Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Quan niệm của J.J. Rousseau về giáo dục trong Émile hay là về giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 124 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






TẠ THỊ THÌN









QUAN NIỆM CỦA J.J.ROUSSEAU VỀ GIÁO DỤC
TRONG
“ÉMILE HAY LÀ VỀ GIÁO DỤC”






LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Triết học












Hà Nội - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TẠ THỊ THÌN










QUAN NIỆM CỦA J.J.ROUSSEAU VỀ GIÁO DỤC
TRONG
“ÉMILE HAY LÀ VỀ GIÁO DỤC”




Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học

Mã số: 60 22 80




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Hữu Toàn








Hà Nội - 2010

1
MỤC LỤC


Trang

Mở đầu
3
Chương 1: Tác phẩm “Émile hay là về giáo dục” và những tiền đề cho
sự ra đời quan niệm của J.J.Rousseau về giáo dục
10
1.1. Bối cảnh và những tiền đề lý luận cho sự ra đời quan niệm của
J.J.Rousseau về giáo dục
10
1.1.1. Bối cảnh nước Pháp thế kỷ XVIII
10
1.1.2. Những tiền đề lý luận cho sự đời quan niệm của J.J.Rousseau về
giáo dục
12
1.2. Jean Jacques Rousseau: Cuộc đời và tác phẩm “Émile hay là về
giáo dục”
18
1.2.1. Về cuộc đời và sự nghiệp của J.J.Rousseau
18
1.2.2. Tác phẩm “Émile hay là về giáo dục” - Những phác hoạ cơ bản
24
Chương 2: Một số tư tưởng cơ bản của J.J.Rousseau về giáo dục trong
“Émile hay là về giáo dục”
30
2.1. Giáo dục con người với tư cách một công dân
32
2.1.1. Rousseau bàn về giáo dục trong xã hội đương thời
32
2.1.2. Quan niệm của J.J.Rousseau về mục đích giáo dục con người với
tư cách công dân
34

2.2. Giáo dục là một quá trình
37
2.2.1. Giai đoạn 1 - giáo dục trẻ ở giai đoạn tuổi thơ (từ 0 - 2 tuổi)
38
2.2.2. Giai đoạn 2 - giáo dục trẻ ở thời kỳ “lý trí ngủ” (từ 2 - 12 tuổi)
46
2.2.3. Giai đoạn 3 - giáo dục trẻ ở giai đoạn tuổi ấu niên (từ 12 - 15 tuổi)
56
2.2.4. Giai đoạn 4 - giáo dục trẻ trong giai đoạn tuổi “cập kê” (từ 15 - 20 tuổi)
65
2.2.5. Giai đoạn 5 - giáo dục trẻ trong độ tuổi hôn nhân (từ 20 - 25 tuổi)
83
2.3. Giáo dục đối với phụ nữ
89
2.4. Một số nguyên lý giáo dục khác của J.J.Rousseau trong tác phẩm
“Émile hay là về giáo dục”
102

2
2.4.1. Sự ảnh hưởng của cha mẹ, vú nuôi trong giáo dục trẻ em
102
2.4.2. Người thày-vai trò và nhiệm vụ trong quá trình giáo dục trẻ em
104
2.4.3. Nền giáo dục tốt nhất là nền giáo dục phòng vệ
107
Kết luận
112
1. Giá trị và một số hạn chế trong quan niệm của J.J.Rousseau về giáo dục
112
1.1. Giá trị

112
1.2. Một số hạn chế
113
2. Ý nghĩa của tư tưởng giáo dục J.J.Rousseau đối với nền giáo dục Việt
Nam hiện nay
115
Tài liệu tham khảo
119


















3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục luôn là vấn đề trung tâm của đời sống xã hội, có ảnh hưởng

quyết định tới tương lai của mỗi người và của cả xã hội. Vì lẽ đó, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn khẳng định giáo dục - đào tạo là “quốc sách hàng đầu”.
Bước vào những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, giáo dục đã có những
bước phát triển trên quy mô toàn cầu và đặt ra những vấn đề chưa có tiền lệ
trong lịch sử. Theo dự báo của một số học giả, trong xu thế hội nhập quốc tế
như hiện nay, đến khoảng năm 2020, sẽ có một vài nước trong số những nước
giàu nhất hiện nay có nguy cơ tụt xuống hàng những nước đang phát triển,
ngược lại, một số quốc gia có thể vượt lên hàng những nước phát triển nhất.
Trong cả 2 trường hợp, yếu tố quyết định hàng đầu là giáo dục. Tổ chức
UNESCO cũng đưa ra thông điệp về giáo dục trong thế kỷ XXI với tinh thần:
Học để biết, học để làm, học để làm người và học để chung sống
Theo đó, với chức năng cung ứng lao động cho xã hội, hệ thống giáo dục
- đào tạo phải hiểu rõ xã hội cần loại lao động nào và xây dựng quá trình đào
tạo cho phù hợp. Trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam nói riêng, cũng như
trong xu thế phát triển kinh tế tri thức trên thế giới nói chung, thiết nghĩ,
phương châm giáo dục không còn là cung cấp càng nhiều kiến thức càng tốt,
mà phải là rèn luyện kỹ năng tư duy, kỹ năng thích ứng mau lẹ, rèn luyện
nhân cách để có những con người ở vào hoàn cảnh nào cũng tự mình xoay xở
và vươn lên được, tự khẳng định mình và thúc đẩy xã hội tiến lên. Xã hội hiện
đại không chỉ cần những con người cần mẫn, có đạo đức, làm việc theo kế
hoạch, mà còn rất cần những con người có cá tính, biết giao tiếp và hợp tác,
có tư duy cởi mở với cái mới, thích dấn thân, sẵn sàng mạo hiểm, và nhất là
phải có đầu óc sáng tạo.

4
Nhận thức sâu sắc vấn đề mấu chốt trong sự nghiệp đổi mới giáo dục
phù hợp với thực tiễn, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã
khẳng định: Cốt lõi của vấn đề đổi mới giáo dục là xây dựng nước ta trở thành
một xã hội học tập, lấy tư tưởng học tập suốt đời làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt hệ
thống giáo dục trong xã hội, chuyển từ chủ trương giáo dục cho mọi người

sang chủ trương mọi người đều phải thực hiện việc học tập suốt đời[Xem: 7,
tr. 35].
Đổi mới giáo dục là nhiệm vụ cấp bách nếu chúng ta không muốn bị
thua thiệt khi hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Vấn đề là đổi mới cái gì, và đổi
mới bằng cách nào? Đổi mới không có nghĩa là rũ bỏ tất cả những giá trị lý
luận tư tưởng và thành quả của nền giáo dục trong nước, cũng như trên thế
giới, mà đổi mới phải trên nguyên tắc kế thừa biện chứng, giữ lại những tư
tưởng giáo dục tiến bộ và những thành tựu giáo dục đã đạt được. Nói như vậy
để nhấn mạnh rằng, mặc dù chúng ta đang sống ở thế kỷ XXI, nhưng cách
đây khoảng 3 thế kỷ trở về trước, lịch sử tư tưởng nhân loại đã đạt được
những tư tưởng giáo dục hết sức tiến bộ. Đó chính là thời kỳ của “Triết học
ánh sáng” - “Thế kỷ ánh sáng”, trong đó có triết học Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII. Vào thời kỳ đó, nhiều triết gia đã vượt khỏi những rào cản xã hội và
dũng cảm đưa ra những tư tưởng giáo dục mới mẻ, đi ngược lại với tư tưởng
thống trị đương thời, thậm chí có những tư tưởng cho đến nay vẫn còn nguyên
giá trị và đáng được xã hội hiên đại quan tâm, tìm hiểu. Một trong số các triết
gia có tư tưởng giáo dục nổi bật của phong trào Khai sáng Pháp là Jean
Jacques Rousseau (1712 - 1778).
Nói đến Rousseau, người ta thường liên hệ ngay đến học thuyết chính trị
- xã hội của ông. Nhưng, một phần tinh tuý khác của Rousseau còn ít được
giới thiệu, đó là học thuyết và triết lý của ông về giáo dục, được trình bày
trong tác phẩm Émile hay là về giáo dục (1762). Đây là tác phẩm được chính

5
Rousseau xem là “quyển hay nhất và quan trọng nhất trong mọi trước tác của
tôi”. Nó quan trọng nhất với Rousseau, vì đây là một công trình triết luận đồ
sộ về bản tính con người. Trong Émile hay là về giáo dục, thông qua câu
chuyện giả tưởng về cậu bé Émile được người thày giáo dục từ lúc mới chào
đời cho đến khi lập gia đình, và trở thành “người công dân lý tưởng”,
Rousseau đã phác hoạ một triết lý và phương pháp giáo dục giúp cho con

người tự nhiên có đủ sức khoẻ thể chất và nghị lực tinh thần để đương đầu với
những thử thách trong cuộc đời. Bước ngoặt trong tư duy giáo dục được thể
hiện dày đặc trong từng trang sách thu hút người đọc đến mê hoặc. Ngay cả
với triết gia người Đức - Immanuel Kant, mặc dù nổi tiếng là người có kỷ luật
sinh hoạt hết sức nghiêm ngặt (đến mức người dân quanh nơi ông sống cứ
chờ ông ra khỏi nhà để lên giây cót hoặc chỉnh đồng hồ, bởi vì đúng bốn giờ
chiều mỗi ngày, Kant ra khỏi nhà và đi dạo một mình trên cùng một con
đường), nhưng những kỷ luật đó cũng bị xáo trộn khi I.Kant đọc Émile hay
là về giáo dục.
Mặc dù đã có nhiều cách đánh giá khác nhau về tư tưởng giáo dục của
Rousseau, nhưng cho đến nay, trong số đó, có những tư tưởng đã trở thành
mục tiêu mà nền giáo dục hiện đại hoặc đã thực hiện hoặc đang hướng đến.
Ở Việt Nam, tư tưởng giáo dục của Rousseau chưa được quan tâm
nghiên cứu và đánh giá đúng mức. Vì thế, trong bối cảnh hội nhập quốc tế,
việc nghiên cứu chuyên sâu tư tưởng, quan điểm giáo dục của J.J Rousseau
mang một ý nghĩa quan trọng. Với tất cả những lý do trên, tác giả luận văn
quyết định chọn “Quan niệm của J.J.Rousseau về giáo dục trong Émile
hay là về giáo dục” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sỹ khoa học
chuyên ngành Triết học của mình.



6
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Như trên đã đề cập, từ trước đến nay, khi nói tới Rousseau, người ta chủ
yếu bàn đến tư tưởng triết học chính trị của ông mà ít bàn về một phần cũng
rất tinh tuý trong tư tưởng của ông, đó là tư tưởng và triết lý giáo dục. Vì vậy,
trong thực tiễn, các công trình nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Rouseau còn
rất ít. Trong khi đó, khi bàn về giáo dục, Rousseau đã đưa ra nhiều tư tưởng
hết sức táo bạo so với thời đại của ông và có những tư tưởng vẫn còn đầy sức

sống trong thời đại ngày nay.
Ngay từ năm 1789, tư tưởng sư phạm của Rousseau được phản ánh trong
các đề án cải cách giáo dục quốc dân của Pháp và có ảnh hưởng đến nhiều
nhà tư tưởng - sư phạm sau này, như J.H.Pestalozzi (Ý), A.S.Makarenko
(Nga), J.Dewey (Mỹ)…
Hiện nay, ở Nhật Bản, người ta vẫn bắt buộc tất cả các giáo viên mầm
non phải đọc Émile hay là về giáo dục trước khi bước vào nghề.
Ở Việt Nam, tư tưởng của Rousseau nói chung và tư tưởng giáo dục của
ông nói riêng đã được luận bàn đến cách nay vài chục năm, nhưng các công
trình nghiên cứu còn khá khiêm tốn.
Năm 1958, trong cuốn “Lịch sử giáo dục thế giới”, GS Nguyễn Lân đã
luận bàn và đưa ra những nhận định, đánh giá sâu sắc về tư tưởng giáo dục
của J.J.Rousseau. Theo GS Nguyễn Lân, tư tưởng giáo dục của Rousseau có
nhiều điểm mới lạ và tiến bộ so với thời đại của ông. Tuy nhiên, do những
nguyên nhân khách quan và chủ quan, tư tưởng giáo dục Rousseau tất yếu còn
một số hạn chế. Mặc dù còn thiếu sót, nhưng những kiến giải của Rousseau về
giáo dục cũng đã có ảnh hưởng rất sâu sắc đến các nhà giáo dục trong thời kỳ
Cách mạng tư sản Pháp.
Năm 1963, tác phẩm “Émile hay là về giáo dục” của Rousseau lần đầu
tiên được dịch sang tiếng Việt. Năm 2008, tác phẩm này tiếp tục được 2

7
dịch giả Lê Hồng Sâm, Trần Quốc Dương biên dịch, do nhà xuất bản Tri
thức giới thiệu.
Gần đây, đã có một số bài viết xem xét, phân tích và đánh giá tư tưởng
giáo dục của Rousseau trong Émile hay là về giáo dục.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu nêu trên, đã phần nào phác hoạ
được những quan điểm, tư tưởng giáo dục cơ bản của Rousseau, cũng như đã
đánh giá ưu điểm và một số hạn chế trong tư tưởng của ông về giáo dục. Tuy
nhiên, các tác giả của những công trình đó, hoặc mới chỉ dừng lại ở việc dịch

tác phẩm giáo dục, tư tưởng giáo dục của Rousseau sang tiếng Việt, hoặc mới
chỉ đề cấp đến một, hai quan điểm giáo dục hết sức cơ bản của ông, trong khi
đó còn nhiều tư tưởng giáo dục đặc sắc khác của Rousseau vẫn chưa được
luận bàn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là làm rõ quan niệm của J.J. Rousseau về
giáo dục trong “Émile hay là về giáo dục”, từ đó đánh giá và chỉ ra ý nghĩa
của nó đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung triển khai những nhiệm vụ
sau đây:
- Thứ nhất, phân tích bối cảnh chi phối quan niệm của Rousseau về giáo
dục trong tác phẩm Émile hay là về giáo dục
- Thứ hai, trình bày những tiền đề hình thành quan niệm của Rousseau
về giáo dục trong tác phẩm Émile hay là về giáo dục
- Thứ ba, làm rõ những luận điểm của Rousseau về giáo dục trong Émile
hay là về giáo dục.
- Thứ tư, bước đầu đánh giá quan niệm về giáo dục của J.J.Rousseau

8
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và dựa vào phương pháp luận mácxit trong
nghiên cứu lịch sử triết học.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của phép biện chứng duy vật trong
việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng, trong đó phối hợp giữa các phương pháp:
phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, khái quát hoá nhằm làm

sáng tỏ quan niệm giáo dục của Rousseau trong tác phẩm Émile hay là về
giáo dục một cách lôgíc.
Luận văn nghiên cứu về quan điểm giáo dục của Rousseau trong một tác
phẩm cụ thể - tác phẩm Émile hay là về giáo dục, vì vậy, ngoài các phương
pháp nêu trên, luận văn còn sử dụng phương pháp văn bản học trong quá trình
phân tích, tìm hiểu nội dung tác phẩm.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng giáo dục của J.J.Rousseau.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu là làm rõ quan niệm của J.J. Rousseau về giáo
dục trong Émile hay là về giáo dục, nên luận văn chỉ tập trung vào những tư
tưởng giáo dục của Rousseau trong tác phẩm đó.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm phong phú thêm khối lượng những công trình
nghiên cứu về tư tưởng của Rousseau nói chung và tư tưởng giáo dục của ông
nói riêng.

9
Luận văn có thể được dùng như một tài liệu tham khảo trong việc học
tập và nghiên cứu triết học Khai sáng Pháp, cũng như khi nghiên cứu về tư
tưởng giáo dục của Rousseau.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ quan niệm giáo dục của Rousseau trong
tác phẩm Émile hay là về giáo dục, trên cơ sở đó, giúp người nghiên cứu và
học tập có những đánh giá xác thực hơn về sự tiến bộ và công lao của
Rousseau đối với lịch sử tư tưởng giáo dục nhân loại.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 2 chương, 6 tiết.


















10
NỘI DUNG

Chương 1:
TÁC PHẨM “ÉMILE HAY LÀ VỀ GIÁO DỤC” VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO
SỰ RA ĐỜI QUAN NIỆM CỦA J.J.ROUSSEAU VỀ GIÁO DỤC

1.1. Bối cảnh và những tiền đề lý luận cho sự ra đời quan niệm của J.J.
Rousseau về giáo dục
1.1.1 Bối cảnh nước Pháp thế kỷ XVIII
Tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở Pháp thế kỷ XVIII có
nhiều thay đổi và diễn biến phức tạp:
Về kinh tế, trong khi nước Anh tiến mạnh trên con đường công nghiệp

hoá tư bản chủ nghĩa, thì Pháp vẫn là một nước có nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu. Các phương thức sở hữu và canh tác phong kiến cũ kỹ, công cụ sản
xuất lạc hậu, năng suất lao động đặc biệt thấp, nạn mất mùa xảy ra thường
xuyên. Nhìn chung, ở Pháp, trước cách mạng tư sản, sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản ở nông thôn còn khá yếu. Ở lĩnh vực công nghiệp, có sự phát
triển hơn so với nông nghiệp, nhiều công trường thủ công ra đời, máy móc
được cải tiến, số lượng công nhân tăng lên và có sự chuyên môn hoá cao. Tuy
nhiên, chế độ phong kiến với những đạo luật của nó vẫn giữ địa vị thống trị
trong xã hội.
Về chính trị, vào thế kỷ XVIII, nước Pháp trở thành vũ đài của cuộc đấu
tranh gay gắt giữa chế độ phong kiến đã trở nên lỗi thời và chủ nghĩa tư bản
đang hình thành, phát triển trong lòng nó. Với sự phát triển phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã kịp thời trở thành một lực lượng
kinh tế hùng hậu. Trong khi đó, toàn bộ quyền lực vẫn tiếp tục nằm trong tay
tầng lớp phong kiến thống trị. Phong trào phản phong ngày càng lớn mạnh,

11
nhằm thủ tiêu quan hệ sản xuất phong kiến và thiết lập chế độ xã hội mới tư
bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản đã trở thành lực lượng đại diện cho lợi ích của
những người bị áp bức trong chế độ phong kiến.
Về xã hội, xã hội Pháp thế kỷ XVIII có sự phân chia thành những đẳng
cấp với quyền và nghĩa vụ khác nhau. Do vậy, mâu thuẫn giữa các đẳng cấp
trở nên hết sức gay gắt (tăng lữ, quý tộc, và tất cả những tầng lớp còn lại như:
nông dân, thợ thủ công, bình dân thành thị, công nhân, trí thức, chiếm đa số
trong xã hội, trong đó nổi trội nhất là giai cấp tư sản). Trong thế kỷ XVIII,
giai cấp tư sản Pháp gặp nhiều thuận lợi trên con đường phát triển của nó, tiếp
tục phát triển và leo thang; thế lực chính trị, kinh tế, xã hội của họ ngày càng
tăng lên. Sự phát triển ấy cũng làm cho ý thức giai cấp của họ ngày càng bộc
lộ rõ nét.
Về tư tưởng, lý luận, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Pháp đã sản sinh

ra một số nhà tư tưởng, đại biểu cho giai cấp tư sản đang lên. Đó là những nhà
triết học duy vật Pháp ở thế kỷ XVIII. Đứng trên lập trường duy vật máy móc,
họ đánh giá quá cao ảnh hưởng của hoàn cảnh, cho loài người chỉ là sản phẩm
của hoàn cảnh xung quanh và của giáo dục. Trong giáo dục cũng diễn ra sự
đấu tranh của giai cấp tư sản với quý tộc và tăng lữ. Những học giả của giai
cấp tư sản lên tiếng công kích chủ nghĩa kinh viện, công kích những quan
niệm lỗi thời về văn hoá, giáo dục. Họ đòi cải tổ nền giáo dục và đưa ra
những kiến giải mới mẻ về một hệ thống nhà trường dân chủ. Các triết gia
Khai sáng Pháp đều thống nhất với nhau ở nhiều điểm, như: đề cao tác dụng
của giáo dục, coi trọng thể dục và lao động, yêu cầu nội dung giáo dục sát với
thực tế, và những phương pháp khoa học phù hợp với nhận thức của trẻ em,
chống chủ nghĩa giáo điều, chống kỷ luật roi vọt,.v.v

12
1.1.2. Những tiền đề lý luận cho sự ra đời quan niệm của
J.J.Rousseau về giáo dục
1.1.2.1. Quan niệm của một số nhà triết học trước và cùng thời với
J.J.Rousseau về giáo dục
I.A.Comenxki (1592-1670) – nhà giáo dục vĩ đại người Tiệp Khắc. Về
mọi mặt, Comenxki đã có những cống hiến rất quý báu cho sự nghiệp giáo
dục. Ông thực sự xứng đáng với danh hiệu là thuỷ tổ của nền giáo dục dân
chủ nói chung, trong đó có ảnh hưởng đến quan niệm giáo dục của Rousseau
thời kỳ “Triết học ánh sáng” thế kỷ XVIII. Trước hết, Comenxki rất tin tưởng
vào tác dụng của giáo dục. Chỉ có giáo dục mới làm cho con người ta trở nên
một con người đáng là người. Theo ông, mọi người đều phải học. Ông rất đau
xót trước những thiếu sót, những lệch lạc của nền giáo dục đương thời. Bởi
thế, cần phải cải tổ hoàn toàn nền giáo dục cũ. Theo Comenxki, quá trình giáo
dục ở nhà trường chia ra làm 4 giai đoạn phù hợp với 4 thời kỳ của tuổi học:
trường Mẫu giáo, giáo dục trẻ em trong gia đình cho đến hết 6 tuổi, ở thời kỳ
này cần rèn luyện giác quan của trẻ để chúng nhận thức được thế giới bên

ngoài, tạo điều kiện cho trẻ được phát triển mọi khả năng của chúng; trường
Quốc ngữ dạy trẻ em từ 7 tuổi đến hết 12 tuổi, phải rèn luyện trí tưởng tượng
và ký ức cho trẻ; trường La-tinh dạy học sinh từ 13 tuổi đến hết 18 tuổi, phải
dạy cho thiếu niên ngữ pháp, tu từ học, biện chứng pháp, toán học, thiên văn,
lý luận về âm nhạc, để trau giồi thông minh và óc phán đoán của trẻ; trường
Đại học đón những thanh niên từ 18 tuổi đến 24 tuổi, hun đúc ý chí cho thanh
niên và dạy cho họ triết học, y học, luật học ,dùng phương pháp đi du lịch để
mở rộng tầm mắt của học sinh. Đã từ lâu, trong khắp thế giới, người ta vẫn
gọi ông là “ông tổ của nền sư phạm cận đại”, và dĩ nhiên một trong số các nhà
triết học, nhà giáo dục học của nền sư phạm cận đại không thể không nhắc
đến, đã chịu ảnh hưởng lớn về tư tưởng giáo dục của Comenxki là J.J.
Rousseau.

13
John Locke (1632-1704) – nhà triết học người Anh. Về phương diện
chính trị xã hội, J.Locke là đại biểu của giai cấp tư sản mới lên, bênh vực cho
tự do, nhân quyền, tư hữu tài sản. Ông nhận định rằng loài người trong trạng
thái tự nhiên là tự do và bình đẳng. Về phương diện giáo dục, Locke đã đưa ra
nhiều kiến giải mới mẻ đối với thời đại của ông. Trước hết, ông cũng rất tin
vào tác dụng của giáo dục. Ông phản đối giáo lý của giáo hội, những tư tưởng
thế tập của phong kiến. Với Locke, mục đích của giáo dục là đào tạo những
con người phong nhã, có tài năng, hoạt bát, lanh lợi, lịch thiệp, có những đức
tính của một thương gia tư sản. Cơ sở của giáo dục là hạnh phúc và lợi ích của
mỗi cá nhân. Giáo dục phải đảm bảo cho mỗi người có một thân thể khoẻ
mạnh. Ông muốn trẻ em phải có thói quen chịu đựng gian khổ, mệt nhọc, phải
tập vượt mọi khó khăn, nguy hiểm. Cho nên theo ông, không nên cho trẻ mặc
ấm quá, cần cho các em ăn mặc giản đơn và tránh những quần áo gò bó cơ
thể. Nhi đồng cần sinh hoạt, chơi đùa ở ngoài trời phần lớn thời gian trong
một ngày. Trong giáo dục, ông coi trọng thể dục hơn trí dục. Nhìn chung, so
với nền giáo dục phong kiến, J.Locke đã đem lại một số kiến giải tiến bộ: ông

phủ nhận tư tưởng tiên thiên, coi trọng tác dụng của giáo dục, chú ý đến thể
dục, đến lao động bằng chân tay, lên án kỷ luật roi vọt, đề ra những nguyên
tắc giảng dạy hợp với tâm lý của trẻ em. Mặc dù còn có những hạn chế nhất
định do đứng trên lập trường giai cấp, nhưng ảnh hưởng của John Locke trong
thế kỷ XVIII ở Tây Âu rất rộng lớn đối với các nhà giáo dục, như các nhà duy
vật Pháp và Rousseau[Xem: 14, tr. 74-77].
Helvétius (1715-1771) – nhà triết học duy vật Pháp, cũng phủ nhận quan
niệm tiên thiên, và cho rằng giáo dục là vạn năng, bằng giáo dục, người ta có
thể cải biến tư tưởng con người và nhờ đó cải biến được xã hội. Giáo dục sẽ
đào tạo những con người yêu nước, những người biết kết hợp hạnh phúc cá
nhân với sự phồn vinh của dân tộc. Giáo dục có thể đào tạo cả những nhân tài.

14
Ông kiên quyết đấu tranh chống ảnh hưởng của tôn giáo trong nhà trường, và
cực lực phản đối sự gò bó của chủ nghĩa kinh viện. Helvétius rất coi trọng
tính tích cực và tính tự giác của trẻ em. Tuy còn có nhiều lệch lạc về giáo dục,
song Helvéteus đã có công lớn là can đảm tấn công mạnh mẽ vào thành luỹ
kiên cố của phong kiến và tăng lữ. So với đương thời, những kiến giải của
ông về giáo dục có những tiến bộ nhất định[Xem: 14, tr. 78-80].
Như vậy có thể nhận định rằng, hoà chung với hơi thở của thời đại, trước
sự biến đổi về kinh tế, chính trị, xã hội trong xã hội đương thời, thì tư tưởng
giáo dục của các triết gia phương Tây cũng có những biến đổi rõ nét. Họ đã
cởi trói cho giáo dục thoát khỏi những xiềng xích của chủ nghĩa kinh viện, và
đặt giáo dục trên một cơ sở mới là chủ nghĩa nhân văn. Nếu như nền giáo dục
phong kiến chỉ nhằm đào tạo ra những con người an thân thủ phận, tuân theo
triệt để lãnh chúa, thì ánh sáng của thời kỳ Phục hưng - cận đại đã đề cao giá
trị của con người. Với Rousseau, quan niệm về giáo dục trong Émile hay là về
giáo dục – đó là những kiến giải hoàn toàn mang tính chủ quan của ông, song
những điều đó ít nhiều chịu sự tác động từ những tư tưởng giáo dục của các
tiền bối khi luận bàn về giáo dục. Nói cách khác, Rousseau đã kế thừa một

cách sắc sảo những quan niệm giáo dục của một số triết gia phương Tây cho
quan niệm của ông về giáo dục.
Sẽ là không đầy đủ khi luận bàn về tiền đề tư tưởng, lý luận cho sự ra
đời quan niệm giáo dục của Rousseau mà lại không đề cập đến ảnh hưởng của
tinh thần chung trong toàn bộ phong trào Khai sáng. Tư tưởng Khai sáng
là tư tưởng tiến bộ về ý thức hệ, xuất hiện vào thế kỷ XVII, nhất là thế kỷ
XVIII, chịu ảnh hưởng lớn từ tư tưởng của các triết gia tiền bối như Spinoza,
Pascal, Leibniz, Galileo, Newton, [Xem: 9]. “Ánh sáng” trong Triết học Ánh
sáng là chỉ đến ánh sáng tự nhiên - để phân biệt với ánh sáng siêu nhiên gắn
liền với thần học. Tinh thần chung của triết học Ánh sáng có thể được nhận

15
định qua các đặc điểm sau: 1) Đều chấp nhận ánh sáng tự nhiên, phản đối việc
triết học làm đầy tớ cho thần học. Triết học Ánh sáng là triết học thế tục. 2)
Đều vứt bỏ siêu hình học. 3) Về phương pháp, các nhà triết học Ánh sáng
không còn chấp nhận toán học như là một mô hình duy nhất của khoa học,
quan tâm đến quan sát và kinh nghiệm. 4) Các nhà triết học ánh sáng có quan
niệm khác về con người, trong khi tôn giáo đặt con người ở trên tất cả mọi
loài động vật thì triết học Ánh sáng cho rằng con người cũng có một thể xác
động vật. Từ đó hình thành nên quan niệm con người tự nhiên[Xem: 37].
Với tư cách là một nhà triết học Khai sáng, các tư tưởng của J.J.Rouseau,
trong đó có tư tưởng giáo dục, một mặt là thành tố góp phần làm phong phú,
hoàn thiện hơn hệ thống tư tưởng, lý luận của Triết học Ánh sáng, nhưng mặt
khác, thành tố đó cũng chịu sự tác động ngược trở lại của tinh thần chung
giữa các nhà Khai sáng. Đó giống như mối quan hệ giữa cái đơn nhất và cái
chỉnh thể.
1.1.2.2. Nền tảng nhân học trong triết học giáo dục của chính
J.J.Rousseau
Tác phẩm Émile hay là về giáo dục, được xem như là một công trình
triết luận đồ sộ về bản tính con người. Ở đó, thể hiện khát khao của tác giả về

một mẫu hình con người lý tưởng trong một xã hội tốt đẹp, mà ông gọi là
người công dân lý tưởng. Qua đó có thể nhận định rằng, điểm khởi đầu cho
tư tưởng giáo dục của Rousseau là quan niệm của ông về con người. Và đó
được coi là tiền đề lý luận của chính Rousseau góp phần đưa đến những tư
tưởng giáo dục của ông sau này.
Quan niệm của Rousseau về con người ở trạng thái tự nhiên
Thuật ngữ “tự nhiên” được sử dụng ở đây được hiểu về phương diện
nhận thức luận với tính cách là thiên nhiên, tức là một cái gì đó không hoàn
thiện, một quá trình đang hướng đến sự hoàn thiện. Với Rousseau, trạng thái

16
tự nhiên không phải là khái niệm được khái quát từ lịch sử hiện thực của xã
hội loài người, mà đó chỉ là một giả thuyết thuần tuý, không có sự chứng
minh[Xem: 15].
Theo Rousseau, bản tính của con người tự nhiên là “thiện”, nhưng bị xã
hội giả tạo làm cho đồi bại và biến chất đi. Có nghĩa là, bên trong mỗi con
người hiện đại, vẫn lưu lại dấu vết của một bản ngã thiện hảo thời xa xưa. Khi
con người còn chưa thể sử dụng lý tính, thì con người cũng chưa thể có được
khả năng lạm dụng các năng lực của mình, nên chưa thể làm điều ác. Ở trạng
thái tự nhiên, cái thiện của con người không phải là sự ngoan ngoãn ở phương
diện đạo đức, mà chỉ là sự tuân theo tự nhiên.
Cũng vì ở trạng thái tự nhiên không hề có sự bất bình đẳng xã hội giữa
con người với con người, do đó mỗi con người được tự do khỏi ách thống trị.
Trái với cái nhìn bi quan của Hobbes, con người tự nhiên là những con
người sống cô độc và giản dị, yêu hoà bình, không gia đình hay của cải. Cũng
trái với quan niệm lạc quan của Grotius rằng, họ vốn có đầu óc hợp quần và
hợp lý; Rousseau cho rằng, con người tự nhiên không có ngôn ngữ và chỉ có
những ý tưởng đơn giản dựa trên những cảm giác trực tiếp.
Quan niệm của Rousseau về quyền tự nhiên của con người
Theo Rousseau, con người không phải do Chúa, Thượng Đế sinh ra, mà

con người là sản phẩm của giới tự nhiên và thuộc về giới tự nhiên. Do vậy
bản chất của con người chính là bản chất tự nhiên của nó. Với nguồn gốc và
bản chất tự nhiên, nên con người có những đặc tính bẩm sinh về quyền lợi do
tự nhiên ban tặng. Trong Bàn về khế ước xã hội, Rousseau đã khẳng định, một
trong những quyền tự nhiên của con người là tự do, “người ta sinh ra tự
do”[27, tr. 52]. Nhấn mạnh thêm, Rousseau cho rằng, “Từ bỏ tự do của mình
là từ bỏ phẩm chất con người, từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm
người”[27, tr. 59].

17
Cùng với tự do, bình đẳng cũng là quyền tự nhiên mà con người tất yếu
phải được hưởng như nhau. Theo Rousseau, đã là con người ai cũng có quyền
ngang nhau về mọi phương diện, không ai được bắt người khác phải làm nô lệ
cho mình, ngược lại không ai phải bán mình để làm nô lệ cho kẻ khác vì sự
tồn tại của mình. Tự nhiên không sinh ra ai làm nô lệ cả.
Trong quan niệm về quyền tự nhiên của Rousseau, ngoài 2 loại quyền
trên, con người còn có một số quyền tự nhiên khác: quyền sở hữu tài sản,
quyền hạnh phúc, Song, tác động trực tiếp đến tư tưởng giáo dục Rousseau,
về cơ bản là quan niệm của ông về quyền tự do và bình đẳng của con người.
Chúng ta có thể thấy điều này khi tìm hiểu sâu hơn về học thuyết giáo dục của
Rousseau trong tác phẩm “Émile hay là về giáo dục”.
Quan niệm của Rousseau về bước chuyển của con người từ trạng
thái tự nhiên sang trạng thái xã hội
Theo Rousseau, chính sự phát triển tư duy, nhận thức của con người, và
sự xuất hiện sở hữu tư nhân đã dẫn đến phá vỡ “trạng thái tự nhiên” của xã
hội, dẫn đến sự xuất hiện xã hội công dân. Ông đã đúng khi nhận thấy chính
sự phát triển của sản xuất với việc phát hiện ra nhiều công cụ lao động mới,
hoàn thiện hơn đã dẫn đến sự ra đời của xã hội công dân dựa trên sở hữu tư
nhân. Theo đó, sự ra đời của xã hội công dân là kết quả phát triển tất yếu của
xã hội ở giai đoạn tự nhiên. Bởi vì, chính ở giai đoạn tự nhiên, mầm mống

dẫn đến sự ra đời sở hữu tư nhân được xuất hiện. Việc thiết lập sở hữu tư
nhân tất yếu dẫn đến sự khác nhau trong thu nhập giữa mọi người. Từ đó, xã
hội bắt đầu phân chia thành kẻ giàu, người nghèo, đồng thời nảy sinh ra các
đạo luật xã hội. Nếu ở trạng thái tự nhiên, tất cả mọi người đều bình đẳng và
tự do, thì ở trạng thái xã hội đầy rẫy những bất công và áp bức, các mối quan
hệ xã hội hoàn toàn bị biến chất, đối lập với bản chất tự nhiên của con người
[Xem: 36, tr. 360].

18
Như vậy, sở hữu tư nhân xuất hiện từ khả năng tự hoàn thiện của con
người nhằm phát triển sản xuất, làm cho con người văn minh hơn, đồng thời
lại trở thành mối bất hạnh cho con người, là nhân tố chính tạo bước chuyển
của con người từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái xã hội.
1.2. Jean Jacques Rousseau: Cuộc đời và tác phẩm “Émile hay là về
giáo dục”
1.2.1. Về cuộc đời và sự nghiệp của J.J. Rousseau
J.J Rouseau sinh ngày 28 tháng 6 năm 1712 trong một gia đình thợ thủ
công ở Geneve, thủ đô của Thuỵ Sĩ, trung tâm của đạo Tin lành Canvanh theo
hướng cải cách. Mẹ ông, bà Suzanne Bernard đã mất sớm sau khi sinh ông
được vài ngày. Mồ côi mẹ, nên tuổi thơ của ông sống trong sự chăm sóc, nuôi
nấng của người cha là Issac Rousseau. J.J Rousseau kể lại rằng, trong tuổi
thơ, ông đã được đọc nhiều sách truyện lý thú, ông và bố ông thi nhau đọc
truyện. Trong số những truyện mà Rousseau đã đọc hồi nhỏ, tác phẩm của
Plutarque - kể sự tích các nhân vật lịch sử thời Hy Lạp và La Mã cổ đại, có
ảnh hưởng lớn đến thế giới quan và nhân sinh quan của ông sau này: “Nó cho
tôi một tinh thần tự do và cộng hoà, một tính nết bất khuất và kiêu căng,
không chịu đeo ách và nhận số phận nô lệ”[36, tr. 418].
Ngay từ nhỏ Rousseau đã tỏ ra là người có khát vọng tự do lớn lao. Điều
này một phần do ảnh hưởng từ môi trường sống nơi ông sinh ra. Ở đó không
tồn tại chế độ phong kiến, mà đã sớm hình thành chế độ dân chủ tư sản: các

công dân được đi bỏ phiếu bầu ra người lãnh đạo của mình.
Năm 1722, do xung đột với một thuyền trưởng người Pháp và lo sợ bị
tống giam, ông Issac đã vĩnh viễn rời bỏ Geneve đi kiếm sống ở miền xa.
Rousseau được gửi đến ở nhà người chú ruột. Sau đó J.J Rousseau được gửi
vào ở một trường nội trú và tại đây, theo lời ông kể trong tập hồi ký - Tự
bạch, “chúng tôi học tất cả cái rác rưởi vớ vẩn từng được coi là sự giáo dục”.
Sau 2 năm, ông thôi học ở đây.

19
Năm 1724 – 1728, Rousseau học nghề ở Geneve. Trong những năm
tháng này, mặc dù có cuộc sống không đến nỗi vất vả, lại sống ở Geneve –
nơi mà trong lòng chế độ phong kiến đã có sự xuất hiện của bầu không khí
dân chủ tư sản, nhưng vốn là người có khát vọng tự do từ nhỏ, Rousseau luôn
cảm thấy cuộc sống của mình tù túng, bản thân thì bị bạc đãi, coi khinh. Do
vậy, năm 1728, Rousseau đã tìm cách bỏ nhà, trốn khỏi Geneve khi mới 16
tuổi, bắt đầu cuộc sống lưu lạc, vất vả nay đây mai đó trên con đường kiếm
sống và mưu tìm sự nghiệp ở Pháp và Italia.
Từ năm 1728 – 1741, lúc đầu ông ở Thuỵ Sĩ, sau đó ở Pháp, Italia. Năm
1742, đến Paris - thủ đô của nước Pháp, Rousseau đã trải qua nhiều công việc:
thư ký sở địa chính, chép nhạc thuê, gia sư. Ở đâu, làm nghề gì, ông cũng
luôn gặp khó khăn trong cuộc sống, không hài lòng với công việc và phải
chứng kiến những cảnh bất công, phi lý.
Năm 1742, J.J Rousseau viết tác phẩm đầu tay - Kiến nghị lập bản ký âm
mới cho âm nhạc.
Năm 1743, Rousseau làm thư ký riêng cho De Montaigu - Đại sứ Pháp
tại Vinise. Với công việc này, ông đã có thêm những hiểu biết về chính trị.
Song, với bản tính của một con người phóng khoáng, yêu tự do, ông không
chịu nổi cách đối xử keo kiệt, bủn xỉn và thái độ trịnh thượng của viên đại sứ
này. Do vậy, ông đã xin thôi việc vào năm 1744.
Năm 1745, J.J Rousseau làm quen, rồi sau đó kết hôn (1768) và sống

trọn đời với cô gái nghèo Therese Levasseau - người đã chia sẻ với ông mọi
nỗi đau buồn trong cuộc sống, cùng ông nếm trải mọi đắng cay, gian khổ
cũng như niềm hạnh phúc giản dị[Xem: 33, tr. 155].
Năm 1746, ông làm thư ký riêng cho bà Dupin, giúp bà chép bản thảo
cuốn sách về vấn đề phụ nữ. Cùng với công việc này, ông vẫn làm nghề chép
nhạc thuê để kiếm sống. Trong thời gian này, ông làm quen và kết bạn với

20
D.Diderot (1713-1784), cùng với Diderot và một số nhà tư tưởng khác biên
soạn Từ điển bách khoa toàn thư. Trong đó, ông viết các mục về kinh tế chính
trị và âm nhạc. Đồng thời, ông còn viết một số bài nhằm truyền bá kiến thức
khoa học, nghệ thuật, tuyên truyền tư tưởng tự do, bình đẳng, chống giáo hội
và chế độ quân chủ chuyên chế đương thời
Năm 1749, Rousseau viết luận văn Luận về khoa học và nghệ thuật để
tham dự cuộc thi do Viện hàn lâm khoa học Dijon tổ chức với chủ đề: “Việc
chấn hưng khoa học và nghệ thuật có góp phần làm cho phong tục thuần khiết
hay không”. Luận văn này đã được Viện Hàn lâm trao giải thưởng, và làm
cho Rousseau trở nên nổi tiếng hơn[Xem: 33, tr. 172].
Năm 1753, J.J Rousseau viết luận văn Về nguồn gốc của sự bất bình
đẳng, và tiếp tục tham gia dự thi do Viện Hàn lâm khoa học Dijon tổ chức với
chủ đề “Nguồn gốc của sự bất bình đẳng giữa người và người là gì? Nó có
phù hợp với luật tự nhiên hay không?”. Trong luận văn này, ông đã vạch rõ
nguồn gốc của sự bất bình đẳng trong xã hội là ở chế độ tư hữu tài sản. Với
khẳng định này, Rousseau kịch liệt phản đối chế độ tư hữu tài sản và lên án
mạnh mẽ những kẻ quyền thế đã ra sức biện minh, bênh vực cho sự bất bình
đẳng đó.Với luận văn này, trong những năm 1754-1755, Rousseau đã thực sự
dấn thân vào một cuộc đấu tranh chính trị. Khi luận văn này bị loại khỏi cuộc
thi, ông đã gửi bản thảo sang Hà Lan nhờ nhà xuất bản Michel Ray ấn hành.
Tháng 6 năm 1755, luận văn này đã ra mắt công chúng Hà Lan, ngay lập tức
xuất hiện trong các hiệu sách ở thủ đô Paris. Rousseau lại bị những người

thuộc giới thượng lưu công kích gay gắt. Với tác phẩm Về nguồn gốc bất bình
đẳng, Rousseau thực sự bước vào cuộc đấu tranh chính trị. Trước sự công
kích dữ dội của giới quý tộc thượng lưu Paris, J.J Rousseau đã buộc phải trở
về quê hương Geneve. Tại đây, ông cho tái bản luận văn Về nguồn gốc của sự
bất bình đẳng với lời tựa mới và đề tặng nền cộng hoà Geneve[Xem: 33, tr
206-233].

21
Năm 1756, Rousseau lại rời bỏ Geneve để đến sống ẩn dật ở
Montmorency - một vùng quê hẻo lánh ở phía Bắc Paris, trong một ngôi nhà
nhỏ bỏ hoang của một ẩn sĩ đã quá cố từ lâu.
Tháng 1/1761, Rousseau cho ra mắt công chúng Pháp cuốn July hay
nàng Heloise mới. Trong tiểu thuyết này, thông qua câu chuyện tình éo le,
trắc trở giữa nàng July – con gái một nam tước với chàng gia sư Xanh-Prơ,
ông đã đưa ra quan niệm mới về tình yêu, hết lòng ca ngợi tình yêu chân thật,
ngợi ca những con người dám đấu tranh cho tự do hôn nhân, tự do luyến ái,
đồng thời lên án gay gắt kiểu cưỡng ép hôn nhân của chế độ phong kiến
đương thời. Tiểu thuyết đã được đông đảo công chúng Paris, nhất là các bậc
mệnh phụ và lớp trẻ nồng nhiệt tiếp nhận.
Tháng 4 năm 1762, tác phẩm được coi là quan trọng nhất và có tầm ảnh
hưởng sâu rộng nhất của J.J Rousseau – Bàn về khế ước xã hội đã được nhà
xuất bản Michel Ray ở Hà Lan cho ra mắt độc giả. Tư tưởng chủ đạo trong
Bàn về khế ước xã hội là lý tưởng tự do, bình đẳng, đề cao và hết lòng bênh
vực tự do, bình đẳng. Với tư tưởng đó, Rousseau đã công khai tuyên bố lập
trường chính trị cấp tiến của ông - đấu tranh cho tự do, bình đẳng và dân chủ,
cho nền cộng hoà và chống lại chính thể quân chủ chuyên chế. Cũng chính vì
thế mà ngay sau khi ra mắt công chúng, Bàn về khế ước xã hội của ông đã bị
cấm lưu hành, bản thân ông bị truy nã.
Mặc dù vậy, ngay sau khi Bàn về khế ước xã hội được xuất bản một
tháng, tháng 5 năm 1762, Rousseau tiếp tục cho ra mắt công chúng Pháp cuốn

tiểu thuyết thứ hai của ông – Émile hay là về giáo dục. Trong tiểu thuyết này,
thông qua hư cấu về cách dạy dỗ của gia sư Jean Jacques đối với cậu học trò
Émile, Rousseau đưa ra một quan niệm mới về giáo dục: hãy để trẻ được phát
triển theo quy luật tự nhiên, bố mẹ không nên cưỡng chế con cái theo ý mình.
Tư tưởng bao trùm toàn bộ quan điểm giáo dục của Rousseau là nêu cao tinh

22
thần dân chủ và tự do, hướng sự nghiệp giáo dục vào việc đào tạo ra những
công dân kiểu mới trong một xã hội mới. Chính vì lý do này mà ngay sau khi
ra mắt công chúng Pháp, Émile hay là về giáo dục cũng bị thu hồi và tác giả
của nó càng bị truy nã ráo riết hơn.
Trong bối cảnh đó, giữa tháng 6 năm 1762, ông rời Paris trở về Geneve.
Nhưng tại Geneve – quê hương của ông, chính quyền giáo hội cũng ra lệnh
đốt sách của ông và truy nã ông, khiến ông phải lẩn tránh khắp nơi.
Năm 1765, Rousseau buộc phải đi ẩn náu ở Motier và Neuchatel lãnh địa
Thuỵ Sĩ thuộc quyền vua Phổ. Ở đây, ngôi nhà nhỏ mà gia đình ông sinh sống
đã thường xuyên bị những người dân quá khích trong vùng ném gạch đá theo
sự xúi giục của các giáo sĩ.
Năm 1766, Rousseau được nhà triết học Anh – D.Hume tạo điều kiện
cho cùng đi sang Anh. Nhưng tại Anh, ông vẫn cảm thấy bất ổn. Không thể
sống mãi trong tình cảnh đó, đầu năm 1768, ông trở lại Pháp ẩn náu tại một
vùng gần biên giới Pháp – Italia, cho đến giữa năm 1769 thì trở lại Paris, khi
việc truy lùng ông không còn gay gắt như trước nữa.
Năm 1770, Rousseau thường gặp những người quen thân, đọc cho họ
nghe những đoạn hồi ký “Tự bạch” mà ông vừa viết xong. Năm 1771,
Rousseau viết xong tập Nhận định về chính phủ Ba Lan theo đề nghị của một
nhà quý tộc Ba Lan. Trong đó bàn nhiều đến vấn đề nhà nước, xây dựng kinh
tế quốc dân, bảo đảm bình đẳng, tự do và giáo dục phổ cập tinh thần yêu nước
trong nhân dân.
Trong những năm 1772 – 1773, J.J Rousseau tập trung viết Đối thoại với

tiêu đề Rousseau - người phán xét Jean Jacques nhằm mục đích thanh minh
để công chúng đương thời và đời sau hiểu rõ con người thực của ông, tư
tưởng của ông và tâm địa độc ác của những kẻ từng làm hại ông.

23
Từ năm 1776, Rousseau bắt đầu viết tập ký sự Những điều mơ mộng của
một người lãng du cô đơn để nói lên tâm sự và những suy nghĩ của mình về
tương lai. Tập ký sự này hoàn thành thì cũng là lúc ông trút hơi thở cuối cùng
vào ngày 2 tháng 7 năm 1778.
Thi hài của J.J Rousseau được mai táng tại hòn đảo có tên gọi là Dương
Liễu. Ngày 9 tháng 11 năm 1794 nhân dân Pháp đã rước di hài của ông từ đảo
Dương Liễu vào điện Pantheon – nơi chôn cất các danh nhân đã làm rạng rỡ
nước Pháp. Nhưng rồi 20 năm sau, năm 1814, di hài Rousseau lại bị trục xuất
và tiêu huỷ (cùng với di hài của Voltaire) sau khi triều đình Bourbons được
khôi phục.
Nhìn lại những trang sử cuộc đời và sự nghiệp của J.J Rousseau, có thể
thấy tư tưởng chủ đạo bao trùm toàn bộ hệ thống lý luận, quan điểm của ông
là lý tưởng tự do, bình đẳng. Ngay cả trong giáo dục, tâm thế đó của ông cũng
được thể hiện rõ nét và sắc sảo.
Với tư cách nhà triết học, về phương diện thế giới quan, Rousseau là
người theo thuyết thần luận. Trong lý luận nhận thức, ông đề cao cảm giác
luận. Với tư cách nhà chính trị học, Rousseau mang lập trường cấp tiến. Từ
lập trường cấp tiến - tả khuynh, ông phê phán gay gắt các quan hệ đẳng cấp
phong kiến và chế độ chuyên chế, ủng hộ nền dân chủ tư sản và các quyền tự
do của công dân, tán thành sự bình đẳng của con người bất chấp nguồn gốc
xuất thân, Những tư tưởng này của ông trở thành khẩu hiệu của giai cấp tư
sản Pháp trong cuộc cách mạng (1789-1794). Với tư cách nhà văn, Rousseau
để lại những áng văn tuyệt tác ca ngợi tình yêu chân thật, đấu tranh cho tự do
hôn nhân, tự do luyến ái. Từ tiểu thuyết của ông, một trào lưu văn học lãng
mạn mới xuất hiện. Với tư cách nhà giáo dục học, ông phê phán gay gắt hệ

thống giáo dục theo đẳng cấp của chế độ phong kiến và đề xuất xây dựng một
hệ thống giáo dục mới. Trong đó, Rousseau đã đưa ra những tư tưởng mới mẻ
và táo bạo về giáo dục.

×