đã thất truyền từ
lâu). Khổng Tử là người có công giải thích Kinh Dịch và chỉnh lý bộ sử
nước Lỗ viết thành Kinh Xuân Thu. Đó là những cống hiến vĩ đại không chỉ
cho Trung Quốc mà cho cả văn hoá nhân loại. Năm bộ sách: Thi, Thư, Dịch,
Lễ, Xuân Thu, gọi chung là Ngũ kinh do Khổng Tử để lại là kinh điển của
Nho giáo.
Khi Khổng Tử mất, học trò ở lại để tang thầy, cùng nhau ôn lại và ghi
chép các lời thầy dạy làm sách Luận Ngữ. Luận Ngữ là tư liệu cơ bản để hiểu
tư tưởng Nho giáo.
Sau khi Khổng Tử mất, học trò Khổng Tử vốn là người ở nhiều nước,
đem tư tưởng của thầy về truyền bá ở nhiều nơi khác nhau. Vì vậy, vài thế kỷ
sau khi Nho gia - học phái tôn sùng Khổng Tử- đã chia ra làm tám phái khác
nhau, trong đó, nổi bật nhất là hai phái: Mạnh Tử và Tuân Tử. Về sau phái
Mạnh Tử được coi là chính truyền nên Nho giáo cũng thường gọi là học

thuyết Khổng - Mạnh. Mạnh Tử (372- 289 trước công nguyên) được tôn là Á
thánh. Khổng Tử hoạt động vào cuối thời Xuân Thu. Mạnh Tử hoạt động vào
giữa thời Chiến Quốc. Xuân Thu- Chiến Quốc là một thời kỳ loạn lạc triền
miên dài đến năm thế kỷ, biểu hiện bằng những cuộc chiến tranh không ngớt
giữa các nước chư hầu nhà Chu để giành đất, giành dân của nhau. Khổng Tử
và Mạnh Tử rất đau xót trước tình trạng đó của đất nước và lập chí tìm đường
cứu đời ra khỏi cảnh loạn ly mà theo hai ông đó chính là đạo đức.

13
1.1.2. Những tiền đề tư tưởng cho sự ra đời đạo đức Nho giáo
Về tôn giáo
Người Trung Quốc cổ đại cho rằng, thiên đạo và nhân sự quan hệ với nhau,
trời là cái công lý tự nhiên lưu hành khắp mọi nơi. Vì vậy, những tư tưởng kính trời,
sợ trời, thờ thượng đế, trời và người hợp nhất rất được đề cao. Bởi kính trời và sợ
trời, nên con người lúc nào cũng kính cẩn, mới đặt ra lễ nghi tôn nghiêm để tế trời
và tế quỷ thần. Trời là chí tôn, chỉ có thiên tử là người chịu mệnh trời mà trị muôn
dân, mới thay muôn dân để tế trời và quỷ thần, còn chư hầu ai ở phương nào thì tế
thần phương ấy, các quan và kẻ sĩ thì tế tổ tiên trong nhà. Tư tưởng kính trời và sợ
trời là một trong những công cụ mà giai cấp thống trị sử dụng để bảo vệ, duy trì địa
vị thống trị của mình. Đây là một tư tưởng mà giai cấp thống trị sử dụng vào mục
đích chính trị hết sức phản động, với cái vỏ bọc là mệnh trời để che dấu bản chất
bóc lột và cai trị của mình.
Về tư tưởng đạo đức:
Chính nhu cầu thực tiễn thời Xuân Thu – Chiến Quốc là mảnh đất hiện thực
hình thành nên những tư tưởng đạo đức Nho giáo nói chung, tư tưởng đạo đức
Khổng – Mạnh nói riêng thì tiền đề tư tưởng lại góp phần làm phong phú, và sâu
sắc hơn cho những tư tưởng đó.
Từ quan niệm trời và người hợp nhất, các bậc tiên vương nhà Chu cho rằng,
do họ có đức nên được sánh cùng thượng đế, được thay thượng đế chăn dắt muôn
dân, cai quản đất đai cho nên các vua đời sau phải biết kính cái đức đó và phải biết

bồi dưỡng cái đức đó để cho việc cai quản muôn dân được lâu dài. Theo họ con
người có đức hiếu là không chỉ thờ thượng đế mà còn phải thờ tổ tiên, phải nhớ
công lao tổ tiên và phải biết giữ gìn những phép tắc mà tổ tiên để lại.
Tư tưởng đạo đức của Nho giáo Khổng – Mạnh ra đời trong hoàn cảnh xã hội
loạn lạc và nhằm đưa xã hội vào trạng thái ổn định, Nho giáo Khổng – Mạnh một
mặt thừa nhận và sử dụng sức mạnh của thần quyền, nhưng mặt khác nó đã khẳng
định vị trí, vai trò của con người trước những biến đổi của lịch sử.

14
Như trên đã trình bày, thời Xuân Thu - Chiến Quốc chiến tranh liên
miên. Khắp Trung Quốc diễn ra cảnh “đất cát nuốt thịt người” bởi “đánh nhau
giành đất, thây chất đầy đất, đánh nhau giành thành, thây chất đầy thành”.
Những cuộc viễn chinh thôn tính lẫn nhau làm các nước nhỏ chông chênh như
“trứng đầu gậy”. Đây cũng là lúc đạo lý, nhân luân đảo lộn. Mặc cho thần dân
khuynh gia bại sản nhưng vua chúa chỉ lo việc nới rộng quyền vương, quyền
bá và hưởng lạc, đời sống nhân dân khổ cực; cảnh con giết cha, tôi giết vua
không còn chuyện lạ.
Chính thời buổi nhiễu nhương tao loạn, cương thường điên đảo ấy, một
vấn đề lớn đặt ra đối với người Trung Quốc nói chung, các nhà tư tưởng nói
riêng là làm sao để đất nước từ loạn trở thành bình yên, cương thường được
khôi phục. Các nhà tư tưởng không thể làm ngơ trước vấn đề mà lịch sử đặt ra
này và trong các nhà tư tưởng đạo đức phải kể đến Khổng Tử và Mạnh Tử.
Cũng giống như các hệ tư tưởng khác, Nho giáo chủ yếu là một học
thuyết chính trị - đạo đức ra đời trên cơ sở của hiện thực xã hội. Chính nhu
cầu thực tiễn của thời đại Xuân Thu - Chiến Quốc là nguyên nhân cơ bản
nhất, trực tiếp nhất cho sự ra đời của đạo đức Nho giáo. Nếu chỉ khẳng định
nguyên nhân tồn tại xã hội là duy nhất cho sự ra đời của Nho giáo thì chưa đủ.
Bản thân học thuyết Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng đã ra
đời còn bởi những nguyên nhân cơ bản khác, đó là nền tảng văn hoá, đạo đức
truyền thống của Trung Quốc.

1.2. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo
Khổng - Mạnh
Khổng Tử là người đã hệ thống hóa tư tưởng của các nho sĩ thời đại
trước và xây dựng thành một học thuyết hoàn chỉnh và nó thể hiện các nội
dung về thế giới quan, về nhân sinh quan, về chính trị xã hội và ông được
coi là người sáng lập ra Nho giáo. Sau khi ông mất, học thuyết của ông được
học trò kế tục và nó đi theo nhiều hướng khác nhau với nhiều môn phái khác

15
nhau. Trong các môn phái phải kể đến phái đạo đức của Tăng Tử ở nước Lỗ
truyền đến thế kỷ thức IV TCN, Mạnh Kha (372 – 289 TCN) tự là Dư, thường
được gọi là Mạnh Tử, là thế hệ học trò thứ tư đã tiếp tục phát triển tư tưởng
đạo đức của Khổng Tử. Sau đó Tuân Tử (298 – 238 TCN) cũng kế thừa tư
tưởng của Khổng Tử nhưng theo hướng khác. Như vậy, ở thời Xuân Thu –
Chiến Quốc, Nho giáo thường được gọi là Nho giáo Khổng – Mạnh. Và từ
sau Mạnh Tử, Nho giáo phát triển có phần gián đoạn và sút kém hơn.
1.2.1. Quan niệm về vai trò đạo đức của Nho giáo Khổng – Mạnh
Đạo đức là vấn đề cơ bản nhất của Nho giáo nói chung, của Nho giáo
Khổng – Mạnh nói riêng cho nên từ Chu Công, Khổng Tử cho đến Nhan
Uyên, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử tất cả đều lấy việc trau dồi, rèn luyện đạo
đức là công việc quan trọng nhất, bởi họ cho rằng: “con người sở dĩ là anh
linh của muôn vật, chúa tể của muôn loài, xét cho cùng, theo Nho giáo là do
con người có đạo đức” [30, 102]. Xuất phát từ bối cảnh xã hội Trung Quốc
thời Xuân Thu – Chiến Quốc loạn lạc, kỷ cương bị xáo trộn; để lập lại trất tự
xã hội, để xã hội từ loạn thành trị, theo quan niệm của Nho giáo Khổng –
Mạnh, xã hội cần phải có đạo đức. Bởi theo Mạnh Tử, nếu “Đời này suy đồi,
đạo mờ tối, những tà thuyết, hành động bạo ngược lại nổi lên. Những chuyên
bề tôi giết vua mà cũng có, con giết cha mà cũng có’[42, 1001]. Hoặc “Nhân
nghĩa bị che lấp, người ta chẳng ngại việc xua thú ăn thịt người, người ta cũng
sắp ăn thịt lẫn nhau đến nơi rồi”[42, 1002]. Vì vậy, đối với con người và xã

hội loài người làm sao đặt ra những đạo lý rõ ràng, đúng đắn, và phải thấy
được tầm quan trọng của đạo đức trong việc điều chỉnh hành vi của con
người, trong việc lập lại kỷ cương, trật tự xã hội nên Khổng Tử từng nói với
học trò của mình rằng: “Sáng nghe đạo, tối chết cũng cam lòng!”[42, 272].
Tuy nhiên, đạo đức không phải tự nó đến với con người mà mỗi người
muốn có đạo đức phải nhờ tu dưỡng và chỉ có tu dưỡng thì con người mới có
đức Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, mới duy trì được tính thiện, diệt được tính ác

16
và xã hội mới thịnh trị. Và chỉ “Noi theo đạo một cách nghiêm chỉnh, đúng
đắn trong cuộc sống, thì có được đức trong sáng, quý báu ở trong tâm” [30,
117]. Chỉ khi xã hội có đạo đức thì mọi người mới yêu thương nhau, kính
trọng nhau, nên Mạnh Tử cho rằng: “Nếu mọi người biết yêu thương người
thân, kính trọng bậc trưởng thượng, thì thiên hạ yên bình”[42, 1036].
Vì vậy, theo quan niệm của Nho giáo Khổng – Mạnh, đạo đức và việc
thi hành đạo đức là phương tiện hữu hiệu nhất để nhà cầm quyền duy trì trật
tự, kỷ cương, ổn định xã hội. Như Mạnh Tử nói: “Ở triều đình không có gì
quý bằng tước vị; chỗ xóm làng không có gì quý bằng tuổi tác; về mặt giúp
đời, giáo hóa dân không có gì quý bằng đạo đức”[42, 880]. Nhà cầm quyền
chỉ có cai trị bằng đạo đức mới thu phục được lòng người, mới giáo hóa được
dân, dân mới yêu quý, cảm phục nhà cầm quyền, mới tránh được làm việc ác
và hiểu rõ lễ nghĩa, cho nên, Khổng Tử cho rằng: “Lấy đức để làm việc chính
trị cũng ví như ngôi sao Bắc thần, ở yên vị mà các ngôi sao khác đều chầu
về”[42, 214]. Bởi, chỉ có cai trị bằng đạo đức mới cảm hoá được lòng người,
mới khiến con người không làm điều ác và hiểu rõ lễ nghĩa. Nhận thấy điều
đó, nên Khổng Tử cho rằng: “dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình pháp
để giữ trật tự, dân tránh khỏi tội nhưng chưa biết hổ thẹn; dùng đức để dẫn
dắt, dùng lễ để giữ trật tự, dân biết hổ thiện mà tiến tới chỗ tốt lành.”[42,
215]. Hay theo Mạnh Tử: “Dùng sức mạnh để chinh phục, người ta chẳng tâm
phục, mà chỉ vì không đủ sức (chống lại) thôi. Dùng đức để chinh phục, người

ta thật lòng vui vẻ, mà thành thật tín phục, như bảy mươi đệ tử kinh phục
Khổng Tử vậy”[42, 852].
Với mục đích giáo hóa , hoàn thiện con người và ổn định xã hội bằng đạo
đức, Nho giáo Khổng – Mạnh đã quá đề cao vai trò của đạo đức đối với việc
lập lại kỷ cương, trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách con người. Chính vì
vậy, học thuyết đạo đức của Nho giáo Khổng – Mạnh không phát huy được

17
tác cũng như ít được nhà cầm quyền sử dụng để lập lại trật tự xã hội Trung
Hoa thời bấy giờ.
1.2.2. Quan niệm về một số chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng
đạo đức của Nho giáo Khổng – Mạnh
Khổng Tử là người đầu tiên nêu lên mối quan hệ giữa cá nhân và cá
nhân, giữa “kỷ” (mình) và “nhân” (người). Sau Khổng Tử, các Nhà nho sơ kỳ
đã xác lập nên một số quan hệ và xem đó là các quan hệ quan trọng làm cho
xã hội ổn định. Đến thời Mạnh Tử, các mối quan hệ ấy đã được ông trình bày
rất rõ. Ông nói: “cha con thì có tinh thần ruột thịt, vua thì có nghĩa, chồng vợ
thì có khác biệt, lớn tuổi và ít tuổi thì có thứ tự, bè bạn thì có điều tín”. Mạnh
Tử gọi năm mối quan hệ đó là ngũ luân - đây được coi là năm mối quan hệ
được xem là tiêu biểu trong các mối quan hệ xã hội lúc bấy giờ. Trong năm
mối quan hệ trên thì ba mối quan hệ: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ được coi
là ba mối quan hệ cơ bản, là quan hệ trụ cột của xã hội, “ba mối quan hệ đó
đến thời Hán được coi là “Tam cương” và trở thành giường mối tiêu biểu cho
chính trị và đạo đức của Phương Đông” [dẫn theo 48, 96]. Và ứng với mối
quan hệ ấy, Nho giáo Khổng – Mạnh lại đưa ra những quy phạm, những
chuẩn mực đạo đức để ràng buộc, cột chặt con người vào những mối quan hệ
ấy, định rõ trách nhiệm giữa con người với con người trong gia đình và ngoài
xã hội, và theo Mạnh Tử: “Điều nhân đối với cha con, điều nghĩa đối với vua
tôi, điều lễ đối với chủ khách, nết trí đối với người hiền”[42, 1357]. Những
quy phạm, những chuẩn mực đạo đức – chính trị ấy gộm chung lại thành đạo

làm người mà theo Mạnh Tử: “Điều nhân là để áp dụng cho con người. Bàn
cho hết lẽ, đó là đạo làm người”[42, 1349].
* Quan niệm về đức Nhân
Nhân là phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong học thuyết đạo
đức Nho giáo Khổng – Mạnh và Nho giáo nói chung. Khi các học trò hỏi
Khổng Tử, thế nào là nhân? thì Khổng Tử tùy từng người, tùy tư cách và học

18
lực của mỗi người để trả lời, chẳng hạn như khi trả lời Nhan Uyên, Khổng Tử
cho nhân là: “Khắc kỷ phục lễ”; Phàn Trì hỏi nhân, Khổng Tử nói: “Ái nhân”
(Đó là người biết yêu người)[42, 493]; Tư Mã Ngưu hỏi về đức nhân, Khổng
tử trả lời: “Người nhân nói năng dè dặt”[42, 474]; Trọng Cung hỏi về điều
nhân, Khổng Tử nói rằng: “Ra khỏi cửa, (nghiêm trang) như lúc tiếp kiến
khách sang trọng, sai khiến dân (cẩn thận) như dự tế lễ lớn. Điều gì mình
không muốn chớ thi hành cho người khác. (Như vậy) trong nước chẳng ai oán
giận, trong nhà cũng không ai oán giận”[42, 473]. Vậy, nói đến nhân là nói
đến hành động của con người phải hợp với thiên lý chí công và phải bỏ hết cái
tư tâm, tư ý, khiến cho đối với mình cũng như đối với người, lúc nào cũng
kính cẩn và nhân ái như vậy. Nên, theo Khổng Tử: người nhân là người “cư
xử phải khiêm cung, làm việc phải kính cẩn, giao thiệp với người phải hết
lòng”[42, 513]. Tuy nhiên, nhân còn có nghĩa khác rộng hơn nữa mà theo
Khổng Tử: “Ôi, người nhân là người muốn gây dựng điều gì cho mình cũng
gây dựng cho mình điều đó, muốn mình thông đạt ra sao cũng khiến mình
thông đạt như vậy”[42, 341] và theo Mạnh Tử: “Người nhân đối với em trai
không chất chứa giận dữ, không giữ mãi oán hờn, chỉ một niềm thương mến
mà thôi. Mến ai, muốn cho người đó được sang trọng, yêu ai muốn cho người
đó được giàu có”[42, 1115]. Hay “Người nhân làm việc khó khăn trước đã,
kết quả thu lượm được tính sau”[42, 334]. Và theo Khổng Tử: “Điều nhân ở
xa ta hay sao? Nếu ta muốn điều nhân, điều nhân đó tự đến với ta”[42, 366].
Vậy nhân là một cái thể yên lặng như núi, tất cả các chuẩn mực đạo đức khác

đều từ nhân mà sinh ra và đều xoanh chuẩn mực đạo đức này. Chẳng hạn,
trong cái thể yên lặng ấy có cái tính sáng suốt, cái sức mạnh mẽ, có điều gì
cũng biết rõ ràng ngay, mà làm điều gì cũng điều hòa và trúng tiết, vậy nhân
và trung là đồng nghĩa. Nhưng nhân rất giàu tình cảm nên nhân còn là ái, là
lòng yêu người, yêu vật; yêu thương tất cả mọi người không phân biệt giàu
sang, nghèo hèn, thứ bậc. Chỉ có xử thế theo nguyên tắc này thì mọi người

19
mới có thể gắn bó được với nhau, với cộng đồng, mới thấy được vai trò của
mình trong cộng đồng. Bởi có lòng nhân nên con người sống với nhau mới có
lòng bác ái, mới coi tất cả mọi người như anh em một nhà. Và lòng yêu mến
đó đều xuất phát một cách tự nhiên, không do dự, không tính toán. Vậy nên,
theo Nho giáo Khổng – Mạnh, người có đức nhân đồng nghĩa với người hoàn
thiện nhất, là người sẵn sàng vui vẻ sống trong bất kỷ hoàn cảnh nào dù vui
vẻ hay túng thiếu, là người sẵn sàng làm chuyện khó khăn để giúp mọi người
mà không bận tâm đến kết quả đạt được, là người tự mình có cái trực giác
sáng láng, làm việc gì cũng hợp với lẽ đạo lý, lòng dạ luôn luôn thanh thản.
Vì vậy, Khổng Tử cho rằng: “người nhân là người muốn gây dựng điều gì cho
mình cũng gây dựng cho người điều đó, muốn mình thông đạt ra sao cũng
khiến người khác thông đạt như vậy”[42, 341]. Còn kẻ bất nhân là kẻ không
chịu được cuộc sống túng quẫn, hay vì tư tâm, tư trí, thành ra làm mờ tối cái
trực giác dẫn đến làm những việc tàn ác, trái với đạo lý. Vì vậy mà theo
Khổng Tử: “Người thiếu lòng nhân không thể chịu cảnh nghèo túng lâu dài,
cũng chẳng thể hưởng lạc thú lâu dài”[42, 266-267] hay những kẻ: “Khéo
mồm khéo miệng, mặt mũi tươi tỉnh, người như thế ít có lòng nhân”[42, 198].
Người có nhân suốt đời tình cảm luôn chân thực, cho nên đã là nhân bao giờ
cũng hiếu đễ và trung thứ; kẻ bất nhân thì đầy những trí thuật, rất khôn khéo,
rất linh lợi và tình cảm đơn bạc, không chân thực. Nên Khổng Tử cho rằng:
“Chỉ có người nhân mới biết yêu người, biết ghét người (một cách chính
đáng)”[42, 267]. Muốn biết được lòng nhân ra sao thì theo Khổng Tử: “Lỗi

của người ta đều thuộc từng hạng xem xét lỗi của một người, biết được lòng
nhân ra sao”[42, 272] và ông còn khuyên: “Hãy thật lòng để chí vào điều
nhân sẽ không phạm phải điều ác”[42, 268]. Vì vậy, nếu lấy tiêu chuẩn của
lòng nhân mà đánh giá, thì ít nhất cũng có hai loại là nhân và bất nhân, và
người nhân có thể vì lòng thương người mà chịu tiếng xấu trong khi đó kẻ bất
nhân phạm lỗi vì tính ích kỷ. Vì vậy, theo Khổng Tử: “Đạo nhân đối với

20
người dân còn cần thiết hơn là nước và lửa”[42, 586]. Theo Mạnh Tử: “Lòng
nhân thắng điều bất nhân cũng như nước thắng lửa vậy”[42, 1234]; và cách
tốt nhất để cảm hóa kẻ bạo tàn, theo Khổng Tử: “Người thiện nhân nối tiếp
nhau ”. Phương pháp tốt để thực hiện điều nhân, theo Khổng Tử là: “Khéo
lấy bản thân làm mục tiêu so sánh (để hiểu lòng người) khá gọi là phương
pháp tốt để thực hiện điều nhân vậy”[42, 341].
Đạo nhân vừa thấp ai cũng với tới được, mà cao thì cao vô cùng, đến
như Nhan Hồi cũng chỉ giữ được ba tháng. Qua đó cho ta thấy, đạo nhân thật
là rộng, người không có chí học đạo nhân thì không theo được, không có
được đức nhân. Học đạo nhân phải quyết chí học cho đến cùng, dẫu chết
cũng không bỏ. Và người đạt nhân, theo Khổng Tử phải là: “người phải có
tính chất phác và ngay thẳng, lại chuộng nghĩa, biết xét lời nói xem sắc mặt,
để suy nghĩ kỹ mà đối xử khiêm nhượng với mọi người. Như vậy trong nước
ai cũng khen là đạt nhân, trong nhà ai cũng khen là đạt nhân”[42, 490].
Nhân là điều trọng yếu như thế, cho nên theo Nho giáo Khổng – Mạnh,
dạy người ta là cốt dạy đức nhân. Và người có lòng nhân, sẵn sàng làm
bất cứ việc gì để giữ đạo nhân, bởi “Lòng nhân nhắm mục tiêu vào con
người, mà thương yêu cha mẹ là lớn hơn cả”[42, 127], “có khi còn quyên
sinh để giữ trọn đạo nhân”[42, 570].
Nhân gắn với lễ. Đối với bản thân mình, người có đức nhân phải là
người phải luôn giữ cho tâm trong sáng, dẹp bỏ tư dục (không nghĩ tới những
ham muốn riêng tư) và lấy lễ để tiết chế, điều chỉnh hành vi con người, cho

nên theo Khổng Tử: “Dẹp bỏ tư dục trở về với lễ là phát huy điều nhân. Một
ngày dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ, (cả thiên hạ chịu cảm hóa) quay về với điều
nhân vậy”[42, 471] hay theo Mạnh Tử: “Người nhân yêu người, người có lễ
kính trọng người. Yêu người thì người ta yêu lại, kính trọng người thì người
ta thường kính trọng lại”[42, 1088]. Có đức nhân con người mới hiểu đúng lễ,
mới có ý thức về việc giữ gìn lễ và hành lễ một cách thực lòng. Và việc hành

×