Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 83 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


HOÀNG THANH SƠN


Một số quan điểm cơ bản về phát triển con ngƣời


LUẬN VĂN THẠC SĨ



Ngƣời hƣớng dẫn: Hồ Sĩ Quý




Hà nội - 2005











82

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 4
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài 7
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 8
5. Đóng góp của luận văn 8
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn 9
7. Kết cấu của luận văn 9
Chương 1 10
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI 10
1.1. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRƢỚC
MÁC 10
1.2. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN 15
1.3 QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI CỦA CHƢƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN
LIÊN HỢP QUỐC (UNDP) 23
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 38
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ
PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 40
2.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 40
2.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển con ngƣời 40
2.1.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển con người trước thời kỳ đổi mới 40
2.1.1.2. Quan niệm của Đảng ta về phát triển con người trong thời kỳ đổi 44

2.1.2. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của sự phát triển con ngƣời ở nƣớc ta
hiện nay 49
2.1.2.1. Những thành tựu về phát triển con người ở nước ta 50
2.1.2.2. Những hạn chế về phát triển con người ở nước ta 57
2.1.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế về phát triển con người ở nước ta 61
2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 65
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 70




83
KẾT LUẬN 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76






1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Con ngƣời, từ khá sớm trong lịch sử nhận thức cho đến tận hôm nay,
vẫn đƣợc nhiều học thuyết khoa học xã hội coi là chiếm vị trí trung tâm của
sự phát triển. Tất nhiên, trong mỗi thời đại, con ngƣời đƣợc chú ý nghiên cứu
trên các bình diện khác nhau. Đến nay, quan điểm hiện đại về phát triển con
ngƣời đã đƣợc thừa kế, bổ sung bằng nhiều nội dung mới và đƣợc nhiều quốc

gia đề cao và chú trọng thực hiện trong chƣơng trình phát triển kinh tế - xã
hội của mình, nhằm đạt tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.
Thực ra vấn đề phát triển con ngƣời theo xu hƣớng hiện đại đã đƣợc
C.Mác đề cập cô đọng trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản"
(1848). Nhƣng đến cuối thế kỷ XX, việc thừa nhận con ngƣời là nguồn lực vô
tận, là nhân tố quyết định, là mục tiêu tối thƣợng của sự tiến bộ xã hội mới
đƣợc các chuyên gia của Chƣơng trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP)
quán triệt, lƣợng hóa và thiết kế một thƣớc đo chung, nhằm đánh giá trình độ
phát triển con ngƣời ở các quốc gia thuộc Liên hợp quốc.
Trong điều kiện hiện nay, việc nghiên cứu về phát triển con ngƣời đòi
hỏi phải luận giải một cách toàn diện, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch
định đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nƣớc.
Đây là một yêu cầu cấp bách, cơ bản và lâu dài cho chiến lƣợc phát triển con
ngƣời ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề là ở chỗ, mặc dù coi con ngƣời là trung tâm của sự phát triển
kinh tế - xã hội, và do đó, phát triển con ngƣời thƣờng đƣợc nhiều quốc gia
ƣu tiên hàng đầu cho việc hoạch định chính sách kinh tế - xã hội, nhƣng trên
thực tế, không phải quốc gia nào cũng làm đƣợc điều này, kể cả các quốc gia
phát triển có nhiều tiềm lực về kinh tế. Việc phát triển con ngƣời có thực hiện




2
đƣợc hay không, đạt tới mức độ nào, ngoài việc dựa trên sự phát triển về kinh
tế, còn tùy thuộc vào quan điểm, chính sách và chƣơng trình hành động của
từng quốc gia, đặc biệt trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Trong điều
kiện quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ nhƣ hiện nay, hội
nhập là xu thế tất yếu của thế giới đƣơng đại, các quốc gia đang đứng trƣớc
những cơ hội và thách thức lớn đối với sự phát triển của mình. Theo đó, việc

phát triển con ngƣời của các quốc gia cũng đƣợc đặt trƣớc những cơ hội và
thách thức to lớn, đặc biệt là đối với các nƣớc đang phát triển. Toàn cầu hóa
mở ra những cơ hội to lớn cho các nƣớc đẩy nhanh quá trình phát triển kinh
tế, nhƣng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các quá trình xã
hội, chẳng hạn, làm mất công bằng xã hội, tăng nhanh khoảng cách phân hóa
giàu nghèo, mở rộng rủi ro an sinh xã hội, gây ô nhiễm môi trƣờng sống,
đánh mất bản sắc văn hóa truyền thống, v.v
Ở Việt Nam, Ngay sau khi đất nƣớc giành đƣợc độc lập, trong bản
"Tuyên ngôn độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố với thế
giới về quyền đƣợc sống, quyền đƣợc tự do và quyền mƣu cầu hạnh phúc là
những quyền cơ bản và bất khả xâm phạm của mọi ngƣời và mọi dân tộc.
Ngƣời nhấn mạnh, việc phấn đấu không ngừng để thực hiện các quyền của
con ngƣời, đó cũng là mục tiêu phấn đấu, là mục đích tối cao của mọi hành
động của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân Việt Nam.
Sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các quyền của con ngƣời
là sự kết tinh từ những tinh hoa tiến bộ nhân loại và của truyền thống Việt
Nam qua mấy ngàn năm đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc. Phát triển là của
con ngƣời, do con ngƣời và vì con ngƣời - đó là giá trị trƣờng tồn của nhân
loại và cũng là của văn hóa Việt Nam.
Trong tất cả các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng đến sự
nghiệp giải phóng, xây dựng và phát triển con ngƣời Việt Nam. Đặc biệt,
trong 20 năm qua, bằng việc thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện chính




3
sách mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới, đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; công cuộc đổi mới toàn diện đã mở rộng

không gian phát triển đầy triển vọng cho nhân dân Việt Nam, trong đó, các
cơ hội và điều kiện cho việc phát triển toàn diện con ngƣời ngày càng đƣợc
xác lập, bảo đảm và mở rộng. Có thể nói, thành tựu nổi bật nhất của công
cuộc đổi mới ở nƣớc ta trong gần 20 năm qua là thành tựu về phát triển con
ngƣời.
Chúng ta đạt đƣợc những thành tựu đó là nhờ có sự nhận thức một
cách toàn diện về vấn đề phát triển con ngƣời, coi nguồn lực con ngƣời là
"giá trị quý báu nhất" và đóng vai trò quyết định nhất; con ngƣời vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Trong các văn kiện của mình, Đảng ta
luôn chú trọng đến việc đề ra những chính sách nhằm phát huy có hiệu quả cao
nhất nguồn lực con ngƣời. Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Đảng ta khẳng định: "Vì hạnh phúc của con
ngƣời là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân" [10, tr.
13]
(
1
)
. Tại Đại hội VIII, Hội nghị Trung ƣơng lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ƣơng khóa VIII, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh con ngƣời là động
lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, việc phát triển con ngƣời ở nƣớc trong thời kỳ vừa qua,
bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc, cũng còn nhiều hạn chế về cả mặt
nhận thức và hành động. Bối cảnh phát triển con ngƣời ở nƣớc ta trong giai
đoạn hiện nay vừa có những cơ hội mới, vừa đứng trƣớc nhiều thách thức.
Điều đó đòi hỏi phải xem xét một cách toàn diện, để từ đó tìm ra những giải
pháp hiệu quả nhằm phát triển con ngƣời, đảm bảo cho sự phát triển nhanh và
bền vững của đất nƣớc, phù hợp với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa,


1

Từ đây: - Số đầu là số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo.
- Số cuối là số trang của tài liệu tham khảo.




4
hiện đại hóa trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới
hiện nay.
Vì những lý do trên đây, chúng tôi chọn đề tài "Một số quan điểm cơ
bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở
Việt Nam hiện nay" để làm đề tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ triết học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lịch sử, có thể nói, các nhà triết học đã bàn nhiều đến vấn đề
con ngƣời; các nhà triết học đã chú ý đến khía cạnh xã hội cũng nhƣ mục tiêu
của phát triển xã hội, xét cho cùng là phát triển con ngƣời. Tuy nhiên, các
nhà triết học trƣớc C. Mác và kể cả nhiều trƣờng phái triết học hiện đại mặc
dù đề cao con ngƣời, nhƣng vẫn chƣa đặt ra vấn đề phải lƣợng hóa sự phát
triển con ngƣời một cách triệt để trong thực tiễn.
Nhƣ đã biết, vấn đề phát triển con ngƣời đã đƣợc C.Mác đề cập năm
1848 trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản". Ở đây, phát triển con
ngƣời đã đƣợc C.Mác xác định nhƣ là mục tiêu của phát triển xã hội. Khi phê
phán những hạn chế của chủ nghĩa tƣ bản, những mâu thuẫn trong lòng xã
hội tƣ bản, C. Mác khẳng định rằng chỉ có giai cấp công nhân mới có đủ khả
năng lãnh đạo nhân dân tiến hành thành công cuộc cách mạng vô sản, lập nên
chế độ xã hội chủ nghĩa. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xóa bỏ mọi sự áp
bức, bóc lột, bất công, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, văn minh, tạo đầy
đủ những điều kiện cho sự phát triển toàn diện con ngƣời, trong đó, "sự phát
triển tự do của mỗi ngƣời là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi

ngƣời" [24, tr. 628]
Phấn đấu vì sự phát triển của con ngƣời là mục tiêu chung của các
Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền,
cũng nhƣ trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.




5
Vấn đề lƣợng hóa sự phát triển con ngƣời cùng với sự xác định nội
hàm hiện đại của khái niệm "phát triển con ngƣời" (Human development)
đƣợc UNDP (United Nations Development Programme) đƣa ra vào năm
1990 trong báo cáo đầu tiên về phát triển con ngƣời. Ngƣời đề xuất và sử
dụng khái niệm này là Mahbub ul Haq, cũng trong năm này chỉ số HDI
(Human Development Index) đƣợc coi là công cụ hữu hiệu để đo chỉ số phát
triển con ngƣời và cũng từ đây hàng năm "Báo cáo phát triển con người"
(Human Development Report - HDR) của UNDP đƣợc xuất bản để đánh giá
những thành tựu và hạn chế của các quốc gia về phát triển con ngƣời, nghiên
cứu những cơ hội và thách thức cũng nhƣ trao đổi những kinh nghiệm về
phát triển con ngƣời trên phạm vi thế giới vì sự tiến bộ và văn minh của nhân
loại.
Đây là vấn đề khá mới mẻ và đã đƣợc nhiều nhà khoa học Việt Nam
nghiên cứu ở các góc độ khác nhau:
- Một số nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu về phát triển con
ngƣời nhƣng chủ yếu với tính cách là nguồn nhân lực, xem xét vai trò của
con ngƣời, coi con ngƣời là động lực cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa hiện nay. Có thể nêu một số công trình nhƣ: "Nguồn lực con
người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"
(Đoàn Văn Khái, Tạp chí Triết học, số 4 (1995); "Nghiên cứu con người,
phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

khi nền kinh tế tri thức xuất hiện" của Phạm Thành Nghị, "Thực trạng nguồn
nhân lực ở Việt Nam hiện nay" của Phạm Thanh Đức trong cuốn "Nghiên cứu
con người, đối tượng và những phương hướng chủ yếu" (2002) do Phạm
Minh Hạc và Hồ Sĩ Quý chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin về giải phóng con ngƣời, lấy đó làm cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận




6
cho nghiên cứu về sự nghiệp giải phóng và xây dựng và phát triển toàn diện
con ngƣời Việt Nam. Đó là các công trình: "Tư tưởng về sự giải phóng con
người trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" của Trần Hữu Tiến. Trích
trong "Sống mãi với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội (1998), "Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người và
sự nghiệp giải phóng con người", của Bùi Bá Linh, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội (2003)…
- Cũng có một số ngƣời đi vào nghiên cứu các khía cạnh xã hội khác
nhau về phát triển con ngƣời nhƣ về chính sách y tế, giáo dục, chính sách xóa
đói, giảm nghèo… từ đó đề ra những giải pháp cụ thể nhằm phục vụ các yêu
cầu về phát triển con ngƣời mới. Có thể kể ra các công trình nhƣ: "Về phát
triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Phạm
Minh Hạc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2001); "Tính tương thích giữa
phát triển giáo dục và phát triển kinh tế trong phát triển con người ở Việt
Nam" của Đặng Quốc Bảo, trong tạp chí Nghiên cứu con ngƣời, số 2 (2002);
"Nhà nước và sự phát triển con người trong quá trình đổi mới ở Việt Nam"
của Bùi Tất Thắng trong tạp chí Nghiên cứu con ngƣời, số 2, (2002)…
Nhìn chung, các công trình trên đều khẳng định yêu cầu phát triển
con ngƣời và ý nghĩa của việc nhận thức đúng đắn và xây dựng chính sách

phát triển con ngƣời. Song, do yêu cầu của thời đại và của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nƣớc ta hiện nay vì mục tiêu phát triển nhanh và
bền vững, việc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống các quan điểm cơ
bản về phát triển con ngƣời, phân tích thực trạng và luận chứng một số giải
pháp phát triển con ngƣời ở nƣớc ta hiện nay vẫn là một việc làm cần thiết cả
về mặt lý luận, lẫn thực tiễn. Theo hƣớng nghiên cứu này, tác giả luận văn
chọn đề tài "Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng




7
của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu
trên cơ sở kế thừa giá trị của các công trình đi trƣớc.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích: Bƣớc đầu nghiên cứu một số quan điểm cơ bản về hệ vấn
đề phát triển con ngƣời, từ quan điểm của các nhà triết học trƣớc Mác, quan
điểm của C.Mác và của quan điểm UNDP. Trên cơ sở đó, luận văn tìm hiểu
quan điểm của Đảng ta về phát triển con ngƣời, đánh giá thực trạng phát triển
con ngƣời ở nƣớc ta trong thời gian qua và chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản
của những hạn chế, đồng thời, luận chứng một số giải pháp cho phát triển con
ngƣời ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ: Để đạt đƣợc mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết
những vấn đề sau:
- Thứ nhất, luận văn làm rõ quan niệm của một số nhà triết học trƣớc
C.Mác, quan niệm của C.Mác và quan điểm của các nhà triết học hiện đại về
phát triển con ngƣời, đặc biệt là về phát triển con ngƣời của UNDP; phân
tích, làm rõ nội hàm và phƣơng thức nghiên cứu định lƣợng về khái niệm
phát triển con ngƣời của UNDP, theo đó làm rõ các nội dung có liên quan
đến sự phát triển con ngƣời ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.

- Thứ hai, luận văn trình bày sự nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển con ngƣời; phân tích thực trạng phát triển con ngƣời ở Việt
Nam trong những năm gần đây, chỉ ra những thành tựu và hạn chế của thực
trạng này.
- Thứ ba, luận văn cố gắng nêu ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến
những hạn chế trong lĩnh vực phát triển con ngƣời, từ đó luận giải một số
phƣơng hƣớng và giải pháp để phát triển con ngƣời Việt Nam bền vững.




8
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng về phát triển và
tiến bộ xã hội, trong đó có phát triển con ngƣời; đồng thời, dựa vào các
nguyên tắc và hệ tiêu chí đánh giá phát triển con ngƣời của UNDP để phân
tích thực trạng con ngƣời Việt Nam và các vấn đề có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phƣơng pháp của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phƣơng pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê để trình bày các luận điểm
của mình.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn trình bày một cách tƣơng đối có hệ thống những quan
điểm về phát triển con ngƣời trong lịch sử triết học, làm rõ quan điểm của
C.Mác về phát triển con ngƣời, ý nghĩa của quan niệm đó đối với sự nhận
thức về con ngƣời và phát triển con ngƣời trong thời đại ngày nay.
- Luận văn trình bày và làm sáng tỏ hơn quan niệm của UNDP về
phát triển con ngƣời; nội hàm của khái niệm phát triển con ngƣời, các chỉ số,
các yêu cầu, điều kiện và mục tiêu phát triển con ngƣời.

- Luận văn trình bày quan điểm của Đảng về phát triển con ngƣời ở
nƣớc ta. Trên cơ sở quan điểm của Đảng và của UNDP, luận văn đánh giá
thực trạng phát triển con ngƣời ở nƣớc ta hiện nay, phân tích nguyên nhân
của những mặt chƣa làm đƣợc trong phát triển con ngƣời; đồng thời, bƣớc
đầu luận giải một số phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm để phát triển toàn
diện, bền vững con ngƣời Việt Nam hiện nay.




9
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phát triển
con ngƣời, đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, của UNDP và
của Đảng, giúp nhận thức sâu sắc hơn về mục tiêu phát triển con ngƣời của
nhân loại và của Việt Nam hiện nay, thông qua đó thấy đƣợc chƣơng trình và
mục tiêu phấn đấu của Đảng, Nhà nƣớc và của cả dân tộc vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đó là của con ngƣời, do con ngƣời, vì sự giải
phóng và phát triển của chính bản thân con ngƣời.
Luận văn có thể đƣợc dùng làm tài liệu phục vụ việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập về vấn đề con ngƣời. Đồng thời, luận văn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý trong việc đề ra các chính sách
phát triển con ngƣời.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chƣơng, 5 tiết.






10
Chương 1
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI

Con ngƣời là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học và nó
đã đƣợc quan tâm ngay từ thời kỳ sơ khai của loài ngƣời. Đặc biệt, khoa học
triết học đã nghiên cứu con ngƣời ở mức độ khái quát nhất và sớm nhất trong
lịch sử. Tuy nhiên, không phải ngay từ thời cổ đại ngƣời ta đã có quan điểm
đúng đắn về con ngƣời và càng chƣa bàn đến vấn đề phát triển con ngƣời.
Chỉ đến khi nền triết học đã phát triển rất cao, vấn đề phát triển con ngƣời
mới đƣợc đánh giá một cách tƣơng đối hệ thống, đầy đủ. Điều này thể hiện rõ
nét qua lịch sử phát triển của triết học.
1.1. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TRONG LỊCH SỬ TRIẾT
HỌC TRƢỚC MÁC
Khi nghiên cứu vấn đề con ngƣời, triết học phƣơng Đông, điển hình
là triết học Ấn Độ và Trung Quốc cổ - trung đại, cũng mới chỉ đạt đến trình
độ thừa nhận con ngƣời có phần xác và phần hồn. Phần lớn các quan điểm
đều cho rằng, đối với con ngƣời, "phần xác" có thể chết, mất đi, nhƣng "phần
hồn" vẫn tồn tại. Điển hình nhƣ quan điểm của các trƣờng phái chính thống
của triết học Ấn Độ. Sự hình thành và phát triển các tƣ tƣởng về con ngƣời
của triết học Ấn Độ cổ - trung đại gắn với quan niệm tôn giáo. Con ngƣời chỉ
phát triển trong khuôn khổ của sự chi phối của các lực lƣợng thần thánh, siêu
nhiên. Tƣ tƣởng "giải thoát" con ngƣời khỏi những đau khổ trầm luân của
Phật giáo, tuy nhuốm màu sắc tôn giáo, song ít nhiều cũng thể hiện sự quan
tâm đối với vấn đề phát triển con ngƣời. Thành ra, ở giai đoạn này, việc phát
triển con ngƣời đƣợc luận giải theo hƣớng duy tâm, chỉ là sự giải thoát về
mặt "linh hồn" và phát triển là sự giải thoát của linh hồn cá thể khỏi thể xác,





11
trở về với linh hồn tối cao (Kinh Vêda), về thế giới bên kia, hay với cõi Niết
bàn của đức Phật.
Lấy con ngƣời làm trung tâm cho học thuyết của mình, triết học Trung
Quốc cổ - trung đại, với các đại biểu nhƣ Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử… đã
chú ý nghiên cứu số phận của con ngƣời và con đƣờng giải phóng, phát triển
cho con ngƣời. Tuy nhiên, hầu hết các trƣờng phái triết học đều dừng lại ở
chỗ coi đời sống con ngƣời, sự phân chia đẳng cấp, giàu nghèo, sang hèn là
do "thiên mệnh", con ngƣời không nên và không thể thoát khỏi, cƣỡng lại
đƣợc "mệnh trời". Mọi cố gắng của con ngƣời nhằm thoát khỏi sự an bài
trong hiện thực là vô ích.
Bên cạnh các quan điểm duy tâm, tôn giáo về vấn đề con ngƣời và
phát triển con ngƣời, ở Ấn Độ và Trung Quốc cổ - trung đại còn có một số quan
điểm tiến bộ khi nhìn nhận con ngƣời một cách duy vật (Phái Lokayata, phái
Âm dƣơng - Ngũ hành ), coi tính ngƣời là do rèn luyện, do giáo dục mà nên
Trong lịch sử triết học phƣơng Tây trƣớc Mác, vấn đề con ngƣời, bản
chất con ngƣời và việc giải phóng, phát triển con ngƣời cũng đƣợc đặt ra khá
phong phú.
Phần lớn các nhà triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại đều đề cao vai trò
của con ngƣời. Prôtagora đã coi con ngƣời là thƣớc đo của mọi vật đang tồn
tại và lần đầu tiên, ông đƣa ra quan niệm về quyền bình đẳng giữa ngƣời với
ngƣời, khẳng định thƣợng đế tạo ra mọi ngƣời đều là ngƣời tự do, tự nhiên
không ai biến thành nô lệ cả, con ngƣời đƣợc tự do phát triển về mọi mặt.
Arixtốt coi con ngƣời là một động vật chính trị, một sinh vật xã hội đƣợc cố
kết trong một cộng đồng ngƣời, trong một xã hội nhất định, "ông cho rằng, để
con ngƣời phát triển đƣợc thì xã hội có nhiệm vụ bảo đảm công lý cho ngƣời
dân, đảm bảo đời sống vật chất cho mỗi gia đình và ngƣời dân phải có nghĩa
vụ đối với xã hội. Tuy có sự hạn chế về mặt lịch sử và giai cấp, song các nhà





12
triết học Hy Lạp - La Mã đã đƣa ra một số quan điểm tiến bộ về vấn đề con
ngƣời và phát triển con ngƣời. Đó là những cơ sở để các nhà triết học sau này
tiếp tục phát triển.
Dƣới sự thống trị khắc nghiệt của nhà thờ Ki tô giáo, các trƣờng phái
triết học Tây Âu đều bị thần học chi phối, hầu hết các quan điểm chứng minh
sự tồn tại của Thƣợng đế, sự tồn tại của chế độ đẳng cấp là sự tồn tại hợp lý
do sự quy định của Thƣợng đế. Các trào lƣu triết học thời kỳ này đều cho
rằng, con ngƣời là sản phẩm của thƣợng đế và Thƣợng đế có vai trò tối cao
đối với đời sống của con ngƣời. Giăngxicốt Ơrrgiennơ cho rằng, con ngƣời
không có tự do mà sự tự do của con ngƣời chỉ có đƣợc khi trở về "thế giới
bên kia" và chỉ có thƣợng đế là tự do tuyệt đối, còn con ngƣời không có
quyền tự do định đoạt cuộc sống của mình.
Sang thời kỳ Phục hƣng và Cận đại, phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ
nghĩa đƣợc hình thành và phát triển, giá trị văn hóa cổ đại Hy - La đƣợc khôi
phục trên cơ sở của nền kinh tế mới, các giá trị của con ngƣời mà từ lâu bị
chế độ phong kiến chà đạp và bị nhà thờ Thiên Chúa giáo Trung cổ làm lu
mờ, hoặc trở nên huyền bí… đã đƣợc phục hƣng lại theo tinh thần của chủ
nghĩa nhân đạo. Các nhà triết học thời kỳ này (với một số đại biểu nhƣ:
Bêcơn, Hốp xơ, Lốccơ, Đềcáctơ, Rútxô…) đã đấu tranh quyết liệt với những
quan niệm tôn giáo thần bí xoay quanh vấn đề con ngƣời. Triết học thời kỳ
này đã chứng minh sức mạnh vĩ đại của con ngƣời, đề cao vai trò thực tiễn
của con ngƣời, xem con ngƣời là thƣớc đo của mọi vật. Các giá trị văn hóa,
nghệ thuật đƣợc đặc biệt chú trọng. Con ngƣời đƣợc coi là sản phẩm tối cao
và tinh túy nhất trong sự sáng tạo của thƣợng đế; là vũ khí vĩ đại nhất của tạo
hóa, có khả năng sáng tạo ra các sự vật mới phục vụ cho cuộc sống của mình.

Con ngƣời có đủ khả năng tự giải phóng và phát triển bản thân mình khỏi
khuôn khổ chật hẹp của Thiên Chúa giáo, của xã hội trung cổ vốn đè nặng
lên đời sống con ngƣời. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của các quan niệm này




13
là đã không đề ra đƣợc mục tiêu giải phóng, phát triển cá nhân ngƣời lao
động khỏi sự áp bức và bóc lột.
Triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò của con ngƣời. Sự ra đời
của dòng triết học này đã làm cho tƣ tƣởng về con ngƣời và phát triển con
ngƣời có những thay đổi mới về chất. Điều đó đƣợc thể hiện trong cả hai
trƣờng phái triết học duy vật và duy tâm.
Trong triết học Cantơ, con ngƣời đƣợc coi là một thực thể, hơn nữa,
là một thực thể hoạt động, một nhân tố có vị trí đặc biệt trong thế giới. Thực
thể đó đứng giữa, ở vị trí trung tâm của thế giới "vật tự nó" và thế giới "hiện
tƣợng". Sự phát triển con ngƣời, theo Cantơ là sự phát triển để đạt tới "vật tự
nó", con ngƣời đƣợc tự do trong thế giới này, còn trong thế giới của những
"hiện tƣợng" thì tự do của con ngƣời chỉ là tƣơng đối, chỉ là cái thứ yếu
không đáng đƣợc quan tâm. Con ngƣời trong triết học của Cantơ là con ngƣời
suy nghĩ và hành động. Tƣ tƣởng của ông đều xuất phát từ bản thân con
ngƣời và vì sự giải phóng của bản thân con ngƣời. Đây là tƣ tƣởng mang tính
nhân văn, nhân đạo sâu sắc và đặt nền móng cho những quan điểm về con
ngƣời sau này của C.Mác.
Khẳng định con ngƣời là chủ thể, đồng thời là kết quả của quá trình
lao động, Hêghen coi sự phát triển con ngƣời là sự phát triển của tự do, của
tƣ duy nhân loại. Ông cho rằng, sự phát triển của tự do của con ngƣời là
thƣớc đo đánh giá trình độ phát triển của xã hội. Tuy nhiên, do đứng trên lập
trƣờng của chủ nghĩa duy tâm, nên ông đã đi tới quan niệm sai lầm khi cho

rằng sự phát triển đó là quá trình trở về cái "tinh thần tuyệt đối".
Nhà triết học duy vật nhân bản L.Phoi ơ bắc đặc biệt quan tâm đến
vấn đề con ngƣời, coi con ngƣời là trung tâm, cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ hệ
thống triết học của mình. Con ngƣời trong triết học của L.Phoi-ơ-bắc là sản
phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự phát triển của tự nhiên. Giữa con ngƣời




14
và tự nhiên nằm trong một thể thống nhất hữu cơ không thể tách rời. Tuy
nhiên, xét về mặt xã hội, ông chỉ thấy con ngƣời có quan hệ duy nhất là quan
hệ tình yêu; từ đó, ông kêu gọi mọi ngƣời hãy đối xử với nhau bằng quan hệ
tình yêu tôn giáo và trong điều kiện nhƣ vậy, con ngƣời đƣợc tự do phát triển
bằng tình yêu của chính họ. Vì vậy, con ngƣời phát triển là đạt đến mục tiêu
của một tình yêu phổ biến, phi giai cấp, phi lịch sử.
Triết học phi mácxít hiện đại với sự phát triển tuy phong phú nhƣng
đầy tính phức tạp với nhiều trƣờng phái khác nhau nhƣ: chủ nghĩa thực
chứng, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng, hiện tƣợng học, chú giải
học… đã xem xét vấn đề con ngƣời và phát triển con ngƣời ở từng khía cạnh
khác nhau. Triết học hiện sinh đi vào cái tôi cá nhân và con ngƣời phát triển
để trở về với cái tôi đích thực trừu tƣợng của mình; hay triết học nhân bản lại
nhấn mạnh yếu tố bẩm sinh, di truyền, mang tính bản năng và coi đó là sự tồn
tại đích thực, để trở về với cái vô thức… Nói chung, trong triết học phi mác
xít hiện đại, mỗi trƣờng phái đi vào xem xét theo những khía cạnh riêng lẻ,
theo từng "thuộc tính cố hữu" của con ngƣời. Sự phát triển con ngƣời là quá
trình đi tìm đến cái tôi của cá nhân chung chung trừu tƣợng.
Nhƣ vậy, trƣớc khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, vấn đề con ngƣời
và phát triển con ngƣời đã đƣợc các nhà triết học bàn đến. Tùy theo lập
trƣờng triết học của mình, các nhà triết học khác nhau đã xem xét sự phát triển

con ngƣời ở các khía cạnh khác nhau, các nhà triết học duy tâm xem xét sự phát
triển con ngƣời ở khía cạnh tinh thần, đó là sự phát triển của trí tuệ, sự trở về
của "tinh thần tuyệt đối". Ngƣợc lại, các nhà triết học duy vật, mặc dù đề cao
con ngƣời hiện thực, tìm mục tiêu phát triển con ngƣời ở chính thế giới hiện
thực, song cũng chƣa có nhà triết học nào đề ra đƣợc mục tiêu xóa bỏ sự áp
bức, bóc lột trong đời sống của hiện thực của con ngƣời. Ngay cả L.Phoi ơ
bắc, nhà triết học duy vật nhân bản tiến bộ nhất của thời kỳ này cũng không




15
vƣợt qua quan điểm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội nói chung và con
ngƣời nói riêng.
1.2. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC
MÁC-LÊNIN
Lịch sử triết học đã bƣớc sang một trang mới bằng sự ra đời của triết
học Mác-Lênin. Thành quả to lớn của các nhà sáng lập triết học Mác-Lênin
để lại không dừng lại ở chỗ đƣa ra một hệ thống lý luận đúng đắn về bản chất
của thế giới và bản chất con ngƣời, mà còn chỉ ra con đƣờng để phát triển con
ngƣời một cách duy vật và khoa học.
Về bản chất con ngƣời, xuất phát từ việc phê phán những hạn chế của
các quan điểm duy tâm, siêu hình, khi xem xét vấn đề con ngƣời, các nhà
sáng lập triết học Mác - Lênin đã giải quyết vấn đề con ngƣời một cách khoa
học, đúng đắn trên lập trƣờng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, khẳng định
con ngƣời là một thực thể sinh học - xã hội - "Con ngƣời là một thực thể tự
nhiên có tính ngƣời" [27, tr. 234].
Theo quan điểm duy tâm khách quan của Hê-ghen, hoạt động thực tiễn
của con ngƣời chỉ là hình thức tha hóa trong việc thực hiện tính tích cực nội tại
của tinh thần, do vậy, nó không thể là đối tƣợng nghiên cứu trực tiếp và cơ bản

khi xem xét vấn đề con ngƣời. Mặc dù xuất phát từ quan niệm coi con ngƣời
là một thực thể tự nhiên, mang tính vật chất - cảm tính, song L.Phoi-ơ-bắc đã
không thể đi tới bản chất đích thực của con ngƣời, không hiểu đƣợc những
hoạt động xã hội của con ngƣời. Khi tiến hành phê phán quan điểm duy tâm
tƣ biện của Hê-ghen và quan điểm duy vật nhân bản của L.Phoi-ơ-bắc về con
ngƣời, C.Mác đã phát hiện ra và chứng minh rằng, hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới vật chất là hoạt động vốn có của con ngƣời. Và ông đã lấy hoạt động
có tính đặc trƣng này làm đối tƣợng nghiên cứu, làm xuất phát điểm khi
nghiên cứu vấn đề con ngƣời và giải phóng, phát triển con ngƣời.




16
Khác với tất cả các nhà triết học trƣớc đó, khi xây dựng quan niệm
duy vật về lịch sử, vạch ra vai trò quyết định của sản xuất vật chất, xem xét
các quan hệ xã hội từ quan hệ sản xuất, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã tạo ra
bƣớc ngoặt căn bản trong quan niệm về bản chất con ngƣời. Các ông cho
rằng, bản thân cái trừu tƣợng tƣ biện chẳng qua chỉ là sản phẩm, là sự thể
hiện của những điều kiện sản xuất và giao tiếp nhất định nào đó. Từ đó, các
ông đi đến quan niệm: để nghiên cứu bản chất đích thực của con ngƣời, nhận
thức đúng đời sống con ngƣời thì phải nghiên cứu một cách cụ thể đời sống
sinh hoạt hiện thực của con ngƣời, từ hoạt động lao động sản xuất, hoạt động
thực tiễn của con ngƣời và chỉ bằng cách đó mới có đƣợc những tri thức đúng
đắn về con ngƣời hiện thực, về những hoạt động của con ngƣời ấy.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đối lập quan điểm của mình với quan điểm
của các nhà triết học duy tâm, duy vật siêu hình và nhấn mạnh sự mới mẻ
trong cách tiếp cận của mình. Tuy C.Mác và Ph.Ăng ghen vẫn sử dụng các
khái niệm của các nhà triết học tiền bối nhƣng nội dung thì hoàn toàn mới để
luận chứng cho quan điểm duy vật lịch sử. Các ông không đặt vấn đề cấp

bách trong việc xem xét những lập luận trừu tƣợng, tƣ biện về đời sống sinh
hoạt của con ngƣời có nội dung khách quan hay không, mà cho rằng, bản
thân đời sống sinh hoạt của con ngƣời vốn mang tính hiện thực. Hoạt động cơ
bản của con ngƣời là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất của những cá
nhân nắm quyền làm chủ tƣ liệu sản xuất nhất định, hoạt động trong khuôn
khổ của những quan hệ sản xuất và giao tiếp nhất định. Vì vậy, các khái niệm
đó dù có trừu tƣợng, tƣ biện, nhƣng đó là những khái niệm phản ánh hoạt
động, sinh hoạt của hiện thực, phản ánh hoạt động sản xuất của con ngƣời,
nên tất yếu nó cũng mang tính khách quan.
Với C.Mác và Ph.Ăngghen thì hiện thực bao giờ cũng mang tính đặc
thù, nhiệm vụ của nhận thức là đạt tới và phản ánh đúng tính cụ thể, đặc thù




17
đó. Những lập luận trừu trƣợng về con ngƣời, về hoạt động con ngƣời thực
chất chỉ là phƣơng tiện, công cụ để nhằm giải quyết nhiệm vụ đó. Nhƣng để
có đƣợc các lập luận đó một cách đúng đắn thì phải xem xét trong những
trƣờng hợp cụ thể với những quan hệ cấu thành cơ sở hiện thực của chúng. Vì
vậy, khi xem xét con ngƣời phải xuất phát từ chính những con ngƣời với tƣ
cách là những "cá nhân kinh nghiệm", những cá nhân trong đời sống sinh
hoạt trong quan hệ hiện thực của xã hội nhất định.
Trong "Luận cương về L.Phoi-ơ-bắc", C.Mác khẳng định: "Bản chất
con ngƣời không phải là một cái trừu tƣợng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngƣời là tổng hòa những mối quan
hệ xã hội" [23, tr. 11].
Con ngƣời mà C.Mác và Ph.Ăngghen nói tới trong định nghĩa này là
những con ngƣời mang tính lịch sử - cụ thể trong những điều kiện sinh hoạt
hiện thực của nó. Với định nghĩa này, C.Mác khẳng định khi xem xét con

ngƣời phải gắn với hiện thực lịch sử mà con ngƣời tồn tại, xem xét gốc rễ của
con ngƣời từ chính bản thân con ngƣời, từ những quan hệ của họ với xã hội.
Đặc biệt, cần phải xem xét con ngƣời "hiện thực lịch sử" mang tính sinh học
đƣợc xã hội hóa. Xem xét ý thức con ngƣời từ tồn tại xã hội, từ thực tiễn,
trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, bản chất con ngƣời (tri
thức, đạo đức, văn hóa…) đƣợc dần dần hình thành trong quan hệ xã hội nhất
định với tính cách là sản phẩm của những quan hệ hiện thực trong xã hội.
Tuy nhiên, bản chất đó không phải hình thành một cách thụ động với tính
cách là sản phẩm thuần túy của hoàn cảnh, mà cần phải thấy mặt thứ hai -
con ngƣời là chủ thể của hoàn cảnh, giữ vai trò quyết định của sự vận động
của lịch sử. Theo quan điểm của C.Mác "chính con ngƣời làm thay đổi hoàn
cảnh" của mình, "sự phù hợp giữa sự thay đổi của hoàn cảnh với hoạt động




18
của con ngƣời, chỉ có thể đƣợc quan niệm và đƣợc hiểu một cách hợp lý khi
coi đó là thực tiễn cách mạng" [23, tr. 10].
Theo C.Mác, con ngƣời không phải là "cái trừu tƣợng", mà là sản
phẩm của tự nhiên, của xã hội, mang tính lịch sử - cụ thể. Con ngƣời là con
ngƣời hiện thực, con ngƣời cụ thể, cảm tính; bản chất của con ngƣời đƣợc thể
hiện ra, đƣợc tồn tại và phát triển trong lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên,
đấu tranh giai cấp, cải tạo xã hội… Bản chất con ngƣời là do những mối quan
hệ xã hội của chính con ngƣời quy định. Mọi quá trình xã hội đều là quá trình
hoạt động của chính con ngƣời, không có con ngƣời thì không có xã hội và
ngƣợc lại không có xã hội chung chung trừu tƣợng mà thiếu vắng những con
ngƣời hiện thực. Tuy nhiên, xã hội không phải là tập hợp giản đơn những
cộng đồng con ngƣời, bởi trong xã hội, ngoài sự hiện diện của tập hợp ngƣời

còn có những mối liên hệ gắn kết với con ngƣời, cộng đồng ngƣời liên kết
với nhau thành một hệ thống. Trong quan niệm của C.Mác, xã hội không phải
là những cá thể ngƣời, mà biểu hiện tổng số những mối liên hệ và quan hệ
của con ngƣời trong đó những cá thể này tồn tại đối với nhau. Xã hội là sản
phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa ngƣời với ngƣời. Do vậy, quan hệ xã hội
là tổng thể những quan hệ mà con ngƣời đã có, đang có và trong chừng mực
nào đó, nó còn bao hàm cả những quan hệ với tƣơng lai. Bản chất con ngƣời
không phải là bất biến, mà nó luôn vận động, biến đổi cùng với sự biến đổi
của hoàn cảnh sống, của thời đại, gắn liền với phƣơng thức sản xuất của một
chế độ xã hội nhất định.
- Về phát triển con ngƣời, các nhà triết học trƣớc Mác cũng đã bàn
đến, trong đó họ đƣa ra một số luận điểm với mong muốn phát triển con
ngƣời, muốn tìm lại xã hội tốt đẹp kiểu Nghiêu - Thuấn nhƣ trong triết học
Trung Quốc cổ đại hoặc mong muốn có một xã hội tự do và bình đẳng của
công dân nhƣ quan điểm của các nhà triết học Ánh sáng. Nhƣng, phải đến khi




19
chủ nghĩa Mác ra đời, thì vấn đề phát triển con ngƣời mới đƣợc bàn đến nhƣ
là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Xuất phát từ quan điểm duy vật biện
chứng về con ngƣời, coi con ngƣời là tổng hòa các mối quan hệ xã hội và
xem xét mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên và xã hội, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết về phát triển con ngƣời, trong đó giải
phóng con người và xã hội là mục tiêu cơ bản và đầu tiên phải hướng tới.
Năm 1848, trong tác phẩm "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản", C.Mác đã
đƣa ra quan niệm về phát triển con ngƣời, khi bàn đến sự phát triển tự do của
con ngƣời. Với mong muốn giải phóng con ngƣời khỏi mọi áp bức, bóc lột,
tiến tới xây dựng một xã hội mới. Xã hội mới đó chính là "một liên hợp,

trong đó sự phát triển tự do của mỗi ngƣời là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi ngƣời" [24, tr. 628]. Với tƣ tƣởng khoa học và đúng đắn, đầy
tính nhân bản này, C. Mác và Ph.Ăngnghen đã chỉ ra cái đích mà toàn thể
nhân loại cần phải đạt đến trong tƣơng lai là sự phát triển con ngƣời.
Có thể khẳng định rằng, giải phóng, phát triển con ngƣời là mục tiêu
cuối cùng của học thuyết Mác. Trên cơ sở xem xét mối quan hệ giữa con
ngƣời với tự nhiên cũng nhƣ mối quan hệ giữa con ngƣời với xã hội trong
điều kiện xã hội tƣ bản chủ nghĩa, C.Mác chỉ ra rằng, chính điều kiện sản
xuất, điều kiện xã hội của chế độ chiếm hữu tƣ nhân tƣ bản chủ nghĩa về tƣ
liệu sản xuất đã làm cho ngƣời công nhân bị tha hóa. Đó là sự tha hóa làm
mất đi mặt tự nhiên vốn có của con ngƣời cũng nhƣ bản chất xã hội của con
ngƣời, làm cho con ngƣời trở nên xa lạ với những vật phẩm do chính bản
thân mình làm ra, xa lạ với xã hội - môi trƣờng tồn tại của ngƣời công nhân.
Vì vậy, xóa bỏ quan hệ ngƣời áp bức, bóc lột ngƣời, xóa bỏ quan hệ sản xuất
dựa trên chế độ chiếm hữu tƣ nhân tƣ bản chủ nghĩa là điều kiện tất yếu,
trƣớc tiên, là cơ sở để khắc phục mọi sự tha hóa, sự phiến diện, què quặt
trong quá trình giải phóng, phát triển con ngƣời, đƣa con ngƣời trở về với bản




20
chất đích thực của mình, trở thành chủ thể của xã hội, quyết định toàn bộ đời
sống của mình.
Để thực hiện mục tiêu đó, ngƣời công nhân phải vƣơn lên giữ vị trí
tiên phong trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tƣ sản, xóa bỏ chế độ tƣ bản
chủ nghĩa, giành chính quyền về tay mình. Từ đó, xóa bỏ tận gốc mọi sự áp
bức xã hội. Nói cách khác, giai cấp vô sản phải tiến hành cuộc cách mạng vô
sản nhằm giải phóng mình và giải phóng toàn nhân loại, đƣa nhân loại từ
vƣơng quốc tất yếu sang vƣơng quốc tự do. Đó là sứ mệnh cao cả của giai

cấp công nhân trong công cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ của bản thân và của
nhân loại.
Tuy nhiên, để đạt đƣợc mục tiêu ấy, hoàn toàn không phải là việc làm
đơn giản, chốc lát, hay có thể hoàn thành trong "một sớm, một chiều", mà đó
là một quá trình hết sức lâu dài, phức tạp và gay go quyết liệt. Bởi vì quá
trình đó không chỉ là xóa bỏ trật tự của xã hội cũ mà hơn thế, còn là một sự
nghiệp xây dựng xã hội mới, xóa bỏ những tàn tích cũ, xây dựng những nhân
tố xã hội mới từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thƣợng tầng.
Để có thể thực sự giải phóng và phát triển con ngƣời, theo C.Mác, tất
yếu phải xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội tƣ bản chủ nghĩa và thay vào đó
một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, đó là hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Sự thay thế xã hội cũ bằng một xã hội mới, tốt đẹp hơn
chính là nhằm phục vụ con ngƣời, vì sự phát triển tự do, toàn diện của con
ngƣời.
Để con ngƣời đƣợc phát triển toàn diện thì việc xây dựng xã hội mới -
xã hội cộng sản chủ nghĩa - là yêu cầu, là mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong xã hội đó,
con ngƣời mới thực sự tự mình làm ra lịch sử của mình một cách tự giác, con




21
ngƣời mới trở về với bản chất đích thực của mình. Trong xã hội đó, nhƣ
C.Mác khẳng định:
Cuộc đấu tranh để sinh tồn của cá nhân sẽ chấm dứt. Do đó, mà lần
đầu tiên, con ngƣời tách hẳn - theo một ý nghĩa nào đó - khỏi thế giới thú vật,
chuyển từ điều kiện sinh tồn của thú vật sang điều kiện sinh tồn thật sự của
con ngƣời… Tổ chức xã hội của con ngƣời, từ trƣớc tới nay vẫn đối lập với
con ngƣời nhƣ những cái do tự nhiên và lịch sử áp đặt cho con ngƣời thì giờ

đây biến thành hành động tự do của bản thân con ngƣời. Những lực lƣợng
khách quan, xa lạ, từ trƣớc đến nay vẫn thống trị lịch sử, thì sẽ do chính con
ngƣời kiểm soát. Chỉ từ lúc đó, con ngƣời mới bắt đầu tự mình làm ra lịch sử
của chính mình một cách hoàn toàn tự giác [25, tr. 392-393]
Giải phóng xã hội, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, là giải phóng từng cá
nhân riêng biệt trong xã hội, đƣa mỗi ngƣời trở thành ngƣời làm chủ xã hội,
vì "xã hội không thể nào giải phóng mình đƣợc, nếu không giải phóng mỗi cá
nhân riêng biệt" [25, tr. 406], giải phóng cá nhân tạo động lực cho giải phóng
xã hội và đến lƣợt nó, giải phóng xã hội trở thành điều kiện thiết yếu cho giải
phóng cá nhân trong xã hội.
Giải phóng con ngƣời là cơ sở cho sự phát triển tự do của con ngƣời.
Trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, con ngƣời đƣợc giải phóng, đứng ở hàng
đầu của sự phát triển lịch sử, họ vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của bản thân
nền công nghiệp hiện đại; họ trở thành những ngƣời chủ đích thực của xã hội,
có đầy đủ các điều kiện để phát huy năng lực của mình mà không bị hạn chế
bởi lực lƣợng nào cả. C.Mác viết: "Trong xã hội cộng sản… không ai có thể
bị hạn chế trong một phạm vi hoạt động độc chuyên, mà mỗi ngƣời đều có
thể tự hoàn thiện mình trong bất kỳ lĩnh vực nào thích" [23, tr. 47]
Theo C.Mác, trong xã hội cộng sản, khi con ngƣời đƣợc giải phóng,
đƣợc làm chủ, họ sẽ có điều kiện để thực hiện sự nghiệp giáo dục, đào tạo cải




22
tạo chính bản thân họ, xóa bỏ tình trạng nô dịch, áp bức, bóc lột lao động cho
tất cả mọi ngƣời; họ đƣợc hƣởng những thành quả giáo dục toàn diện do
chính họ tổ chức bao gồm: giáo dục trí lực, giáo dục thể lực và giáo dục kỹ
thuật.
Giải phóng con ngƣời là đƣa con ngƣời thoát khỏi mọi sự áp bức,

thống trị giai cấp, dân tộc, tôn giáo… xây dựng mối quan hệ công bằng, bình
đẳng giữa ngƣời với ngƣời, giữa cộng đồng này với cộng đồng xã hội khác.
Nói cách khác, giải phóng con ngƣời là tạo điều kiện cho con ngƣời phát
triển toàn diện cả về khía cạnh cá nhân, cả về khía cạnh xã hội.
Nhƣ vậy, có thể nói, tƣ tƣởng cốt lõi trong toàn bộ học thuyết về con
ngƣời của C.Mác là tƣ tƣởng về giải phóng, phát triển con ngƣời. Theo
C.Mác và Ph.Ăngghen, khắc phục, xóa bỏ sự tha hóa của con ngƣời trong xã
hội tƣ bản là điều kiện cho giải phóng con ngƣời; muốn giải phóng con ngƣời
thì phải xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội tƣ bản chủ nghĩa và thay bằng hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ trong điều kiện đó, con ngƣời
mới trở về với bản chất đích thực của mình, mới có đầy đủ các điều kiện để
phát triển toàn diện. Đến lƣợc nó, khi con ngƣời trở thành chủ thể xã hội, sự
phát triển xã hội lại do chính con ngƣời thực hiện. Do đó, phát triển xã hội là
cơ sở của phát triển con ngƣời, phát triển con ngƣời là động lực của phát triển
xã hội và của chính bản thân con ngƣời.
Mặc dù không phân tích một cách chi tiết hay không có một tác phẩm
riêng nào về phát triển con ngƣời, nhƣng những tƣ tƣởng về giải phóng, phát
triển con ngƣời, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta cơ
sở phƣơng pháp luận trong việc xem xét, đánh giá các quan điểm hiện đại về
phát triển con ngƣời cũng nhƣ xem xét, đánh giá các vấn đề thực tiễn của
phát triển con ngƣời, của tiến bộ xã hội của nhân loại trong giai đoạn hiện
nay.

×