Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Vấn đề khai thác nguồn lực tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TRẦN DANH NAM





ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN Y TẾ (1986-2005)

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60.22.56

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HỒ KHANG











HÀ NỘI – 2008

MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: VAI TRÕ CỦA NGUỒN LỰC TỰ NHIÊN VÀ VẤN ĐỀ
KHAI THÁC NÓ MỘT CÁCH HỢP LÝ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

9
1.1. Khái niệm nguồn lực tự nhiên và vai trò của nó trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
9
1.1.1. Khái niệm nguồn lực tự nhiên
9
1.1.2. Vai trò của nguồn lực tự nhiên đối với sự phát triển xã hội nói chung và
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng
14
1.2. Sự cần thiết phải khai thác một cách hợp lý nguồn lực tự nhiên trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
23
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC NGUỒN LỰC TỰ NHIÊN

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
29
2.1. Một số nét khái quát về nguồn lực tự nhiên ở Việt Nam
29
2.1.1. Vị trí địa lý
29
2.1.2. Tài nguyên thiên nhiên
30
2.2. Tình hình khai thác nguồn lực tự nhiên ở Việt Nam hiện nay: những
thành tựu và hạn chế chủ yếu
39
2.2.1. Những thành tựu chủ yếu
39
2.2.2. Những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân của nó
48
2.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc tiếp tục khai thác nguồn lực tự nhiên trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

62
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG CHUNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP - KIẾN NGHỊ
CƠ BẢN NHẰM KHAI THÁC HỢP LÝ NGUỒN LỰC
TỰ NHIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

68
3.1. Phương hướng chung
69
3.2. Một số giải pháp - kiến nghị cơ bản
72
KẾT LUẬN
91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
93

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, khi đề cập đến vấn đề các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế
- xã hội, người ta thường nhấn mạnh đến nguồn lực con người. Điều đó là
hoàn toàn chính xác, đặc biệt là trong điều kiện các nước đang phát triển như
Việt Nam muốn rút ngắn quá trình phát triển để từng bước theo kịp trình độ
của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, nguồn lực tự nhiên là
yếu tố đặc biệt quan trọng không thể thiếu trong quá trình sản xuất của xã hội
loài người. Mặc dù bản thân nguồn lực tự nhiên tự nó không thể tạo ra của cải
vật chất cho xã hội, nhưng không có nguồn lực tự nhiên thì sẽ không có bất
kỳ quá trình sản xuất xã hội nào để tạo ra của cải vật chất. Có thể khẳng định,
quy mô và tốc độ phát triển của sản xuất xã hội phụ thuộc rất nhiều vào nguồn
lực tự nhiên.
Tuy nhiên, việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên để đáp ứng sự
phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề rất phức tạp, bởi lẽ phải giải quyết được
một vấn đề cơ bản là mối quan hệ tương tác giữa nguồn lực tự nhiên và sản
xuất xã hội, có tính đối lập nhau: một phía là nguồn lực tự nhiên trong thiên
nhiên có hạn; còn phía khác là nhu cầu khai thác và sử dụng nguồn lực tự
nhiên để phục vụ cho sản xuất xã hội và con người là vô hạn. Nếu con người
khai thác nguồn lực tự nhiên một cách hợp lý trên cơ sở tôn trọng quy luật tự
nhiên, quy luật sinh thái thì sự giàu có về nguồn lực tự nhiên sẽ là những yếu
tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, nếu khai thác một cách
bừa bãi vì lợi ích trước mắt theo kiểu “tước đoạt tự nhiên” không biết tái tạo
thì đến một lúc nào đó nguồn lực tự nhiên sẽ bị cạn kiệt và con người sẽ phải
trả giá. Những biến động bất thường của thiên nhiên theo chiều hướng xấu

trong những năm qua do kết quả của sự khai thác nguồn lực tự nhiên một
cách bừa bãi là những lời cảnh tỉnh, báo động cho sự bất ổn của nền kinh tế -
xã hội phát triển không bền vững. Các khái niệm “khủng hoảng sinh thái” và

2
“cạn kiệt tài nguyên” đã xuất hiện và cũng đã trở nên quen thuộc trong thời
gian vừa qua đã cảnh báo con người về một nguy cơ có thật đã đặt ra trước sự
phát triển – nguy cơ bùng nổ khủng hoảng sinh thái. Chính vì vậy, trong giai
đoạn hiện nay, vấn đề khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực tự nhiên và
bảo vệ môi trường sống là những vấn đề quan trọng nằm trong chiến lược
phát triển bền vững của toàn nhân loại, cũng như của tất cả các quốc gia dân
tộc. Vấn đề này đã trở thành mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế,
trước hết là các nhà khoa học, đồng thời nó cũng trở thành đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học và nhiều nhà khoa học.
Mặt khác, ở một khía cạnh nhất định trong mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên nói chung và mối quan hệ giữa nguồn lực tự nhiên với sự phát
triển kinh tế - xã hội nói riêng thì “con người với tự nhiên là một”, bởi “tự
nhiên là thân thể vô cơ của con người”. Do đó, việc khai thác nguồn lực tự
nhiên phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ dừng lại ở
khía cạnh kinh tế, mà còn có ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường tự nhiên,
môi trường sinh thái, và qua đó trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến cuộc
sống của con người. Ph.Ăng-ghen đã từng cảnh báo chúng ta rằng: Con người
hoàn toàn không thể thống trị giới tự nhiên như một người sống bên ngoài
giới tự nhiên, như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, bởi vì bản
thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc, chúng ta thuộc về giới tự
nhiên, nằm trong lòng giới tự nhiên [30, 655]. Vì vậy, việc khai thác nguồn
lực tự nhiên phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng phải luôn luôn dựa trên cơ sở triết lý về
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, sao cho sự phát triển kinh tế phải đi
đôi với sự phát triển và tiến bộ nói chung của loài người.

Hiện nay, Việt Nam chúng ta đang ở trong giai đoạn phát triển mới:
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải huy động tối đa mọi
nguồn lực, trong đó có nguồn lực tự nhiên để phát triển sản xuất, nâng cao

3
năng suất lao động, cải thiện đời sống cho nhân dân. Thời gian qua bằng việc
phát huy tốt các nguồn lực, trong đó có nguồn lực tự nhiên tương đối giàu có,
chúng ta đã xây dựng được một nền kinh tế với cơ cấu đa dạng, tốc độ tăng
trưởng kinh tế khá nhanh và vững chắc. Tuy nhiên, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường cũng có những tác động không nhỏ làm
suy giảm nguồn lực tự nhiên và môi trường sống của con người. Nền kinh tế
thị trường với đặc điểm là luôn lấy lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của cá
nhân người lao động làm động lực, làm mục tiêu của sự phát triển. Điều này
ngoài mặt tích cực là khơi dậy tính năng động, sáng tạo của con người trong
việc cải biến thế giới xung quanh, thì mặt tiêu cực của nó là làm trỗi dậy và
tiếp sức cho những ham muốn cá nhân vị kỷ trước lợi ích vật chất - một chất
men kích thích các chủ thể kinh tế. Vì thế, họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, bất
chấp pháp luật, lương tâm để trà đạp lên thiên nhiên, khai thác cạn kiệt các
nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm đạt được mục đích hẹp hòi của mình, làm
cho môi trường tự nhiên bị tàn phá, ô nhiễm nặng nề; thiên tai xảy ra liên tục,
ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe, đời sống và sự phát triển kinh tế - xã hội
nói chung.
Những lý do trên đây đã đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu và đưa ra
được các giải pháp hữu hiệu cho việc khai thác nguồn lực tự nhiên ở nước ta
hiện nay, sao cho việc khai thác đó vừa đảm bảo đẩy mạnh phát triển sản
xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa phải tăng cường bảo vệ, cải tạo và
bồi dưỡng nguồn lực tự nhiên vì sự phát triển lâu bền. Nghĩa là phải đảm bảo
mối quan hệ hài hòa giữa nguồn lực tự nhiên và con người trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đặc biệt là trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở tính cấp thiết đó, tác giả đã quyết định chọn “Vấn đề khai
thác nguồn lực tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình.


4
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài nghiên cứu, có thể chia tài liệu thành các nhóm
theo những vấn đề cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, nhóm tài liệu đề cập đến mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong sự phát triển xã hội và triết lý về sự phát triển. Thuộc nhóm vấn
đề này có thể kể đến các công trình và bài viết: “Mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên trong sự phát triển xã hội” do Hồ Sĩ Quý chủ biên, Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000; Phạm Thị Ngọc Trầm với các bài viết: “Sự
thống nhất biện chứng của các mối quan hệ “con người và con người”, “con
người và tự nhiên” trong quá trình lịch sử tự nhiên”, Tạp chí Triết học, số 2
năm 1991; “Những tư tưởng cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về
mối quan hệ con người, xã hội, tự nhiên”, Tạp chí Triết học, số 1 năm 1992;
“Tư tưởng của Ph.Ăngghen về tính thống nhất vật chất của thế giới và ý
nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề sinh thái hiện nay”, Tạp chí Triết
học, số 4 năm 1995… và một số bài viết sau này của tác giả đề cập đến đạo
đức sinh thái.
- Thứ hai, nhóm tài liệu đề cập đến một số đặc điểm của nguồn lực tự
nhiên và thực trạng khai thác nguồn lực tự nhiên ở nước ta hiện nay. Nhóm
vấn đề này được trình bày chủ yếu trong các sách và giáo trình về địa lý tự
nhiên và địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam như: “Địa lý Việt Nam” do Trần
Đình Gián chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990; “Thiên
nhiên Việt Nam” của Lê Bá Thảo, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội, 1990; “Địa lý tự nhiên Việt Nam” của Vũ Tự Lập, Nhà xuất bản Giáo

dục, Hà Nội, 1999; “Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam” do Lê Thông chủ biên,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2001…
- Thứ ba, nhóm tài liệu đề cập đến thực trạng môi trường sinh thái
trước tác động của sự phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề xây dựng ý thức,
đạo đức sinh thái trong giai đoạn hiện nay, bao gồm các công trình và bài
viết: “Triết học sinh thái” của Đỗ Minh Hợp, Tạp chí Triết học, số 4 năm

5
1995; Phạm Thị Ngọc Trầm với các bài viết: “Khía cạnh triết học – xã hội
của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 6 năm
1998; “Đạo đức sinh thái: từ lý luận đến thực tiễn”, Tạp chí Triết học, số 2
năm 1999; “Đô thị hóa ở Việt Nam và vấn đề xây dựng nếp sống văn hóa sinh
thái”, Tạp chí Triết học, số 4 năm 2001; Đoàn Văn Khiêm với “Một vài suy
nghĩ về đạo đức sinh thái”, Tạp chí Triết học, số 1 năm 2000; Phạm Văn
Boong với bài viết “Một số nhận thức triết học – xã hội về vấn đề môi trường
sinh thái”, Tạp chí Triết học, số 4 năm 2000; Hồ Sĩ Quý với “Đạo đức môi
trường. Hội nghị quốc gia về phát triển bền vững, tháng 12 năm 2004”, Tạp
chí Triết học, số 9 năm 2005…
- Thứ tư, nhóm tài liệu đề cập đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với sự phát triển bền vững, bao gồm các bài viết: “Tăng trưởng kinh tế và
những bảo đảm cần có nhằm duy trì môi trường cho sự phát triển lâu bền”
của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 4 năm 1992; “Sản xuất nông
nghiệp và vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay” của
Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, số 6 năm 1997; “Sự kết hợp giữa các
mục tiêu kinh tế và sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
Tạp chí Triết học, số 5 năm 1996; “Một số vấn đề xã hội và nhân văn trong
việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam”
do Hà Huy Thành chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001;
“Xây dựng môi trường văn hóa cho sự phát triển bền vững của đất nước” của
Trần Ngọc Hiên, Tạp chí Cộng sản, số 11 năm 2006; “Vấn đề đất đai trong

phát triển bền vững ở nước ta hiện nay” của Đào Thế Tuấn, Tạp chí Cộng
sản, số 20 năm 2006…
- Thứ năm, nhóm tài liệu đề cập đến một số giải pháp bảo vệ môi
trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bao gồm các công trình:
“Chiến lược và chính sách môi trường” của nhóm tác giả Lê Văn Khoa,
Nguyễn Ngọc Sinh, Nguyễn Tiến Dũng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2000; “Về cách tiếp cận triết học – xã hội đối với hiện trạng môi trường

6
sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp (Nhân
ngày môi trường thế giới 05/6/2004)” của Phạm Thị Ngọc Trầm, Tạp chí
Triết học, số 6 năm 2004; “Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi
trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của
Phạm Khôi Nguyên, Tạp chí Cộng sản, số 10 năm 2006; “Những tác động
của yếu tố văn hóa – xã hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi
trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do Hoàng Hữu Bình
chủ biên, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006…
Tuy nhiên, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu một cách độc
lập vấn đề khai thác nguồn lực tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Chúng tôi coi những công trình đó là nguồn tài
liệu tham khảo hết sức phong phú và hữu ích trong quá trình thực hiện đề tài
luận văn của chúng tôi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn vai trò của nguồn lực tự
nhiên và thực trạng khai thác nó ở nước ta, luận văn đưa ra những phương
hướng và giải pháp – kiến nghị nhằm khai thác một cách hợp lý và có hiệu
quả các nguồn lực tự nhiên trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ khái niệm nguồn lực tự nhiên và vai trò của nó đối với quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Trình bày thực trạng vấn đề khai thác nguồn lực tự nhiên ở nước ta
hiện nay: những ưu điểm, hạn chế và các nguyên nhân của những hạn chế đó;
những vấn đề đặt ra đối với việc tiếp tục khai thác nguồn lực tự nhiên trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

7
- Đưa ra một số phương hướng và giải pháp – kiến nghị cơ bản nhằm
khai thác một cách hợp lý, có hiệu quả nguồn lực tự nhiên trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện, nghị quyết của Đảng
Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và con người
nói chung, mối quan hệ biện chứng giữa nguồn lực tự nhiên và công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc nói riêng; đồng
thời kế thừa những thành tựu trong các nghiên cứu trước đó về các vấn đề liên
quan đến luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương
pháp phân tích, tổng hợp, lôgic và lịch sử…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề khai thác nguồn lực tự
nhiên phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung phân tích và đánh giá thực trạng của việc khai
thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên ở nước ta từ đổi mới đến nay.

6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn làm rõ thêm khái niệm cũng như vai trò của nguồn lực tự
nhiên đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong mối quan hệ biện
chứng giữa tự nhiên với con người và nguồn lực tự nhiên với sự phát triển
kinh tế - xã hội.
- Đưa ra một cách phân tích hợp lý thực trạng khai thác nguồn lực tự
nhiên ở Việt Nam thời gian vừa qua, qua đó thấy rõ hơn tầm quan trọng của

8
việc hiểu và vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và con người,
giữa nguồn lực tự nhiên và sự phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình tiếp
tục khai thác nguồn lực tự nhiên để phát triển đất nước.
- Đưa ra được những nét cơ bản về phương hướng cũng như một số giải
pháp - kiến nghị có tính khả thi nhằm khai thác một cách hợp lý và có hiệu
quả nguồn lực tự nhiên trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Về mặt lý luận
Luận chứng một cách tương đối đầy đủ mối quan hệ biện chứng giữa
con người và tự nhiên nói chung, từ đó có được cơ sở lý luận vững chắc cho
việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên một cách hợp lý, có hiệu quả để
đảm bảo sự phát triển lâu bền trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
* Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy các chuyên đề có liên quan; đồng thời góp phần nâng cao ý thức
trách nhiệm đối với vấn đề khai thác và sử dụng các nguồn lực tự nhiên một
cách hợp lý, có hiệu quả.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài lời cảm ơn, lời cam đoan, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài

liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.








9
NỘI DUNG
Chƣơng 1
VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC TỰ NHIÊN VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC NÓ
MỘT CÁCH HỢP LÝ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Khái niệm nguồn lực tự nhiên và vai trò của nó trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Khái niệm nguồn lực tự nhiên
Trước khi bàn về khái niệm “nguồn lực tự nhiên”, chúng ta cần phải
tìm hiểu khái niệm “nguồn lực”.
Có thể nói rằng, cho đến nay chưa có tài liệu nào chính thức định nghĩa
khái niệm “nguồn lực”. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy, dưới dạng tổng quát,
“nguồn lực” được hiểu là toàn bộ các yếu tố cả vật chất lẫn tinh thần đã, đang
và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong những điều kiện thích hợp sẽ
thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia, dân tộc. Nghĩa là, khái
niệm “nguồn lực” có phạm vi bao quát rộng, hàm chứa không chỉ những yếu
tố đã và đang tạo ra sức mạnh trên thực tế, mà cả những yếu tố mới ở dạng
tiềm năng; không chỉ nói lên sức mạnh mà còn chỉ ra nơi bắt đầu, nơi phát
sinh hoặc nơi có thể cung cấp sức mạnh; phản ánh không chỉ số lượng mà còn

cả chất lượng các yếu tố, đồng thời nói lên sự biến đổi không ngừng của các
yếu tố đó.
Việc phân loại nguồn lực tùy thuộc vào cách xác định các tiêu chí và
xem xét chúng trong các quan hệ xác định. Chẳng hạn, theo tiêu chí khái quát
nhất, nguồn lực được phân thành: nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần;
theo quan hệ bên trong – bên ngoài, và mỗi quốc gia được xem xét với tư
cách là một sự vật, thì có nguồn lực bên trong (con người, vốn trong nước, cơ
sở vật chất – kỹ thuật, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý…) và nguồn lực bên
ngoài (sự trợ giúp của nước ngoài, của các tổ chức quốc tế như vốn, công

10
nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý,…). Theo quan hệ chủ - khách thể thì
có nguồn lực chủ quan (con người) và nguồn lực khách quan (tài nguyên thiên
nhiên, vị trí địa lý, vốn trong nước và nước ngoài…). Theo quan hệ rộng –
hẹp thì những yếu tố tạo nên một nguồn lực nào đó lại có thể trở thành nguồn
lực của chính nguồn lực đó. Theo quan hệ nhân – quả thì tất cả những yếu tố
tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát triển xã hội đều được coi là nguồn lực
(nguồn lực tự nhiên, nguồn lực con người, nguồn vốn ). Như vậy, các tiêu
chí để phân loại nguồn lực rất đa dạng, do đó nguồn lực cũng rất phong phú,
trong đó có nguồn lực tự nhiên [25, 59-60].
Cũng như khái niệm về “nguồn lực”, cho đến nay, vẫn chưa có một
định nghĩa thống nhất về khái niệm “nguồn lực tự nhiên”. Từ trước đến nay,
người ta thường ít hoặc là không sử dụng khái niệm “nguồn lực tự nhiên”, mà
thay vào đó là các khái niệm “điều kiện tự nhiên” hay “tài nguyên thiên
nhiên”. Để có được cách hiểu tường tận về khái niệm “nguồn lực tự nhiên”,
trước hết cần phải hiểu thế nào là “tự nhiên” và mối quan hệ giữa các khái
niệm “nguồn lực tự nhiên” với “điều kiện tự nhiên” và “tài nguyên thiên
nhiên”.
Mặc dù có nhiều cách luận giải khác nhau, nhưng về cơ bản, khái niệm
“tự nhiên” được hiểu là tất cả những gì đang tồn tại một cách khách quan, là

toàn bộ thế giới vật chất với tất cả các hình thức biểu hiện muôn màu muôn
vẻ của nó, là tập hợp các điều kiện thiên nhiên vốn có sẵn, tồn tại ngoài ý thức
của con người. Như vậy, tự nhiên bao gồm các nhân tố tồn tại khách quan
ngoài ‎ý thức của con người như không khí, đất đai, khí hậu, nguồn nước, ánh
sáng mặt trời, động, thực vật… Tự nhiên cung cấp các nguồn tài nguyên thiên
nhiên cho con người như không khí để thở, đất đai để xây dựng nhà cửa,
trồng cây, chăn nuôi, các loại khoáng sản cho sản xuất, là nơi chứa đựng,
đồng hóa các chất thải, cung cấp cho con người cảnh đẹp giải trí tăng khả
năng tồn tại và phát triển của mình.

11
Điều kiện tự nhiên, theo quan điểm của triết học Mác, là yếu tố không
thể thiếu đối với đời sống con người, là một bộ phận của giới tự nhiên tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản xuất và đời sống con người. Ở đây, có
thể hiểu, khi nói tới điều kiện tự nhiên thì không phải toàn bộ giới tự nhiên
bao la, rộng lớn mà chỉ là một bộ phận của giới tự nhiên tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến sản xuất và đời sống của con người.
Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố của tự nhiên mà con người có
thể khai thác, chế biến và sử dụng để tạo ra các sản phẩm vật chất. Như vậy,
tài nguyên thiên nhiên là một yếu tố quan trọng trong các hoạt động kinh tế,
nó cấu thành các nguồn lực vật chất nguyên thủy cho hoạt động kinh tế. Với ý
nghĩa như đã trình bày ở trên thì điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
là những khái niệm có phạm vi hẹp hơn so với khái niệm tự nhiên.
Qua tìm hiểu một số công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy khái niệm
nguồn lực tự nhiên được hiểu như là điều kiện tự nhiên. Quan niệm này cũng
có phần hợp lý, vì khi nói đến cả điều kiện tự nhiên lẫn nguồn lực tự nhiên thì
cũng đều nói đến các yếu tố tự nhiên tác động đến quá trình sản xuất của con
người. Tuy nhiên, theo chúng tôi, giữa hai khái niệm này có điểm khác nhau
là, khi nói đến khái niệm nguồn lực tự nhiên tức là nói tới các yếu tố tự nhiên
đã, đang và sẽ tham gia và thúc đẩy quá trình sản xuất; nói đến điều kiện tự

nhiên ở dạng tiềm năng. Nói cách khác, điều kiện tự nhiên chỉ được coi là
nguồn lực một khi nó được con người đã, đang và sẽ đưa vào quá trình khai
thác và sử dụng cho mục đích sản xuất vật chất của xã hội.
Hiện nay, có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm nguồn lực tự nhiên;
tuy nhiên, trong luận văn này, chúng tôi đồng ý với quan niệm cho rằng:
“Nguồn lực tự nhiên là khái niệm dùng để chỉ nguồn tài nguyên thiên nhiên
như đất đai, nước, khoáng sản và những điều kiện tự nhiên khác có tác động
trực tiếp và gián tiếp tới hoạt động của con người” [39, 76].
Đây là một khái niệm rộng, nó bao chứa cả nguồn tài nguyên thiên
nhiên lẫn những điều kiện tự nhiên khác. Nghĩa là, xét về mặt ngoại diên, khái

12
niệm này rộng hơn so với khái niệm điều kiện tự nhiên hay tài nguyên thiên
nhiên. Nói một cách cụ thể hơn thì nguồn lực tự nhiên chính là sự kết hợp của
tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên nhưng được xem xét ở dạng
tiềm năng. Để hiểu cụ thể hơn, chúng tôi xin trình bày kết cấu của nguồn lực
tự nhiên.
Nguồn lực tự nhiên của một quốc gia bao gồm vị trí địa lý và các nguồn
tài nguyên thiên nhiên đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất xã hội.
Trong đó, các nguồn tài nguyên thiên nhiên lại được chia thành những tài
nguyên được sử dụng trong hiện tại và tài nguyên sẽ được sử dụng trong
tương lai. Mục đích cách phân loại này là nhằm xác định phương hướng và kế
hoạch sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên cho phát triển kinh tế hiện tại và cho
các thế hệ tiếp theo; đồng thời đảm bảo sự cân đối giữa phát triển kinh tế và
bảo vệ môi trường.
Theo cách phân loại này, tài nguyên thiên nhiên được chia thành hai
loại:
- Tài nguyên không có khả năng tái sinh: là những nguồn tài nguyên có
trữ lượng ở một mức độ giới hạn nhất định. Chúng chỉ có thể được khai thác ở
dạng nguyên khai một lần, bao gồm những tài nguyên có quy mô không thay

đổi như đất đai và các tài nguyên mà khi sử dụng thì cạn dần, không có cách
gì hoàn trả lại, không có quy trình nào làm đầy lại được nguyên trạng của nó
như các loại khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, các mạch nước ngầm có
tốc độ làm đầy thấp đến mức được coi như là không phục hồi được…
Tuy nhiên, việc xếp tài nguyên nào đó vào loại tài nguyên không có
khả năng tái sinh chỉ có tính chất tương đối, ví dụ như đất đai con người vẫn
có thể mở rộng diện tích bằng cách lấn biển, hay đối với khoáng sản, dầu khí,
người ta có thể tìm thêm những mỏ mới. Đối với loại tài nguyên này, chúng ta
có thể chia làm ba nhóm:
+ Nhóm thứ nhất: tài nguyên không có khă năng tái sinh nhưng tạo tiền
đề cho tái sinh (đất, nước tự nhiên…)

13
+ Nhóm thứ hai: tài nguyên không có khả năng tái sinh nhưng có thể
tái tạo được (kim loại, thủy tinh, chất dẻo…)
+ Nhóm thứ ba: tài nguyên cạn kiệt (than đá, dầu khí…)
Tóm lại, những tài nguyên không có khả năng tái sinh, đặc biệt là dầu
khí và các loại khoáng sản, khi sử dụng thì sẽ hết dần. Để có những mỏ mới
đòi hỏi phải có quá trình hình thành lâu dài của lịch sử. Do vậy, cần có kế
hoạch để khai thác trước mắt và lâu dài, vừa đảm bảo tính hiệu quả, vừa
không làm ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai trong việc khai thác các nguồn
tài nguyên đó.
- Tài nguyên có khả năng tái sinh: là những tài nguyên có thể tự duy trì
hoặc bổ sung một cách liên tục khi được sử dụng hợp lý. Những tài nguyên
sinh vật là những nguồn tài nguyên có thể tái sinh được, chúng lớn lên cùng
với thời gian và theo các quá trình sinh học. Tuy nhiên, nếu sử dụng không
hợp lý thì nguồn tài nguyên này cũng có thể bị cạn kiệt và không thể tái sinh
nữa. Những tài nguyên này được chia thành hai loại:
+ Tài nguyên có khả năng tái sinh thông qua tác động của con người.
Nguồn tài nguyên này bao gồm hai loại: nguồn tài nguyên rừng và các loài

động thực vật trên cạn cũng như dưới nước. Những nguồn tài nguyên này sau
khi khai thác chúng ta có thể có những khu rừng mới hoặc các loài động thực
vật tiếp tục sinh sôi nảy nở, nếu con người có biện pháp và chính sách thích
hợp.
+ Tài nguyên có khả năng tái sinh vô tận trong thiên nhiên: là những
tài nguyên khi sử dụng không bao giờ hết. Nguồn tài nguyên này bao gồm các
nguồn năng lượng như mặt trời, thủy triều, sức gió, thủy năng sông ngòi và
các nguồn nước, không khí. Vì đây là những nguồn tài nguyên khi sử dụng có
khả năng tự tái tạo, đặc biệt chúng chính là các nguồn năng lượng chủ yếu của
con người, do đó cần có phương án nghiên cứu tích cực để có thể sớm đưa
vào sử dụng một cách phổ biến.

14
Có thể thấy rằng, tự nhiên đã tạo ra và cung cấp cho con người những
nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú. Những nguồn tài nguyên này có một
vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế nói riêng và đời sống con người
nói chung. Vậy vai trò ấy được thể hiện như thế nào? ‎
1.1.2. Vai trò của nguồn lực tự nhiên đối với sự phát triển xã hội nói
chung và trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nói
riêng
Ngày nay, khi đề cập đến các yếu tố của sự tăng trưởng kinh tế, người
ta thường nhắc tới 5 yếu tố, đó là: lưu lượng đầu vào của lao động (L), vốn
(K), các tài nguyên thiên nhiên (N), khả năng kinh doanh (E) và công nghệ
hiện hành (T). Như vậy, nói một cách khái quát thì các yếu tố của sự phát
triển kinh tế nói riêng, của sự phát triển xã hội nói chung, ngoài nguồn vốn,
bao gồm: nguồn lực tự nhiên và nguồn lực con người.
Trong các nguồn lực nói trên thì nguồn lực con người được coi là quan
trọng nhất, có vai trò quyết định đến sự vận động và phát triển của xã hội. Đặt
trong bối cảnh hiện nay khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển
mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và đã trở thành yêu cầu khách

quan, xu thế phổ biến của nhân loại, khi công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại
hóa mà cốt lõi là hiện đại hóa lực lượng sản xuất thì điều đó là hoàn toàn xác
đáng; đặc biệt với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam muốn rút ngắn
quá trình phát triển để từng bước theo kịp trình độ của các nước trên thế giới
thì nguồn lực con người càng có vai trò quan trọng, thực sự trở thành nguồn
lực có tính chất quyết định đến thành công của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nói riêng, của sự vận động và phát triển của xã hội nói chung.
Thực ra vai trò quyết định của nguồn lực con người đối với sự phát triển xã
hội không phải đến ngày nay mới được khẳng định, mà trong lịch sử kinh tế
học, một số nhà kinh tế học tư sản trước Mác, chẳng hạn như Adam Smith, đã
cho rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải vật chất. Trong tác phẩm
“Biện chứng của tự nhiên”, Ph.Ăng-ghen khẳng định rằng, lao động đúng là

15
như vậy. Tuy nhiên, Ph.Ăng-ghen cũng cho rằng, một mình lao động không
thể sản sinh ra mọi của cải vật chất. Lao động trong sự kết hợp với giới tự
nhiên, cái cung cấp những vật liệu cho lao động, mới tạo ra mọi của cải vật
chất. Vì vậy, khi nói rằng nguồn lực con người có vai trò quyết định thì điều
đó hoàn toàn không có nghĩa là tách nguồn lực con người một cách biệt lập
với nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác. Trái lại, khi khẳng định nguồn
lực con người có vai trò quyết định thì điều đó có nghĩa là đã đặt nguồn lực
con người trên tiền đề là các nguồn lực hiện có, trong đó có nguồn lực tự
nhiên.
Khi xem xét nguồn lực tự nhiên nói riêng, môi trường tự nhiên nói
chung trong mối quan hệ mật thiết với hoạt động sống của con người và sự
tồn tại, phát triển của xã hội loài người, trong đó nổi bật là hoạt động kinh tế,
hoạt động sản xuất vật chất thì nguồn lực tự nhiên nói riêng và môi trường tự
nhiên nói chung có các vai trò cơ bản sau đây:
1. Nguồn lực tự nhiên và môi trường tự nhiên là không gian sinh sống
và là không gian tổ chức các hoạt động của các cộng đồng dân cư, trong đó

có các hoạt động kinh tế, hoạt động sản xuất vật chất.
Trong triết học Mác, tự nhiên theo nghĩa rộng được hiểu là toàn bộ thế
giới vật chất tồn tại khách quan. Sự sống là kết quả của quá trình tiến hóa lâu
dài của tự nhiên theo những quy luật khách quan vốn có của nó; trong đó con
người là một sản phẩm trực tiếp và cao nhất của sự tiến hóa của giới tự nhiên.
Như vậy, giữa con người và giới tự nhiên có mối quan hệ gắn bó hữu cơ;
trong đó tự nhiên chính là cái nôi, là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và
phát triển của con người; bởi vì tự nhiên chính là “thân thể vô cơ của con
người”. Về điều này, C.Mác đã viết: “Giới tự nhiên, cụ thể là cái giới tự nhiên
trong chừng mực mà bản thân nó không phải là thân thể của con người - là
thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế
nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó, con
người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng

16
đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói
như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự
nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên” [29, 135].
Với tư cách là một cơ thể sống, là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn
tại và phát triển, con người và xã hội loài người phải tiến hành trao đổi chất
với môi trường tự nhiên, vì trao đổi chất là một đặc trưng cơ bản nhất của sự
sống. Toàn bộ cấu trúc vật chất trong sinh quyển, từ đơn giản nhất đến phức
tạp nhất, từ đơn bào đến đa bào, đến con người và xã hội loài người đã tác
động với nhau và tác động qua lại với môi trường tự nhiên để tiến hành việc
lưu thông, cải biến, tích lũy vật chất và biến hóa năng lượng, nhằm duy trì sự
sống của bản thân, sự tồn tại và phát triển không ngừng của cả hệ thống. Các
quá trình đó đã được thực hiện trong chu trình sinh học, hay chính xác hơn là
chu trình sinh - địa - hóa học. Cơ chế hoạt động của chu trình sinh học, hay
chu trình trao đổi vật chất, năng lượng, thông tin của sinh quyển, chính là cơ
chế đảm bảo sự thống nhất về mặt chức năng hoạt động của hệ thống “con

người - xã hội - tự nhiên”, phù hợp với cấu trúc của nó. Tuy nhiên, con người
khác các loài sinh vật khác là ở chỗ, con người có hai cách trao đổi chất với
môi trường tự nhiên: thứ nhất, với tư cách là một thực thể tự nhiên, con người
đã tham gia vào chu trình sinh học như bất kỳ một động vật cao cấp nào khác
(trao đổi chất trực tiếp với tự nhiên). Ở đây, môi trường tự nhiên cung cấp
những điều kiện sống cơ bản như nước, ánh sáng, không khí, động, thực vật,
v.v để thỏa mãn những nhu cầu sinh lý, sinh thái cần thiết cho con người với
tư cách là một thực thể sinh vật (thực thể tự nhiên). Thứ hai, với tư cách là
một thực thể xã hội, con người trao đổi chất gián tiếp với giới tự nhiên thông
qua quá trình lao động sản xuất xã hội. Do vậy, nền sản xuất xã hội chính là
phương thức trao đổi chất đặc thù giữa xã hội và tự nhiên. Ở phương diện
này, thông qua hoạt động thực tiễn, trước hết là quá trình lao động sản xuất,
con người đã thu được những dòng vật chất, năng lượng và thông tin từ môi
trường tự nhiên, biến đổi chúng cho phù hợp với môi trường sống và phát

17
triển của con người. Sản xuất chính là sự liên hệ, sự thống nhất đặc trưng giữa
xã hội và tự nhiên. Về vấn đề này, C.Mác viết: “Lao động trước hết là một
quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt
động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao
đổi chất giữa họ và tự nhiên” [31, 206]. Như vậy, trên phương diện xã hội,
thông qua hoạt động sản xuất vật chất, ngay từ đầu con người đã mang những
đặc điểm hoàn toàn khác với tất cả các mắt khâu khác của chu trình sinh học.
Đây là điểm căn bản, là ranh giới phân biệt về chất giữa con người và con vật;
đồng thời chính nó cũng là cội nguồn của những vấn đề về khai thác, sử dụng
nguồn lực tự nhiên cũng như những vấn đề sinh thái gay gắt ngày nay.
2. Tự nhiên cung cấp nguồn vật chất (các loại tài nguyên thiên nhiên
khác nhau, các loại nguyên, nhiên vật liệu), năng lượng, thông tin cần thiết
cho sự tồn tại và hoạt động sống của con người, trước hết và quan trọng hơn
cả là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất.

Như đã phân tích ở trên, hoạt động sản xuất vật chất của loài người
chính là phương thức trao đổi chất đặc thù giữa xã hội với tự nhiên. Theo
C.Mác, trong quá trình sản xuất vật chất, con người có mối “quan hệ song
trùng”: một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên được biểu hiện bằng
lực lượng sản xuất, mặt khác là quan hệ giữa con người với con người được
biểu hiện bằng quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất hay cách thức mà loài
người sử dụng để tiến hành sản xuất ra của cải vật chất trong một giai đoạn
lịch sử nhất định, chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình
độ nhất định với một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Trong quá trình sản
xuất vật chất, con người đã sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự
nhiên nhằm cải biến các dạng vật chất sẵn có để tạo ra của cải vật chất, đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Vì thế, để
quá trình sản xuất có thể diễn ra được thì cần phải có hai điều kiện: thứ nhất,
con người hay người lao động với sức lao động và trí tuệ của mình có vai trò
quan trọng, giữ vị trí trung tâm; và thứ hai, là giới tự nhiên vừa là khách thể,

18
vừa là nơi con người khai thác các dạng vật chất sẵn có như đất đai, khí hậu,
các nguồn tài nguyên thiên nhiên , cải biến chúng nhằm tạo ra của cải vật
chất nuôi sống xã hội. Điều đó có nghĩa, mặc dù trong sản xuất vật chất,
người lao động là yếu tố quan trọng nhất, có tính chất quyết định, nhưng chỉ
riêng người lao động thì cũng chưa thể tạo ra của cải vật chất cho xã hội, mà
người lao động trong mối quan hệ với giới tự nhiên mới là điều kiện đầu tiên,
cơ bản của quá trình sản xuất vật chất.
Như vậy, trong hoạt động sản xuất vật chất, mặc dù nguồn lực tự nhiên
chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, là yếu tố mang tính chất thụ động, tự bản thân nó
không thể tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng không có nguồn lực tự
nhiên thì sẽ không có bất kỳ quá trình sản xuất xã hội nào để tạo ra của cải vật
chất. Ở đây, nguồn lực tự nhiên đóng vai trò là yếu tố, là nguyên liệu “đầu
vào” không thể thiếu của quá trình sản xuất. Có thể khẳng định rằng, quy mô

và tốc độ phát triển của sản xuất xã hội phụ thuộc rất nhiều vào nguồn lực tự
nhiên.
3. Môi trường tự nhiên là nơi chứa đựng tất cả các chất phế thải của
quá trình trao đổi chất tự nhiên của con người - bằng quá trình đồng hóa, dị
hóa và trao đổi chất đặc thù của xã hội với tự nhiên thông qua quá trình sản
xuất xã hội.
Tự nhiên không chỉ là môi trường trong đó diễn ra các hoạt động sản
xuất vật chất, không chỉ là nơi cung cấp các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu,
năng lượng… mà còn là nơi chứa đựng tất cả các chất phế thải do con người
tạo ra trong quá trình sản xuất và tiêu dùng. Tại đây, nhờ hoạt động của vi
sinh vật và các thành phần môi trường khác, các chất phế thải sẽ biến đổi trở
thành các dạng ban đầu trong một chu trình sinh - địa – hóa phức tạp. Khả
năng tiếp nhận và phân hủy chất thải của môi trường tự nhiên (trong điều kiện
chất lượng môi trường khu vực tiếp nhận không thay đổi) được gọi là khả
năng nền của môi trường. Khi lượng chất thải lớn hơn khả năng nền, hoặc
thành phần của chất thải khó phân hủy và xa lạ với sinh vật, thì chất lượng

19
môi trường sẽ bị suy giảm và môi trường có thể bị ô nhiễm. Đây là một tiêu
chí quan trọng để định hướng hoạt động của con người trong mối quan hệ với
môi trường tự nhiên sao cho không làm ảnh hưởng đến vai trò, chức năng này
của nó; tức là các chất thải do hoạt động sản xuất và tiêu dùng của con người
thải vào môi trường tự nhiên phải đảm bảo ở một mức độ cho phép trong giới
hạn chịu đựng của môi trường.
Như vậy, nguồn lực tự nhiên nói riêng, môi trường tự nhiên nói chung
với tư cách là môi trường sống, là những điều kiện đầu tiên, thường xuyên và
tất yếu của quá trình hoạt động sống của con người, đặc biệt là quá trình sản
xuất ra của cải vật chất; là một trong những yếu tố cơ bản của những điều
kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Tự nhiên vừa là nhà ở, vừa là công xưởng
và phòng thí nghiệm, vừa là cái thùng chứa chất thải khổng lồ của xã hội. Tuy

nhiên, vai trò và chức năng đó của tự nhiên không phải là bất biến, mà có tính
lịch sử cụ thể, theo nghĩa là vai trò và chức năng đó thay đổi cùng quá trình
lịch sử - tự nhiên, tùy thuộc vào thái độ và cách thức tác động của con người
lên nó. Nói vậy để thấy rằng mối quan hệ giữa con người với tự nhiên không
phải là quan hệ một chiều, mà là quan hệ hai chiều, mang tính biện chứng.
Và, suy đến cùng thì việc tự nhiên có thể thực hiện được vai trò của mình đến
đâu, điều đó lại phụ thuộc vào chính nhận thức, thái độ và cách thức ứng xử
của con người với tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn của con người và xã
hội loài người.
Nói một cách tổng quát, trong toàn bộ hoạt động của con người và xã
hội loài người, trong đó có hoạt động lao động sản xuất vật chất, thì nguồn
lực tự nhiên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung có một vai trò quan
trọng. Tự nhiên vừa là môi trường sống, môi trường cho hoạt động sản xuất
vật chất, vừa là nơi cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng cho hoạt
động sản xuất, đồng thời là nơi chứa đựng tất cả các chất phế thải của quá
trình sản xuất xã hội. Những vai trò đó của tự nhiên là không gì có thể thay
thế được. Do vậy, việc yêu cầu, đòi hỏi phải khai thác, sử dụng một cách hợp

20
lý nguồn lực tự nhiên thực chất là phải tạo ra môi trường, điều kiện và những
cơ sở thuận lợi cho hoạt động sống của con người, mà trước hết là hoạt động
sản xuất vật chất, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của con
người.
Xét trong phạm vi hẹp hơn, cụ thể là đối với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thì nguồn lực tự nhiên có các vai trò sau đây:
1. Nguồn lực tự nhiên là một trong những yếu tố đầu vào không thể
thiếu của quá trình sản xuất vật chất nói chung, của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước nói riêng.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một phương thức cơ bản và hữu hiệu
nhằm chuyển biến một cách căn bản bộ mặt kinh tế - xã hội của các nước

đang phát triển thành một quốc gia phát triển, tiên tiến, hiện đại. Đối với nước
ta, hiện tại, nền kinh tế vẫn còn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu,
công nghiệp nhỏ bé, GDP tính theo đầu người vào loại thấp nhất thế giới. Vì
thế, để ra khỏi tình trạng nước nghèo và chậm phát triển, tránh được nguy cơ
tụt hậu xa hơn, nước ta không có con đường nào khác ngoài tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ
thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, lực lượng sản xuất phát triển, đời sống
vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, nghĩa là chuyển
xã hội từ trình độ văn minh nông nghiệp lên văn minh công nghiệp.
Muốn thực hiện được mục tiêu trên thì vấn đề đặt ra là chúng ta phải
huy động tối đa mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, trong đó có nguồn lực tự nhiên. Thực tế cho thấy, nhờ
ở vào một vị trí địa lý thuận lợi và có các nguồn tài nguyên thiên nhiên đa
dạng và phong phú, nước ta đã xây dựng được một nền nông nghiệp với cơ
cấu đa dạng; trong công nghiệp, chúng ta đã xây dựng được một số ngành
công nghiệp nặng và một số ngành kinh tế mũi nhọn như khai thác dầu khí,
luyện kim, sản xuất điện năng, công nghiệp vật liệu xây dựng… Đây thực sự

21
là cơ sở, điều kiện thuận lợi để nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
2. Nguồn lực tự nhiên góp phần quy định cơ cấu, quy mô và tốc độ của
nền kinh tế; đồng thời là cơ sở để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta là xây dựng
một nền kinh tế theo hướng công nghiệp phát triển với quy mô rộng lớn, cơ
cấu hợp l‎ý và tốc độ phát triển nhanh, bền vững. Tuy nhiên, những mục tiêu
đó chỉ có thể đạt được khi dựa trên cơ sở của những nguồn lực mà chúng ta
hiện có, đặc biệt là nguồn lực nội sinh như nguồn nhân lực và nguồn vốn huy

động được trong nước, nguồn lực tự nhiên… Như vậy, nguồn lực tự nhiên
cũng góp phần không nhỏ quy định cơ cấu, quy mô và tốc độ của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần phải có sự khảo
sát và đánh giá đúng mức về các nguồn lực tự nhiên mà nước ta hiện có làm
cơ sở để khai thác một cách hợp lý, vừa đảm bảo đáp ứng nhu cầu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa bảo vệ và nuôi dưỡng nguồn lực tự nhiên vì sự
phát triển lâu bền.
3. Nguồn lực tự nhiên góp phần tạo ra lợi thế so sánh giữa các quốc
gia, đồng thời là yếu tố quan trọng cho quá trình tích lũy vốn và phát triển ổn
định, nhất là đối với các quốc gia đang ở giai đoạn đầu của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trước đây, sự giàu có về các nguồn lực tự nhiên là một trong
những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự giàu có của một quốc gia, bởi
lẽ trong điều kiện khoa học và kỹ thuật còn lạc hậu, khi mà khoa học
chưa trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp như hiện nay thì các
nguồn lực tự nhiên là những nguồn lực cơ bản nhất để phát triển sản
xuất. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, mặc dù
nguồn lực tự nhiên không còn giữ vị trí là nguồn lực quan trọng nhất,
nhưng trong điều kiện khan hiếm, thậm chí là khủng hoảng về các nguồn

22
nguyên liệu, nhiên liệu và năng lượng trên thế giới như hiện nay thì sự
tương đối giàu có về nguồn lực tự nhiên một mặt giúp cho các quốc gia
không bị phụ thuộc nhiều vào các nguồn tài nguyên vốn là các yếu tố
không ổn định trên thị trường thế giới hiện nay, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế một cách ổn định và bền vững, mặt khác còn
tạo ra lợi thế so sánh, góp phần thu hút mạnh mẽ sự đầu tư từ môi trường
bên ngoài, tạo ra sự hấp dẫn trong việc mở rộng thị trường đầu tư của
các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, với các quốc gia đang phát
triển, mới ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

như Việt Nam hiện nay, thì việc khai thác nguồn lực tự nhiên được coi là
một giải pháp quan trọng để tạo nguồn tích lũy ban đầu phục vụ nhu cầu
phát triển đất nước, xây dựng hạ tầng cơ sở, góp phần cải thiện dân sinh.
Như vậy, qua sự phân tích trên đây chúng ta thấy rằng nguồn lực
tự nhiên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung có một vai trò to lớn
đối với hoạt động sống của con người, mà trước hết và quan trọng hơn
cả là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, hoạt động kinh tế. Tuy
nhiên, việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên để đáp ứng sự phát
triển kinh tế - xã hội là vấn đề rất phức tạp, bởi lẽ phải giải quyết được
một vấn đề cơ bản là mối quan hệ tương tác giữa nguồn lực tự nhiên và
sản xuất xã hội, có tính đối lập nhau: một phía là nguồn lực tự nhiên
trong môi trường tự nhiên có hạn; còn một phía là nhu cầu khai thác và
sử dụng nguồn lực tự nhiên để phục vụ cho sản xuất xã hội và con người
là vô hạn. Điều này có nghĩa là việc khai thác nguồn lực tự nhiên phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội phải đảm bảo được hai yếu tố: một là, phải
đảm bảo yếu tố đầu vào không thể thiếu của quá trình sản xuất, và hai là,
phải bảo vệ, cải tạo và nuôi dưỡng nguồn lực tự nhiên vì sự phát triển
lâu bền. Nói cách khác, phải đảm bảo tính hợp lý trong quá trình khai
thác nguồn lực tự nhiên phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

23
1.2. Sự cần thiết phải khai thác một cách hợp lý nguồn lực tự nhiên trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay
Trong triết học Mác, chúng ta có thể thấy giữa con người và tự nhiên
có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau. Mối quan hệ biện chứng và
thống nhất đó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới. Điều này đã
được chứng minh bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa
học tự nhiên. Theo đó, giới tự nhiên có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, và trong quá trình đó, sự xuất hiện con người là một
bước nhảy vọt về chất, là sản phẩm cao nhất của sự tiến hóa trong nhiều triệu

năm của giới tự nhiên. Chính vì nguồn gốc tự nhiên đó mà xét về mặt bản
chất con người không thể đối lập với giới tự nhiên.
Tuy con người là sản phẩm của giới tự nhiên, nhưng từ khi xuất hiện nó
đã làm thay đổi tự nhiên. Khi mới thoát thai từ động vật để tạo thành xã hội,
con người còn phụ thuộc gần như hoàn toàn vào tự nhiên. Dần dần, trong quá
trình sản xuất xã hội, thông qua lao động, con người học cách biến đổi tự
nhiên, điều khiển những quá trình tự nhiên nhằm tạo ra những điều kiện tồn
tại, những trạng thái môi trường phù hợp với mình. Sản xuất vật chất chính là
quá trình hoạt động có mục đích của con người, là quá trình con người sử
dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, cải biến các dạng vật chất
của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất phục vụ cho đời sống của con người và
xã hội. Không có sản xuất vật chất thì xã hội sẽ tiêu vong, vì thế, sản xuất ra
của cải vật chất là điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là một hành động lịch sử
mà hiện nay cũng như hàng ngàn năm trước đây người ta vẫn phải tiến hành
từng ngày, từng giờ cốt để duy trì cuộc sống của con người. Lao động sản
xuất để tạo ra các vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên, đó cũng chính là
điểm khác biệt căn bản giữa con người với tất cả các loài động vật khác, đồng
thời sản xuất vật chất cũng chính là cơ sở tạo nên sự thống nhất giữa con
người với tự nhiên.

×